Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.93 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
GVHD : TS. Bùi Văn Mưa
NGƯỜI THỰC HIỆN: Đỗ Hoàng Tố Uyên
LỚP : Cao học Đêm 1
KHÓA : K20
NHÓM : 5
STT : 85
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2011
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 4
CHƯƠNG II: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI 10
CHƯƠNG III: NHẬN XÉT CÁ NHÂN 15
2
LỜI MỞ ĐẦU
Một trong những vấn đề khá quan trọng trong sự phát triển của xã hội là
“vấn đề về trị quốc”. Một quốc gia phồn thịnh hay suy vong đều phụ thuộc vào
đường lối, chiến lược trị quốc. Quan điểm của các nhà triết học qua các thời kỳ
khác nhau (cổ đại, trung đại và hiện đại) cũng khác nhau. Các quan điểm được
phát triển trên từ đơn giản đến phức tạp, từ bức tranh duy vật đến duy tâm. Mỗi
tư tưởng triết học đều có nhiều quan điểm về các khía cạnh vũ trụ quan, nhận
thức luận, đạo đức, chính trị, xã hội.
Trong phạm vi đề tài này, bài viết này chỉ đi sâu vào quan điểm trị quốc của
các nhà triết học thời kỳ cổ đại. Tuy chỉ là một mảng nhỏ trong nội dung của các
tư tưởng triết học, nhưng đây là một đề tài mang tính chất bám sát vào nội dung
chương trình học, mở rộng kiến thức về cách nhìn nhận của những nhà triết học


cổ đại của cả phương Tây lẫn phương Đông và là một vấn đề mang tính chất thực
tiễn.
Để làm rõ nội dung trị quốc, cần phải tìm hiểu sơ lược về điều kiện tự nhiên,
hoàn cảnh đời sống xã hội và văn hóa. Nội dung đề tài được chia ra thành hai
mảng chính. Ở triết học phương Đông, nội dung trị quốc được phân tích thông
qua các tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại như Nho gia, Mặc gia, Đạo gia,
Pháp gia. Còn đối với triết học phương Tây, khía cạnh này lại được mổ xẻ thông
qua tư tưởng Đêmôcrit và Platon của triết học Hy Lạp.
3
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu
Trung Quốc là một nước có nhiều dân tộc với chế độ phong kiến kéo dài,
chiến tranh diễn ra liên miên. Do sự phát triển kinh tế xã hội và khoa học trong
các thời kỳ cổ đại, đặc biệt là thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc đã tạo tiền đề cho sự
ra đời các hệ thống triết học với những nhà triết gia vĩ đại mà tên tuổi của họ gắn
liền với lịch sử của nhân loại.
Triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị và đạo đức. Thường những nhà
triết học là những nhà chính trị, những ông quan tham mưu cho các vương triều
đình.
Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu – Chiến
quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất với nhiều học thuyết được lưu truyền đến
đời sau.
2. Triết học Nho Gia
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng
góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công.

Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn
lạc, Khổng Tử phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền
bá các tư tưởng đó. Do đó, sau này ông được xem là người sáng lập ra Nho giáo.
Nho gia là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội

có hiệu quả, cần phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng
này gọi là quân tử. Theo Khổng Tử, để trở thành người quân tử, con người ta
trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử
phải có bổn phận phải "hành đạo". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia
đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống
nhất thiên hạ).
Về tu thân, Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ
đức để làm chuẩn mực cho mọi vấn đề sinh hoạt trong xã hội. Tam cương và
4
ngũ thường là chuẩn mực đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là
chuẩn mực đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng xã hội mà có mọi
người tuân theo tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được trật tự,
thái bình.
Về hành đạo, Khổng Tử đưa ra học thuyết về Nhân-Lễ-Chính danh. Nhân là
tình người, người có nhân là người biết yêu thương người khác, phải cai trị bằng
tình người. Khổng Tử từng nói "Mình muốn lập thân thì phải giúp người khác lập
thân, mình muốn thành đạt thì phải giúp người khác thành đạt”. Chính danh ở
đây có nghĩa là mang danh nào thì phải thực hiện cho được những điều mà danh
đó quy định. Tất cả phải có tôn ti, thực hiện đúng bổn phận của mình. Nếu tất cả
mọi người đều chính danh, xã hội tất yếu sẽ thái bình, trật tự, không loạn lạc.
Chính bởi thế mà câu nói "Nếu danh không chính thì lời nói không thuận. Lời nói
không thuận tất việc chẳng thành" của Khổng Tử đến giờ vẫn thường được mọi
người nhắc lại. Nói một cách ngắn gọn hơn, quan điểm này đã được những người
sáng lập tóm gọn trong 9 chữ: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
3. Triết học Đạo gia
Đạo gia là một trong sáu học phái lớn trong nền triết học Trung Quốc cổ đại,
ra đời sau thời kỳ hưng thịnh của Nho giáo. Đạo gia được Lão Tử sáng lập ra và
sau đó được Trang Tử phát triển thêm vào thời Chiến quốc (403-221 TCN) trong
bối cảnh tầng lớp quý tộc sa sút trong cuộc chiến triền miên.
Kinh điển của Đạo gia chủ yếu được tập trung lại trong bộ Đạo đức kinh và bộ

Nam hoa kinh. Những tư tưởng triết học cơ bản của trường phái Đạo gia được
thể hiện chủ yếu trong lý luận về đạo và đức. Lý luận này thể hiện quan niệm
biện chứng về thế giới và là cơ sở để Lão Tử xây dựng thuyết vô vi nhằm giải
quyết những vấn đề do thời đại đặt ra.
Về quan điểm trị quốc, Lão Tử cho rằng hành động hay nhất là đừng can
thiệp đến việc đời; nhưng nếu đời cần ta phải làm thì ta hãy làm cái không làm
một cách kín đáo, khéo léo. Ông coi đây là giải pháp an bang tế thế. Đối với ông,
chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến thành chất phác, chính phủ tích cực làm
5
việc thì dân đầy tai hoạ. Lão Tử cho rằng bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải là
bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi và chủ trương xoá bỏ hết mọi ràng buộc về mặt
đạo đức, pháp luật đối với con người để trả lại cho con người cái bản tính tự
nhiên vốn có của nó. Lão Tử mơ ước đưa xã hội trở về thời đại nguyên thuỷ chất
phác, mơ ước cô lập cá nhân với xã hội để hoà tan con người vào đạo (tự nhiên).
4. Triết học Mặc gia
Mặc gia là một trường phái triết học Trung Quốc cổ đại do Mặc tử sáng lập,
phát triển qua 2 giai đoạn: Mặc tử và giai đoạn hậu Mặc, phản ánh nguyện vọng
của tầng lớp dân cư tự do, sản xuất nhỏ và tiểu chủ. Nó phát triển cùng thời với
Nho giáo, Đạo giáo, Pháp gia và là một trong bốn trường phái triết học chính
trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc.
Mặc Tử cho rằng việc quốc trị phải chú trọng vào phương tiện để đạt cho
được cứu cánh chứ không chỉ bám vào cứu cánh mà quên đi phương tiện như
Khổng hay Mạnh. Mặc Tử nhấn mạnh đến pháp thuật chính trị cần thiết để an
bang tế thế.
Bất cứ chính sách hay phương pháp nào cũng phải giúp cho nhân loại thăng
tiến. Người quản thống quốc sự nên dựa trên căn bản hữu dụng (thực lợi) để đánh
giá tất cả các chính sách; nếu việc có lợi cho nhân dân thì nên làm, nhưng nếu
không có lợi cho nhân dân thì không làm. Lãnh tụ quốc gia khi đánh giá cái
'dụng' của sự việc cũng không nên quên đi 'nghĩa'. Theo Mặc Tử thì 'muôn việc
không việc gì quý bằng nghĩa' (vạn sự mạc quý ư nghĩa) và 'nghĩa là lợi' (nghĩa,

lợi dã)
Khuôn phép cho việc quốc trị trong nhãn quan của Mặc Tử là hành sử theo
minh ý của trời, phải biết thương dân chứ không phải tin vào bói toán một cách
mù quáng. Lãnh tụ quốc gia không thể ích kỷ để chỉ lo tư lợi mà phải tận tình
chăm lo cho đời sống của dân, giúp dân đạt được sung túc và hạnh phúc, tuyệt
đối không ra vẻ hách dịch để ức hiếp dân. Sách lược quốc trị tốt nhất cho dân tộc
là sách lược bác ái bao gồm các chính sách khuyến khích tinh thần bác ái trong
quốc gia và cả chính sách ngăn chận sự căm thù trong xã hội.
6
Trong lãnh vực quốc trị, Mặc Tử chủ trương lãnh đạo quốc gia phải biết
trọng dụng nhân tài bất kể là họ có liên hệ gia tộc hay đảng phái hay không, đưa
ra quan niệm bình đẳng hóa xã hội, phản đối hệ thống phân chia giai cấp đương
thời và đả kích tệ nạn bám víu vào quyền lực chính trị của thành phần quý tộc
qua cách bổ nhiệm thân nhân - thay vì người tài đức - vào các trách vụ quan
trọng.
Về lãnh vực tài chánh, Mặc Tử chủ trương chính sách tiết kiệm, đòi hỏi lãnh
đạo quốc gia phải biết giới hạn những chi tiêu xa hoa có tính cách khoe khoang
nhưng không đem lại ích lợi gì cho nhân dân hay quốc.
5. Triết học Pháp gia
Phương Đông được coi là nơi khởi nguồn của nền văn minh nhân loại, với
nhiều thành tựu vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc đứng trong hàng ngũ bốn nước
cổ đại có nền văn minh rực rỡ và lâu đời, là cái nôi sớm nhất của văn minh nhân
loại. Về tư tưởng, lịch sử Trung Hoa cổ đại có hai thời kỳ được nói đến nhiều
nhất: Xuân Thu (770 – 403 TCN) là thời kỳ sinh sống của Lão Tử và Khổng Tử
và Chiến Quốc (403 – 221 TCN) là thời kỳ sinh sống của Hàn Phi Tử, đã hội tụ
những nhân tố cho sự phát triển đến đỉnh cao. Học thuyết pháp trị của phái pháp
gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi các tác giả xuất sắc như: Quản
Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi
Tử Tư tưởng Pháp gia mà đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt
trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu -

Chiến Quốc
Trong phép trị nước, Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố
Thế, Thuật, và Pháp. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách
rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung trong
chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo
nên sức mạnh, còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung
chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương.
7
"Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia cho rằng
muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành thì
nhà vua phải có "Thế". Trọng Thế tức trọng sự cưỡng chế, cho nên chủ trương:
1- Chủ quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là vua;
2- Vua phải được tôn kính tuân theo triệt để: dân không được quyền làm cách
mạng, không được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là bất
trung. 3- Đưa sự thưởng phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương
tiện hiệu nghiệm nhất để cưỡng chế. Muốn cho nước trị thì vua chỉ cần dùng
thưởng phạt chứ không cần dùng giáo hóa, lễ nhạc.
"Pháp" được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là
chế độ chính trị xã hội của đất nước; Nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật
lệ, những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển tư
tưởng Pháp trị của pháp gia thời trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh
công bố ở các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành,
thưởng người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo
Pháp". Tính cách của pháp luật theo Hàn Phi, trên cơ sở chủ trương của Pháp gia,
là vua tượng trưng cho quốc gia, nên vua nắm hết uy quyền: lập pháp, hành pháp,
tư pháp. Tuy vậy, khi lập pháp vua cũng phải dựa trên những nguyên tắc chính
như: 1- Pháp luật phải hợp thời; 2- Pháp luật phải soạn sao cho dân dễ hiểu, dễ
thi hành; 3- Pháp luật phải công bằng; 4- Pháp luật có tính cách phổ biến. Với
Hàn Phi, "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận, phải
trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối, đều

lấy pháp làm chuẩn. Vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.
"Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong
việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp
luật được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Theo Hàn Phi,
“Thuật” có hai khía cạnh: Kỹ thuật, là phương án để tuyển, dùng, xét khả năng
quan lại; Tâm thuật tức mưu mô để chế ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm của họ
ra.Nói ngược lại điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người; Ngầm hại
những kẻ bề tôi mình không cảm hóa được…
8
Cũng như Tâm thuật, Kỹ thuật được Hàn Phi rất coi trọng, đặc biệt là thuật trừ
gian và dùng người.
Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi
hỏi tư tưởng pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về
"Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau
trong một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử
đó. Tư tưởng chủ đạo của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật
làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông
dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được.
Pháp gia của Hàn Phi Tử được coi là trường phái triết học đầu tiên chủ
trương dùng phép trị để trị nước. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần
Thủy Hoàng vận dụng, kết quả đã đưa nước Tần đến thành công trong việc thống
nhất được đất nước Trung Quốc sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
9
CHƯƠNG II: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài
và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử-chế độ chiếm hữu nô lệ.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng
phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá.

Vì vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con người có dịp bay
bổng, để thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, xứng đáng là chiếc nôi của nền văn
minh Châu Âu và của cả nhân loại.
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết
quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng
tác dân gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa
học tự nhiên).
Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại là nơi để con
người tưởng tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí mà còn là nơi
thể hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt của đời
sống thường ngày. Thần thoại là nơi đâù tiên để tư duy triết học ra đời và từng
bước triết học tách khỏi thần thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, đạo đức, về xã
hội, về lẽ sống, về chân lý, về con người…
Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất
yếu-đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
- Triết học thời kỳ tiền Xôcrat (thời kỳ sơ khai)
- Triết học thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh)
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá
10
Triết học Hy Lạp cổ đại có những đặc điểm sau:
Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh tuý
nhất của nhận thức nhân loại từ phương thức sản xuất thứ nhất đến phương thức
sản xuất thứ hai ở phương Tây. Vì vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn đề cơ
bản của thế giới quan và là một hệ thống tập hợp các tri thức về tự nhiên, về con
người, mặc dầu chưa thoát khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc nhưng cũng vô
cùng phong phú, muôn hình muôn vẻ…
Đặc điểm thứ hai, triết học Hy Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người,
khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Mặc dù

vậy, con người ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở
khía cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
Đặc điểm thứ ba, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phátvà
biện chứng sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy
nhất thường xuyên vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư
tưởng biện chứng của triết học Hi Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên của
phép biện chứng.
2. Quan điểm Đêmocrit
Đêmôcrit - nhà bác học toàn năng và nhà triết học duy vật lớn nhất của Hy
Lạp cổ đại, sinh trưởng ở Apđerơ, một thành phố thực dân địa của Hi Lạp ở xứ
Tơraxia, ven bờ phía Bắc của biển Êgiê.
Đêmôcrit là đại biểu xuất sắc nhất của nền triết học Hy Lạp cổ đại. Ông là
học trò của Lơxíp và là người kế tục tư tưởng của Lơxip về nguyên tử và phát
triển nó thành một học thuyết gắn liền với tư tưởng của ông.
Nổi bật nhất trong triết học của Đêmôcrít là học thuyết về nguyên tử. Khái
niệm nguyên tử được xây dựng trên cơ sở các khái niệm về “tồn tại” và “không
tồn tại”. Trái với quan niệm của Platon thì tồn tại theo Đêmôcrít là cái xác định
được, cái đa dạng, cái có ngoại hình…
Đối lập với cái tồn tại là cái không tồn tại hay cái trống rỗng. Cái trống rỗng
là cái không xác định, cái vô hình, bất động và vô hạn. Nó không ảnh hưởng gì
11
các vật thể nằm trong nó, nhờ đó mà vật thể vận động được trong cái trống rỗng,
cái phần vật chất thuộc cái tồn tại mà không chứa đựng trong nó một sự trống
rỗng nào được gọi là nguyên tử.
Nguyên tử là hạt vật chất không thể phân chia được, nhỏ bé có thể cảm nhận
được bằng trực quan. Nguyên tử là vĩnh cửu, bất biến. Nguyên tử có tính đa
dạng, tự thân không vận động và khi kết hợp với nhau thì tạo thành vật thể.
Đêmôcrít cho rằng mọi sự vật trong thế giới đều được tái tạo từ các nguyên tử và
khoảng không. Sự xuất hiện, tồn tại và mất đi của các dạng vật thể là kết quả kết
hợp của các nguyên tử hay phân tâm của các nguyên tử. Vũ trụ nói chung theo

Đêmôcrít là một khoảng không vô tận trong đó chứa đựng vô số thế giới khác
nhau được cấu tạo từ vô vàn các loại nguyên tử.
Trong lý luận nhận thức, Đêmôcrít đưa ra khái niệm linh hồn coi đó là hoạt
động tâm lý là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt giữa thế giới vô sinh và hữu sinh.
Theo ông, linh hồn cũng là một dạng vật chất, được cấu tạo từ các nguyên tử đặc
biệt có cấu hình, linh động như ngọn lửa, có vận tốc lớn luôn chứa đựng và sinh
ra nhiệt làm cơ thể hưng phấn và vận động.
Quan điểm về linh hồn của Đêmôcrít là cái không bất tử, nó thể hiện cùng
với sự tồn tại của thể xác con người. Chức năng của linh hồn là khởi đầu sự vận
động và tồn tại của cơ thể con người. Các hình thức phản ánh trong hoạt động
nhận thức của con người theo Đêmôcrít được thể hiện do các cơ quan cảm giác
và nhận thức lý tính. Sự khác nhau giữa nhận thức cảm giác và lý tính là ở tính
chất, trình độ giữa chúng, tuy nhiên Đêmôcrít chưa phân biệt được sự khác nhau
cơ bản giữa hai dạng nhận thức, mà chỉ thấy sự khác nhau đơn thuần về lượng,
cũng chưa thấy được sự chuyển hóa giữa chúng, mà thực chất coi tư duy chỉ là sự
hỗn hợp cái nguyên tử trong cơ thể con người.
Trong lĩnh vực chính trị - xã hội, Đêmôcrít thể hiện lập trường của tầng lớp
dân chủ chủ nô, ông đấu tranh bảo vệ nền dân chủ Aten. Ông coi chế độ nô lệ là
hợp đạo lý, nền tảng của nó là nhà nước của giai cấp chủ nô. Ông có những quan
điểm tiến bộ về mặt đạo đức. Phẩm chất con người theo ông không phải ở lời nói
mà ở việc làm. Mục tiêu của con người, theo ông là hướng tới tự do và hạnh
12
phúc, nhưng hạnh phúc không phải là sự giàu có, mà là sự thanh thản tâm hồn
được tự do. Về vấn đề tôn giáo, Đêmôcrít và các nhà nguyên tử luận nghiêng về
lập trường vô thần.
3. Quan điểm Platon
Platon (427-347) tên thật là Aristoclès. Sinh trong một gia đình dòng dõi quý
tộc tại Athènes. Ông đã từng theo học với Socrate và trở thành một người đệ tử,
một người bạn trung thành đắc lực cho Socrate. Việc Socrate mất đã tác động
mạnh mẽ tới tâm thức Platon và từ đó ông thù ghét tư tưởng dân chủ, thù ghét

quần chúng và cả giai cấp quý tộc của ông. Ông viết rất nhiều tác phẩm có giá trị
cho nhân loại cả về triết học lẫn chính trị. Trong những tác phẩm của ông, nổi
tiếng và đặc biệt nhất là tác phẩm Cộng Hoà (Republic). Có thể nói đó là một
cuốn bách khoa toàn thư vô cùng giá trị trong lịch sử nhân loại.
Quan niệm về Quốc gia lý tưởng
Toàn bộ những tư tưởng về chính trị xã hội của Platon được gói gọn trong
mô hình “Quốc gia lí tưởng” mà ông đã dày công gầy dựng suốt cả cuộc đời.
Trong mô hình quốc gia lí tưởng ấy ta thấy nó thể hiện đầy đủ tất cả các vấn đề
của đời sống mà xã hội chúng ta ngày hôm nay vẫn còn đang băn khoăn suy
nghĩ. Đó là một quốc gia trong đó mọi người luôn được sống êm đềm hạnh phúc,
đầy đủ và thoả mãn với những gì mà họ đã tạo ra.
Xã hội trong quốc gia lí tưởng của Platon được phân chia thành ba giai cấp
rõ rệt tương ứng với từng bản tính và chức năng của mỗi giai cấp: giai cấp lãnh
đạo tức là những triết gia trí thức, hai là giai cấp chiến binh tức là những người
tham gia vào quan đội cảnh sát và ba là giai cấp thương nhân tức là những người
buôn bán và sản xuất lương thực. Quốc gia lí tưởng của Platon là một quốc gia
cộng sản triệt để trong đó, tất cả mọi cái đều được gom vào thành của chung. Tất
cả lợi ích là vì xã hội, nhà nước. Người lãnh đạo lý tưởng tất nhiên không ai khác
hơn là giai cấp quý tộc nhưng những người quý tộc này không được sở hữu bất
cứ tài sản nào, kể cả vợ con riêng, sự sở hữu kinh tế nông nghiệp cũng không
được có sự quá chênh lệch giữa mọi người.
13
Về quan hệ xã hội thì mọi người đều phải có những vai trò và nhiệm vụ
riêng theo từng giai cấp đã được phân chia. Làm đúng theo nhiệm vụ ấy là bảo vệ
và xây dựng đời sống hạnh phúc. Mọi người đều phải được học hành, không có
chiến tranh, kể cả ngoại chiến lẫn nội chiến; các quan chức lãnh đạo phải là
những triết gia vì những người như họ mới đủ khả năng sáng suốt lãnh đạo, họ
không được tham nhũng vơ vét của cải của dân. Những của cải của người dân
làm ra phải được phân chia một cách đồng đều để không ai quá giàu hoặc quá
nghèo. Ông chủ trương một nhà nước lí tưởng cần phải có địa hình nằm sâu vào

trong đất liền để tránh giao thương buôn bán mà chỉ phát triển về nông, thủ công
nghiệp là đủ.
Và tất nhiên, xã hội đó là một xã hội quý tộc dân chủ, tất cả mọi tài năng đều
có cơ hội phát triển đồng đều, dù là con vua hay con chúa cũng bắt đầu ngang
nhau. Trong chế độ này hoàn toàn không có giai cấp, không có vấn đề cha truyền
con nối, nếu không có năng lực thì sẽ bị đào thải, dù là con vua.
Một nền thể chế chính trị hay xã hội nếu làm cho trọn vẹn quá trình đào tạo
“chất liệu cấu tạo triết lý chính trị” như vậy tất nhiên đã bảo đảm được phần nội
lực bên trong từ đó tiến lên xây dựng quốc gia xã hội không còn là chuyện khó.
14
CHƯƠNG III: NHẬN XÉT CÁ NHÂN
1. Tư tưởng trị quốc của hai nền triết học Trung Quốc và Hy Lạp
Trung Quốc và Hy Lạp là hai đất nước có điều kiện lịch sử, phát triển kinh
tế xã hội khác nhau nên sự ra đời của nền triết học nói chung và những tư tưởng
trị quốc nói riêng cũng khác nhau.
Đối với Trung Quốc trong giai đoạn cổ đại, chúng ta thấy có bốn trường phái
triết học tiêu biểu.
Thứ nhất là Nho gia, đây là một học thuyết xem những quan hệ chính trị -
đạo đức là những quan hệ nền tảng của xã hội và thâu tóm ba mối quan hệ chủ
đạo (gọi là tam cương). Để giải quyết quan hệ “tam cương”, Khổng Tử đã đề cao
tư tưởng “chính danh” bằng cách đặc biệt coi trọng “nhân trị” chứ không phải
“pháp trị”. Đối với Tuân Tử thì trị nước phải kết hợp đức trị với pháp trị. Trong
việc trị nước cũng như tu thân, học đạo sửa mình để đạt được đức nhân, “lễ”
được Khổng Tử rất mực chú trọng. Còn Mạnh Tử, ông kịch liệt lên án những ông
vua không lấy điều nhân nghĩa làm gốc, chỉ vui thú lợi lộc riêng, tà dâm bạo
ngược, dùng sức mạnh để đàn áp dân; ông gọi đó là “bá đạo” và thường tỏ thái
độ khinh miệt: “kẻ hại nhân là tặc, kẻ hại nghĩa là tàn”. Lý tưởng của Nho gia là
xây dựng một “xã hội đại đồng”. Do không phù hợp với ước vọng của quần
chúng nhân dân, nó mãi mãi chỉ là một lý tưởng. So với các học thuyết khác, nho
gia là học thuyết có nội dung phong phú, mang tính hệ thống, chứa đựng nhiều

giá trị nhân bản và toát lên tinh thần biện chứng sâu sắc. Hơn thế nữa, nó còn là
hệ tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị Trung Hoa suốt hai ngàn năm của
xã hội phong kiến. Tuy nhiên, khía cạnh xã hội của con người đã bị hiểu một
cách hạn chế và duy tâm. Đây là điểm khác so với quan điểm của Đạo gia. Để trở
thành tư tưởng chính thống, Nho Gia đã được bổ sung và hoàn thiện qua nhiều
giai đoạn lịch sử Trung Đại, Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh nhưng tiêu biểu
hơn cả là dưới triều đại Hán và Tống, gắn liền với tên tuổi của các bậc danh Nho
15
như Đổng Trọng Thư (thời Hán), Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình Di
(thời Tống).
Kế tiếp, Đạo gia được Lão Tử sáng lập ra, được thể hiện chủ yếu trong lý
luận về đạo và đức. Lý luận này thể hiện quan niệm biện chứng về thế giới, và là
cơ sở để ông xây dựng thuyết vô vi nhằm giải quyết những vấn đề do thời đại đặt
ra. Những tư tưởng độc đáo này đã nâng Lão Tử lên vị trí những nhà triết học
hàng đầu trong nền triết học Trung Hoa cổ đại. Triết học của Lão Tử có ý vị của
hình nhi thượng học nhưng xét về thực chất vẫn là một loại triết học chính trị có
tính xã hội và là một loại "đạo thuật của bậc vua chúa". Vì vậy, tư tưởng của ông
trở thành một thứ sách lược quyền mưu của giai cấp thống trị có ảnh hưởng sâu
xa đến chính trị chuyên chế ở Trung Quốc thời bấy giờ. Thí dụ như Lão Tử luận
về "vô vi" (không làm), "vô vi" mới có thể "vô bất vi" (không gì không làm). Các
đế vương đầu đời Hán rút từ bài học "vô vi" của Lão Tử, dùng "vô vi" làm cương
lĩnh trị quốc, từ đó nắm được thế chủ động sáng tạo ra cục diện hưng thịnh đầu
đời Hán. Sau này còn nhiều đế vương sau nhiều thời gian động loạn của xã hội
đều áp dụng chính sách để cho dân chúng nghỉ ngơi. Lý luận chủ đạo của chính
sách "dữ dân hưu tức" (nghĩ ngơi cùng dân) ấy đều xuất phát từ tư tưởng "vô vi
nhị trị" của Lão Tử vậy.
Bên cạnh sự phát triển của Nho gia và Đạo gia trong thời Xuân Thu và Chiến
Quốc còn có Mặc gia, với nhà triết học tiêu biểu là Mặc Tử. Đây là trường phái
đối lập với Nho giáo của Khổng Tử. Mặc Tử cho rằng Khổng giáo không thể an
định quốc gia bởi vì lễ nghi phiền phức, trói buộc con người vào vòng nghèo đói

và tệ nạn “giả nhân giả nghĩa”. Thêm vào đó, ông lại phê phán Lão giáo là sách
lược bất động, không đem đến thực lợi cho nhân dân. Ông quan niệm rằng “trời
yêu cả thiên hạ, làm lợi cho vạn vật, tỉ mỉ như cái múp sợi lông” khác với chủ
trương của Lão, Trang là “thiên địa bất nhân”. Đối với Mặc Tử, phương tiện
cũng không kém cứu cánh, nếu chỉ bàn mông lung về lý tưởng mà không có
chương trình hành động cụ thể thì cũng khó đạt được lý tưởng. Sang thời Tần –
Hán trở đi, không chỉ tư tưởng riêng của Mặc Tử mà cả trường phái Mặc gia
16
không thể lấn át được các tư tưởng của các trường phái khác nên phái Mặc gia
suy yếu và dần dần mất đi.
Cuối cùng là trường phái Pháp gia. Đây là trường phái có ảnh hưởng lớn đến
sự nghiệp thống nhất về tư tưởng và chính trị trong xã hội Trung Hoa cổ đại. Hàn
Phi Tử là đại biểu xuất sắc nhất và có công lớn vào thời kỳ này. Ông không
những tổng hợp ba quan điểm về pháp, thế, thuật của ba nhà triết học Thận Đáo,
Thân Bất Hại, Thương Ưởng mà còn kết hợp ba học thuyết Nho, Lão, Pháp lại
với nhau. Trong đó, Nho gia là “vật liệu để xây dựng xã hội”, Đạo gia là “kỹ
thuật thi công” và Pháp gia xem là “bản thiết kế”. Pháp gia coi trọng quyền lực
của nhà lãnh đạo. Mục đích chính của quyền lực là để giúp cho nhà lãnh đạo có
đủ phương tiện, mưu cầu quốc gia phú cường, bằng chính sách "Canh chiến" do
Hàn Phi đề xướng. Được như vậy thì vào thời bình, nhân dân sẽ nỗ lực canh tác,
làm cho nước giàu, nhờ có pháp lệnh khuyến khích; một khi gây ra chiến tranh,
thì khối nông dân đã được tổ chức sẵn trong thời bình, đều trở thành lính chiến,
có thể đưa ngay ra chiến trường chống giặc, như Hàn Phi đã nói: vô sự tắc quốc
phú, hữu sự tắc binh cường" (Ngày thường vô sự, thì làm cho nước giàu, khi biến
cố hữu sự, thì có sẵn quân mạnh) và "Hữu nạn tắc dụng kỳ tử, an bình tắc dụng
kỳ lực" (Khi hoạn nạn thì họ bỏ mình vì nước, lúc an bình thì họ ra sức xây dựng
quốc gia). Pháp luật mà Hàn Phi đề cao là thứ pháp luật hà khắc, tàn bạo, khác xa
với pháp luật ngày nay; con người phải vì pháp luật, chứ pháp luật không vì con
người; mặt khác, pháp luật dù ở vị trí thượng tôn, trên muôn dân, nhưng lại dưới
một người (nhà vua). Đó là hạn chế của học thuyết Pháp trị.

Đối với trong nền triết học Hy Lạp thì có hai nhà triết gia điển hình là
Đêmocrit và Platon. Đêmocrit tập trung vào các vấn đề đạo đức và nhà nước, từ
đó chú ý giải thích những động lực, sự phát triển của xã hội loài người. Ông là
người không tin thần thánh, bác bỏ nguồn gốc thần thánh vũ trụ. Là đại biểu của
tầng lớp chủ nô dân chủ, ông luôn xuất phát từ quan niệm duy vật để bảo vệ
quyền lợi của tầng lớp mình, bảo vệ chế độ dân chủ chủ nô. Theo ông, chế độ
dân chủ chủ nô phải gắn liền với nền thương mại và sản xuất thủ công, nhưng nó
cũng phải gắn liền với tình thân ái, với tính ôn hòa và lợi ích chung của công dân
17
tự do, chứ không phải của nô lệ. Đêmocrit đã giải quyết được những thiếu sót của
các nhà duy vật trước ông và đã căn bản phê phán được học thuyết duy tâm cổ
đại. Về Platon, ông đã xây dựng “Quốc gia lý tưởng”, thể hiện những ý tưởng rất
tốt đẹp song nó đã không bảo đảm những vấn đề cơ bản cá nhân. Tuy nhiên, xã
hội “không tưởng” này lại là cơ sở về sau của giáo hội Thiên Chúa Giáo La Mã
sống theo tinh thần của ông suốt hơn một năm ở châu Âu. Hơn nữa, quan niệm
về chính trị xã hội của Platon chứa đầy tính bảo thủ và mâu thuẫn: ông vừa đòi
hỏi phải xóa bỏ tư hữu, lại vừa phải xây dựng cho bằng được chế độ đẳng cấp và
sự bất bình đẳng trong xã hội; vừa kêu gọi xây dựng nhà nước cộng hòa lý tưởng,
lại vừa ra sức bảo vệ lợi ích và địa vị tầng lớp chủ nô quý tộc chống lại nhà nước
dân chủ Athen. Do vậy, triết gia Will Durant mới nhận xét: “Quốc gia của Platon
là một quốc gia thủ cựu, thuật chính trị của Platon thiếu sự tế nhị mềm dẽo, nó đề
cao trật tự mà không đề cao sự tự do, nó thích cái đẹp mà không biết nuôi dưỡng
nghệ sĩ, khi ông muốn phá vỡ đời sống gia đình, ông đã phá vỡ điều kiện cho của
một nếp sống đạo đức. Chế độ cộng sản chẳng qua chỉ là một chế độ gia đình
được nới rộng cho toàn dân, khi đã kích gia đình, Platon không biết rằng ông đã
phá vỡ nền móng của xã hội lí tưởng mà ông sắp xây cất”.
18
2. Ý nghĩa trị quốc của hai nền triết học Trung Quốc và Hy Lạp
Qua những nhà triết học tiêu biểu của hai nền triết học Trung Quốc và Hy
Lạp, chúng ta thấy triết học Trung hoa cổ đại là một hệ thống đồ sộ, bao

quát nhiều tư tưởng trị quốc không chỉ phê phán, xung đột nhau mà còn
biết hấp thụ những tư tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của
chính mình và chịu ít nhiều bởi tư tưởng biện chứng trong kinh Dịch. Nó
đã giải quyết những vấn đề do thực tiễn của thời đại đặt ra, đặc biệt là
Pháp gia của Hàn Phi Tử. Chủ trương dùng pháp luật để trị nước mà nước
Tần đã trở nên hùng mạnh và thống nhất được Trung Quốc. Nếu chúng ta
nhìn bằng con mất thời đại thì thấy chính sách "Canh chiến" thời xưa của
Hàn Phi, chẳng khác gì cho so với chế độ "Công xã nhân dân" thời nay
của Mao Trạch Đông, coi nhân dân như một công cụ, nô lệ của tập đoàn
thống trị.
Tiếp theo, triết học Hy Lạp cổ đại thì thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và
phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị. Nó có ý nghĩa rất quan trọng về
lý luận để giai cấp này duy trì trật tự xã hội, củng cố vai trò thống trị của mình.
Ngoài ra, triết học Hy Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người, khẳng định
con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Các nhà triết học trong
giai đoạn này đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về con người, cố lý giải vấn
đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác, về đời sống đạo đức- chính trị - xã hội của
họ. Mặc dù vậy, con người ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định
chủ yếu ở khía cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
19
KẾT LUẬN
Nhìn chung, quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại đều có ưu điểm
và khuyết điểm riêng . Tuy nhiên, nó đã giải quyết những vấn đề đạo đức - chính
trị - xã hội trong thời đại bấy giờ, đóng góp rất to lớn trong quá trình phát triển
của một đất nước. Bên cạnh đó, nó còn là cở sở cho các quan niệm trị quốc trong
lịch sử triết học trung đại và hiện đại sau này.
Chính vì vậy, trong quá trình hình thành và phát triển các tư tưởng triết học
Việt Nam, chúng ta đã tiếp thu có “chọn lọc” từ Nho giáo của Trung Quốc. Mặc
dù trong Nho giáo không thể hiện quan điểm trị quốc rõ ràng song bàn nhiều về
vấn đề con người, chủ yếu là nguồn gốc, số phận, bản tính… của con người,

nhằm mang lại cho con người một quan niệm nhân sinh vững chắc, giúp con
người định hướng hoạt động trong điều kiện xã hội phức tạp và đầy biến động.
Đây cũng chính là mong muốn của những người sáng lập đối với vị vua lãnh đạo
đất nước mình: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Đặc biệt trong thời đại ngày nay, tư tưởng này có ý nghĩa rất quan trọng
trong mỗi con người chúng ta. Nếu chúng ta biết rèn luyện bản thân, tu dưỡng
đạo đức thì xã hội sẽ trở nên tốt đẹp hơn.

20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Triết học, Phần I, Đại cương về lịch sử triết học (dùng cho học viên cao học &
nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), Nhà xuất bản Trường đại
học kinh tế Tp. Hcm, 2010.
2.Triết học, Phần I, Đại cương về Lịch sử Triết học - TS. Bùi Văn Mưa (chủ
biên), 2010.
3. Triết học và Bức tranh Vật lý học về Thế giới- TS. Bùi VĂn Mưa - NXB Đại
học Quốc gia TPHCM 2008.
4. Các trang web:
- />- />-
-
-
21

×