Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.27 KB, 25 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC THỜI CỔ ĐẠI

HVTH : Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng
STT : 082
NHÓM : NHÓM 5
LỚP : CAO HỌC ĐÊM 1 - K20
GV : TS. BÙI VĂN MƯA
HCM, Tháng 5 năm 2011
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN










TP. HCM, ngày tháng năm
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 5
CHƯƠNG II: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI 11


CHƯƠNG III: NHẬN XÉT CÁ NHÂN 16
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 3
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
LỜI MỞ ĐẦU
Một trong những vấn đề khá quan trọng trong sự phát triển của xã hội là
“vấn đề về trị quốc”. Một quốc gia phồn thịnh hay suy vong đều phụ thuộc vào
đường lối, chiến lược trị quốc. Quan điểm của các nhà triết học qua các thời kỳ
khác nhau (cổ đại, trung đại và hiện đại) cũng khác nhau. Các quan điểm được
phát triển trên từ đơn giản đến phức tạp, từ bức tranh duy vật đến duy tâm. Mỗi
tư tưởng triết học đều có nhiều quan điểm về các khía cạnh vũ trụ quan, nhận
thức luận, đạo đức, chính trị, xã hội.
Trong phạm vi đề tài này, bài viết này chỉ đi sâu vào quan điểm trị quốc của
các nhà triết học thời kỳ cổ đại. Tuy chỉ là một mảng nhỏ trong nội dung của các
tư tưởng triết học, nhưng đây là một đề tài mang tính chất bám sát vào nội dung
chương trình học, mở rộng kiến thức về cách nhìn nhận của những nhà triết học
cổ đại của cả phương Tây lẫn phương Đông và là một vấn đề mang tính chất thực
tiễn.
Để làm rõ nội dung trị quốc, cần phải tìm hiểu sơ lược về điều kiện tự nhiên,
hoàn cảnh đời sống xã hội và văn hóa. Nội dung đề tài được chia ra thành hai
mảng chính. Ở triết học phương Đông, nội dung trị quốc được phân tích thông
qua các tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại như Nho gia, Mặc gia, Đạo gia,
Pháp gia. Còn đối với triết học phương Tây, khía cạnh này lại được mổ xẻ thông
qua tư tưởng Đêmôcrit và Platon của triết học Hy Lạp.
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 4
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu
Trung Quốc là một nước có nhiều dân tộc với chế độ phong kiến kéo dài,

chiến tranh diễn ra liên miên. Do sự phát triển kinh tế xã hội và khoa học trong
các thời kỳ cổ đại, đặc biệt là thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc đã tạo tiền đề cho sự
ra đời các hệ thống triết học với những nhà triết gia vĩ đại mà tên tuổi của họ gắn
liền với lịch sử của nhân loại.
Triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị và đạo đức. Thường những nhà
triết học là những nhà chính trị, những ông quan tham mưu cho các vương triều
đình.
Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu – Chiến
quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất với nhiều học thuyết được lưu truyền đến
đời sau.
2. Triết học Nho Gia
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng
góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công.

Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn
lạc, Khổng Tử phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền
bá các tư tưởng đó. Do đó, sau này ông được xem là người sáng lập ra Nho giáo.
Nho gia là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội
có hiệu quả, cần phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng
này gọi là quân tử. Theo Khổng Tử, để trở thành người quân tử, con người ta
trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử
phải có bổn phận phải "hành đạo". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia
đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống
nhất thiên hạ).
Về tu thân, Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ
đức để làm chuẩn mực cho mọi vấn đề sinh hoạt trong xã hội. Tam cương và
ngũ thường là chuẩn mực đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 5
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa

chuẩn mực đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng xã hội mà có mọi
người tuân theo tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được trật tự,
thái bình.
Về hành đạo, Khổng Tử đưa ra học thuyết về Nhân-Lễ-Chính danh. Nhân là
tình người, người có nhân là người biết yêu thương người khác, phải cai trị bằng
tình người. Khổng Tử từng nói "Mình muốn lập thân thì phải giúp người khác lập
thân, mình muốn thành đạt thì phải giúp người khác thành đạt”. Chính danh ở
đây có nghĩa là mang danh nào thì phải thực hiện cho được những điều mà danh
đó quy định. Tất cả phải có tôn ti, thực hiện đúng bổn phận của mình. Nếu tất cả
mọi người đều chính danh, xã hội tất yếu sẽ thái bình, trật tự, không loạn lạc.
Chính bởi thế mà câu nói "Nếu danh không chính thì lời nói không thuận. Lời nói
không thuận tất việc chẳng thành" của Khổng Tử đến giờ vẫn thường được mọi
người nhắc lại. Nói một cách ngắn gọn hơn, quan điểm này đã được những người
sáng lập tóm gọn trong 9 chữ: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
3. Triết học Đạo gia
Đạo gia là một trong sáu học phái lớn trong nền triết học Trung Quốc cổ đại,
ra đời sau thời kỳ hưng thịnh của Nho giáo. Đạo gia được Lão Tử sáng lập ra và
sau đó được Trang Tử phát triển thêm vào thời Chiến quốc (403-221 TCN) trong
bối cảnh tầng lớp quý tộc sa sút trong cuộc chiến triền miên.
Kinh điển của Đạo gia chủ yếu được tập trung lại trong bộ Đạo đức kinh và bộ
Nam hoa kinh. Những tư tưởng triết học cơ bản của trường phái Đạo gia được
thể hiện chủ yếu trong lý luận về đạo và đức. Lý luận này thể hiện quan niệm
biện chứng về thế giới và là cơ sở để Lão Tử xây dựng thuyết vô vi nhằm giải
quyết những vấn đề do thời đại đặt ra.
Về quan điểm trị quốc, Lão Tử cho rằng hành động hay nhất là đừng can
thiệp đến việc đời; nhưng nếu đời cần ta phải làm thì ta hãy làm cái không làm
một cách kín đáo, khéo léo. Ông coi đây là giải pháp an bang tế thế. Đối với ông,
chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến thành chất phác, chính phủ tích cực làm
việc thì dân đầy tai hoạ. Lão Tử cho rằng bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải là
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 6

Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi và chủ trương xoá bỏ hết mọi ràng buộc về mặt
đạo đức, pháp luật đối với con người để trả lại cho con người cái bản tính tự
nhiên vốn có của nó. Lão Tử mơ ước đưa xã hội trở về thời đại nguyên thuỷ chất
phác, mơ ước cô lập cá nhân với xã hội để hoà tan con người vào đạo (tự nhiên).
4. Triết học Mặc gia
Mặc gia là một trường phái triết học Trung Quốc cổ đại do Mặc tử sáng lập,
phát triển qua 2 giai đoạn: Mặc tử và giai đoạn hậu Mặc, phản ánh nguyện vọng
của tầng lớp dân cư tự do, sản xuất nhỏ và tiểu chủ. Nó phát triển cùng thời với
Nho giáo, Đạo giáo, Pháp gia và là một trong bốn trường phái triết học chính
trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc.
Mặc Tử cho rằng việc quốc trị phải chú trọng vào phương tiện để đạt cho
được cứu cánh chứ không chỉ bám vào cứu cánh mà quên đi phương tiện như
Khổng hay Mạnh. Mặc Tử nhấn mạnh đến pháp thuật chính trị cần thiết để an
bang tế thế.
Bất cứ chính sách hay phương pháp nào cũng phải giúp cho nhân loại thăng
tiến. Người quản thống quốc sự nên dựa trên căn bản hữu dụng (thực lợi) để đánh
giá tất cả các chính sách; nếu việc có lợi cho nhân dân thì nên làm, nhưng nếu
không có lợi cho nhân dân thì không làm. Lãnh tụ quốc gia khi đánh giá cái
'dụng' của sự việc cũng không nên quên đi 'nghĩa'. Theo Mặc Tử thì 'muôn việc
không việc gì quý bằng nghĩa' (vạn sự mạc quý ư nghĩa) và 'nghĩa là lợi' (nghĩa,
lợi dã)
Khuôn phép cho việc quốc trị trong nhãn quan của Mặc Tử là hành sử theo
minh ý của trời, phải biết thương dân chứ không phải tin vào bói toán một cách
mù quáng. Lãnh tụ quốc gia không thể ích kỷ để chỉ lo tư lợi mà phải tận tình
chăm lo cho đời sống của dân, giúp dân đạt được sung túc và hạnh phúc, tuyệt
đối không ra vẻ hách dịch để ức hiếp dân. Sách lược quốc trị tốt nhất cho dân tộc
là sách lược bác ái bao gồm các chính sách khuyến khích tinh thần bác ái trong
quốc gia và cả chính sách ngăn chận sự căm thù trong xã hội.

HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 7
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
Trong lãnh vực quốc trị, Mặc Tử chủ trương lãnh đạo quốc gia phải biết
trọng dụng nhân tài bất kể là họ có liên hệ gia tộc hay đảng phái hay không, đưa
ra quan niệm bình đẳng hóa xã hội, phản đối hệ thống phân chia giai cấp đương
thời và đả kích tệ nạn bám víu vào quyền lực chính trị của thành phần quý tộc
qua cách bổ nhiệm thân nhân - thay vì người tài đức - vào các trách vụ quan
trọng.
Về lãnh vực tài chánh, Mặc Tử chủ trương chính sách tiết kiệm, đòi hỏi lãnh
đạo quốc gia phải biết giới hạn những chi tiêu xa hoa có tính cách khoe khoang
nhưng không đem lại ích lợi gì cho nhân dân hay quốc.
5. Triết học Pháp gia
Phương Đông được coi là nơi khởi nguồn của nền văn minh nhân loại, với
nhiều thành tựu vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc đứng trong hàng ngũ bốn nước
cổ đại có nền văn minh rực rỡ và lâu đời, là cái nôi sớm nhất của văn minh nhân
loại. Về tư tưởng, lịch sử Trung Hoa cổ đại có hai thời kỳ được nói đến nhiều
nhất: Xuân Thu (770 – 403 TCN) là thời kỳ sinh sống của Lão Tử và Khổng Tử
và Chiến Quốc (403 – 221 TCN) là thời kỳ sinh sống của Hàn Phi Tử, đã hội tụ
những nhân tố cho sự phát triển đến đỉnh cao. Học thuyết pháp trị của phái pháp
gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi các tác giả xuất sắc như: Quản
Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi
Tử Tư tưởng Pháp gia mà đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt
trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu -
Chiến Quốc
Trong phép trị nước, Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố
Thế, Thuật, và Pháp. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách
rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung trong
chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo
nên sức mạnh, còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung

chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương.
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 8
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
"Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia cho rằng
muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành thì
nhà vua phải có "Thế". Trọng Thế tức trọng sự cưỡng chế, cho nên chủ trương:
1- Chủ quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là vua;
2- Vua phải được tôn kính tuân theo triệt để: dân không được quyền làm cách
mạng, không được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là bất
trung. 3- Đưa sự thưởng phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương
tiện hiệu nghiệm nhất để cưỡng chế. Muốn cho nước trị thì vua chỉ cần dùng
thưởng phạt chứ không cần dùng giáo hóa, lễ nhạc.
"Pháp" được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là
chế độ chính trị xã hội của đất nước; Nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật
lệ, những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển tư
tưởng Pháp trị của pháp gia thời trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh
công bố ở các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành,
thưởng người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo
Pháp". Tính cách của pháp luật theo Hàn Phi, trên cơ sở chủ trương của Pháp gia,
là vua tượng trưng cho quốc gia, nên vua nắm hết uy quyền: lập pháp, hành pháp,
tư pháp. Tuy vậy, khi lập pháp vua cũng phải dựa trên những nguyên tắc chính
như: 1- Pháp luật phải hợp thời; 2- Pháp luật phải soạn sao cho dân dễ hiểu, dễ
thi hành; 3- Pháp luật phải công bằng; 4- Pháp luật có tính cách phổ biến. Với
Hàn Phi, "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận, phải
trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối, đều
lấy pháp làm chuẩn. Vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.
"Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong
việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp
luật được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Theo Hàn Phi,

“Thuật” có hai khía cạnh: Kỹ thuật, là phương án để tuyển, dùng, xét khả năng
quan lại; Tâm thuật tức mưu mô để chế ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm của họ
ra.Nói ngược lại điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người; Ngầm hại
những kẻ bề tôi mình không cảm hóa được…
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 9
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
Cũng như Tâm thuật, Kỹ thuật được Hàn Phi rất coi trọng, đặc biệt là thuật trừ
gian và dùng người.
Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi
hỏi tư tưởng pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về
"Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau
trong một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử
đó. Tư tưởng chủ đạo của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật
làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông
dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được.
Pháp gia của Hàn Phi Tử được coi là trường phái triết học đầu tiên chủ
trương dùng phép trị để trị nước. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần
Thủy Hoàng vận dụng, kết quả đã đưa nước Tần đến thành công trong việc thống
nhất được đất nước Trung Quốc sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 10
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
CHƯƠNG II: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài
và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử-chế độ chiếm hữu nô lệ.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng
phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá.

Vì vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con người có dịp bay
bổng, để thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, xứng đáng là chiếc nôi của nền văn
minh Châu Âu và của cả nhân loại.
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết
quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng
tác dân gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa
học tự nhiên).
Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại là nơi để con
người tưởng tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí mà còn là nơi
thể hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt của đời
sống thường ngày. Thần thoại là nơi đâù tiên để tư duy triết học ra đời và từng
bước triết học tách khỏi thần thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, đạo đức, về xã
hội, về lẽ sống, về chân lý, về con người…
Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất
yếu-đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
- Triết học thời kỳ tiền Xôcrat (thời kỳ sơ khai)
- Triết học thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh)
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 11
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
Triết học Hy Lạp cổ đại có những đặc điểm sau:
Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh tuý
nhất của nhận thức nhân loại từ phương thức sản xuất thứ nhất đến phương thức
sản xuất thứ hai ở phương Tây. Vì vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn đề cơ
bản của thế giới quan và là một hệ thống tập hợp các tri thức về tự nhiên, về con
người, mặc dầu chưa thoát khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc nhưng cũng vô
cùng phong phú, muôn hình muôn vẻ…

Đặc điểm thứ hai, triết học Hy Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người,
khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Mặc dù
vậy, con người ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở
khía cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
Đặc điểm thứ ba, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phátvà
biện chứng sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy
nhất thường xuyên vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư
tưởng biện chứng của triết học Hi Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên của
phép biện chứng.
2. Quan điểm Đêmocrit
Đêmôcrit - nhà bác học toàn năng và nhà triết học duy vật lớn nhất của Hy
Lạp cổ đại, sinh trưởng ở Apđerơ, một thành phố thực dân địa của Hi Lạp ở xứ
Tơraxia, ven bờ phía Bắc của biển Êgiê.
Đêmôcrit là đại biểu xuất sắc nhất của nền triết học Hy Lạp cổ đại. Ông là
học trò của Lơxíp và là người kế tục tư tưởng của Lơxip về nguyên tử và phát
triển nó thành một học thuyết gắn liền với tư tưởng của ông.
Nổi bật nhất trong triết học của Đêmôcrít là học thuyết về nguyên tử. Khái
niệm nguyên tử được xây dựng trên cơ sở các khái niệm về “tồn tại” và “không
tồn tại”. Trái với quan niệm của Platon thì tồn tại theo Đêmôcrít là cái xác định
được, cái đa dạng, cái có ngoại hình…
Đối lập với cái tồn tại là cái không tồn tại hay cái trống rỗng. Cái trống rỗng
là cái không xác định, cái vô hình, bất động và vô hạn. Nó không ảnh hưởng gì
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 12
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
các vật thể nằm trong nó, nhờ đó mà vật thể vận động được trong cái trống rỗng,
cái phần vật chất thuộc cái tồn tại mà không chứa đựng trong nó một sự trống
rỗng nào được gọi là nguyên tử.
Nguyên tử là hạt vật chất không thể phân chia được, nhỏ bé có thể cảm nhận
được bằng trực quan. Nguyên tử là vĩnh cửu, bất biến. Nguyên tử có tính đa

dạng, tự thân không vận động và khi kết hợp với nhau thì tạo thành vật thể.
Đêmôcrít cho rằng mọi sự vật trong thế giới đều được tái tạo từ các nguyên tử và
khoảng không. Sự xuất hiện, tồn tại và mất đi của các dạng vật thể là kết quả kết
hợp của các nguyên tử hay phân tâm của các nguyên tử. Vũ trụ nói chung theo
Đêmôcrít là một khoảng không vô tận trong đó chứa đựng vô số thế giới khác
nhau được cấu tạo từ vô vàn các loại nguyên tử.
Trong lý luận nhận thức, Đêmôcrít đưa ra khái niệm linh hồn coi đó là hoạt
động tâm lý là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt giữa thế giới vô sinh và hữu sinh.
Theo ông, linh hồn cũng là một dạng vật chất, được cấu tạo từ các nguyên tử đặc
biệt có cấu hình, linh động như ngọn lửa, có vận tốc lớn luôn chứa đựng và sinh
ra nhiệt làm cơ thể hưng phấn và vận động.
Quan điểm về linh hồn của Đêmôcrít là cái không bất tử, nó thể hiện cùng
với sự tồn tại của thể xác con người. Chức năng của linh hồn là khởi đầu sự vận
động và tồn tại của cơ thể con người. Các hình thức phản ánh trong hoạt động
nhận thức của con người theo Đêmôcrít được thể hiện do các cơ quan cảm giác
và nhận thức lý tính. Sự khác nhau giữa nhận thức cảm giác và lý tính là ở tính
chất, trình độ giữa chúng, tuy nhiên Đêmôcrít chưa phân biệt được sự khác nhau
cơ bản giữa hai dạng nhận thức, mà chỉ thấy sự khác nhau đơn thuần về lượng,
cũng chưa thấy được sự chuyển hóa giữa chúng, mà thực chất coi tư duy chỉ là sự
hỗn hợp cái nguyên tử trong cơ thể con người.
Trong lĩnh vực chính trị - xã hội, Đêmôcrít thể hiện lập trường của tầng lớp
dân chủ chủ nô, ông đấu tranh bảo vệ nền dân chủ Aten. Ông coi chế độ nô lệ là
hợp đạo lý, nền tảng của nó là nhà nước của giai cấp chủ nô. Ông có những quan
điểm tiến bộ về mặt đạo đức. Phẩm chất con người theo ông không phải ở lời nói
mà ở việc làm. Mục tiêu của con người, theo ông là hướng tới tự do và hạnh
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 13
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
phúc, nhưng hạnh phúc không phải là sự giàu có, mà là sự thanh thản tâm hồn
được tự do. Về vấn đề tôn giáo, Đêmôcrít và các nhà nguyên tử luận nghiêng về

lập trường vô thần.
3. Quan điểm Platon
Platon (427-347) tên thật là Aristoclès. Sinh trong một gia đình dòng dõi quý
tộc tại Athènes. Ông đã từng theo học với Socrate và trở thành một người đệ tử,
một người bạn trung thành đắc lực cho Socrate. Việc Socrate mất đã tác động
mạnh mẽ tới tâm thức Platon và từ đó ông thù ghét tư tưởng dân chủ, thù ghét
quần chúng và cả giai cấp quý tộc của ông. Ông viết rất nhiều tác phẩm có giá trị
cho nhân loại cả về triết học lẫn chính trị. Trong những tác phẩm của ông, nổi
tiếng và đặc biệt nhất là tác phẩm Cộng Hoà (Republic). Có thể nói đó là một
cuốn bách khoa toàn thư vô cùng giá trị trong lịch sử nhân loại.
Quan niệm về Quốc gia lý tưởng
Toàn bộ những tư tưởng về chính trị xã hội của Platon được gói gọn trong
mô hình “Quốc gia lí tưởng” mà ông đã dày công gầy dựng suốt cả cuộc đời.
Trong mô hình quốc gia lí tưởng ấy ta thấy nó thể hiện đầy đủ tất cả các vấn đề
của đời sống mà xã hội chúng ta ngày hôm nay vẫn còn đang băn khoăn suy
nghĩ. Đó là một quốc gia trong đó mọi người luôn được sống êm đềm hạnh phúc,
đầy đủ và thoả mãn với những gì mà họ đã tạo ra.
Xã hội trong quốc gia lí tưởng của Platon được phân chia thành ba giai cấp
rõ rệt tương ứng với từng bản tính và chức năng của mỗi giai cấp: giai cấp lãnh
đạo tức là những triết gia trí thức, hai là giai cấp chiến binh tức là những người
tham gia vào quan đội cảnh sát và ba là giai cấp thương nhân tức là những người
buôn bán và sản xuất lương thực. Quốc gia lí tưởng của Platon là một quốc gia
cộng sản triệt để trong đó, tất cả mọi cái đều được gom vào thành của chung. Tất
cả lợi ích là vì xã hội, nhà nước. Người lãnh đạo lý tưởng tất nhiên không ai khác
hơn là giai cấp quý tộc nhưng những người quý tộc này không được sở hữu bất
cứ tài sản nào, kể cả vợ con riêng, sự sở hữu kinh tế nông nghiệp cũng không
được có sự quá chênh lệch giữa mọi người.
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 14
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa

Về quan hệ xã hội thì mọi người đều phải có những vai trò và nhiệm vụ
riêng theo từng giai cấp đã được phân chia. Làm đúng theo nhiệm vụ ấy là bảo vệ
và xây dựng đời sống hạnh phúc. Mọi người đều phải được học hành, không có
chiến tranh, kể cả ngoại chiến lẫn nội chiến; các quan chức lãnh đạo phải là
những triết gia vì những người như họ mới đủ khả năng sáng suốt lãnh đạo, họ
không được tham nhũng vơ vét của cải của dân. Những của cải của người dân
làm ra phải được phân chia một cách đồng đều để không ai quá giàu hoặc quá
nghèo. Ông chủ trương một nhà nước lí tưởng cần phải có địa hình nằm sâu vào
trong đất liền để tránh giao thương buôn bán mà chỉ phát triển về nông, thủ công
nghiệp là đủ.
Và tất nhiên, xã hội đó là một xã hội quý tộc dân chủ, tất cả mọi tài năng đều
có cơ hội phát triển đồng đều, dù là con vua hay con chúa cũng bắt đầu ngang
nhau. Trong chế độ này hoàn toàn không có giai cấp, không có vấn đề cha truyền
con nối, nếu không có năng lực thì sẽ bị đào thải, dù là con vua.
Một nền thể chế chính trị hay xã hội nếu làm cho trọn vẹn quá trình đào tạo
“chất liệu cấu tạo triết lý chính trị” như vậy tất nhiên đã bảo đảm được phần nội
lực bên trong từ đó tiến lên xây dựng quốc gia xã hội không còn là chuyện khó.
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 15
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
CHƯƠNG III: NHẬN XÉT CÁ NHÂN
1. Tư tưởng trị quốc của nền triết học Trung Quốc cổ đại
a. Tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại nói chung và cụ thể là triết
học về tư tưởng trị quốc nói riêng, xoay quanh vấn đề đạo đức,
chính tri, xã hội, khởi nguyên vũ trụ, nguồn gốc vạn vật mà trung
tâm là con người. Mọi sự đều được giải quyết bởi cách hành xử từ
con người mà ra. Và tùy vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể
cũng như triết gia đang đứng lên bảo vệ cho giai cấp nào trong xã
hội sẽ có hệ thống triết học tương ứng khác nhau.
b. Nho gia ( tiêu biểu là Khổng Tử và Mạnh Tử):

i. Tư tưởng triết học và cách cai trị đất nước nói riêng có mối
quan hệ chặt chẽ với hệ thống các tư tưởng về đạo đức -
chính trị - xã hội.
ii. Lấy nền tảng của gia đình và xã hội là những mối quan hệ
về đạo đức - chính trị, đặc biệt là quan hệ vua – tôi, cha –
con, chồng - vợ. Khi các quan hệ này chính danh thi xã hội
ổn định, gia đình yên vui, và ngược lại.
iii. Từ việc xây dựng thuyết thiên mệnh, cho rằng, nếu lập đạo
của trời, nói về âm và dương; lập đạo của đất, nói về cương
vả nhu; thì lập đạo của người, phải nói về nhân và nghĩa. Mà
chúng hợp với các khái niệm khác tạo thành hệ thống phạm
trù đạo đức của phái này: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng.
iv. Theo Nho gia, ngũ luân – năm mối quan hệ mà con người
phải xác định và làm tròn trách nhiệm của mình trong các
mối quan hệ ấy, trong đó có ba mối quan hệ chính - tam
cương là vua-tôi, cha-con, chồng-vợ. Trong tam cương có
hai quan hệ mấu chốt là vua-tôi, biểu hiện bằng đức trung,
cha-con biểu hiện bằng đức hiếu. Giữa trung và hiếu, thì
trung đứng đầu.
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 16
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
v. Như vậy, Khổng Tử và Mạnh Tử đều nhất trí coi chuẩn mực
đạo đức là tiêu chuẩn của người quân tử. Để hành động hiểu
quả người quân tử phải thực hành đường lối nhân trị(cai trị
bằng tình người, bẳng sự yêu người, coi người như bản thân
mình ) và chính danh(cai trị sao cho vua ra vua, tôi ra tôi,
cha ra cha, con ra con; chồng ra chồng, vợ ra vợ ) Chỉ có
thể như vậy thì người quân tử - giai cấp cai trị mới xây dựng
được xã hội đại đồng.

c. Đạo gia (tiêu biểu là Lão Tử và Trang Tử) :
i. Lão Tử xây dựng thuyết vô vi để trình bày quan niệm về các
vấn đề nhân sinh và chính trị - xã hội.
ii. Về đường lối trị nước an dân : Lão Tử cho rằng hành động
hay nhất là đừng can thiệp đến việc đời; nhưng nếu đời cần
ta phải làm thì ta hãy làm cái không làm một cách kín đáo,
khóe lóe. Ông coi đây là giải pháp an bang tế thế. Đối với
ông, chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến chất phác,
chính phủ tích cực làm việc thì dân đầy tai họa.
iii. Lão Tử cho rằng, bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải bằng lẽ
tự nhiên của đạo vô vi, và chủ trương xóa bỏ hết mọi ràng
buộc về mặt đạo đức, pháp luật đối với con người để trả lại
cho con người cái bản tính tự nhiên vốn có của nó. Lão Tử
mơ ước cô lập cá nhân với xã hội để hòa tan con người vào
đạo(tự nhiên). Xã hội lý tưởng đối với ông là những nước
nhỏ, dân ít, có thuyền xe nhưng không ai đi, có gương giáo
nhưng không ai dung, bỏ văn tự, bỏ tư lợi, không học hành.
d. Mặc gia ( tiêu biểu là Mặc Tử) :
i. Thuyết thiên ý - minh quỷ: Mặc Tử không chỉ tin có trời mà
còn tin có quỷ thần. Theo ông, ý trời luôn muốn mọi người
cùng thương yêu nhau, cùng làm lợi cho nhau; chứ không
muốn con người ghét nhau, làm hại nhau. Sự giàu – nghèo,
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 17
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
thọ - yếu, hạnh phúc – bất hạnh… không phải do thiên mệnh
mà là do nhân tạo.
ii. Thuyết kiêm ái: chính là nhân nghĩa, không chỉ yêu hết thẩy
mọi người như thể yêu mình mà còn loại bỏ sự chia rẽ, phân
biết, thủ ghét. Làm lợi, trừ hại cho mọi người.

e. Pháp gia ( tiêu biểu là Hàn Phi Tử) :
i. Dùng pháp luật như là một cách trị nước. Tùy theo thời thế
và ý của dân mà đưa ra pháp một cách rõ ràng; phải chỉ cho
dân biết rõ pháp rồi mới thi hành, và khi thi hành thì phải
giữ cho được lòng tin của dân.
ii. Phép trị quốc của Hàn Phi: là một học thuyết có nội dung
hoàn chỉnh được tổng hợp từ pháp, thế, thuật; trong đó, pháp
là nội dung của chính sách cai trị, thế và thuật là phương
tiện đề thực hiện chính sách đó. Cả ba pháp (những qui luật,
luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong xã hội
phải tuân theo), thế (địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm
đầu chính thể), thuật (phương pháp, thủ thuật, cách thức,
mưu lược khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh
lệnh mà không hiểu người sai dùng họ như thế nào) đều là
công cụ trị nước của đế vương.
f. So sánh tư tưởng trị quốc của các triết gia Trung Quốc cổ đại:
i. Chủ trương pháp trị đối lập với chủ trương của nhân trị của
Nho gia:
STT Pháp trị Nhân trị của Nho gia
1 Sử dụng pháp luật để cai
trị, phủ nhận tình cảm đạo
đức, thủ tiêu văn hóa giáo
dục.
Sự cai trị đất nước đặt trên cơ
sở bản thân nhà cầm quyền mà
nhà cầm quyền phải có tài đức.
Tức là nhà cầm quyền phải lấy
đạo đức mà giáo hóa, dẫn dắt
dân chúng chứ không phài
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 18

Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
dùng đến cưỡng chế, trừng
phạt. Vai trò của đạo đức
trong Nho gia chủ yếu để cai
trị đất nước.
2 Hệ tư tưởng đại diện cho giai cấp thống trị.
3 Nhưng Pháp trị cũng như Nhân trị của Nho gia cũng đòi hỏi
một đấng minh quân, một vị vua sáng suốt để cai trị.
ii. Quan điểm của Mặc gia (tiêu biểu Mặc Tử) không chỉ khác
với Đạo giáo mà còn đối lập với Nho gia cả vể nội dung bản
thể luận và triết lý về đạo đức - chính trị - xã hội lẫn nhận
thức luận :
STT Mặc gia (tiêu biểu Mặc
Tử)
Nho gia
Coi thiên ý - minh quỷ
sáng láng, công minh luôn
là khuôn phép, mực thước
đo hành vi đạo đức của
con người mà chống lại
thuyết thiên mệnh, không
thừa nhận cách hiểu nhân-
nghĩa và sự phân biệt đối
xử của Nho gia
Thuyết thiên mệnh
Coi nghĩa là danh, lợi là
thực; chúng hoàn toàn
thống nhất với nhau
Cho rằng nghĩa đối lập với lợi

Phản đối đường lối lễ trị.
Đòi thực hiện :
Thượng đồng( thống nhất
tư tưởng và hành động
của mọi người trong xã
hội, tán đồng từ dưới lên
Chủ trương sử dụng đường lối
lễ trị
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 19
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
trên, trên dưới tình ý
thông nhau)
Thượng hiền(tiến cử vả sử
dụng người tài giỏi trong
việc công; Ai tài thì được
làm quan.Quan dốt kém
thì bị phế bỏ, mà không
kể họ thuộc giai cấp, tầng
lớp nào)
Xây dựng thuyết kiêm ái Thuyết kiêm ái bị các trướng
phái khác phê phán mạnh mẽ.
Nho gia, Pháp gia coi thuyết
kiêm ái của Mặc gia là không
nhận có cha, không nhận có
vua, vì vậy con người chẳng
khác gì cầm thú
Phản ánh nguyện vọng
của tầng lớp dân cư tự do,
sản xuất nhỏ và tiểu chủ

Đại diện cho giai cấp thống trị
Dạy rằng miễn là người
nào có năng lực thực hiện
công việc nào đó thì họ
nên được bổ nhiệm để làm
việc đó, bất kể địa vị xã
hội của họ
Chỉ có người quân tử - giai cấp
thống trị, mới có khả năng lãnh
đạo cai trị đất nước
iii. Đạo gia va Nho gia cùng được xây dựng dựa trên tầng lớp
giai cấp thống trị, nhưng đứng trước hai thời cuộc có phần
khác nhau:
STT Đạo gia( tiêu biểu Lão
Tử)
Nho gia
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 20
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
Phản ứng tiêu cực trước
sự bế tắc của thời cuộc
lúc bấy giờ nhưng nó lại
phù hợp với quan niệm
nhân sinh của nhiều người
lúc bấy giờ
Nho gia nguyên thủy khao khát
cải biến xã hội thời Xuân Thu
– Chiến quốc từ loạn thành trị
là một khao khác thầm kín của
cả thiên hạ lúc bấy giờ

Cho rằng, bậc Thánh nhân
trị vì thiên hạ phải bằng lẽ
tự nhiên của đạo vô vi, và
chủ trương xáo bỏ hết mọi
ràng buộc về mặt đạo đức,
pháp luật đối với con
người để trả lại cho con
người cái bản tính tự
nhiên vốn có của nó
Đòi hỏi người trị vì thiên hạ
phải là bậc Thánh nhân quân
tử, sáng ngời các phẩm chất
đạo đức-nhân, lễ, nghĩa, trí…
và chủ trương xây dựng xã hội
đại đồng
Lão Tử mơ ước đưa ra xã
hội trở về thời đại nguyên
thủy chất phác, mơ ước cô
lập cá nhân với xã hội để
hỏa tan con người vào
đạo(tự nhiên)
Khổng Tử chủ trương xây
dựng xã hội đại đồng của Nho
gia hoàn toàn không dựa trên
mối quan hệ kinh tế - xã hội,
không xuất phát từ việc xây
dựng nền sản xuất vật chất, mà
chỉ dựa trên các quan hệ đạo
đức – chính trị - xã hội, xuất
phát từ việc giáo dục, rèn luyện

nhân cách cá nhân cho tầng lớp
thống trị
Đại diện cho tầng lớp qui
tộc sa sút trong cuộc
chiến tranh triền miên
Khổng Tử thuộc tầng lớp quan
lại
Quan điểm của Đạo gia
-trường phái triết học
Nho gia nguyên thủy, coi khía
cạnh xã hội của con người đã
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 21
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
nhấn mạnh bản tính tự
nhiên của con người
bị hiểu một cách hạn chế và
duy tâm
Cùng đại diện cho tầng lớp giai cấp thống trị
2. Tư tưởng trị quốc của nền triết học Hy Lạp cổ đại
a. Đêmôcrít trào lưu duy vật :
i. Đại diện cho tầng lớp chủ nô dân chủ. Xuất phát từ quan
niệm duy vật để bảo vệ quyền lợi của tầng lớp mình, bảo vệ
chế độ dân chủ chủ nô.
ii. Theo ông chế độ dân chủ chủ nô phải gắn liền với nền
thương mại và sản xuất thủ công, nhưng nó cũng phải gắn
liền với tình thân ái, với tính ôn hòa và lợi ích chung của
công dân tự do, chứ không phải của nô lệ. Nô lệ cần tuân
theo mệnh lệnh của ông chủ mà thôi.
iii. Nhà nước công hòa dân chủ là nền tảng của chế độ dân chủ

chủ nô phải biết tự điều hành hoạt động của mình theo các
chuẩn mực đạo đức và pháp lý. Quản lý nhà nước phải coi
như một nghệ thuật mang lại cho con người hạnh phúc, vinh
quang, tự do và dân chủ.
b. Platông trào lưu duy tâm :
i. Do 3 bộ phận cấu thành linh hồn trong mỗi con người cụ thể
là không giống nhau nên trong xã hội có ba loại người. Loại
thứ nhất: bao gồm các triết gia (họ có nhận thức sáng suốt và
đạo đức cao cả. Thượng đế sinh ra họ để họ lãnh đạo xã
hội), loại thứ hai: bao gồm các chiến binh (họ tràn đầy lòng
dũng cảm và sự gan dạ. Thượng đế sinh ra họ để họ bảo vệ
xã hội), loại thứ ba bao gồm nông dân, thợ thủ công, thương
gia…(họ thích nghi với lao động chân tay và đam mê của
cải vật chất. Thượng đế sinh ra họ để họ bảo đảm đời sống
vật chất cho xã hội). Còn nô lệ không là con người mà là
động vật biết nói, do không có lý trí nên không biết nhận
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 22
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
thức, do không nhận thức nên không có đời sống đạo đức,
do không có đời sống đạo đức nền nằm ngoài đời sống chính
trị. Vì thế nhà nước được hình thành để đảm bảo cho sự
phân công trên được thực hiện.
ii. Tuy nhiên, chế độ sở hữu tư nhân không chỉ làm cho nhà
nước không thực hiện được sứ mệnh cao cả của mình, mà
hơn thế nữa, nó làm cho nhà nước tha hóa, gây ra sự băng
hoại đời sống đạo đức, phá hoại tính hài hòa của xã hội. Vì
vậy, cần phải xóa bỏ sở hữu tư nhân; phải xây dựng chế độ
sở hữu công xã với tài sản chung, cha mẹ chung con cái
chung… trên cơ sở thực hiện một quy trình giáo dục, tuyển

lựa , đào tạo đặc biệt có chú trọng đến thành phần tinh túy
trong xã hội. Theo Platong, chế độ xã hội tốt nhất là chế độ
cộng hòa quý tộc, do một vị vua là triết gia tài ba lãnh đạo.
iii. Quan điểm về chính trị xã hội chứa đầy tính bảo thủ vả mâu
thuẫn. Ông vừa đòi xóa bỏ tư hữu, lại vừa đòi bảo vệ bằng
được chế độ đẳng cấp và sự bất bình đẳng trong xã hội.vừa
kêu gọi xây dựng nhà nước cộng hỏa lý tưởng; vừa ra sức
bảo vệ lợi ích và địa vị của tầng lớp chủ nô quý tộc.
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 23
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
KẾT LUẬN
Trong từng thời đại có hoàn cảnh lịch sử diễn biến khác nhau, tình hình
thế sự không như nhau. Đứng trên mỗi gốc độ, bảo vệ quyền lợi cho giai cấp,
giai tầng khác nhau, các triết gia sẽ có một hệ thống tư tưởng triết học(về đạo
đức, chính trị, xã hội, nguồn gốc khởi nguyên của vạn vật…) nói chung và hệ
thống tư tưởng triết học trị quốc nói riêng sẽ có đặc điểm nổi bậc cũng không
như nhau. Trong từng hệ thống tư tưởng triết học ấy, đăc biệt là hệ thống triết
học trị quốc đáng để cho chúng ta nghiên cứu đào sâu, để hiểu được lịch sử đã
diễn ra như thế nào, tại sao lại như vậy, và các yếu tố nào đã quyết định, có mức
ảnh hưởng như thế nào đó với đời sống xã hội tình thần con người, vào thời ấy và
cho đến tận bây giờ. Từ những hiểu biết đó, chúng ta có thể hiểu được vì sao hiện
tại lại có tư tưởng đó, tư tưởng đó xuất phát từ đâu, và cho ta những kinh nghiệm
quý báo để có thể dự báo được một phần nào của hệ tư tưởng mới sắp hình thành
cũng như cần có để đáp ứng nhu cầu thời cuộc cần có trong tương lai.
Như trong tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại, có Nho gia đóng góp lớn
vào sự nghiệp tồ chức và quản lý xã hội, vào sự phát triển văn hóa và giáo dục,
vào quá trình rèn luyện đạo đức cá nhân, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước. Pháp gia với những tư tưởng có giá trị đã được các phái khác hấp thụ để bổ
sung, hoàn chỉnh quan điểm của mình.

Còn trong triết học Hy Lạp cổ đại, thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp
chủ nô thống trị trong xã hội Hy Lạp cổ đại, thể hiện tính toàn vẹn, khái quát của
triết học về mọi lĩnh vực thế giới quan của con người cổ đại. Tuy nhiên, do sự
đối lập lớn giữa lao động trí óc và chân tay ở thời kỳ này, nên nhìn chung các
quan niệm triết học còn mang nặng tính tư biện, chuẩn mực của sự “thông thái”
được bàn đến ở khía cạnh nhận thức. Phân công lao động xã hội phát triển, sự
xuất hiện tầng lớp những người chuyên sống bằng lao động trí óc.
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 24
Đề tài 13: Quan điểm về cách trị quốc của các nhà triết học cổ đại GVHD:TS.Bùi Văn
Mưa
Tài liệu tham khảo
1. Triết học Mác- Lênin (Đề cương bài giảng & hướng dẫn ôn tập), Nxb
thống kê, 2002
2. Triết học, phần I, đại cương về lịch sử triết học (dùng cho học viên cao
học & nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), trường đại
học kinh tế Tp. Hcm, 2010
3. Triết học Phần I Đại cương về Lích sử Triết học - TS. Bùi Văn Mưa (chủ
biên), 2010
4. Triết học và Bức tranh VẬt lý học về Thế giới- TS. Bùi VĂn Mưa - NXB
Đại học Quốc gia TPHCM 2008
5. />6. />dai-hy-lap.html
7. />8. />9.
HVTH: Nguyễn Trần Cao Thị Bích Phượng 25

×