Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Triết Học THUYẾT ÂM DƯƠNG - NGŨ HÀNH VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA HỌC THUYẾT ĐỐI VỚI NỀN Y HỌC CỦA PHƯƠNG ĐÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (547.74 KB, 43 trang )

Thuyết Âm-dương – Ngũ hành và ảnh hưởng của Học thuyêt đối với nềnY học Phương Đông
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
PHÒNG ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI SỐ 5:
HVTH: NGUYỄN THỊ GIANG
THANH
NHÓM: 6
STT: 97
LỚP: K20 – ĐÊM 1
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
MỤC LỤC
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang PL1
TP.HCM 05/2011
Thuyết Âm-dương – Ngũ hành và ảnh hưởng của Học thuyêt đối với nềnY học Phương Đông
Trang
N 4
PHỤ LỤC 1: CÁCH SỬ DỤNG THUỐC THEO HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG 4
BỆNH VỀ PHẾ 12
PHỤ LỤC 3: TRÍCH DẪN 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
PHẦN MỞ ĐẦU 18
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 19
1.1. Thế nào là "Âm dương": 19
1.1. Thế nào là "Âm dương": 19
1.2. Thuyết Âm – Dương: 20
1.2. Thuyết Âm – Dương: 20
1.3. Thế nào là Ngũ hành: 20
1.3. Thế nào là Ngũ hành: 20
1.4. Thuyết Ngũ hành: 21
1.4. Thuyết Ngũ hành: 21


1.5. Mối quan hệ giữa Âm dương và Ngũ hành: 23
1.5. Mối quan hệ giữa Âm dương và Ngũ hành: 23
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA THUYẾT ÂM-DƯƠNG – NGŨ HÀNH ĐỐI VỚI LĨNH
VỰC Y HỌC CỦA PHƯƠNG ĐÔNG 24
2.1. Nguồn gốc Y học Phương Đông: 24
2.1. Nguồn gốc Y học Phương Đông: 24
2.2. Sự vận dụng thuyết Âm dương – Ngũ hành vào lĩnh vực y học của người Phương Đông: 25
2.2. Sự vận dụng thuyết Âm dương – Ngũ hành vào lĩnh vực y học của người Phương Đông: 25
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang PL2
Thuyết Âm-dương – Ngũ hành và ảnh hưởng của Học thuyêt đối với nềnY học Phương Đông
2.2.1.Âm dương Ngũ hành và Cơ thể: 25
2.2.1. Âm dương Ngũ hành và Cơ thể: 25
2.2.2.Âm dương Ngũ hành và Sinh lý(3) : (Xem Phụ lục 2.1 Trang PL3) 27
2.2.2. Âm dương Ngũ hành và Sinh lý(3) : (Xem Phụ lục 2.1 Trang PL3) 27
2.2.3.Âm dương Ngũ hành và Bệnh lý: (Xem Phụ lục 2.2 Trang PL5) 27
2.2.3. Âm dương Ngũ hành và Bệnh lý: (Xem Phụ lục 2.2 Trang PL5) 27
2.2.4.Âm dương Ngũ hành và Chẩn bệnh: 27
2.2.4. Âm dương Ngũ hành và Chẩn bệnh: 27
2.2.5.Âm dương Ngũ hành và Dược liệu: 29
2.2.5. Âm dương Ngũ hành và Dược liệu: 29
2.2.6.Âm dương Ngũ hành và Châm Cứu: (Xem Phụ lục 2.3 Trang PL8 31
2.2.6. Âm dương Ngũ hành và Châm Cứu: (Xem Phụ lục 2.3 Trang PL8 31
2.2.7.Âm dương Ngũ hành và Điều trị: 31
2.2.7. Âm dương Ngũ hành và Điều trị: 31
2.2.8.Âm dương Ngũ hành và Phòng Bệnh: 32
2.2.8. Âm dương Ngũ hành và Phòng Bệnh: 32
2.2.9.Điều hòa Âm dương Ngũ hành: (Xem Phụ lục 2.4 Trang PL11 33
2.2.9. Điều hòa Âm dương Ngũ hành: (Xem Phụ lục 2.4 Trang PL11 33
KẾT LUẬN 39
BIỂU ĐỔ TỒNG KẾT ÂM DƯƠNG 40

BIỂU ĐỔ TỒNG KẾT NGŨ HÀNH TRONG Y HỌC 40
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang PL3
Thuyết Âm-dương – Ngũ hành và ảnh hưởng của Học thuyêt đối với nềnY học Phương Đông
N.
PHỤ LỤC 1: CÁCH SỬ DỤNG THUỐC THEO HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG
− Chứng thực nhiệt
Huyết nhiệt: Mụn nhọt tái phát nhiều lần do huyết nhiệt chỉ cần dùng những
thuốc mát để lương huyết như sinh địa, rễ cỏ tranh, huyền sâm, đan bì, xích thược
dược, thổ phục linh kết hợp thuốc thanh nhiệt giải độc kim ngân hoa, bồ công anh,
quán chúng, lá chàm Đây là những thuốc tính hàn nhẹ.
Thấp nhiệt:Viêm gan siêu vi trùng, viêm phần phụ, viêm âm hộ, âm đạo, nội
mạc tử cung, viêm đài thận, bể thận do sỏi, viêm bàng quang, niệu đạo, viêm tinh
hoàn, viêm ruột mạn tính Thuộc hệ tiêu hóa, tiết niệu, sinh dục. Đây là chứng bệnh
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang PL4
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN





















Thuyết Âm-dương – Ngũ hành và ảnh hưởng của Học thuyêt đối với nềnY học Phương Đông
do thấp nhiệt, tuy bệnh dai dẳng nhưng mức nhiệt không cao nên chỉ dùng thanh
nhiệt trừ thấp: Nhân trần, long đởm thảo, nha đảm tử, hoàng liên, hoàng bá, hoàng
cầm, rễ chàm, dây hạt bí, ý dĩ nhân, rau sam
Hỏa nhiệt: Sốt cao co giật mức nhiệt mạnh, cần hạ sốt ngay, dùng thuốc hàn
mạnh, liều cao như thạch cao sống, chi tử, lá cối xay, hạt muồng sống, tri mẫu, mật
gấu, cốc tinh thảo, hạ khô thảo
Thử nhiệt: Là say nóng, say nắng, choáng váng khi làm việc trong lò nhiệt
như lò rèn, lò luyện gang thép Dùng thuốc mát để thanh nhiệt giải thử như lá sen,
đậu ván, quả dưa hấu
Nhiệt độc: do nhiễm trùng bởi vi trùng, vi rút dùng thuốc thanh nhiệt giải độc
kim ngân hoa, bồ công anh, sài đất, rẻ quạt, lá dấp cá
− Chứng hư nhiệt
Âm hư sinh nội nhiệt, nóng trong, sốt thấp 37
o
5-38
o
về buổi chiều đêm, ngũ
tâm phiền nhiệt, bức bối, môi khô, đỏ dùng các thuốc bổ âm như Thục địa, mạch
môn, thiên môn, thạch hộc, kỷ tử, lá dâu non, hoàng tinh trong vài ba tuần sẽ hết
sốt.
Nội nhiệt do thận âm hư hoặc vị âm hư, can âm hư, phế âm hư, tâm âm hư, tỳ
âm hư, thông thường nhất là thận âm, vị âm, phế âm hư.
− Chứng thực hàn
Hàn từ ngoài thiên nhiên xâm nhập vào cơ thể gây lạnh, sợ lạnh, rét run, đau

họng, không ra mồ hôi, thậm chí sau đó phát sốt nóng nhưng vẫn sợ lạnh thì dùng
thuốc chữa phong hàn, vì loại hàn này là biểu hàn.
Hàn thịnh tự trong cơ thể hoặc phục hàn từ trước là lý hàn, thường gặp nhất ở
trung tiêu như đau dạ dày-tá tràng vào mùa đông, cơn co thắt đại tràng do lạnh, dùng
các thuốc ấm, nóng như phụ tử chế, quế nhục, thảo quả, đại hồi, ngô thù du, càn
khương, cao lương khương
Hàn quyết: Do mất dương khí đột ngột, cảm lạnh đột ngột, tự nhiên người
lạnh toát, mặt trắng bệch, chân tay giá lạnh, có thể vã mồ hôi loãng lạnh đầm
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang PL5
Thuyết Âm-dương – Ngũ hành và ảnh hưởng của Học thuyêt đối với nềnY học Phương Đông
đìa Phải dùng thuốc nhiệt mạnh, tác dụng nhanh để hồi dương cứu thoát: Phụ tử
chế, cồn gừng, cồn quế, ngô thù du, dầu hồi vừa uóng vừa xoa xát mạnh
Hư hàn: do phần dương trong cơ thể suy giảm nên khi chữa chủ yếu bổ
dương. Tùy theo mà có thể gặp các trường hợp sau:
TÂm dương hư sinh tâm hàn trong cơn đau thắt ngực của thiếu máu cơ tim
do lạnh.
Tỳ dương hư sinh chứng ỉa chảy khi lạnh bụng, khi gặp thức ăn sống lạnh,
viêm đại tràng mạn tính thể hàn phân sột sệt như phân vịt.
Thận dương hư: Lạnh thắt lưng, đái đêm nhiều lần, liệt dục, đau mỏi lưng gối, ù
tai
PHỤ LỤC 2.1: ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH VÀ SINH LÝ:
1 . Âm dương và sinh lý :
Sự thay đổi của Âm khí và Dương khí trong cơ thể con người phụ thuộc vào
thiên nhiên. Sự biến đổi này sẽ gây ra những chuyển biến về mặt tâm, sinh lý của
con người và tình trạng sức khỏe của con người sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất vào thời
điểm giao mùa, đặc biệt là những người mang sẵn bệnh tật trong cơ thể trở nên yếu
ớt hơn, bệnh dễ phát tán hơn.
− Mùa xuân là mùa dương khí trong trời đất bắt đầu hội tụ và tăng lên.
− Mùa hè là mùa dương khí ở mức cực đại và âm khí yếu.
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang PL6

Thuyết Âm-dương – Ngũ hành và ảnh hưởng của Học thuyêt đối với nềnY học Phương Đông
− Mùa thu là thời điểm âm khí trong trời đất và trong cơ thể con người bắt
đầu có sự thay đổi lên cao dần, trong khi đó mức dương khí thấp dần.
− Mùa đông là mùa âm khí ở mức cực đại và dương khí ở cực tiểu.
2. Ngũ hành và Sinh lý:
a. Quan niệm cổ truyền:
Ứng dụng Ngũ hành vào mặt sinh lý con người là đem ngũ tạng sánh với Ngũ
hành, dựa vào đặc tính sinh lý của ngũ tạng để tìm ra sự liên hệ với Ngũ hành.
Can và Hành mộc: tính của cây gỗ thì cứng cỏi giống như chức năng của
Can là một vị tướng, vì thế dùng hành Mộc ví với can.
Tâm và Hành hỏa: Lửa cháy thì bốc lên, giống như Tâm bốc lên mặt và
lưỡi, vì thế dùng hành Hỏa ví với Tâm.
Tỳ và Hành thổ: Đất là mẹ đẻ của muôn vật giống là con người sinh tồn
được là nhờ vào các chất dinh dưỡng do Tỳ vị cung cấp, vì thế dùng Hành thổ ví với
Tỳ.
Phế và Hành kim: Kim loại thường phát ra âm thanh giống như con người
phát ra tiếng nói nhờ Phế, vì thế dùng hành Kim ví với Phế.
Thận và Hành thủy: Nước có tác dụng đi xuống, thấm nhuần mọi chỗ,
giống như nước uống vào thì một phần thấm vào cơ thể, phần còn lại theo đường
tiểu bài tiết ra ngoài, vì vậy đem hành Thủy ví với Thận.
b. Quan điểm hiện đại:
Dựa theo công năng cơ thể, tìm sự tương ứng với hành nào đó trong Ngũ
hành để giải thích sự biến chuyển của Ngũ hành.
Hành Mộc và sự vận động: Đó là sự vận động của các cơ bắp, các sợi cơ ở
khắp cơ thể.
Hành Hỏa và sự phát nhiệt: Đó là sự sản sinh nhiệt năng do sự chuyển hóa
của các tế bào.
Hành Thổ và sự bài tiết: Đó là sự vận động đưa chất ra ngoài cơ thể.
Hành Kim và sự hấp thụ: Đó là sự vận động thu hút các chất vào cơ thể.
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang PL7

Thuyết Âm-dương – Ngũ hành và ảnh hưởng của Học thuyêt đối với nềnY học Phương Đông
Hành Thủy và sự tàng trữ: Đó là sự vận động tàng trữ các chất trong cơ thể
để dùng khi cần thiết.
c. Giữa 2 quan niệm cổ điển và hiện đại có một số điều khác biệt:
Nếu đứng về quan niệm cổ điển, mỗi hành chỉ ảnh hưởng đến một ngũ tạng.
Thí dụ: Can Mộc, Tâm Hỏa, Tỳ Thổ, Phế Kim và Thận Thủy.
Theo quan niệm hiện đại, mỗi hành đều ảnh hưởng và chi phối đến ngũ tạng.
Ngoài ra, mỗi hành đều có 2 mặt mâu thuẫn và thống nhất là Âm và Dương,
do đó ta có: Âm Mộc, Dương Mộc, Âm Hỏa, Dương Hỏa, Âm Thổ, Dương Thổ,
Âm Kim, Dương Kim, Âm Thủy, Dương Thủy. Việc phân biệt này sẽ giúp ích rất
nhiều trong việc chọn huyệt để điều trị thích hợp.
PHỤ LỤC 2.2 : ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH VÀ BỆNH LÝ
1. Âm dương và Bệnh lý:
a. Quá trình phát sinh bệnh:
Mỗi hiện tượng đều có 2 mặt: một Dương (hưng phấn) và một Âm (ức chế).
Nếu một trong hai tác động trên mạnh hoặc suy kém khác thường làm cho mất trạng
thái quân bình, Âm dương sẽ dẫn tới tình trạng bệnh lý gọi là thiên suy hoặc thiên
thắng
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang PL8
Thuyết Âm-dương – Ngũ hành và ảnh hưởng của Học thuyêt đối với nềnY học Phương Đông
Hình 4: Âm Dương Thắng - Suy
− Thiên Thắng: Dương thắng quá, gây chứng nhiệt (sốt, tiểu đỏ ). Âm thắng
gây chứng hàn (lạnh, tiêu chảy ).
− Thiên Suy: Dương hư (lão suy, hưng phấn, thần kinh giảm ). Âm hư (mất
nước, ức chế thần kinh giảm ).
Tuy nhiên, nếu Âm suy quá thì Âm bị bệnh sinh ra chứng nội nhiệt, gọi là
Âm hư sinh nội nhiệt. Nếu Dương suy quá thì Dương bị bệnh và sinh ra chứng hàn ở
ngoài, gọi là Dương hư sinh ngoại hàn.
Khi một mặt Âm hay Dương ngày càng thịnh và không ngừng phát triển về
một phía đối lập, bệnh sẽ diễn biến theo hướng: Nhiệt quá hóa Hàn (nhiệt cực sinh

hàn) như sốt cao kéo dài gây mất nước Hoặc Hàn quá hóa nhiệt (Hàn cực sinh
nhiệt) như tiêu chảy, nôn mửa kéo dài gây mất nước, điện giải làm nhiễm độc thần
kinh gây sốt.
b. Hư chứng, Thực chứng:
Bệnh tật (sự rối loạn Âm dương) phát sinh ra do nhiều nguyên nhân: Dương
thực, Âm thực (hưng phấn) hoặc Dương hư, Âm hư (ức chế).
Ví dụ: triệu chứng sốt, chứng âm hư Hỏa thượng.
BỆNH SỐT
Sốt có thể do 2 nguyên nhân: do Dương hỏa vượng (hưng phấn) hoặc do âm
hỏa suy không ức chế được dương hỏa, cả 2 trường hợp trên đều gây nên sốt.
Nếu do dương hỏa vượng thì chứng sốt đó là Thực chứng.
Nếu do âm hỏa suy thì chứng sốt đó là Hư chứng.
Phân tích sâu hơn ta thấy:
- Có khi Âm vượng gây ra triệu chứng dương suy, cần tả âm để bớt ức chế
dương.
- Có khi dương vượng làm âm suy, cần tả dương để bớt ức chế âm.
- Có khi dương suy gây ra triệu chứng âm vượng, cần bổ dương để ức chế âm.
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang PL9
Thuyết Âm-dương – Ngũ hành và ảnh hưởng của Học thuyêt đối với nềnY học Phương Đông
Có khi âm suy gây ra dương vượng, cần bổ âm để ức chế dương lại. Nếu chỉ
lo tả dương, là chỉ lo trị ngọn mà bỏ quên gốc, bệnh không hết mà còn có thể gây
biến chứng làm cho âm và dương suy thêm.
c. Âm dương thực giả:
Trên lâm sàng, nhiều hội chứng dễ gây lẫn lộn Âm dương nếu không chẩn
bệnh một cách kỹ lưỡng. Đó được gọi là các hội chứng chân giả.
− Dương cực tựa Âm: Do nhiệt độc tới chỗ cùng cực, phục vào trong cơ thể gây
ra người lạnh, hôn mê giống như âm chứng, chỉ khác ở chỗ là trong lạnh nhưng
không thích đắp ấm, thần khí tuy hôn mê nhưng sắc mặt vẫn tươi, mạch tuy Trầm
nhưng Hoạt và có lực  Khi trị liệu phải dùng thuốc Hàn.
− Âm cực tựa Dương: Do hàn tà đến chỗ cùng cực, đẩy Dương hỏa ở trong ra

ngoài gây ra mình nóng, buồn phiền, khát nước, giống như Dương chứng nhưng chỉ
khác ở chỗ mình nóng mà thích đắp chăn ấm, miệng khát mà uống nước lạnh vào lại
mửa ra ngay. Mạch thường Trầm Tế, không lực  Khi trị liệu, phải dùng thuốc
nhiệt (ôn nóng), nếu dùng lầm thuốc hàn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.
d. Âm Thăng Dương Giáng:
Huyết thuộc Âm, phải thăng (đi lên), nếu huyết hư không đi lên được phần
trên không được huyết nuôi dưỡng gây chóng mặt, hoa mắt nguyên nhân do âm
hư, cần bổ âm.
Khí thuộc Dương, phải giáng (đi xuống), khí không làm tròn chức năng thay
vì đi xuống lại đi lên gọi là khí nghịch, gây ra chứng hen suyễn, khó thở, nguyên
nhân do khí nghịch, cần điều chỉnh ở khí.
2. Ngũ hành và Bệnh lý:
Ứng dụng Ngũ hành vào bệnh lý, chủ yếu vận dụng quy luật Sinh Khắc,
Tương Thừa, Tương Vũ, Phản sinh khắc để giải thích các quan hệ bệnh lý khi một
cơ quan, tạng phủ nào đó có sự xáo trộn gây ra mất thăng bằng thái quá (hưng phấn)
hoặc bất cập (ức chế). Ngoài ra, có thể dùng các biểu hiện của Ngũ hành để tìm ra sự
xáo trộn ở các Hành, Tạng phủ, cơ quan.
Tuy nhiên, một hành nào đó có sự thay đổi cũng dẫn tới cả năm hành thay đổi
theo, nhất là trong các hội chứng bệnh. Do đó, mối quan hệ giữa các hành là mối
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang PL10
Thuyết Âm-dương – Ngũ hành và ảnh hưởng của Học thuyêt đối với nềnY học Phương Đông
quan hệ giữa năm hành Mỗi hành khi có sự xáo trộn (hưng phấn hoặc ức chế) có
thể do năm nguyên nhân: Chính tà, Hư tà, Thực tà, Vi tà và Tặc tà.
PHỤ LỤC 2.3: ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH VÀ CHÂM CỨU
1. Âm dương và Châm Cứu:
a. Âm dương và Kinh Lạc:
− Theo nguyên tắc thăng giáng:
• Các kinh âm ở tay, đi lên, tức đi từ vùng nách, ngực lên ngón tay (theo
chiều ly tâm). Các kinh Dương ở tay, đi xuống, tức từ các ngón tay đi
vào ngực, nách (theo chiều hướng tâm).

• Các kinh âm ở chân, đi lên, tức từ các ngón chân đi lên đầu mặt (theo
chiều hướng tâm). Các kinh dương ở chân đi xuống, tức từ đầu mặt đi
xuống chân (theo chiều ly tâm).
• Cần ghi nhớ hướng đi của các đường kinh vì rất cần thiết trong việc áp
dụng nguyên tắc Bổ tả trong châm cứu.
− Theo nguyên tắc trong ngoài:
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang PL11
Thuyết Âm-dương – Ngũ hành và ảnh hưởng của Học thuyêt đối với nềnY học Phương Đông
Âm trong, Dương ngoài thì các kinh ở phía trong chân, tay thuộc âm (Phế,
Tâm, Tâm bào, Thận, Can, Tỳ) và các kinh ở phía ngoài chân tay thuộc dương (Đại
trường, Tiểu trường, Tam tiêu, Bàng quang, Đởm, Vị). Ngoài ra, bụng thuộc Âm
nên Nhâm mạch thuộc âm, lưng thuộc dương nên Đốc mạch thuộc Dương.
b. Âm dương Và Huyệt:
Để phân biệt huyệt vị theo Âm dương, có thể theo một số nguyên tắc sau:
Bên trái là Dương, bên phải là Âm, do đó các huyệt bên trái mang đặc tính dương
(hưng phấn) gọi là Dương huyệt. Các huyệt bên phải mang đặc tính âm (ức chế) gọi
là âm huyệt. Việc phân biệt âm huyệt, dương huyệt có giá trị rất lớn trong việc chọn
huyệt điều trị cho thích hợp. Ví dụ bệnh Phế
BỆNH VỀ PHẾ
Người bệnh đi nắng về, sốt, chảy máu mũi (máu cam). Biện chứng bệnh như
sau : Đi nắng về sốt là bệnh cấp tính, thực chứng. Mũi chảy máu là do Hỏa khí của
Phế vượng (Mũi có liên hệ đến Phế vì Nội Kinh ghi : Phế khai khiếu ở mũi, Máu
màu đỏ, thuộc Hỏa). Đây là thực chứng, áp dụng nguyên tắc. "Thực tắc tả", do đó,
cần tả Hỏa của Phế, tức tả Dương hỏa huyệt của Phế là huyệt Ngư tế bên trái (Ngư
tế là hỏa huyệt của Kinh Phế, bên trái thuộc Dương).
Người bị bệnh lao phổi lâu năm, ho ra máu. Biện chứng bệnh như sau : Bệnh
lâu năm thuộc Hư chứng. Ho ra máu là hỏa của Phế vượng (vì tiếng ho là tiếng của
Phế, máu màu đỏ thuộc hỏa). Vì đây là bệnh lâu ngày, hư chứng do âm hỏa suy,
không ức chế được dương kiến dương hỏa bùng lên. Áp dụng nguyên tắc "Hư tắc
bổ" cần bổ Âm hỏa huyệt của Phế tức là huyệt Ngư tế bên phải (Ngư tế là hỏa huyệt

của kinh Phế, bên phải thuộc âm).
Cũng bệnh về phế, cũng huyệt Ngư tế mà trường hợp thứ nhất dùng huyệt ở
bên trái, trường hợp 2 lại dùng huyệt bên phải. Nếu không phân biệt được Âm
dương của huyệt sẽ không bao giờ sử dụng huyệt 1 cách chính xác được.
− Các huyệt của kinh âm (mặt trong chân tay) thuộc âm, các huyệt của kinh
dương (mặt ngoài chân tay) thuộc dương.
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang PL12
Thuyết Âm-dương – Ngũ hành và ảnh hưởng của Học thuyêt đối với nềnY học Phương Đông
− Các huyệt thuộc Nhâm mạch (đường giữa bụng) thuộc âm. Các huyệt thuộc
Đốc mạch (đường giữa sống lưng) thuộc dương.
− Những huyệt nào không nằm vào các đường kinh âm hoặc dương có thể dựa
vào vị trí hoặc tác dụng của huyệt để xác định đặc tính Âm dương cho huyệt
đó :
Thí dụ: Huyệt Ấn đường, khi kích thích, tiết ra chất Endorphin, làm giảm đau (có
tác dụng ức chế) do đó, mang đặc tính âm
2. Ngũ hành và Châm cứu:
Các kinh thư cổ đã áp dụng Ngũ hành vào một số huyệt vị nhất định là Tỉnh,
Vinh (Huỳnh), Du, Kinh, Hợp, gọi là Ngũ du huyệt.
Sự sắp xếp thứ tự của Ngũ du không thay đổi nhưng thứ tự của Ngũ hành lại
thay đổi tùy thuộc vào Âm dương của đường kinh. Kinh âm khởi đầu bằng Mộc,
kinh dương bắt đầu bằng Kim, sau đó cứ theo thứ tự tương sinh mà sắp xếp huyệt.
Ngũ Du Tỉnh Vinh (Huỳnh) Du Kinh Hợp
Kinh Âm Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy
Kinh Dương Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ
Nhận xét về cách phân chia cổ điển ta thấy:
Nếu chỉ phân chia như trên sẽ không đủ để giải quyết vấn đề mâu thuẫn thống
nhất là Âm dương ngay trong mỗi hành và trong mỗi hành đều có Âm dương, do đó,
mỗi huyệt của Ngũ du cũng đều có Âm dương. Vì vậy, cùng một huyệt, cùng một
tên, một chức năng nhưng lại có 2 công dụng khác nhau là Dương Hỏa (hưng phấn
Hỏa) và Âm hỏa (ức chế Hỏa),

HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang PL13
Thuyết Âm-dương – Ngũ hành và ảnh hưởng của Học thuyêt đối với nềnY học Phương Đông
PHỤ LỤC 2.4 : ĐIỀU HÒA ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH
1. Thế nào là điều hòa Âm dương và Ngũ hành:
Âm dương đối lập nhưng vận động thống nhất, có mức độ, có trật tự, hợp
thời. Nếu hoạt động của Âm dương không đúng độ, thời điểm, chỗ nương tựa, mất
đi sự điều hòa, dẫn đến Âm dương thất điều (thái âm, thái dương, thiếu âm, thiếu
dương). Biểu tượng của thái cực là do âm ngư và dương ngư kết hợp mà thành, sử
dụng chữ S để chia thành 2 phần, nó biểu thị Âm dương là sự chuyển hóa 2 chiều
mất đi rồi phát triển không ngừng.
Theo học thuyết Ngũ hành, một tạng trong cơ thể có mối quan hệ mật thiết
với 4 tạng còn lại giống như một hành trong Ngũ hành cũng có mối quan hệ mật
thiết với 4 hành còn lại, có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau hay kìm chế lẫn nhau theo qui
luật tương sinh, tương khắc. Đó là hoạt động điều hòa cân bằng trong điều kiện bình
thường.
2. Vì sao phải điều hòa Âm dương và Ngũ hành:
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang PL14
Thuyết Âm-dương – Ngũ hành và ảnh hưởng của Học thuyêt đối với nềnY học Phương Đông
Cân bằng Âm dương là nền móng của hoạt động sống. Nếu Âm dương cân
bằng, cơ thể con người khỏe mạnh; nếu Âm dương mất cân bằng, cơ thể con người
sinh ra bệnh tật. Chúng ta muốn biết được quá trình phát triển của bệnh, đi sâu vào
nghiên cứu bản chất của bệnh thì phải đi sâu vào nghiên cứu sự biến đổi Âm dương
trong cơ thể. Vận dụng qui luật và hình thức thay đổi vận động đối lập, thống nhất
của Âm dương để có phương pháp chẩn đoán, tìm hiểu, phòng tránh và điều trị
bệnh.
Trong điều kiều kiện sinh lý bình thường, khi các yếu tố Ngũ hành phân bố
đều khắp trên cơ thể con người (theo trật tự sinh khắc) cơ thể con người khỏe mạnh.
Nếu phá vỡ qui luật này, cơ thể con người sẽ xuất hiện bệnh tật.
Việc điều hòa Âm dương - Ngũ hành là vấn đề mấu chốt để giữ cho cơ thể
được khỏe mạnh.

3. Làm thế nào để duy trì điều hòa Âm dương – Ngũ hành:
Âm dương của con người tương thông, tương ứng với sự thay đổi vận động
của Âm dương giới tự nhiên, mối quan hệ khắng khít không thể tách rời. Sự biến đổi
khí hậu (bốn mùa) là quy luật khách quan của tự nhiên, con người cũng thế, chỉ có
thích ứng với quy luật sinh dưỡng bốn mùa thì cơ thể con người mới có thể cân bằng
Âm dương, theo qui luật xuân hạ dưỡng dương, thu đông dưỡng âm.
Ngoài ra, chúng ta có thể cân bằng Âm dương thông qua ẩm thực. Người ta
phân loại thức ăn theo Ngũ hành dựa vào màu sắc (ngũ sắc), mùi vị (ngũ vị) mà suy
ra tác dụng của món ăn đối với cơ thể. Sau đó áp dụng nguyên tắc ăn uống theo qui
luật của Ngũ hành như dùng thức ăn phù hợp với tình hình sức khỏe của mình sao
cho duy trì được thế quân bình (đối với người khỏe) hoặc tái lập mối quan hệ quân
bình của Ngũ hành trong cơ thể (đối với người đau ốm). Tránh tình trạng dùng thái
quá một món ăn nào đó thì có thể hại sức khỏe.
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang PL15
Thuyết Âm-dương – Ngũ hành và ảnh hưởng của Học thuyêt đối với nềnY học Phương Đông
PHỤ LỤC 3: TRÍCH DẪN
(1)
(2) http:// suckhoedoisong.vn/20101029101840767p0c19/ly-giai-ve-thuyet-am-
duong.htm
(3)
option=com_content&view=article&id=438:quan-h-gia-am-dng-i-vi-vic-chn-
oan-va-iu-tr&catid=55:y-hc-chuyen-sau&Itemid=413
(4) Quy kinh là gì? Quy kinh là hiện tượng thuốc tác dụng vào cơ quan đích theo
12 đường kinh trong cơ thể.
Một số hiện tượng quy kinh: Bạc hà trắng cay đi vào kinh phế; Huyền sâm,
nhục thung dung, phác tiêu đen mặn vào kinh thận; chu sa, thần sa, sâm đại hành
đắng đỏ và tâm, Táo nhân; Thanh đại, táo mèo chua xanh và kinh can; Hoàng kỳ,
cam thảo vàng ngọt vào tỳ.
Hiện tượng quy kinh phức tạp, đan xen với tứ tính ngũ vị và không cứng nhắc
trong vận dụng.

Ngoài ra, trong việc bào chế, có thể vận dụng đặc tính của Ngũ hành để thay
đổi hoặc tăng cường hiệu quả của thuốc.
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang PL16
Thuyết Âm-dương – Ngũ hành và ảnh hưởng của Học thuyêt đối với nềnY học Phương Đông
Thí dụ: Muốn thuốc vào tạng tỳ nên sao Hoàng thổ, hoặc sao mật, sao đường.
Muốn thuốc vào tạng phế thì sao thuốc có tẩm nước gừng cay. Muốn thuốc
vào tạng thận thì trong bào chế nên ngâm muối, hoặc nước tiểu trẻ em trai dưới 3
tuổi. Muốn cho thuốc vào can nên tẩm dấm để sao và thu hái khi còn xanh. Muốn
cho thuốc dẫn vào tâm nên tẩm nước tâm sen có vị đắng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Triết học phần 1: đại cương về lịch sử triết học, 2010.
2. Trang web: tailieu.vn
3. Trang web: deltaviet.net, Đoàn Quang Thọ, Tạp chí triết học
4.
5.
6.
7. Hoàng đế Nội kinh – Tg Hoàng Đế
8.
8. Đông y Việt Nam: />9. Trung tâm nghiên cứu Lý học đông phương:

HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang PL17
Còn phần riêng, các anh chị có thể viết theo các đề tài sau:
1. Các phép biện chứng đã sử dụng trong y học Phương Đông (duy vật, duy tâm, )
2. So sánh phép biện chứng dùng trong y học phương Đông có khác gì với các phép
biện chứng sử dụng trong hai nền y học còn lại (Tây y, Ấn Độ).
3. Pháp triển y học phương Đông hiện đại trên nền y học phương Đông cổ (thô sơ).
4. Mặt mạnh và mặt yếu của nền y học phương Đông dựa trên thuyết Âm Dương
Ngũ hành.
5. Phân loại thuốc theo phép biện chứng.
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn Đề tài:
Kể từ sau khi xuất hiện tác phẩm “Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn” và với ảnh
hưởng mạnh mẽ của tác phẩm này, thuyết Âm dương - Ngũ hành ngày càng được
các nhà tư tưởng phát triển và vận dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có
lĩnh vực Y học ở Trung Quốc và một số nước phương Đông khác. Y học cổ truyền
phương Đông đã dựa trên cơ sở lý luận thuyết Âm dương - Ngũ hành để phòng trị
bệnh và nâng cao sức khỏe cho nhân dân. Chính vì thế, việc tìm hiểu học thuyết Âm
dương - Ngũ hành là một việc cần thiết để lý giải những đặc trưng của triết học cũng
như nền Y học Phương Đông.
2. Mục tiêu của Đề tài:
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là: trên cơ sở làm sáng tỏ thuyết Âm dương
Ngũ hành của triết học Phương Đông và ảnh hưởng của nó đối với nền y học, đề tài
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang 18
còn đi sâu nghiên cứu các ứng dụng thực tế của nó trong việc điều trị và chẩn bệnh
hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Thuyết Âm dương – Ngũ hành và sự ảnh hưởng của nó đến nền y học
Phương Đông.
4. Phương Pháp Nghiên Cứu:
4.1. Cơ sở phương pháp luận:
Đề tài được triển khai dựa trên nội dung của thuyết Âm dương - Ngũ hành và
giá trị của nền y học Phương Đông.
4.2. Các phương pháp cụ thể:
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày đề tài, các phương pháp nghiên cứu
đã được sử dụng như: Phương pháp lịch sử, Phương pháp phân tích tổng hợp,…
5. Kết cấu của đề tài: Gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Ảnh hưởng của Âm dương Ngũ hành đối với Y học
Chương 3: Âm dương Ngũ hành và biện chứng trong Y học
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Thế nào là "Âm dương":
Âm và Dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không gian
cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ cũng như
trong từng tế bào, từng chi tiết. Âm và Dương là hai mặt đối lập, mâu thuẫn - thống
nhất, trong Dương có mầm mống của Âm và ngược lại.
Hình 1: Biều tượng Âm - Dương
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang 19
Âm là phạm trù đối lập với Dương, phản ánh những yếu tố (sự vật, hiện
tượng, tính chất, quan hệ …) và khuynh hướng như: giống cái, đất, mẹ, vợ, nhu,
thuận, tối, ẩm, phía dưới, bên phải, số chẵn, tĩnh, tiêu cực,…
Dương là phạm trù đối lập với Âm, phản ánh những yếu tố (sự vật, hiện
tượng, tính chất, quan hệ, …) và khuynh hướng như: giống đực, trời, cha, chồng,
cương, cường, sáng, khô, phía trên, bên trái, số lẻ, động, tích cực,…
1.2. Thuyết Âm – Dương:
Từ thực tế cuộc sống, người Trung Quốc cổ đại cho rằng bản thân vũ trụ
cũng như vạn vật trong nó được tạo thành nhờ vào sự tác động lẫn nhau của hai
lực lượng đối lập nhau là Âm và Dương, và mọi tai họa trong vũ trụ sở dĩ xảy ra
cũng là do sự không điều hòa được hai lực lượng ấy.
Âm và Dương không chỉ phản ánh hai loại lực lượng mà còn phản ánh hai
loại khuynh hướng đối lập, không tách rời nhau, ôm lấy nhau, xoắn vào nhau; vì
vậy, trong Âm có Dương, và trong Dương có Âm. Đó cũng chính là sự thống
nhất giữa cái động và cái tĩnh, trong động có tĩnh và trong tĩnh có động và chúng
chỉ khác ở chỗ, bản tính của Dương là hiếu động, còn bản tính của Âm là hiếu
tĩnh. Do thống nhất, giao cảm với nhau mà Âm và Dương có động, mà động thì
sinh ra biến; biến tới cùng thì hóa để được thông; có thông thì mới tồn vĩnh cửu
được. Như vậy, sự thống nhất và tác động của hai lực lượng, khuynh hướng đối
lập Âm và Dương tạo ra sự sinh thành biến hóa của vận vật; nhưng vạn vật khi
biến tới cùng thì quay trở lại cái ban đầu.
Âm và Dương tác động chuyển hóa lẫn nhau, Dương cực thì Âm sinh, Dương
tiến thì Âm lùi, Dương thịnh thì Âm suy… và ngược lại.

1.3. Thế nào là Ngũ hành:
Theo thuyết duy vật cổ đại, tất cả mọi vật chất cụ thể được tạo nên trong thế
giới này đều do năm yếu tố ban đầu là “nước, lửa, đất, cây cỏ và kim loại” tức Ngũ
hành “thủy, hỏa, thổ, mộc, kim”.
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang 20
Hình 2: Biều tượng Ngũ hành
Ngũ hành tương sinh: Thuộc lẽ thiên nhiên, nhờ nước cây xanh mọc lớn lên
(thủy sinh mộc), cây cỏ làm mồi nhen lửa đỏ (mộc sinh hỏa, tro tàn tích lại đất vàng
thêm (hỏa sinh thổ), lòng đất tạo nên kim loại trắng (thổ sinh kim), kim loại vào lò
chảy nước đen (kim sinh thủy).
Ngũ hành tương khắc: Lẽ xưa nay rễ cỏ đâm xuyên lớp đất dày (mộc khắc
thổ), đất đắp đê cao ngăn nước lũ (thổ khắc thủy), nước dội nhiều nhanh dập lửa
ngay (thủy khắc hỏa), lửa lò nung chảy đồng sắt thép (hỏa khắc kim), thép cứng rèn
dao chặt cỏ cây (kim khắc mộc).
1.4. Thuyết Ngũ hành:
Học thuyết Ngũ hành chủ yếu nói về mối quan hệ phức tạp thể hiện ở quy
luật sinh - khắc - chế - hoá và bổ sung cho thuyết Âm Dương hoàn bị hơn.
Tinh thần cơ bản của thuyết Ngũ hành bao gồm hai phương diện giúp đỡ
nhau gọi là tương sinh và chống lại nhau gọi là tương khắc. Trên cơ sở sinh và khắc
kết hợp với hiện tượng chế hoá, tương thừa, tương vũ nhằm biểu thị mọi sự biến hoá
phức tạp của sự vật.
Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để sinh trưởng, đem
Ngũ hành liên hệ với nhau thì thấy 5 hành có quan hệ xúc tiến lẫn nhau, nương tựa
lẫn nhau.
Mộc sinh Hoả = Can sinh Tâm
Hoả sinh Thổ = Tâm sinh Tỳ
Thổ sinh Kim = Tỳ sinh Phế
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang 21
Kim sinh Thuỷ = Phế sinh Thận
Thuỷ sinh Mộc = Thận sinh Can.

Trong luật tương sinh của Ngũ hành còn hàm ý là hành nào cũng có quan hệ
về hai phương diện: Cái sinh ra nó và cái nó sinh ra, tức là quan hệ mẫu tử. Trong
quan hệ tương sinh lại có quan hệ tương khắc để biều hiện cái ý thăng bằng, giữ gìn
lẫn nhau.
Luật tương khắc:
Mộc khắc Thổ = Can khắc Tỳ
Thổ khắc Thuỷ = Tỳ khắc Thận
Thuỷ khắc Hoả = Thận khắc Tâm
Hoả khắc Kim = Tâm khắc Phế
Kim khắc Mộc = Phế khắc Can
Tương khắc có nghĩa là ức chế và thắng nhau. Trong tình trạng bình thường
sự tương khắc có tác dụng duy trì sự thăng bằng, nhưng nếu tương khắc thái quá thì
làm cho sự biến hoá trở lại khác thường. Trong tương khắc, mỗi hành cũng lại có hai
quan hệ: giữa cái thắng nó và cái nó thắng. Hiện tượng tương khắc không tồn tại đơn
độc; trong tương khắc đã có ngụ ý tương sinh, do đó vạn vật tồn tại và phát triển.
Luật chế hóa: Chế hoá là chế ức và sinh hoá phối hợp với nhau. Chế hoá bao
gồm cả hiện tượng tương sinh và tương khắc. Hai hiện tượng này gắn liền với nhau
nhằm biểu thị sự cân bằng trong vạn vật; nhưng nếu có hiện tượng sinh khắc thái
quá hoặc không đủ thì sẽ xảy ra sự biến hoá khác thường. Quy luật chế hoá Ngũ
hành là:
− Mộc khắc thổ, thổ sinh kim, kim khắc mộc.
− Hỏa khắc kim, kim sinh thủy, thủy khắc hỏa.
− Thổ khắc thủy, thủy sinh mộc, mộc khắc thổ.
− Kim khắc mộc, mộc sinh hỏa, hỏa khắc kim.
− Thủy khắc hỏa, hỏa sinh thổ, thổ khắc thủy.
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang 22
− Hình 3: Biều tượng Ngũ hành tương sinh – tương khắc
1.5. Mối quan hệ giữa Âm dương và Ngũ hành:
Thời Chiến quốc, Trâu Diễn đã kết hợp hai học thuyết này để giải thích các
sự vật, sự việc, qua đó giúp lĩnh vực khoa học tự nhiên được phát triển. Cuối thời

Chiến Quốc, đầu thời Tần Hán có hai xu hướng khác nhau bàn về sự kết hợp giữa
thuyết Âm dương và thuyết Ngũ hành.
− Hướng thứ nhất: Đổng Trọng Thư kết hợp Âm - Dương, Ngũ hành giữa
con người và tự nhiên có một mối quan hệ thần bí.
− Hướng thứ hai: Tác phẩm "Hoàng Đế Nội kinh" đã sử dụng triết học
Âm dương Ngũ hành làm hệ thống lý luận của y học.
Từ đó, các nhà y học phương Đông đã vận dụng hai học thuyết này như một
lý luận cơ bản cho nền y học phương Đông. Các nhà y học phương Đông cho rằng:
“Cơ thể con người có rất nhiều bộ phận (tạng phủ kinh lạc ), mỗi bộ phận đều có
Dương và Âm được phân loại vào Ngũ hành, cho nên chỉ dùng riêng một học thuyết
để giải thích và phân tích vấn đề của con người có lúc sẽ không được toàn diện. Chỉ
khi nào kết hợp cả hai học thuyết thì mới có thể thu được kết quả đầy đủ. Như Ngũ
tạng, Lục phủ thì tạng là âm, phủ là dương, muốn giải thích sự phát triển của tạng
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang 23
(phủ) thì dùng học thuyết Âm dương để thuyết minh. Nếu nói về quan hệ sinh lý
bệnh lý giữa tạng phủ thì dùng học thuyết Ngũ hành để thuyết minh vì giữa ngũ tạng
có quan hệ tương sinh tương khắc, hợp lại là quy luật chế hoá, tương thừa tương
vũ”.
(1)

Vì thế, Y học phương Đông cũng như các lĩnh vực khác đều phải theo Âm
dương để phân rõ Ngũ hành và theo Ngũ hành để phân biệt Âm dương. Họ đã vận
dụng kết hợp cả Âm dương, Ngũ hành khi bàn đến thực tế lâm sàng mới có thể phân
tích sâu sắc kỹ càng hơn về những vấn đề trong Y học và các lĩnh vực khác. Có thể
thấy trên cơ bản Âm dương hợp với Ngũ hành thành một khâu hoàn chỉnh, giữa Âm
dương với Ngũ hành có mối quan hệ không thể tách rời nhau.
Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA THUYẾT ÂM-DƯƠNG – NGŨ HÀNH ĐỐI
VỚI LĨNH VỰC Y HỌC CỦA PHƯƠNG ĐÔNG
2.1. Nguồn gốc Y học Phương Đông:
Đông y bắt nguồn từ lưu vực sông Hoàng Hà Trung Quốc, hình thành hệ

thống học thuật về nhận thức lý luận trong nền y học phương Đông: Âm dương, Ngũ
hành. Âm dương, Ngũ hành cân bằng thì cơ thể khỏe mạnh, việc chữa bệnh nhằm
lập lại trạng thái cân bằng của các yếu tố đó. Các nhà y học phương Đông dựa vào
hai học thuyết Âm dương và Ngũ hành đã dưa ra 3 học thuyết sau:
− Học thuyết vận khí lại được gọi là ngũ vận (mộc vận, hỏa vận, thổ vận,
kim vận, và thủy vận) lục khí (phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa), là học thuyết nghiên
cứu và tìm hiểu ảnh hưởng của biến đổi về thiên văn, khí tượng, khí hậu của giới tự
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang 24
nhiên đối với sức khoẻ và bệnh tật của cơ thể. Học thuyết này là lịch pháp thiên văn
tính ra biến đổi khí hậu trong năm và quy luật xảy ra bệnh tật.
− Học thuyết tượng tạng, chủ yếu nghiên cứu về công năng sinh lý và biến
đổi bệnh lý của ngũ tạng (tâm, can, tì, phế, thận), lục phủ (ruột non, ruột già, dạ dày,
bàng quang, túi mật, tam tiêu) và (não, tủy, xương, mạch, mật, nữ tử bao).
− Học thuyết kinh lạc có liên quan chặt chẽ với học thuyết tượng tạng. Kinh
lạc là đường qua lại vận hành khí huyết trong cơ thể, có tác dụng nối liền bên trong
và bên ngoài, che phủ toàn thân. Dưới tình hình bệnh lý, công năng hệ thống kinh
lạc xảy ra biển đổi, sẽ xuất hiện triệu chứng bệnh và đặc trưng cơ thể tương ứng.
Thông qua những biểu hiện này, có thể chẩn đoán bệnh tật tạng phủ trong cơ thể.
2.2. Sự vận dụng thuyết Âm dương – Ngũ hành vào lĩnh vực y học của
người Phương Đông:
2.2.1. Âm dương Ngũ hành và Cơ thể:
2.2.1.1. Âm dương và cơ thể:
a. Trên là Âm, dưới là Dương:
Theo cách phân chia này thì đầu là “Âm” và chân là “Dương”.
Theo các nhà nghiên cứu: Ở tư thế nằm, đầu thấp, chân cao sẽ dễ nhớ và tiếp
thu nhanh hơn, họ cho rằng vì máu dồn về não giúp não làm việc tốt hơn.
Người khỏe mạnh, trên mát (âm), dưới ấm (dương), tức Thủy giao xuống
dưới, Hỏa giao lên trên, gọi là Thủy hỏa ký tế.
Ngược lại, khi bị bệnh thì trên nóng (dương) dưới lạnh (âm), tức là Thủy hỏa
không tương giao với nhau gọi là Thủy hỏa vị tế.

b. Bên trái là Dương, bên phải là Âm:
Một cách tự nhiên, hầu như bao giờ chân trái cũng khởi động trước. Theo các
nhà nghiên cứu, khi chuyển động trái đất tạo nên một dòng điện gọi là địa từ lực lôi
cuốn mọi vật - địa từ lực này mang đặc tính âm. Theo nguyên tắc vật lý, 2 vật cùng
cực đẩy nhau, khác cực hút nhau. Lực của trái đất là Âm, do đó sẽ hút lực Dương, vì
thế có thể coi như chân trái mang đặc tính Dương. Điều này rất có giá trị trong việc
điều trị bằng châm cứu khi phải chọn huyệt để châm.
HV: Nguyễn Thị Giang Thanh - Nhóm 6 Lớp K20 Đêm 1 Trang 25

×