Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.12 KB, 27 trang )

Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 13: QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ
TRIẾT HỌC THỜI CỔ ĐẠI
GVHD : T.S BÙI VĂN MƯA
SVTH : NGUYỄN THANH PHÚC
STT : 76
LỚP : ĐÊM 1 - K20
NHÓM THỰC HIỆN : NHÓM 5
MỤC LỤC
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 2
HCM, Tháng 5/2011
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 5
1. Giới thiệu 5
2. Nho Gia 5
3. Đạo gia 6
4. Mặc gia 7
5. Pháp gia 8
1. Giới thiệu 11
2. Đêmocrit 12
3. Platon 14
1. Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại Trung Quốc 16
1.1 Khổng Tử - Triết học Nho Gia 16
1.2 Lão Tử - Triết học Đạo gia 16
1.3 Mặc tử - Triết học Mặc gia 16


1.4 Hàn Phi Tử - Triết học Pháp gia 17
2. Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại Hy Lạp 18
2.1 Quan điểm của Đêmocrit 18
2.2 Quan điểm của Platon 18
3. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa tư tưởng trị quốc của các nhà triết học cổ đại
Trung quốc và Hy Lạp: 19
1. Những ảnh hưởng từ những tư tưởng trị quốc của các nhà triết học cổ đại Trung Quốc đối
với công cuộc xây dựng XHCN và phát triển đất nước ở Việt Nam hiện nay 21
1.1 Nho Gia 21
1.2 Đạo gia 22
1.3 Mặc gia 24
1.4 Pháp gia 25
2. Những ảnh hưởng từ những tư tưởng trị quốc của các nhà triết học cổ đại Hy Lạp đối với
công cuộc xây dựng XHCN và phát triển đất nước ở Việt Nam hiện nay 25
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 3
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
2.1 Quan điểm của Đêmocrit 25
2.2 Quan điểm của Platon 26
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử khoảng 3000 năm. Sự
phát triển những tư tưởng Triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài, đa
dạng nhiều trường phái, phát triển và ảnh hưởng khác nhau theo từng khu vực địa
lý. Triết học đem lại cho con người, cho xã hội những nền tảng tư duy lý luận, để
dựa vào đó nhân loại chúng ta có thể lý giải được hầu hết những hiện tượng trong
đời sống. Dựa vào triết học, loài người nâng cao được tư duy, xây dựng được xã
hội và phát triển xã hội. Đặc biệt một trong những vấn đề khá quan trọng trong
sự phát triển của xã hội là “vấn đề trị quốc”. Một quốc gia phồn thịnh hay suy
vong đều phụ thuộc vào đường lối, chiến lược trị quốc. Quan điểm của các nhà
triết học qua các thời kỳ khác nhau (cổ đại, trung đại và hiện đại) cũng khác
nhau. Các quan điểm được phát triển từ đơn giản đến phức tạp, từ duy vật đến

duy tâm. Mỗi tư tưởng triết học đều có nhiều quan điểm về các khía cạnh vũ trụ
quan, nhận thức luận, đạo đức, chính trị, xã hội.
Trong phạm vi đề tài này, bài viết này chỉ đi sâu vào quan điểm trị quốc của
các nhà triết học thời kỳ cổ đại. Tuy chỉ là một mảng nhỏ trong nội dung của các
tư tưởng triết học, nhưng đây là một đề tài mang tính chất bám sát vào nội dung
chương trình học, mở rộng kiến thức về cách nhìn nhận của những nhà triết học
cổ đại của cả phương Tây lẫn phương Đông và là một vấn đề mang tính chất thực
tiễn.
Để làm rõ nội dung trị quốc, cần phải tìm hiểu sơ lược về điều kiện tự nhiên,
hoàn cảnh đời sống xã hội và văn hóa. Nội dung đề tài được chia ra thành hai
mảng chính. Ở triết học phương Đông, nội dung trị quốc được phân tích thông
qua các tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại như Nho gia, Mặc gia, Đạo gia,
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 4
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Pháp gia. Còn đối với triết học phương Tây, khía cạnh này lại được mổ xẻ thông
qua tư tưởng Đêmôcrit và Platon của triết học Hy Lạp.
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu
Trung Quốc là một nước có nhiều dân tộc với chế độ phong kiến kéo dài,
chiến tranh diễn ra liên miên. Do sự phát triển kinh tế xã hội và khoa học trong
các thời kỳ cổ đại, đặc biệt là thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc đã tạo tiền đề cho sự
ra đời các hệ thống triết học với những nhà triết gia vĩ đại mà tên tuổi của họ gắn
liền với lịch sử của nhân loại.
Triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị và đạo đức. Thường những nhà
triết học là những nhà chính trị, những ông quan tham mưu cho các bậc đế
vương.
Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân Thu – Chiến
Quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất với nhiều học thuyết được lưu truyền đến
đời sau. Trong đó có thể kể đến những tư tưởng triết học nổi bật như Nho gia,
Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia.

2. Nho Gia
Cơ sở của Nho gia được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng
góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công.

Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn
lạc, Khổng Tử phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền
bá các tư tưởng đó. Do đó, sau này ông được xem là người sáng lập ra Nho giáo.
Nho gia là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội
có hiệu quả, cần phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng
này gọi là quân tử. Theo Khổng Tử, để trở thành người quân tử, con người ta
trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử
phải có bổn phận "hành đạo". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình,
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 5
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất
thiên hạ).
Về tu thân, Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ
đức để làm chuẩn mực cho mọi vấn đề sinh hoạt trong xã hội. Tam cương và
ngũ thường là chuẩn mực đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là
chuẩn mực đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng xã hội mà có mọi
người tuân theo tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được trật tự,
thái bình.
Về hành đạo, Khổng Tử đưa ra học thuyết về Nhân-Lễ-Chính danh. Nhân là
tình người, người có nhân là người biết yêu thương người khác, phải cai trị bằng
tình người. Khổng Tử từng nói "Mình muốn lập thân thì phải giúp người khác lập
thân, mình muốn thành đạt thì phải giúp người khác thành đạt”. Chính danh ở
đây có nghĩa là mang danh nào thì phải thực hiện cho được những điều mà danh
đó quy định. Tất cả phải có tôn ti, thực hiện đúng bổn phận của mình. Nếu tất cả
mọi người đều chính danh, xã hội tất yếu sẽ thái bình, trật tự, không loạn lạc.
Chính bởi thế mà câu nói "Nếu danh không chính thì lời nói không thuận. Lời nói

không thuận tất việc chẳng thành" của Khổng Tử đến giờ vẫn thường được mọi
người nhắc lại. Nói một cách ngắn gọn hơn, quan điểm này đã được những người
sáng lập tóm gọn trong 9 chữ “Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ”.
3. Đạo gia
Đạo gia là một trong sáu học phái lớn trong nền triết học Trung Quốc cổ đại,
ra đời sau thời kỳ hưng thịnh của Nho giáo. Đạo gia được Lão Tử sáng lập ra và
sau đó được Trang Tử phát triển thêm vào thời Chiến quốc (403-221 TCN) trong
bối cảnh tầng lớp quý tộc sa sút trong cuộc chiến triền miên.
Kinh điển của Đạo gia chủ yếu được tập trung lại trong bộ Đạo đức kinh và bộ
Nam hoa kinh. Những tư tưởng triết học cơ bản của trường phái Đạo gia được
thể hiện chủ yếu trong lý luận về đạo và đức. Lý luận này thể hiện quan niệm
biện chứng về thế giới và là cơ sở để Lão Tử xây dựng thuyết vô vi nhằm giải
quyết những vấn đề do thời đại đặt ra.
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 6
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Về quan điểm trị quốc, Lão Tử cho rằng hành động hay nhất là đừng can
thiệp đến việc đời; nhưng nếu đời cần ta phải làm thì ta hãy làm một cách kín
đáo, khéo léo. Ông coi đây là giải pháp an bang tế thế. Đối với ông, chính phủ
yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến thành chất phác, chính phủ tích cực làm việc thì dân
đầy tai hoạ. Lão Tử cho rằng bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải là bằng lẽ tự
nhiên của đạo vô vi và chủ trương xoá bỏ hết mọi ràng buộc về mặt đạo đức,
pháp luật đối với con người để trả lại cho con người cái bản tính tự nhiên vốn có
của nó. Lão Tử mơ ước đưa xã hội trở về thời đại nguyên thuỷ chất phác, mơ ước
cô lập cá nhân với xã hội để hoà tan con người vào đạo (tự nhiên).
4. Mặc gia
Mặc gia là một trường phái triết học Trung Quốc cổ đại do Mặc Tử sáng lập,
phát triển qua 2 giai đoạn: Mặc Tử và giai đoạn hậu Mặc, phản ánh nguyện vọng
của tầng lớp dân cư tự do, sản xuất nhỏ và tiểu chủ. Nó phát triển cùng thời với
Nho giáo, Đạo giáo, Pháp gia và là một trong bốn trường phái triết học chính
trong thời Xuân Thu Chiến Quốc.

Mặc Tử cho rằng việc quốc trị phải chú trọng vào phương tiện để đạt cho
được cứu cánh chứ không chỉ bám vào cứu cánh mà quên đi phương tiện như
Khổng hay Mạnh. Mặc Tử nhấn mạnh đến pháp thuật chính trị cần thiết để an
bang tế thế.
Bất cứ chính sách hay phương pháp nào cũng phải giúp cho nhân loại thăng
tiến. Người quản thống quốc sự nên dựa trên căn bản hữu dụng (thực lợi) để đánh
giá tất cả các chính sách; nếu việc có lợi cho nhân dân thì nên làm, nhưng nếu
không có lợi cho nhân dân thì không làm. Lãnh tụ quốc gia khi đánh giá cái
“dụng” của sự việc cũng không nên quên đi “nghĩa”. Theo Mặc Tử thì “muôn
việc không việc gì quý bằng nghĩa” (vạn sự mạc quý ư nghĩa) và “nghĩa là lợi”
(nghĩa, lợi dã)
Khuôn phép cho việc quốc trị trong nhãn quan của Mặc Tử là hành sử theo
minh ý của trời, phải biết thương dân chứ không phải tin vào bói toán một cách
mù quáng. Lãnh tụ quốc gia không thể ích kỷ để chỉ lo tư lợi mà phải tận tình
chăm lo cho đời sống của dân, giúp dân đạt được sung túc và hạnh phúc, tuyệt
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 7
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
đối không ra vẻ hách dịch để ức hiếp dân. Sách lược quốc trị tốt nhất cho dân tộc
là sách lược bác ái bao gồm các chính sách khuyến khích tinh thần bác ái trong
quốc gia và cả chính sách ngăn chận sự căm thù trong xã hội.
Trong lãnh vực quốc trị, Mặc Tử chủ trương lãnh đạo quốc gia phải biết
trọng dụng nhân tài bất kể là họ có liên hệ gia tộc hay đảng phái hay không, đưa
ra quan niệm bình đẳng hóa xã hội, phản đối hệ thống phân chia giai cấp đương
thời và đả kích tệ nạn bám víu vào quyền lực chính trị của thành phần quý tộc
qua cách bổ nhiệm thân nhân - thay vì người tài đức - vào các trách vụ quan
trọng.
Về lãnh vực tài chánh, Mặc Tử chủ trương chính sách tiết kiệm, đòi hỏi lãnh
đạo quốc gia phải biết giới hạn những chi tiêu xa hoa có tính cách khoe khoang
nhưng không đem lại ích lợi gì cho nhân dân hay quốc gia.
5. Pháp gia

Phương Đông được coi là nơi khởi nguồn của nền văn minh nhân loại, với
nhiều thành tựu vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc đứng trong hàng ngũ bốn nước
cổ đại có nền văn minh rực rỡ và lâu đời, là cái nôi sớm nhất của văn minh nhân
loại. Về tư tưởng, lịch sử Trung Hoa cổ đại có hai thời kỳ được nói đến nhiều
nhất: thời Xuân Thu (770 – 403 TCN) là thời kỳ sinh sống của Lão Tử, Khổng
Tử và thời Chiến Quốc (403 – 221 TCN) là thời kỳ sinh sống của Hàn Phi Tử, đã
hội tụ những nhân tố cho sự phát triển đến đỉnh cao. Học thuyết pháp trị của phái
Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi các tác giả xuất sắc như:
Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và được hoàn thiện bởi
Hàn Phi Tử. Tư tưởng Pháp gia mà đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai
trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời
Xuân Thu - Chiến Quốc
Trong phép trị nước, Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố
Thế, Thuật, và Pháp. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách
rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung trong
chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 8
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
nên sức mạnh, còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung
chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương.
"Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong Pháp trị. Pháp gia cho rằng
muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành thì
nhà vua phải có "Thế". Trọng Thế tức trọng sự cưỡng chế, cho nên chủ trương:
1- Chủ quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là vua;
2- Vua phải được tôn kính tuân theo triệt để: dân không được quyền làm cách
mạng, không được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là bất
trung. 3- Đưa sự thưởng phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương
tiện hiệu nghiệm nhất để cưỡng chế. Muốn trị nước thì vua chỉ cần dùng thưởng
phạt chứ không cần dùng giáo hóa, lễ nhạc.
"Pháp" được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia, là

chế độ chính trị xã hội của đất nước; Nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật
lệ, những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển tư
tưởng pháp trị của Pháp gia thời trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh
công bố ở các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành,
thưởng người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo
Pháp". Tính cách của pháp luật theo Hàn Phi, trên cơ sở chủ trương của Pháp gia,
là vua tượng trưng cho quốc gia, nên vua nắm hết uy quyền: lập pháp, hành pháp,
tư pháp. Tuy vậy, khi lập pháp vua cũng phải dựa trên những nguyên tắc chính
như: 1- Pháp luật phải hợp thời; 2- Pháp luật phải soạn sao cho dân dễ hiểu, dễ
thi hành; 3- Pháp luật phải công bằng; 4- Pháp luật có tính cách phổ biến. Với
Hàn Phi, “Pháp” thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận, phải,
trái, tốt, xấu, thiện, ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối, đều
lấy “Pháp” làm chuẩn. Vì vậy, “Pháp” trở thành cái gốc của thiên hạ.
"Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong
việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp
luật được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Theo Hàn Phi,
“Thuật” có hai khía cạnh: “Kỹ thuật” - là phương án để tuyển, dùng, xét khả
năng quan lại; “Tâm thuật” - tức mưu mô để chế ngự quần thần, bắt họ để lộ tâm
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 9
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
của họ ra, nói ngược lại điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người; ngầm
hại những kẻ bề tôi mình không cảm hóa được…
Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi
hỏi tư tưởng pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về
"Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau
trong một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử
đó. Tư tưởng chủ đạo của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật
làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông
dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được.
Pháp gia của Hàn Phi Tử được coi là trường phái triết học đầu tiên chủ

trương dùng phép trị để trị nước. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần
Thủy Hoàng vận dụng, kết quả đã đưa nước Tần đến thành công trong việc thống
nhất được đất nước Trung Quốc sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 10
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG II: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài
và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử - chế độ chiếm hữu nô lệ.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng
phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá.
Vì vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con người có dịp bay
bổng, để thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, xứng đáng là chiếc nôi của nền văn
minh Châu Âu và của cả nhân loại.
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết
quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng
tác dân gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa
học tự nhiên).
Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại là nơi để con
người tưởng tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí, và còn là nơi
thể hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt của đời
sống thường ngày. Thần thoại là nơi đầu tiên để tư duy triết học ra đời và từng
bước triết học tách khỏi thần thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, đạo đức, về xã
hội, về lẽ sống, về chân lý, về con người…
Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất
yếu-đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
- Triết học thời kỳ tiền Xôcrat (thời kỳ sơ khai)

- Triết học thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh)
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá
Triết học Hy Lạp cổ đại có những đặc điểm sau:
Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh tuý
nhất của nhận thức nhân loại từ phương thức sản xuất thứ nhất đến phương thức
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 11
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
sản xuất thứ hai ở phương Tây. Vì vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn đề cơ
bản của thế giới quan và là một hệ thống tập hợp các tri thức về tự nhiên, về con
người, mặc dầu chưa thoát khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc nhưng cũng vô
cùng phong phú, muôn hình muôn vẻ…
Đặc điểm thứ hai, triết học Hy Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người,
khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Mặc dù
vậy, con người ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở
khía cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
Đặc điểm thứ ba, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phát và
biện chứng sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy
nhất thường xuyên vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư
tưởng biện chứng của triết học Hi Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên của
phép biện chứng.
2. Đêmocrit
Đêmôcrit - nhà bác học toàn năng và nhà triết học duy vật lớn nhất của Hy
Lạp cổ đại, sinh trưởng ở Apđerơ, một thành phố thực dân địa của Hi Lạp ở xứ
Tơraxia, ven bờ phía Bắc của biển Êgiê.
Nhà triết học Đêmocrit
Đêmôcrit là đại biểu xuất sắc nhất của nền triết học Hy Lạp cổ đại. Ông là
học trò của Lơxíp và là người kế tục tư tưởng của Lơxip về nguyên tử và phát
triển nó thành một học thuyết gắn liền với tư tưởng của ông.
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 12
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Nổi bật nhất trong triết học của Đêmôcrít là học thuyết về nguyên tử. Khái
niệm nguyên tử được xây dựng trên cơ sở các khái niệm về “tồn tại” và “không
tồn tại”.
Trái với quan niệm của Platon thì tồn tại theo Đêmôcrít là cái xác định
được, cái đa dạng, cái có ngoại hình…Đối lập với cái tồn tại là cái không tồn tại
hay cái trống rỗng. Cái trống rỗng là cái không xác định, cái vô hình, bất động và
vô hạn. Nó không ảnh hưởng gì các vật thể nằm trong nó, nhờ đó mà vật thể vận
động được trong cái trống rỗng, cái phần vật chất thuộc cái tồn tại mà không
chứa đựng trong nó một sự trống rỗng nào được gọi là nguyên tử.
Nguyên tử là hạt vật chất không thể phân chia được, nhỏ bé có thể cảm nhận
được bằng trực quan. Nguyên tử là vĩnh cửu, bất biến. Nguyên tử có tính đa
dạng, tự thân không vận động và khi kết hợp với nhau thì tạo thành vật thể.
Đêmôcrít cho rằng mọi sự vật trong thế giới đều được tái tạo từ các nguyên tử và
khoảng không. Sự xuất hiện, tồn tại và mất đi của các dạng vật thể là kết quả kết
hợp của các nguyên tử hay phân tâm của các nguyên tử. Vũ trụ nói chung theo
Đêmôcrít là một khoảng không vô tận trong đó chứa đựng vô số thế giới khác
nhau được cấu tạo từ vô vàn các loại nguyên tử.
Trong lý luận nhận thức, Đêmôcrít đưa ra khái niệm linh hồn coi đó là hoạt
động tâm lý là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt giữa thế giới vô sinh và hữu sinh.
Theo ông, linh hồn cũng là một dạng vật chất, được cấu tạo từ các nguyên tử đặc
biệt có cấu hình, linh động như ngọn lửa, có vận tốc lớn luôn chứa đựng và sinh
ra nhiệt làm cơ thể hưng phấn và vận động.
Quan điểm về linh hồn của Đêmôcrít là cái không bất tử, nó thể hiện cùng
với sự tồn tại của thể xác con người. Chức năng của linh hồn là khởi đầu sự vận
động và tồn tại của cơ thể con người. Các hình thức phản ánh trong hoạt động
nhận thức của con người theo Đêmôcrít được thể hiện do các cơ quan cảm giác
và nhận thức lý tính. Sự khác nhau giữa nhận thức cảm giác và lý tính là ở tính
chất, trình độ giữa chúng, tuy nhiên Đêmôcrít chưa phân biệt được sự khác nhau
cơ bản giữa hai dạng nhận thức, mà chỉ thấy sự khác nhau đơn thuần về lượng,
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 13

Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
cũng chưa thấy được sự chuyển hóa giữa chúng, mà thực chất coi tư duy chỉ là sự
hỗn hợp cái nguyên tử trong cơ thể con người.
Trong lĩnh vực chính trị - xã hội, Đêmôcrít thể hiện lập trường của tầng lớp
dân chủ chủ nô, ông đấu tranh bảo vệ nền dân chủ Aten. Ông coi chế độ nô lệ là
hợp đạo lý, nền tảng của nó là nhà nước của giai cấp chủ nô. Ông có những quan
điểm tiến bộ về mặt đạo đức. Phẩm chất con người theo ông không phải ở lời nói
mà ở việc làm. Mục tiêu của con người, theo ông là hướng tới tự do và hạnh
phúc, nhưng hạnh phúc không phải là sự giàu có, mà là sự thanh thản tâm hồn
được tự do. Về vấn đề tôn giáo, Đêmôcrít và các nhà nguyên tử luận nghiêng về
lập trường vô thần.
3. Platon
Platon (427-347) tên thật là Aristoclès. Sinh trong một gia đình dòng dõi quý
tộc tại Athènes. Ông đã từng theo học với Socrate và trở thành một người đệ tử,
một người bạn trung thành đắc lực cho Socrate. Việc Socrate mất đã tác động
mạnh mẽ tới tâm thức Platon và từ đó ông thù ghét tư tưởng dân chủ, thù ghét
quần chúng và cả giai cấp quý tộc của ông. Ông viết rất nhiều tác phẩm có giá trị
cho nhân loại cả về triết học lẫn chính trị. Trong những tác phẩm của ông, nổi
tiếng và đặc biệt nhất là tác phẩm Cộng Hoà (Republic). Có thể nói đó là một
cuốn bách khoa toàn thư vô cùng giá trị trong lịch sử nhân loại.
Nhà triết học Platon
Quan niệm về Quốc gia lý tưởng
Toàn bộ những tư tưởng về chính trị xã hội của Platon được gói gọn trong
mô hình “Quốc gia lý tưởng” mà ông đã dày công gầy dựng suốt cả cuộc đời.
Trong mô hình quốc gia lí tưởng ấy ta thấy nó thể hiện đầy đủ tất cả các vấn đề
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 14
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
của đời sống mà xã hội chúng ta ngày hôm nay vẫn còn đang băn khoăn suy
nghĩ. Đó là một quốc gia trong đó mọi người luôn được sống êm đềm hạnh phúc,
đầy đủ và thoả mãn với những gì mà họ đã tạo ra.

Xã hội trong quốc gia lí tưởng của Platon được phân chia thành ba giai cấp
rõ rệt tương ứng với từng bản tính và chức năng của mỗi giai cấp: giai cấp lãnh
đạo tức là những triết gia trí thức, hai là giai cấp chiến binh tức là những người
tham gia vào quan đội cảnh sát và ba là giai cấp thương nhân tức là những người
buôn bán và sản xuất lương thực. Quốc gia lí tưởng của Platon là một quốc gia
cộng sản triệt để trong đó, tất cả mọi cái đều được gom vào thành của chung. Tất
cả lợi ích là vì xã hội, nhà nước. Người lãnh đạo lý tưởng tất nhiên không ai khác
hơn là giai cấp quý tộc nhưng những người quý tộc này không được sở hữu bất
cứ tài sản nào, kể cả vợ con riêng, sự sở hữu kinh tế nông nghiệp cũng không
được có sự quá chênh lệch giữa mọi người.
Về quan hệ xã hội thì mọi người đều phải có những vai trò và nhiệm vụ
riêng theo từng giai cấp đã được phân chia. Làm đúng theo nhiệm vụ ấy là bảo vệ
và xây dựng đời sống hạnh phúc. Mọi người đều phải được học hành, không có
chiến tranh, kể cả ngoại chiến lẫn nội chiến; các quan chức lãnh đạo phải là
những triết gia vì những người như họ mới đủ khả năng sáng suốt lãnh đạo, họ
không được tham nhũng vơ vét của cải của dân. Những của cải của người dân
làm ra phải được phân chia một cách đồng đều để không ai quá giàu hoặc quá
nghèo. Ông chủ trương một nhà nước lí tưởng cần phải có địa hình nằm sâu vào
trong đất liền để tránh giao thương buôn bán mà chỉ phát triển về nông, thủ công
nghiệp là đủ.
Và tất nhiên, xã hội đó là một xã hội quý tộc dân chủ, tất cả mọi tài năng đều
có cơ hội phát triển đồng đều, dù là con vua hay con chúa cũng bắt đầu ngang
nhau. Trong chế độ này hoàn toàn không có giai cấp, không có vấn đề cha truyền
con nối, nếu không có năng lực thì sẽ bị đào thải, dù là con vua.
Một nền thể chế chính trị hay xã hội nếu làm cho trọn vẹn quá trình đào tạo
“chất liệu cấu tạo triết lý chính trị” như vậy tất nhiên đã bảo đảm được phần nội
lực bên trong từ đó tiến lên xây dựng quốc gia xã hội không còn là chuyện khó.
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 15
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ

TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
1. Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại Trung Quốc
1.1 Khổng Tử - Triết học Nho Gia
Triết học Nho gia mà đại diện là Khổng Tử là một nền tư tưởng mang nặng
tính chất chính trị mục đích là để làm sao tổ chức xã hội có hiệu quả. Để làm
được như vậy, Nho Gia cho rằng vai trò của người cai trị đặc biệt quan trọng,
quyền cai trị đất nước phải thuộc về tầng lớp người quân tử.
Quan điểm của Nho gia, người quân tử trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu
thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận "hành đạo". Tức là
phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức
cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ) hay nói tóm gọn lại người quân
tử thể hiện qua 9 chữ : “Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ”.
1.2 Lão Tử - Triết học Đạo gia
Về quan điểm trị quốc của Lão Tử là người đại diện cho tư tưởng triết học
Đạo gia cho rằng chính phủ yên tĩnh vô vi (là sống và hành động theo lẽ tự
nhiên) thì dân sẽ biến thành chất phác, chính phủ tích cực làm việc thì dân đầy tai
họa. Lão Tử cho rằng, con người chỉ khi nào từ bỏ được thói tư lợi thì mới nhận
thấy đạo; và chỉ khi nhận thấy đạo mới có thể vô vi được. Lão Tử phản đối mọi
chủ trương hữu vi, vì ông cho rằng hữu vi chỉ làm xáo trộn trật tự tự nhiên vốn
mang tính điều hoà, làm mất bản tính tự nhiên của con người, dẫn đến sự xa lánh
và làm mất đạo.
Từ thuyết vô vi, Lão Tử đã rút ra nghệ thuật sống dành cho con người là từ ái,
cần kiệm, khiêm nhường, khoan dung. Ở đây ý nghĩa sâu xa của tư tưởng này là
những người cai trị đất nước, những người có quyền chức trong xã hội phải bỏ
được tư lợi cá nhân khi đó họ mới trở thành những người thật sự mang lại hạnh
phúc cho người dân, cho xã hội và cho đất nước.
1.3 Mặc tử - Triết học Mặc gia
Quan điểm trị quốc của Mặc Tử thì ông nhấn mạnh đến pháp thuật chính trị
cần thiết để an bang tế thế. Bất cứ chính sách hay phương pháp nào cũng phải
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 16

Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
giúp cho nhân loại thăng tiến. Người quản thống quốc sự nên dựa trên căn bản
hữu dụng (thực lợi) để đánh giá tất cả các chính sách; nếu việc có lợi cho nhân
dân thì nên làm, nhưng nếu không có lợi cho nhân dân thì không làm. Lãnh tụ
quốc gia khi đánh giá cái 'dụng' của sự việc cũng không nên quên đi 'nghĩa'. Theo
Mặc Tử thì muôn việc không việc gì quý bằng nghĩa.
Khuôn phép cho việc quốc trị trong nhãn quan của Mặc Tử là hành xử theo
minh ý của trời, phải biết thương dân chứ không phải tin vào bói toán một cách
mù quáng. Lãnh tụ quốc gia không thể ích kỷ để chỉ lo tư lợi mà phải tận tình
chăm lo cho đời sống của dân, giúp dân đạt được sung túc và hạnh phúc, tuyệt
đối không ra vẻ hách dịch để ức hiếp dân.
Trong lãnh vực quốc trị, Mặc Tử chủ trương lãnh đạo quốc gia phải biết trọng
dụng nhân tài bất kể là họ có liên hệ gia tộc hay đảng phái hay không, đưa ra
quan niệm bình đẳng hóa xã hội, phản đối hệ thống phân chia giai cấp đương thời
và đả kích tệ nạn bám víu vào quyền lực chính trị của thành phần quý tộc qua
cách bổ nhiệm thân nhân - thay vì người tài đức - vào các trách vụ quan trọng.
Về lãnh vực tài chánh, Mặc Tử chủ trương chính sách tiết kiệm, đòi hỏi lãnh
đạo quốc gia phải biết giới hạn những chi tiêu xa hoa có tính cách khoe khoang
nhưng không đem lại ích lợi gì cho nhân dân hay quốc.
1.4 Hàn Phi Tử - Triết học Pháp gia
Quan điểm trị quốc của tư tưởng triết học Pháp gia mà đại diện xuất sắc là
Hàn Phi Tử cho rằng : Người cai trị đất nước phải coi trọng 3 yếu tố là : Thế,
Thuật và Pháp. Thế là quyền thế là tầm quan trọng, là mức độ ảnh hưởng và là
công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh, còn "Thuật" là nghệ thuật, là phương
pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị và Pháp là thể chế quốc
gia, là chính sách xã hội của đất nước hay còn là các luật lệ, nguyên tắc của đất
nước. Đối với người cai trị đất nước mà có được cả 3 yếu tố trên thì sẽ là công cụ
của bậc đế vương. Tư tưởng chủ đạo của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải
lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu,
nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được.

SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 17
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần Thủy Hoàng vận dụng, kết
quả đã đưa nước Tần đến thành công trong việc thống nhất được đất nước Trung
Quốc sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
2. Quan điểm trị quốc của các nhà triết học cổ đại Hy Lạp
2.1 Quan điểm của Đêmocrit
Quan điểm của Đêmôrít là đại diện cho giai cấp dân tộc chủ nô, ủng hộ việc
thành lập nhà nước dân chủ (quyền lực của nhân dân) và coi nó là hình thức cai
trị ưu việt lúc bấy giờ. “Chế độ nhà nước của chúng ta là chế độ dân chủ, vì nó
được xây dựng không trên thiểu số, mà trên đa số các công dân tự do”. Lao động
nô lệ (chiếm phần đông dân số) được sử dụng như lực lượng sản xuất chủ yếu
trong tất cả các ngành, nhưng lại bị coi thường và bị đối xử bất công, cuộc sống
thấp hèn. Theo Đêmốcrít, chế độ dân chủ chủ nô phải gắn liền với nền thương
mại và sản xuất thủ công, nhưng nó cũng phải gắn liền với tình thân ái, tính ôn
hoà, lợi ích chung và quyền lợi chung của công dân tự do, chứ không phải của nô
lệ. Quản lý nhà nước phải coi như một nghệ thuật mang lại cho con người hạnh
phúc, vinh quang, tự do và dân chủ. Ông cho rằng sự nghèo khó trong nhà nước
dân chủ còn đáng quý hơn cái mà người ta gọi là cuộc sống hạnh phúc trong chế
độ quân chủ, bởi sự tự do vẫn tốt hơn nô lệ.
2.2 Quan điểm của Platon
Quan điểm trị quốc của Platon thể hiện qua tư tưởng của mô hình “Quốc gia
lí tưởng” mà ông đã dày công gầy dựng suốt cả cuộc đời. Trong mô hình quốc
gia lí tưởng ấy ta thấy nó thể hiện đầy đủ tất cả các vấn đề của đời sống mà xã
hội chúng ta ngày hôm nay vẫn còn đang băn khoăn suy nghĩ. Đó là một quốc gia
trong đó mọi người luôn được sống êm đềm hạnh phúc, đầy đủ và thoả mãn với
những gì mà họ đã tạo ra.
Xã hội trong quốc gia lí tưởng của Platon được phân chia thành ba giai cấp rõ
rệt tương ứng với từng bản tính và chức năng của mỗi giai cấp: giai cấp lãnh đạo
tức là những triết gia trí thức, hai là giai cấp chiến binh tức là những người tham

gia vào quan đội cảnh sát và ba là giai cấp thương nhân tức là những người buôn
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 18
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
bán và sản xuất lương thực. Quốc gia lí tưởng của Platon là một quốc gia cộng
sản triệt để trong đó, tất cả mọi cái đều được gom vào thành của chung. Tất cả lợi
ích là vì xã hội, nhà nước. Người lãnh đạo lý tưởng tất nhiên không ai khác hơn
là giai cấp quý tộc nhưng những người quý tộc này không được sở hữu bất cứ tài
sản nào, kể cả vợ con riêng, sự sở hữu kinh tế nông nghiệp cũng không được có
sự quá chênh lệch giữa mọi người.
Về quan hệ xã hội thì mọi người đều phải có những vai trò và nhiệm vụ riêng
theo từng giai cấp đã được phân chia. Làm đúng theo nhiệm vụ ấy là bảo vệ và
xây dựng đời sống hạnh phúc. Mọi người đều phải được học hành, không có
chiến tranh, kể cả ngoại chiến lẫn nội chiến; các quan chức lãnh đạo phải là
những triết gia vì những người như họ mới đủ khả năng sáng suốt lãnh đạo, họ
không được tham nhũng vơ vét của cải của dân. Những của cải của người dân
làm ra phải được phân chia một cách đồng đều để không ai quá giàu hoặc quá
nghèo. Ông chủ trương một nhà nước lí tưởng cần phải có địa hình nằm sâu vào
trong đất liền để tránh giao thương buôn bán mà chỉ phát triển về nông, thủ công
nghiệp là đủ.
3. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa tư tưởng trị quốc của các
nhà triết học cổ đại Trung quốc và Hy Lạp:
 Những quan điểm tương đồng:
 Các tư tưởng đều muốn xây dựng một xã hội có sự phân biệt đẳng cấp
 Trong cách cai trị đất nước phải sử dụng kết hợp với pháp luật
 Người cai trị nhà nước phải là người có tri thức
 Trong xã hội phải xóa bỏ sở hữu tư nhân
 Nhà quản lý nhà nước phải có trách nhiệm mang lại hạnh phúc, no đủ
cho dân
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 19
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

 Những quan điểm khác nhau
Nền triết học
Nội dung
Quan điểm của các triết
học cổ đại Trung Quốc
Quan điểm của các triết
học cổ đại Hy Lạp
Quan điểm về nhà
nước
Nhà nước là của giai cấp
quý tộc, giai cấp địa chủ
phong kiến
Nhà nước là của giai cấp
chủ nô
Quan điểm về giai cấp
Xem trọng, đề cao mọi
tầng lớp trong xã hội
Chỉ xem trọng và quan tâm
đến giai cấp chủ nô, đối
với giai cấp nô lệ thì họ
không xem như là con
người
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 20
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG IV: ẢNH HƯỞNG TỪ NHỮNG TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC XÂY DỰNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC Ở VIỆT NAM
1. Những ảnh hưởng từ những tư tưởng trị quốc của các nhà triết học cổ
đại Trung Quốc đối với công cuộc xây dựng XHCN và phát triển đất
nước ở Việt Nam hiện nay.

1.1 Nho Gia
Nói đến sự ảnh hưởng của Nho gia ở Việt Nam, mọi người không khó để
nhận ra và người đại diện cho sự ảnh hưởng tư tưởng trị quốc của Nho gia này,
không ai khác chính là tư tưởng trị quốc của Nguyễn Ái Quốc.
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất hạ màn thì một ngôi sao mới bắt đầu mọc
lên ở chân trời Việt Nam - Nguyễn Ái Quốc xuất hiện. Người xuất thân từ một
gia đình Nho giáo khoa bảng, từ một tỉnh Nho học truyền thống. Suốt thời đại Hồ
Chí Minh, trên nước Việt Nam, tất nhiên có nhiều cuộc phê bình Nho giáo, đã
thêm rõ phần tiêu cực phải bỏ đi và phần tích cực cần trọng dụng, nhưng ở đây
chưa hề xảy ra một cuộc vận động nào bài Nho, đả Khổng cả. Trong vấn đề kế
thừa văn hoá truyền thống (mà cốt lõi là tư tưởng Nho học), một lần nữa Hồ Chí
Minh lại nêu cho dân tộc mình một tấm gương sáng chói về quan niệm lịch sử,
về cách đánh giá người xưa. Với tư tưởng trọng nam khinh nữ, tư tưởng coi
khinh lao động chân tay, bệnh danh lợi địa vị… phải triệt để phê phán. Trong
suốt 60 năm hoạt động cách mạng phong phú và sôi nổi của mình, Hồ Chí Minh
đã hàng trăm lần vận dụng các mệnh đề tư tưởng Nho gia. Trong cách trị quốc
của mình Người đã dùng ba mệnh đề bất hủ của Nho giáo nói về tiêu chuẩn của
người quân tử là “Giàu sang không thể quyến rũ, Nghèo khó không thể chuyển
lay, Uy lực không thể khuất phục” để khái quát phẩm chất của người cộng sản
Việt Nam (Chính Người là kết tinh đẹp đẽ nhất, trong sáng nhất của phẩm chất
ấy)
(1)
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 21
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Trong thời đại nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, mở cửa giao lưu
hợp tác quốc tế, nếu nhận thức đúng đắn về những mặt tích cực của Nho giáo sẽ
là một yếu tố hết sức có ích cho sự phát triển đi lên của đất nước.
Trong công cuộc xây dựng đất nước và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
của chúng ta. Chúng ta cũng coi “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi
dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng trong giáo dục nếp sống và hình

thành nhân cách”. Vì thế, Đảng ta đòi hỏi các chính sách của nhà nước phải chú
ý tới xây dựng gia đình no ấm, hoà thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ
gia đình đối với mọi lớp người. Với tính cách tế bào xã hội, vườn ươm các nhân
tài của đất nước, nơi nuôi dưỡng những công dân mới cho tương lai, gia đình có
vai trò quan trọng trong việc xây dựng thành công nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự tốt xấu của mỗi gia đình đều có ảnh hưởng tới
sự ổn định của xã hội, tới sự chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá sang nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta đang tiến hành.
1.2 Đạo gia
Quan điểm của Lão Tử cho rằng, con người chỉ khi nào từ bỏ được thói tư lợi
thì mới nhận thấy đạo. Từ thuyết vô vi, Lão Tử đã rút ra nghệ thuật sống dành
cho con người là từ ái, cần kiệm, khiêm nhường, khoan dung. Ở đây ý nghĩa sâu
xa của tư tưởng này là những người cai trị đất nước, những người có ảnh quyền
chức trong xã hội phải bỏ được tư lợi cá nhân khi đó họ mới trở thành những
người thật sự mang lại hạnh phúc cho người dân, cho xã hội và cho đất nước.
Đối với những tư tưởng của Lão Tử nêu trên, là những tư tưởng chưa bao giờ
là cũ đối với xã hội Việt Nam. Nhất là trong thời đại phát triển xã hội như hiện
nay, đòi hỏi người lãnh đạo đất nước, lãnh đạo tổ chức phải cần kiệm, khiêm
nhường và khoan dung. Điều này thể hiện rất rõ và chúng ta có thể thấy rất nhiều
trong những điều Bác Hồ dạy. Như trong 5 điều Bác Hồ dạy đối với tất cả đồng
bào, nhân dân chúng ta, trong điều số 5 Bác nói phải “Khiêm tốn, thật thà, dũng
cảm”. Hoặc ngay trong điều đầu tiên của Sáu điều Bác Hồ dạy, Bác cũng nói
“Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính”…
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 22
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Đối với việc lãnh đạo đảng và xây dựng CNXH thì những tư tưởng Đạo gia,
một lần nữa càng được Hồ Chí Minh vận dụng triệt để.
Trước khi về cõi vĩnh hằng, Bác Hồ đã dặn lại rằng: "Đảng ta là một Đảng
cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật

trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân".
Bác Hồ, lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam
Bác dặn “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự”, vì “thật sự” đối lập với giả
dối; “thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư” - đó là sứ mệnh cao cả của
Đảng cầm quyền. Và khi đã có những đức đó thì Đảng sẽ mạnh, Đảng sẽ trong
sạch, Đảng sẽ có được lòng tin của nhân dân.
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời.
Thiếu một phương thì không thành đất.
Thiếu một đức, thì không thành người”
(2)
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 23
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Qua những tư tưởng của Hồ Chí Minh, ta nhận thấy Bác thấm nhuần những
tư tưởng trị quốc của Đạo gia và vận dụng nó rất cụ thể, rất nhuần nhuyễn và tinh
tế. Lão Tử cho rằng con người phải từ ái, liêm khiết, nhường nhịn, khoan dung.
Đối với người cai trị đất nước phải tránh xa tư lợi. Còn Hồ Chí Minh thì nói
“Con người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính”. Đặc biệt đối với xã hội chúng
ta ngày nay, người lãnh đạo phải biết tránh xa những tư lợi, những tham ô tham
nhũng, những thói làm việc vô trách nhiệm, chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân mà
quên đi lợi ích chung của dân, của đất nước. Nếu không không làm được như thế,
thì xã hội chúng ta sẽ rất nguy hiểm, không thể phát triển và khó khăn cho công
cuộc đổi mới và xây dựng đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
1.3 Mặc gia
Trong các quan điểm trị quốc của Mặc Tử có 3 nội dung chủ yếu: Một là chủ
trương của ông đối với lãnh đạo quốc gia phải biết trọng dụng nhân tài, hai là
bình đẳng hóa xã hội, phản đối hệ thống phân chia giai cấp và cuối cùng là chủ

trương chính sách tiết kiệm, đòi hỏi lãnh đạo quốc gia phải biết giới hạn những
chi tiêu xa hoa, có tính cách khoe khoang nhưng không đem lại ích lợi gì cho
nhân dân hay quốc.
Trong ba quan điểm chính của Mặc Tử như đã nêu trên, hiện nay Việt Nam
chúng ta đã và đang vận dụng rất chặt chẽ, có ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội
chúng ta. Cụ thể, về quan điểm trọng dụng nhân tài để lãnh đạo đất nước. Thời
gian qua, Đảng và Nhà nước chúng ta đã xây dựng hàng loạt cách chính sách
nhằm thu hút các nhân tài từ mọi nơi trên thế giới, mang những kiến thức, sức trẻ
và kinh nghiệm về phục vụ quê hương đất nước.
Về mặt bình đẳng hóa xã hội, phản đối phân chia giai cấp. Đối với mặt này,
chúng ta đã thực hiện khá tốt, chúng ta hiện nay không có sự phân chia giai cấp.
Về mặt xã hội, Chính phủ đang đẩy mạnh các chính sách nhằm giảm bớt khoảng
cách giàu nghèo cũng như các chính sách bình đẳng xã hội.
Quan điểm chủ trương chính sách tiết kiệm, đặc biệt đòi hỏi ở nhà lãnh đạo
quốc gia phải cắt giảm chi tiêu hoang phí không cần thiết. Mặc dù Việt Nam
đang trong giai đoạn phát triển và trở thành quốc gia đang phát triển, tuy nhiên,
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 24
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
đất nước chúng ta còn nghèo, tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Nền kinh tế chủ yếu phụ
thuộc nào nông nghiệp. Và còn là một nước thường gặp nhiều thiên tai, lũ lụt…
Chính vì thế, rất cần các chính sách chủ trương tiết kiệm, đặc biệt đối với cấp
lãnh đạo quốc gia. Đòi hỏi các chính sách chi tiêu phải thật sự mang lại hiệu quả
cho đất nước và mang lại phúc lợi cho xã hội, trách những lãng phí, xa hoa và tư
lợi cá nhân.
1.4 Pháp gia
Trong phép trị nước, Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố
Thế, Thuật, và Pháp. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách
rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung trong
chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo
nên sức mạnh, còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung

chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương. Trong cách trị quốc
của các tư tưởng triết học cổ đại Trung Quốc, Pháp gia là một tư tưởng có đóng
góp to lớn cho sự phát triển của tư tưởng Trung Quốc cổ đại và nhất là cho sự
nghiệp thống nhất đất nước Trung Hoa lúc bấy giờ. Cần phải khẳng định rằng
trong bối cảnh xã hội Trung Hoa cuối thời Chiến quốc, tư tưởng chính trị của
pháp gia mà tiêu biểu nhất là Hàn Phi Tử có nhiều yếu tố tích cực đáp ứng được
yêu cầu phát triển của lịch sử. Tư tưởng Pháp gia vẫn còn nhiều yếu tố có giá trị
có thể vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay.
2. Những ảnh hưởng từ những tư tưởng trị quốc của các nhà triết học cổ
đại Hy Lạp đối với công cuộc xây dựng XHCN và phát triển đất nước
ở Việt Nam hiện nay.
2.1 Quan điểm của Đêmocrit
Ông cho rằng sự nghèo khó trong nhà nước dân chủ còn đáng quý hơn cái mà
người ta gọi là cuộc sống hạnh phúc trong chế độ quân chủ, bởi sự tự do vẫn tốt
hơn nô lệ. Có thể nói quan điểm trị quốc của Đêmốcrít mang nặng về mặt đấu
tranh giai cấp. Trong xã hội của Việt Nam hiện nay không còn có sự phân biệt
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 25
Tiểu luận: Triết học (Đề tài số 13) GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
giai cấp. Chính vì thế các tư tưởng này không có sự ảnh hưởng rõ rệt đối với xã
hội chúng ta. Tuy nhiên, trong thực tế trong xã hội vẫn luôn tồn tại sự phân chia
giai cấp và đấu tranh giai cấp. Giai cấp có thể nhận thấy bằng hình thức này, hình
thức kia, chúng biến đổi và tồn tại ở nhiều dạng khác nhau. Ví dụ: tầng lớp lao
động chân tay, những người làm thuê làm mướn đối lập với những người chủ,
những người hoạt động trong lĩnh vực trí óc. Đó cũng có thể coi như là một hình
thức tồn tại và phân biệt giai cấp. Vì vậy, những tư tưởng trị quốc của Đêmốcrít
phải được luôn xem trọng và cần thiết đối với việc xây dựng và củng cố xã hội
chúng ta hiện nay. Ông cho rằng sự nghèo khó trong nhà nước dân chủ còn đáng
quý hơn cái mà người ta gọi là cuộc sống hạnh phúc trong chế độ quân chủ, bởi
sự tự do vẫn tốt hơn nô lệ.

2.2 Quan điểm của Platon
Quan niệm về một quốc gia lý tưởng của Platon được coi như là một cái đích
mà mọi người dân hướng tới. Đối với xã hội Việt Nam cũng không ngoại lệ, mọi
người luôn luôn mơ ước được sống êm đềm hạnh phúc, đầy đủ và thoả mãn với
những gì mà họ đã tạo ra. Tuy nhiên bên cạnh những quan điểm tích cực thì
Platon cũng có những quan điểm mà ngày nay không còn giá trị để áp dụng. Nếu
cố gắng vận dụng những tư tưởng không khéo thì sẽ chuốc lấy những hậu quả
nặng nề. Điều này chúng ta đã từng mắc phải. Trong thời kỳ mới giải phóng,
chúng ta đã từng áp dụng tư tưởng này, cụ thể là một quốc gia cộng sản triệt để
trong đó, tất cả mọi cái đều được gom vào thành của chung. Tất cả lợi ích là vì xã
hội, nhà nước. Tức là hình thức của mô hình hợp tác xã, thời kỳ bao cấp và đây
coi như là giai đoạn khó khăn và sai lầm của chúng ta.
“Cuối cùng, chúng ta phải có những lời khen ngợi với Platon, dẫu ông không
đưa ra được những đường hướng đúng đắn nhất, nhưng không ai đòi hỏi một triết
gia có những kế sách cho mấy ngàn năm cả. Với những ý tưởng của ông trong
một xã hội cổ đại Hy Lạp thì quả thật đáng kính và đáng phục rồi. Có lẽ nếu ông
sống vào thời đại ngày nay thì không những chỉ có bấy nhiêu vấn đề và tư tưởng
và biết đâu “quốc gia lí tưởng” của ông sẽ thực hiện thành công? ”
(3)
SVTH : Nguyễn Thanh Phúc – Nhóm 5 – Đêm 1 – K20 Trang 26

×