Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

TIỂU LUẬN THUYẾT ÂM DƯƠNG - NGŨ HÀNH VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA HỌC THUYẾT ĐỐI VỚI NỀN Y HỌC CỦA PHƯƠNG ĐÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.93 KB, 40 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
PHÒNG ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC




TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI SỐ 5:


HVTH: ĐẬU CAO SANG
NHÓM: 6
STT: 90
LỚP: K20 – ĐÊM 1
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA





TP.HCM 05/2011
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1


Mục Lục
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 2
I. Thế nào là "Âm dương" 2
II. Thuyết Âm – Dương 2
III. Thế nào là “Ngũ hành” 3


IV. Thuyết Ngũ hành 3
V. Mối quan hệ giữa Âm dương và Ngũ hành 5
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH ĐỐI
VỚI LĨNH VỰC Y HỌC CỦA PHƯƠNG ĐÔNG 6
I. Nguồn gốc Y học Phương Đông 6
II. Sự vận dụng thuyết Âm dương – Ngũ hành vào lĩnh vực y học của người
Phương Đông 6
2.1. Âm dương Ngũ hành và Cơ thể 6
2.2. Âm dương Ngũ hành và Sinh lý 8
2.3. Âm dương Ngũ hành và Bệnh lý 9
2.4. Âm dương Ngũ hành và Chẩn bệnh 10
2.5. Âm dương Ngũ hành và Dược liệu 11
2.6. Âm dương Ngũ hành và Châm Cứu 12
2.7. Âm dương Ngũ hành và Điều trị 13
2.8. Âm dương Ngũ hành và Phòng Bệnh 14
2.9. Điều hòa Âm dương Ngũ hành 14
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1


CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH KẾT HỢP Y HỌC HIỆN ĐẠI VÀ Y HỌC CỔ
TRUYỀN ĐÔNG PHƯƠNG 16
I. Vai trò Phương pháp luận 16
II. Kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại 17
III. Phương pháp luận 19
IV. Phương pháp nghiên cứu khoa học 21
V. Thừa kế phát huy y lý cổ truyền dân tộc 22
PHẦN KẾT LUẬN 25
PHỤ LỤC 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO 35


Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn Đề tài:
Kể từ sau khi xuất hiện tác phẩm “Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn” và với ảnh
hưởng mạnh mẽ của tác phẩm này, thuyết Âm dương - Ngũ hành ngày càng được
các nhà tư tưởng phát triển và vận dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có
lĩnh vực Y học ở Trung Quốc và một số nước phương Đông khác. Y học cổ truyền
phương Đông đã dựa trên cơ sở lý luận thuyết Âm dương - Ngũ hành để phòng trị
bệnh và nâng cao sức khỏe cho con người. Chính vì thế, việc tìm hiểu học thuyết
Âm dương - Ngũ hành là một việc cần thiết để lý giải những đặc trưng của triết học
cũng như nền Y học Phương Đông.
2. Mục tiêu của Đề tài:
Trên cơ sở làm sáng tỏ thuyết Âm dương Ngũ hành của triết học Phương
Đông và ảnh hưởng của nó đối với nền y học, đề tài còn đi sâu nghiên cứu các ứng
dụng thực tế của nó trong việc điều trị và chẩn bệnh hiện nay. Đồng thời làm rõ mô
hình kết hợp y học hiện đại và y học cổ truyền Đông Phương.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Thuyết Âm dương – Ngũ hành và sự ảnh hưởng của nó đến nền y học
Phương Đông. Sự kết hợp y học hiện đại và y học cổ truyền Đông Phương.
4. Phương Pháp Nghiên Cứu:
4.1. Cơ sở phương pháp luận:
Đề tài được triển khai dựa trên nội dung của thuyết Âm dương - Ngũ hành và
giá trị của nền y học Phương Đông và y học hiện đại.
4.2. Các phương pháp cụ thể:
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày đề tài, các phương pháp nghiên cứu
đã được sử dụng như: Phương pháp lịch sử, Phương pháp phân tích tổng hợp,…

5. Kết cấu của đề tài: Gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Ảnh hưởng của Âm dương Ngũ hành đối với Y học
Chương 3: Sự kết hợp y học hiện đại và y học cổ truyền Đông Phương.
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 2

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
I. Thế nào là "Âm dương":
Âm và Dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không gian
cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ cũng như
trong từng tế bào, từng chi tiết. Âm và Dương là hai mặt đối lập, mâu thuẫn thống
nhất, trong Dương có mầm mống của Âm và ngược lại.
Âm là phạm trù đối lập với Dương, phản ánh những yếu tố (sự vật, hiện
tượng, tính chất, quan hệ …) và khuynh hướng như: giống cái, đất, mẹ, vợ, nhu,
thuận, tối, ẩm, phía dưới, bên phải, số chẵn, tĩnh, tiêu cực,…
Dương là phạm trù đối lập với Âm, phản ánh những yếu tố (sự vật, hiện
tượng, tính chất, quan hệ, …) và khuynh hướng như: giống đực, trời, cha, chồng,
cương, cường, sáng, khô, phía trên, bên trái, số lẻ, động, tích cực,…
II. Thuyết Âm – Dương:
Từ thực tế cuộc sống, người Trung Quốc cổ đại cho rằng bản thân vũ trụ cũng
như vạn vật trong nó được tạo thành nhờ vào sự tác động lẫn nhau của hai lực lượng
đối lập nhau là Âm và Dương, và mọi tai họa trong vũ trụ sở dĩ xảy ra cũng là do sự
không điều hòa được hai lực lượng ấy.
Âm và Dương không chỉ phản ánh hai loại lực lượng mà còn phản ánh hai
loại khuynh hướng đối lập, không tách rời nhau, ôm lấy nhau, xoắn vào nhau; vì
vậy, trong Âm có Dương, và trong Dương có Âm. Đó cũng chính là sự thống nhất
giữa cái động và cái tĩnh, trong động có tĩnh và trong tĩnh có động và chúng chỉ khác
ở chỗ, bản tính của Dương là hiếu động, còn bản tính của Âm là hiếu tĩnh. Do thống

nhất, giao cảm với nhau mà Âm và Dương có động, mà động thì sinh ra biến; biến
tới cùng thì hóa để được thông; có thông thì mới tồn vĩnh cửu được. Như vậy, sự
thống nhất và tác động của hai lực lượng, khuynh hướng đối lập Âm và Dương tạo
ra sự sinh thành biến hóa của vận vật; nhưng vạn vật khi biến tới cùng thì quay trở
lại cái ban đầu.
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 3

Âm và Dương tác động chuyển hóa lẫn nhau, Dương cực thì Âm sinh, Dương
tiến thì Âm lùi, Dương thịnh thì Âm suy… và ngược lại.
III. Thế nào là “Ngũ hành”:
Theo thuyết duy vật cổ đại, tất cả mọi vật chất cụ thể được tạo nên trong thế
giới này đều do năm yếu tố ban đầu là “nước, lửa, đất, cây cỏ và kim loại” tức Ngũ
hành “thủy, hỏa, thổ, mộc, kim”.
Ngũ hành tương sinh: thuộc lẽ thiên nhiên, nhờ nước cây xanh mọc lớn lên
(thủy sinh mộc), cây cỏ làm mồi nhen lửa đỏ (mộc sinh hỏa, tro tàn tích lại đất vàng
thêm (hỏa sinh thổ), lòng đất tạo nên kim loại trắng (thổ sinh kim), kim loại vào lò
chảy nước đen (kim sinh thủy).
Ngũ hành tương khắc: lẽ xưa nay rễ cỏ đâm xuyên lớp đất dày (mộc khắc
thổ), đất đắp đê cao ngăn nước lũ (thổ khắc thủy), nước dội nhiều nhanh dập lửa
ngay (thủy khắc hỏa), lửa lò nung chảy đồng sắt thép (hỏa khắc kim), thép cứng rèn
dao chặt cỏ cây (kim khắc mộc).
IV. Thuyết Ngũ hành:
Học thuyết Ngũ hành chủ yếu nói về mối quan hệ phức tạp thể hiện ở quy
luật sinh - khắc - chế - hoá và bổ sung cho thuyết Âm Dương hoàn bị hơn.
Tinh thần cơ bản của thuyết Ngũ hành bao gồm hai phương diện giúp đỡ
nhau gọi là tương sinh và chống lại nhau gọi là tương khắc. Trên cơ sở sinh và khắc
kết hợp với hiện tượng chế hoá, tương thừa, tương vũ nhằm biểu thị mọi sự biến hoá
phức tạp của sự vật.

Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để sinh trưởng, đem
Ngũ hành liên hệ với nhau thì thấy 5 hành có quan hệ xúc tiến lẫn nhau, nương tựa
lẫn nhau.
Mộc sinh Hoả = Can sinh Tâm
Hoả sinh Thổ = Tâm sinh Tỳ
Thổ sinh Kim = Tỳ sinh Phế
Kim sinh Thuỷ = Phế sinh Thận
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 4

Thuỷ sinh Mộc = Thận sinh Can.
Trong luật tương sinh của Ngũ hành còn hàm ý là hành nào cũng có quan hệ
về hai phương diện: Cái sinh ra nó và cái nó sinh ra, tức là quan hệ mẫu tử. Trong
quan hệ tương sinh lại có quan hệ tương khắc để biều hiện cái ý thăng bằng, giữ gìn
lẫn nhau.
Luật tương khắc:
Mộc khắc Thổ = Can khắc Tỳ
Thổ khắc Thuỷ = Tỳ khắc Thận
Thuỷ khắc Hoả = Thận khắc Tâm
Hoả khắc Kim = Tâm khắc Phế
Kim khắc Mộc = Phế khắc Can
Tương khắc có nghĩa là ức chế và thắng nhau. Trong tình trạng bình thường
sự tương khắc có tác dụng duy trì sự thăng bằng, nhưng nếu tương khắc thái quá thì
làm cho sự biến hoá trở lại khác thường. Trong tương khắc, mỗi hành cũng lại có hai
quan hệ: giữa cái thắng nó và cái nó thắng. Hiện tượng tương khắc không tồn tại đơn
độc; trong tương khắc đã có ngụ ý tương sinh, do đó vạn vật tồn tại và phát triển.
Luật chế hóa: Chế hoá là chế ức và sinh hoá phối hợp với nhau. Chế hoá bao
gồm cả hiện tượng tương sinh và tương khắc. Hai hiện tượng này gắn liền với nhau
nhằm biểu thị sự cân bằng trong vạn vật; nhưng nếu có hiện tượng sinh khắc thái

quá hoặc không đủ thì sẽ xảy ra sự biến hoá khác thường. Quy luật chế hoá Ngũ
hành là:
− Mộc khắc thổ, thổ sinh kim, kim khắc mộc.
− Hỏa khắc kim, kim sinh thủy, thủy khắc hỏa.
− Thổ khắc thủy, thủy sinh mộc, mộc khắc thổ.
− Kim khắc mộc, mộc sinh hỏa, hỏa khắc kim.
− Thủy khắc hỏa, hỏa sinh thổ, thổ khắc thủy.
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 5

V. Mối quan hệ giữa Âm dương và Ngũ hành:
Thời Chiến quốc, Trâu Diễn đã kết hợp hai học thuyết này để giải thích các
sự vật, sự việc, qua đó giúp lĩnh vực khoa học tự nhiên được phát triển. Cuối thời
Chiến Quốc, đầu thời Tần Hán có hai xu hướng khác nhau bàn về sự kết hợp giữa
thuyết Âm dương và thuyết Ngũ hành.
− Hướng thứ nhất: Đổng Trọng Thư kết hợp Âm dương, Ngũ hành giữa
con người và tự nhiên có một mối quan hệ thần bí.
− Hướng thứ hai: Tác phẩm "Hoàng Đế Nội kinh" đã sử dụng triết học
Âm dương Ngũ hành làm hệ thống lý luận của y học.
Từ đó, các nhà y học phương Đông đã vận dụng hai học thuyết này như một
lý luận cơ bản cho nền y học phương Đông. Các nhà y học phương Đông cho rằng:
“Cơ thể con người có rất nhiều bộ phận (tạng phủ kinh lạc ), mỗi bộ phận đều có
Dương và Âm được phân loại vào Ngũ hành, cho nên chỉ dùng riêng một học thuyết
để giải thích và phân tích vấn đề của con người có lúc sẽ không được toàn diện. Chỉ
khi nào kết hợp cả hai học thuyết thì mới có thể thu được kết quả đầy đủ. Như Ngũ
tạng, Lục phủ thì tạng là âm, phủ là dương, muốn giải thích sự phát triển của tạng
(phủ) thì dùng học thuyết Âm dương để thuyết minh. Nếu nói về quan hệ sinh lý
bệnh lý giữa tạng phủ thì dùng học thuyết Ngũ hành để thuyết minh vì giữa ngũ tạng
có quan hệ tương sinh tương khắc, hợp lại là quy luật chế hoá, tương thừa tương

vũ”.
(1)

Vì thế, Y học phương Đông cũng như các lĩnh vực khác đều phải theo Âm
dương để phân rõ Ngũ hành và theo Ngũ hành để phân biệt Âm dương. Họ đã vận
dụng kết hợp cả Âm dương, Ngũ hành khi bàn đến thực tế lâm sàng mới có thể phân
tích sâu sắc kỹ càng hơn về những vấn đề trong Y học và các lĩnh vực khác. Có thể
thấy trên cơ bản Âm dương hợp với Ngũ hành thành một khâu hoàn chỉnh, giữa Âm
dương với Ngũ hành có mối quan hệ không thể tách rời nhau.
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 6

Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ
HÀNH ĐỐI VỚI LĨNH VỰC Y HỌC CỦA PHƯƠNG ĐÔNG
I. Nguồn gốc Y học Phương Đông:
Đông y bắt nguồn từ lưu vực sông Hoàng Hà Trung Quốc, hình thành hệ
thống học thuật về nhận thức lý luận trong nền y học phương Đông: Âm dương, Ngũ
hành. Âm dương, Ngũ hành cân bằng thì cơ thể khỏe mạnh, việc chữa bệnh nhằm
lập lại trạng thái cân bằng của các yếu tố đó. Các nhà y học phương Đông dựa vào
hai học thuyết Âm dương và Ngũ hành đã dưa ra 3 học thuyết sau:
− Học thuyết vận khí lại được gọi là ngũ vận (mộc vận, hỏa vận, thổ vận,
kim vận, và thủy vận) lục khí (phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa), là học thuyết nghiên
cứu và tìm hiểu ảnh hưởng của biến đổi về thiên văn, khí tượng, khí hậu của giới tự
nhiên đối với sức khoẻ và bệnh tật của cơ thể. Học thuyết này là lịch pháp thiên văn
tính ra biến đổi khí hậu trong năm và quy luật xảy ra bệnh tật.
− Học thuyết tượng tạng, chủ yếu nghiên cứu về công năng sinh lý và biến
đổi bệnh lý của ngũ tạng (tâm, can, tì, phế, thận), lục phủ (ruột non, ruột già, dạ dày,
bàng quang, túi mật, tam tiêu) và (não, tủy, xương, mạch, mật, nữ tử bao).
− Học thuyết kinh lạc có liên quan chặt chẽ với học thuyết tượng tạng. Kinh

lạc là đường qua lại vận hành khí huyết trong cơ thể, có tác dụng nối liền bên trong
và bên ngoài, che phủ toàn thân. Dưới tình hình bệnh lý, công năng hệ thống kinh
lạc xảy ra biển đổi, sẽ xuất hiện triệu chứng bệnh và đặc trưng cơ thể tương ứng.
Thông qua những biểu hiện này, có thể chẩn đoán bệnh tật tạng phủ trong cơ thể.
II. Sự vận dụng thuyết Âm dương – Ngũ hành vào lĩnh vực y học của người
Phương Đông:
2.1. Âm dương Ngũ hành và Cơ thể:
2.1.1. Âm dương và cơ thể:
a. Trên là Âm, dưới là Dương:
Theo cách phân chia này thì đầu là “Âm” và chân là “Dương”.
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 7

Người khỏe mạnh, trên mát (âm), dưới ấm (dương), tức Thủy giao xuống
dưới, Hỏa giao lên trên, gọi là Thủy hỏa ký tế.
Ngược lại, khi bị bệnh thì trên nóng (dương) dưới lạnh (âm), tức là Thủy hỏa
không tương giao với nhau gọi là Thủy hỏa vị tế.
b. Bên trái là Dương, bên phải là Âm:
Theo các nhà nghiên cứu, khi chuyển động trái đất tạo nên một dòng điện gọi
là địa từ lực lôi cuốn mọi vật - địa từ lực này mang đặc tính âm. Lực của trái đất là
Âm, do đó sẽ hút lực Dương, vì thế có thể coi như chân trái mang đặc tính Dương.
Điều này rất có giá trị trong việc điều trị bằng châm cứu khi phải chọn huyệt để
châm.
c. Trong (Bụng, Ngực) là Âm, Ngoài (Lưng) là Dương:
“Thiên Ngũ Tạng Sinh Thành Luận” ghi: "Phù ngôn chi Âm dương, Nội vi
Âm, ngoại vi Dương, Phúc vi Âm, Bối vi Dương" (Nói về Âm dương, trong thuộc
Âm, ngoài thuộc Dương, bụng thuộc Âm, lưng thuộc Dương).
d. Âm dương và Tạng Phủ
(2)

:
“Thiên Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận" ghi: "Lục phủ giai vi dương, Ngũ
tạng giai vi âm" (Lục phủ thuộc dương, Ngũ tạng thuộc âm). Như thế Tâm, Can, Tỳ,
Phế, Thận thuộc Âm, còn Tiểu Trường, Đởm, Vị, Đại Trường, Bàng quang, Tam
Tiêu thuộc Dương. Tâm Bào, được coi như một tạng mới, nên thuộc âm.
2.1.2. Ngũ hành và Tạng phủ:
Nếu đem đồ hình Thái cực áp dụng vào khuôn mặt và nhìn từ sau ra trước ta
thấy:
− Trán thuộc Tâm.
− Cằm thuộc Thận.
− Má bên trái thuộc Can.
− Má bên phải thuộc Phế.
− Mũi thuộc Tỳ (trung ương).
Nếu xếp đồ hình dọc theo cơ thể con người ta thấy:
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 8

− Từ ngực trở lên thuộc Tâm.
− Từ thắt lưng xuống thuộc Thận.
− Nửa bên trái thuộc Can.
− Nửa bên phải thuộc Phế.
− Bụng thuộc Tỳ.
2.2. Âm dương Ngũ hành và Sinh lý:
2.2.1. Âm dương và Sinh lý:
Sự thay đổi của Âm khí và Dương khí trong cơ thể con người sẽ gây ra những
chuyển biến về mặt tâm, sinh lý của con người và tình trạng sức khỏe của con người
sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất vào thời điểm giao mùa, đặc biệt là những người mang
sẵn bệnh tật trong cơ thể trở nên yếu ớt hơn, bệnh dễ phát tán hơn.
2.2.2. Ngũ hành và Sinh lý:

Ứng dụng Ngũ hành vào mặt sinh lý con người là đem ngũ tạng sánh với Ngũ
hành, dựa vào đặc tính sinh lý của ngũ tạng để tìm ra sự liên hệ với Ngũ hành.
Can và Hành mộc: tính của cây gỗ thì cứng cỏi giống như chức năng của
Can là một vị tướng, vì thế dùng hành Mộc ví với can.
Tâm và Hành hỏa: Lửa cháy thì bốc lên, giống như Tâm bốc lên mặt và
lưỡi, vì thế dùng hành Hỏa ví với Tâm.
Tỳ và Hành thổ: Đất là mẹ đẻ của muôn vật giống là con người sinh tồn
được là nhờ vào các chất dinh dưỡng do Tỳ vị cung cấp, vì thế dùng Hành thổ ví với
Tỳ.
Phế và Hành kim: Kim loại thường phát ra âm thanh giống như con người
phát ra tiếng nói nhờ Phế, vì thế dùng hành Kim ví với Phế.
Thận và Hành thủy: Nước có tác dụng đi xuống, thấm nhuần mọi chỗ,
giống như nước uống vào thì một phần thấm vào cơ thể, phần còn lại theo đường
tiểu bài tiết ra ngoài, vì vậy đem hành Thủy ví với Thận.
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 9

2.3. Âm dương Ngũ hành và Bệnh lý:
2.3.1. Âm dương và Bệnh lý:
a. Quá trình phát sinh bệnh:
Mỗi hiện tượng đều có 2 mặt: một Dương (hưng phấn) và một Âm (ức chế).
Nếu một trong hai tác động trên mạnh hoặc suy kém khác thường làm cho mất trạng
thái quân bình, Âm dương sẽ dẫn tới tình trạng bệnh lý gọi là thiên suy hoặc thiên
thắng (Xem hình 4, phụ lục 7)
− Thiên Thắng: Dương thắng quá, gây chứng nhiệt (sốt, tiểu đỏ ). Âm thắng
gây chứng hàn (lạnh, tiêu chảy ).
− Thiên Suy: Dương hư (lão suy, hưng phấn, thần kinh giảm ). Âm hư (mất
nước, ức chế thần kinh giảm ).
Tuy nhiên, nếu Âm suy quá thì Âm bị bệnh sinh ra chứng nội nhiệt, gọi là

Âm hư sinh nội nhiệt. Nếu Dương suy quá thì Dương bị bệnh và sinh ra chứng hàn ở
ngoài, gọi là Dương hư sinh ngoại hàn.
Khi một mặt Âm hay Dương ngày càng thịnh và không ngừng phát triển về
một phía đối lập, bệnh sẽ diễn biến theo hướng: Nhiệt quá hóa Hàn (nhiệt cực sinh
hàn) như sốt cao kéo dài gây mất nước Hoặc Hàn quá hóa nhiệt (Hàn cực sinh
nhiệt) như tiêu chảy, nôn mửa kéo dài gây mất nước, điện giải làm nhiễm độc thần
kinh gây sốt.
b. Hư chứng, Thực chứng:
Bệnh tật (sự rối loạn Âm dương) phát sinh ra do nhiều nguyên nhân: Dương
thực, Âm thực (hưng phấn) hoặc Dương hư, Âm hư (ức chế).
Thí dụ: triệu chứng sốt, chứng âm hư Hỏa thượng (Xem phụ lục 1)
c. Âm dương thực giả:
Trên lâm sàng, nhiều hội chứng dễ gây lẫn lộn Âm dương nếu không chẩn bệnh
một cách kỹ lưỡng. Đó được gọi là các hội ch chân giả.
d. Âm Thăng Dương Giáng:
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 10

Huyết thuộc Âm, phải thăng (đi lên), nếu huyết hư không đi lên được phần
trên không được huyết nuôi dưỡng gây chóng mặt, hoa mắt nguyên nhân do âm
hư, cần bổ âm.
Khí thuộc Dương, phải giáng (đi xuống), khí không làm tròn chức năng thay
vì đi xuống lại đi lên gọi là khí nghịch, gây ra chứng hen suyễn, khó thở, nguyên
nhân do khí nghịch, cần điều chỉnh ở khí.
2.3.2. Ngũ hành và Bệnh lý:
Ứng dụng Ngũ hành vào bệnh lý, chủ yếu vận dụng quy luật Sinh Khắc,
Tương Thừa, Tương Vũ, Phản sinh khắc để giải thích các quan hệ bệnh lý khi một
cơ quan, tạng phủ nào đó có sự xáo trộn gây ra mất thăng bằng thái quá (hưng phấn)
hoặc bất cập (ức chế). Ngoài ra, có thể dùng các biểu hiện của Ngũ hành để tìm ra sự

xáo trộn ở các Hành, Tạng phủ, cơ quan.
2.4. Âm dương Ngũ hành và Chẩn bệnh:
Trong điều trị bệnh, việc chuẩn đoán chính xác triệu chứng là yếu tố then
chốt dẫn đến cách chữa bệnh hữu hiệu.
2.4.1. Âm dương và Chẩn bệnh:
Việc chẩn đoán bệnh tật cần phải dựa vào sự biến hoá của Âm dương vì Âm
dương mất điều hoà là gốc của sự biến hoá bệnh lý. Dù dùng cách biện chứng nào
(theo tạng phủ, theo kinh lạc, theo khí huyết tân dịch, theo lục kinh, theo vệ khí dinh
huyết, theo tam tiêu) cũng đều quy về bát cương là biểu, lý, hàn, nhiệt, hư, thực và
Âm dương (tổng cương). Biểu chứng, nhiệt chứng, thực chứng đều thuộc về Dương.
Lý chứng, hàn chứng, hư chứng đều thuộc về Âm. Cho nên bệnh tình tuy thiên biến
vạn hoá song không ra ngoài phạm vi của Âm dương.
2.4.2. Ngũ hành và Chẩn bệnh:
Căn cứ vào các triệu chứng xuất hiện qua Ngũ hành như: Ngũ sắc, Ngũ vị,
Ngũ quan, Ngũ chí để tìm ra tạng phủ tương ứng bệnh.
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 11

Theo y học phương Đông, Ngũ hành gồm 5 yếu tố Kim, Mộc, Thủy, Hỏa,
Thổ gắn liền với 5 cơ quan: trán, mũi, cằm, 2 má và gắn liền với sự vận động đang
xảy ra bên trong cơ thể như: tim, phổi, thậm chí cả trí não và trạng thái tinh thần
− Trán:Trán (nhân tố Hỏa) liên quan mật thiết đến tim, ruột non và yếu tố tinh
thần.
− Mũi:Mũi (nhân tố Thổ) là cơ quan biểu hiện tình trạng sức khỏe của dạ dày,
lá lách và tuyến tụy.
− Cằm: Cằm (nhân tố Thủy) liên quan đến thận và bàng quang, bao gồm cả hệ
thống hormon và các tuyến trên cơ thể.
− Má phải: Má phải (nhân tố Kim) kết nối với phổi và ruột già.
− Má trái: Má trái (nhân tố Mộc) gắn liền với gan, túi mật.

2.5. Âm dương Ngũ hành và Dược liệu:
2.5.1. Âm dương và Dược liệu:
a. Ngũ vị, tứ tính và thuộc tính Âm dương hàn nhiệt của thuốc đông dược:
Ngũ vị là 5 vị: tân (cay), toan (chua), khổ (đắng), cam (ngọt), hàm (mặn),
trong đó: cay, ngọt thuộc Dương; đắng, mặn thuộc vị, có thuộc tính Âm; vị chua vừa
có Dương vừa Âm.
Tứ tính là nói về sự thăng giáng trầm phù, những vị thuốc tỷ trọng nhẹ như
hoa lá cành khi tác dụng trong cơ thể có xu hướng thăng lên trên và phù việt ra ngoài
thuộc dương, những vị thuốc tỷ trọng nặng như thân rế hạt, khoáng vật tác dụng
trong cơ thể có xu hướng trầm giáng xuống và thẩm lợi vào trong thuộc âm.
b. Cách sử dụng thuốc theo học thuyết Âm dương:
Bệnh có bản chất là nhiệt phải dùng thuốc đối lập đó là thuốc có tính hàn và
ngược lại, tùy theo mức độ nhiệt, hàn mà dùng thuốc hàn, nhiệt mạnh hay yếu, liều
ít hay nhiều. Thí dụ cách sử dụng thuốc (xem phục lục 3).
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 12

2.5.2. Ngũ hành và Dược liệu:
Y học cổ truyền dùng Ngũ hành áp dụng vào việc sử dụng thuốc đối với bệnh
tật của tạng phủ trên cơ sở liên quan giữa Vị, Sắc,… đối với tạng phủ, đây là nền
tảng của việc “Quy Kinh”.
Việc áp dụng màu sắc của Ngũ hành vào dược liệu cũng đang được các nước
phương Tây quan tâm đến và áp dụng việc dán nhãn vào các loại thực phẩm căn cứ
theo các giá trị dinh dưỡng.
2.6. Âm dương Ngũ hành và Châm Cứu:
2.6.1. Âm dương và Châm Cứu:
a. Âm dương và Kinh Lạc:
− Theo nguyên tắc thăng giáng:
• Các kinh âm ở tay, đi lên, tức đi từ vùng nách, ngực lên ngón tay (theo

chiều ly tâm). Các kinh Dương ở tay, đi xuống, tức từ các ngón tay đi
vào ngực, nách (theo chiều hướng tâm).
• Các kinh âm ở chân, đi lên, tức từ các ngón chân đi lên đầu mặt (theo
chiều hướng tâm). Các kinh dương ở chân đi xuống, tức từ đầu mặt đi
xuống chân (theo chiều ly tâm).
− Theo nguyên tắc trong ngoài:
Âm trong, Dương ngoài thì các kinh ở phía trong chân, tay thuộc âm (Phế,
Tâm, Tâm bào, Thận, Can, Tỳ) và các kinh ở phía ngoài chân tay thuộc dương (Đại
trường, Tiểu trường, Tam tiêu, Bàng quang, Đởm, Vị). Ngoài ra, bụng thuộc Âm
nên Nhâm mạch thuộc âm, lưng thuộc dương nên Đốc mạch thuộc Dương.
b. Âm dương Và Huyệt:
Để phân biệt huyệt vị theo Âm dương, có thể theo một số nguyên tắc sau:
Bên trái là Dương, bên phải là Âm, do đó các huyệt bên trái mang đặc tính dương
(hưng phấn) gọi là Dương huyệt. Các huyệt bên phải mang đặc tính âm (ức chế) gọi
là âm huyệt. Việc phân biệt âm huyệt, dương huyệt có giá trị rất lớn trong việc chọn
huyệt điều trị cho thích hợp. Thí dụ bệnh Phế (xem phụ lục 4).
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 13

2.6.2. Ngũ hành và Châm cứu:
Các kinh thư cổ đã áp dụng Ngũ hành vào một số huyệt vị nhất định là Tỉnh,
Vinh (Huỳnh), Du, Kinh, Hợp, gọi là Ngũ du huyệt.
Sự sắp xếp thứ tự của Ngũ du không thay đổi nhưng thứ tự của Ngũ hành lại
thay đổi tùy thuộc vào Âm dương của đường kinh. Kinh âm khởi đầu bằng Mộc,
kinh dương bắt đầu bằng Kim, sau đó cứ theo thứ tự tương sinh mà sắp xếp huyệt.
Ngũ Du Tỉnh Vinh (Huỳnh)

Du Kinh Hợp
Kinh Âm Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy

Kinh Dương

Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ
2.7. Âm dương Ngũ hành và Điều trị:
2.7.1 Âm dương và Điều trị:
Điều trị bệnh là lập lại sự quân bình Âm dương bằng nhiều phương pháp
khác nhau, các y sĩ thường dùng châm cứu và cho thuốc uống để chữa bệnh.
− Nguyên tắc chung:
Bệnh do dương thịnh phải làm suy giảm phần dương (Tả dương), bệnh do âm
thịnh phải làm suy giảm phần âm (Tả âm).
− Về thuốc:
• Bệnh về Âm dùng thuốc Dương (ôn, nhiệt) để chữa.
• Bệnh về Dương, dùng thuốc Âm (Hàn, lương) để chữa.
− Về châm cứu:
• Bệnh nhiệt dùng châm, Bệnh hàn dùng cứu.
• Bệnh thuộc Tạng (âm) dùng các Du huyệt ở lưng (dương) để chữa.
• Bệnh thuộc Phủ (dương), dùng các huyệt Mộ ở ngực, bụng (âm) để
chữa.
2.7.2 Ngũ hành và Điều trị:
Trong việc điều trị, cần nắm vững quy luật Sinh Khắc của Ngũ hành thì việc
trị liệu mới đạt được hiệu quả cao.
a. Tương sinh:
Cần nhớ nguyên tắc: "Hư bổ mẫu, Thực tả tử".
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 14

− Hư bổ mẫu: phải nhớ chính xác “cái sinh ra nó” để bổ cho mẹ nó thì mẹ nó
giúp cho nó và như thế nó sẽ lành bệnh.
− Thực Tả Tử là điều trị ở tạng phủ hoặc kinh được “nó sinh ra”.

Thí dụ: Mộc sinh Hỏa thì thay vì tả Mộc lại tả Hỏa. Do đó, trong châm cứu,
thay vì Tả Huyệt Đại Đôn (Mộc huyệt của can) lại Tả huyệt Hành gian (Hỏa
huyệt của Can).
b. Tương khắc:
Dùng quy luật tương khắc để điều chỉnh rối loạn giữa các hành, ví dụ: người
bệnh xuất huyết.
Huyết màu đỏ thuộc Hỏa, có thể dùng những vị thuốc màu đen (hoặc sao
cháy thành than) như Cỏ mực, Trắc bá, để chữa, vì màu đen thuộc Thủy, Thủy
khắc Hỏa.
2.8. Âm dương Ngũ hành và Phòng Bệnh:
2.8.1 Âm dương và Phòng Bệnh:
Dương sinh dương, cơn nóng giận, tức tối sẽ sinh nóng giận tức tối khác,
cần làm âm hóa chúng bằng những tư tưởng và hành động âm như nghĩ đến những
sự yên tĩnh, hoà bình, dùng những lời nói êm dịu, nhẹ nhàng, đến những nơi
thanh tĩnh, yên lặng,
Âm sinh âm, sự chán nản, buồn phiền, sẽ dẫn đến chán nản buồn phiền
khác. Cần làm dương hóa chúng bằng những tư tưởng và hành động dương như hoạt
động tích cực, hăng say, dùng những lời nói quyết đoán phấn khởi,
2.8.2 Ngũ hành và Phòng Bệnh:
Dựa vào Ngũ hành vận khí để biết được đặc điểm của bệnh tật từng năm để
dự phòng.
Dựa vào màu sắc, khí, vị của thức ăn, mà biết bệnh gì nên ăn hoặc kiêng
những gì.
2.9. Điều hòa Âm dương Ngũ hành:
2.9.1 Thế nào là điều hòa Âm dương và Ngũ hành:
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 15

Âm dương đối lập nhưng vận động thống nhất, có mức độ, có trật tự, hợp

thời. Nếu hoạt động của Âm dương không đúng độ, thời điểm, chỗ nương tựa, mất
đi sự điều hòa, dẫn đến Âm dương thất điều (thái âm, thái dương, thiếu âm, thiếu
dương). Biểu tượng của thái cực là do âm ngư và dương ngư kết hợp mà thành, sử
dụng chữ S để chia thành 2 phần, nó biểu thị Âm dương là sự chuyển hóa 2 chiều
mất đi rồi phát triển không ngừng.
Theo học thuyết Ngũ hành, một tạng trong cơ thể có mối quan hệ mật thiết
với 4 tạng còn lại giống như một hành trong Ngũ hành cũng có mối quan hệ mật
thiết với 4 hành còn lại, có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau hay kìm chế lẫn nhau theo qui
luật tương sinh, tương khắc. Đó là hoạt động điều hòa cân bằng trong điều kiện bình
thường.
2.9.2 Vì sao phải điều hòa Âm dương và Ngũ hành:
Cân bằng Âm dương là nền móng của hoạt động sống. Nếu Âm dương cân
bằng, cơ thể con người khỏe mạnh; nếu Âm dương mất cân bằng, cơ thể con người
sinh ra bệnh tật. Chúng ta muốn biết được quá trình phát triển của bệnh, đi sâu vào
nghiên cứu bản chất của bệnh thì phải đi sâu vào nghiên cứu sự biến đổi Âm dương
trong cơ thể. Vận dụng qui luật và hình thức thay đổi vận động đối lập, thống nhất
của Âm dương để có phương pháp chẩn đoán, tìm hiểu, phòng tránh và điều trị
bệnh.
2.9.3 Làm thế nào để duy trì điều hòa Âm dương – Ngũ hành:
Chúng ta có thể cân bằng Âm dương thông qua ẩm thực. Người ta phân loại
thức ăn theo Ngũ hành dựa vào màu sắc (ngũ sắc), mùi vị (ngũ vị) mà suy ra tác
dụng của món ăn đối với cơ thể. Sau đó áp dụng nguyên tắc ăn uống theo qui luật
của Ngũ hành như dùng thức ăn phù hợp với tình hình sức khỏe của mình sao cho
duy trì được thế quân bình (đối với người khỏe) hoặc tái lập mối quan hệ quân bình
của Ngũ hành trong cơ thể (đối với người đau ốm). Tránh tình trạng dùng thái quá
một món ăn nào đó thì có thể hại sức khỏe.
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 16


Chương 3: MÔ HÌNH KẾT HỢP Y HỌC HIỆN ĐẠI VÀ Y
HỌC CỔ TRUYỀN ĐÔNG PHƯƠNG
I. Vai trò Phương pháp luận
Cốt tủy của một nền y học, cái làm cho một nền y học có giá trị độc đáo,
chính là phương pháp luận, là y lý của nó. Thật vậy, như chúng ta đã biết phần
đông những cây thuốc, con thuốc, huyệt vị châm cứu không thuộc riêng của dân
tộc nào, và ngày nay hầu như ai cũng biết dùng. Nhưng mỗi dân tộc, mỗi khoa
học sử dụng chúng một cách khác nhau, và vì cách sử dụng khác nhau đó mà
mỗi nền y học có một sắc thái riêng. Cái sắc thái khác nhau đó chính là ở phương
pháp tư tưởng, ở y lý.
Nếu như có nhiều con đường đi tới La Mã, thì cũng có nhiều con đường đi tới
một mục đích chung của Y học. Nói cách khác, có nhiều cách nhìn, nhiều cách
vận dụng, nhiều phương pháp chẩn đoán và trị liệu khác nhau. Y học cổ truyền
dân tộc vốn đã có phương pháp đặc biệt của mình.
Nhiệm vụ khoa học trong mỗi y học là qua thực tiễn nghiên cứu của mình mà tìm
ra được những qui luật, và vận dụng được những qui luật đó để cải tạo hiện thực.
Do đó, Y lý là phần tinh hoa nhất, là đỉnh cao nhất của mỗi nền y học. Nếu
không có qui luật thì chúng ta mới chỉ có kinh nghiệm rải rác về các sự kiện mà
chưa mang tính chất khoa học, và chỉ khi nào có qui luật thì nền y học mới mang
tính chất khoa học mà thôi.
Ðã có nhiều người có quan điểm "khứ y tồn dược" chỉ chú ý vận dụng các
phương tiện của y học cổ truyền, nhưng không mấy lưu tâm, thậm chí coi thường
quá trình tư duy quyết định những thành công đó. Như vậy là họ chưa thấy được
khía cạnh khoa học trong y học cổ truyền, chưa biết thừa kế cái quí nhất của y
học cổ truyền là phương pháp luận, là y lý của người xưa, cái mà từ đó nẩy sinh
ra biết bao thắng lợi của nền y học dân tộc và phương đông nói chung.
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 17


II. Kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại
Trong việc nghiên cứu khoa học, chúng ta cần thực hiện những công tác
chính sau:
− Thâu thập sự kiện hiện thực, tức thâu thập tư liệu.
− Vận dụng phương pháp luận chung của triết học và phương pháp luận
riêng của từng khoa học để phân tích, tổng hợp, qui nạp, suy diễn các sự
kiện trên, dự kiến những khả năng, đề xuất mục đích nghiên cứu.
− Bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học đúng đắn tiến hành biến
những khả năng trên thành hiện thực mới, làm phong phú thêm tư liệu, gia
tăng khả năng cải tạo hiện thực.
Công tác kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại là công tác khoa học nên
cần được tiến hành theo đường lối trên.
2.1. Kết hợp tư liệu:
Kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại, trước tiên là kết hợp những tư liệu
(tức các sự kiện) của hai nền y học. Mỗi nền y học đã phát hiện một số tư liệu
riêng, nếu cộng lại thì tư liệu nghiên cứu sẽ hết sức phong phú.
2.1.1. Kết hợp tư liệu lâm sàng
Phát xuất từ hai cách nhìn khác nhau, trong thực tế, có những triệu chứng
khách quan và chủ quan mà y học cổ truyền rất chú ý đưa vào hệ thống lý luận
của mình thì y học hiện đại chưa mấy lưu tâm. Ngược lại, có rất nhiều dữ kiện
được y học hiện đại phát hiện mà giới y học cổ truyền chưa hề biết vận dụng tới.
Việc kết hợp lâm sàng của y học cổ truyền và y học hiện đại rất cần thiết làm cho
lâm sàng học chung phong phú hẳn lên.
Trong việc nghiên cứu sưu tầm dữ kiện, nhiều khi chúng ta có thói quen lựa
chọn hay loại bỏ nhiều sự kiện làm sao cho phù hợp với phương pháp nhận thức
của mình, thậm chí lờ đi những sự kiện đối lập và cường điệu những sự kiện phù
hợp với giả thuyết đề ra.
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 18


Thật ra, không được loại trừ bất cứ sự kiện nào phát hiện được, sự kiện nào,
triệu chứng nào cũng đều là những tư liệu quí báu. Vấn đề quan trọng là phải có
một cách nhìn thống nhất và toàn diện về mọi tư liệu đó. Mỗi một tư liệu mới
xuất hiện là một thử thách mới đối với phương pháp nhận thức của chúng ta, chứ
không phải vì phương pháp nhận thức của mình mà thâu nhận hay loại bỏ sự
kiện hiện thực đó.
2.1.2. Kết hợp lâm sàng và cận lâm sàng
Việc kết hợp lâm sàng và cận lâm sàng không phải là việc đơn giản mà là
một cuộc đấu tranh giữa phép biện chứng và phép siêu hình.
Trên thực tế, đã có nhiều người đánh giá thấp vai trò lâm sàng và chỉ tin vào thực
nghiệm mà thôi. Những người này đã rơi vào chủ nghĩa cơ giới, phủ định sự
khác biệt về chất giữa sự sống và sự chết, qui một cách máy móc các hiện tượng
của sự sống thành các qui luật hóa học.
Ngược lại, có khá nhiều ngươì đánh giá thấp vai trò thực nghiệm và chỉ chú
trọng đến lâm sàng. Những ngươì này đã rơi vào phương pháp trực giác, duy tâm
chủ quan.
Trong công tác kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại, đã có nhiều thầy
thuốc tây coi thường giá trị lâm sàng của Ðông y. Ngược lại cũng có nhiều thầy
thuốc ta vì quá tin yêu Ðông y mà bất bình trước yêu cầu xét nghiệm khách quan.
Thật ra, cả hai quan điểm trên đều phiến diện, vì những tư liệu lâm sàng và cận
lâm sàng không đối lập nhau, trái lại bổ sung cho nhau làm sáng tỏ thêm nhiều
mặt của đối tượng nghiên cứu.
2.1.3. Kết hợp tư liệu của các khoa học khác
Sức khỏe của con người quan hệ mật thiết với rất nhiều yếu tố tự nhiên giới
và xã hội. Tách con người ra khỏi tự nhiên và xã hội, tách y học ra khỏi các khoa
học khác, tức mới chỉ nhìn một bộ phận trong toàn bộ hoạt động tác động qua lại
lẫn nhau giữa con người và hoàn cảnh của nó. Do đó, kết hợp những tư liệu lâm
sàng và cận lâm sàng trong y học là chưa đủ mà còn phải kết hợp nhiều tư liệu
của nhiều ngành khoa học tự nhiên và xã hội khác nữa, như vật lý học, hóa học,

Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 19

sinh học, sinh hóa, sinh vật lý, thời sinh học, môi sinh học, xã hội học Người
thầy thuốc ngày nay không thể khu trú hoạt động của mình trong bệnh viện hay
tệ hại hơn bên giường bệnh, mà trái lại, tầm nhìn, tầm nghiên cứu và giải quyết
nguyên nhân bệnh tật phải rất sâu rộng về mọi kiến thức khoa học tổng hợp.
2.1.4. Giá trị tư liệu
Một vấn đề hết sức quan trọng là tính khách quan, chính xác của tư liệu. Tư
liệu là cơ sở xây dựng khoa học, nếu tư liệu không chính xác khách quan thì
không thể dựa vào đó để lập thuyết, không thể kết luận có tính chất qui luật khoa
học được. Việc xác minh tư liệu đòi hỏi nhiều phương pháp nghiên cứu khoa
học, nhiều kỹ thuật khách quan tìm hiểu từ hiện tượng bên ngoài đến bản chất
bên trong của sự kiện.
Trên thực tế, đã có lúc kết quả lâm sàng theo nhận thức chủ quan của thầy
thuốc cũng như của bệnh nhân không phù hợp với kết quả cận lâm sàng khách
quan của phòng xét nghiệm. Ðã có lúc, tiếng nói của thống kê học bác bỏ kết
luận chủ quan của người thầy thuốc lâm sàng.
Tuy phương pháp trực quan giúp ta thấy ngay được những hiện tượng bên
ngoài của sự vật, nhưng lắm khi trực quan đánh lừa chúng ta, không cho chúng ta
thấy sâu hơn bản chất của sự vật và có nhiều kết luận sai lầm đáng tiếc.
III. Phương pháp luận
Sau khi đã thâu thập nhiều tư liệu, chúng ta cần vận dụng phương pháp luận
đúng đắn để phân tích, tổng hợp, qui nạp, suy diễn các tư liệu đó, đề ra những
khả năng mới, và vạch ra mục đích phương hướng hành động nhằm tạo thắng lợi
cho công việc nghiên cứu tới. Phương pháp luận đóng vai trò chiến lược trong y
học.
Y học dân tộc cổ truyền nói riêng, Ðông y học nói chung được trang bị bằng
triết học duy vật thô sơ và phép biện chứng cổ đại, dựa vào khí hóa, âm dương,

ngũ hành, tạng tượng, kinh mạch, thiên nhân tương hợp vẽ ra được bức tranh
của vũ trụ và con người, trong đó nêu ra được trạng thái biến dịch, giao dịch theo
những qui luật bất dịch của giới tự nhiên
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 20

Từ quan sát, trực giác, từ vận động luận và mâu thuẫn luận bước đầu của
khoa học tự nhiên, Y học cổ truyền phương Ðông đã vẽ ra được một bức tranh
thủy mạc về toàn thể con người với những nét chấm phá đơn sơ của 5 khí Mộc
Hỏa Thổ Kim Thủy, 12 tạng tượng, 18 kinh mạch Bức tranh trên tuy cơ bản là
đúng đắn, nhưng lại thiếu quá nhiều chi tiết:
- Nói đến khí hóa nhưng không biết cái gì đang biến hóa, và biến hóa như thế
nào.
- Nói đến tạng phủ nhưng không biết đầy đủ cái gì trong phủ tạng.
- Nói đến kinh nguyệt nhưng không biết rõ cơ sở vật chất của chúng là gì
Chừng nào chúng ta chưa đi sâu vào các chi tiết cụ thể thì mới chỉ thấy rừng
mà không thấy cây nên chưa thể có một bức tranh toàn diện về con người. Muốn
nhận thức các chi tiết ấy, cần phải có khả năng phân tích mổ xẻ của khoa học tự
nhiên.
Có thể nói, Y học cổ truyền đông phương đã vẽ ra được một bức tranh triết
học về con người trong vũ trụ với những khái niệm, những qui luật chung và
thiếu rất nhiều chi tiết cụ thể, thiếu rất nhiều qui luật riêng để trở thành một bức
tranh khoa học toàn diện. Ðó là mặt giới hạn do điều kiện lịch sử qui định.
Nếu y học cổ truyền dân tộc và Ðông y nói chung không còn dựa trên những
phương pháp luận riêng của Âm dương, Ngũ hành, Tạng tượng, Kinh lạc thì sẽ
không còn cái chất y học cổ truyền đông phương nữa, thì một cách nhìn, một
cánh cửa bị khép lại. Nhưng nếu y học cổ truyền không được kết hợp với y học
hiện đại để bổ túc những mặt khiếm khuyết của mình về tư liệu cũng như về
phương pháp thì vĩnh viễn là y học cổ điển không một bước để chuyển thành y

học dân tộc hiện đại tiến bộ hơn.
Mặt khác, những tư liệu, những phương pháp khoa học của Ðông y học đã
từng mở ra cách nhìn, cách giải quyết rất phong phú, đã được chứng minh trong
quá trình lịch sử lâu dài, nên cần được lưu tâm kết hợp vào tư liệu và phương
pháp của Tây y học. Cả hai phương pháp, hai cách nhìn đều được mở rộng hơn
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 21

về mọi phía nhờ sự kết hợp lẫn nhau trong sự nghiệp xây dựng y học Việt Nam
với nhiều nét độc đáo.
IV. Phương pháp nghiên cứu khoa học
Phương pháp luận triết học và khoa học thật ra đều phát xuất từ thực tiễn khái
quát thành qui luật, phương pháp, từ đó, trở lại chỉ đạo khoa học đề xuất những giả
thiết mới, những dự đoán mới, những mục đích nghiên cứu mới, để phát hiện ra
những cái mới. Nhưng muốn biến những khả năng trên thành hiện thực, muốn kiểm
tra những kết luận có tính cách tiên đoán trừu tượng đề ra có đúng hay không thì
phải thông qua phương pháp nghiên cứu khoa học.
Phương pháp nghiên cứu khoa học đóng vai trò quan trọng tiên quyết. Tất cả
tính chất đúng đắn của nghiên cứu đều phụ thuộc vào phương pháp, vào cách thực
hiện. Nếu người nghiên cứu thiếu phương pháp nghiên cứu đầy đủ chính xác thì
không thể có khả năng tiến tới một kết luận có cơ sở khoa học được.
Hai mục đích lớn của phương pháp nghiên cứu khoa học là:
− Xác minh giá trị khách quan chính xác của các sự kiện từ hiện tượng
bên ngoài đến bản chất bên trong. Phương pháp càng tinh vi thì sự hiểu
biết của chúng ta về sự vật và hiện tượng càng sâu rộng.
− Chứng minh thực tiễn giả thuyết do người nghiên cứu đề ra do đã căn
cứ trên những sự kiện chính xác được phát hiện và trên các phương pháp
luận triết học và khoa học.
Muốn đạt được hai mục đích trên, muốn tiến gần tới chân lý của vần đề

nghiên cứu, tùy từng bước phát triển của khoa học kỹ thuật mà đã có nhiều phương
pháp và phương tiện kỹ thuật khác nhau: Phương pháp quan sát tự nhiên, phương
pháp thực nghiệm, phương pháp thống kê, phương tiện kính hiển vi, điện tâm đồ,
điện não đồ, X quang, các xét nghiệm sinh hóa, sinh vật lý phương pháp và
Âm dương Ngũ hành trong Y học
Nhóm 6 – K20 – Đêm 1
Trang 22

phương tiện càng tinh vi chính xác thì kết luận càng mang tính chất khoa học cao
đáng tin cậy.
Y học dân tộc cổ truyền với phương pháp luận của mình đã có khả năng đưa ra
nhiều giả thuyết được xác minh bằng thực tiễn lâm sàng lặp đi lặp lại nhiều lần. Do
phương pháp và phương tiện kỹ thuật có nhiều mặt hạn chế nên y học cổ truyền
không thể đi sâu vào trong "hộp đen" bí ẩn của con người và tự nhiên giới mà chỉ
nghiên cứu những đại lượng vào và những đại lượng ra, chỉ thâu thập được những sự
kiện, những hiện tượng bên ngoài rồi suy đoán những hiện tượng, những hiện tượng
bên trong bản thân hộp đen đó. Vai trò lý luận Ðông y trở nên hết sức quan trọng bởi
trong nội dung lý thuyết đã bao hàm nội dung thực tiễn, làm cho lý luận và thực tiễn
gắn quyện vào nhau.
Tính khoa học trong y học dân tộc cổ truyền có giá trị nhất định trong điều kiện
lịch sử của nó nhằm giải quyết những yêu cầu lịch sử của nó. Ðối với ngày nay, y
học dân tộc cổ truyền đã mở ra cho chúng ta vô số đề tài để tiếp tục nghiên cứu
chứng minh (mà sự đề xuất giả thuyết nghiên cứu thì còn khó hơn nhiều so với thực
hiện nghiên cứu khoa học). Tuy nhiên những nhà y học vẫn có quyền không tin vào
lý thuyết, giả thuyết đề ra chừng nào chúng ta chưa chứng minh thực tiễn của nó trên
cơ sở những phương pháp nghiên cứu khoa học đúng đắn.Mặt khác, cũng cần nhấn
mạnh thêm mối quan hệ biện chứng giữa lý thuyết và thực tiễn. Nhiều khi lý thuyết
đi trước chứng minh khoa học về nó nhiều năm.
V. Thừa kế phát huy y lý cổ truyền dân tộc
5.1. Hiện đại hóa hệ thống lý luận Y học cổ truyền:

Ai cũng biết hệ thống lý luận đông y bao gồm các học thuyết khí hóa, tâm
thể, âm dương, ngũ hành, tạng tượng, kinh huyệt Phần tri thức này bị thất truyền
còn lại phần ứng dụng của chúng mà thôi. Nói cách khác cách hiểu và cách diễn đạt
về hệ thống lý luận Y học cổ truyền là không vững chắc, khó hiểu, khó thuyết phục,
tức thiếu cơ sở khoa học.

×