Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC VÀ TÔN GIÁO TRONG TRIẾT HỌC CỦA FEUERBACH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.54 KB, 23 trang )

Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU 2
B. PHẦN NỘI DUNG 3
Chương 1 3
CƠ SỞ LÝ LUẬN 3
1.1 Khái quát triết học cổ điển Đức 3
1.2. Quan điểm chung về đạo đức và tôn giáo 6
Chương 2: 9
QUAN ĐIỂM VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ TÔN GIÁO
TRONG TRIẾT HỌC CỦA LUDWIG FEUERBACH 9
2.1 Quan điểm của Ludwig Feuerbach về đạo đức 9
2.2 Quan điểm tôn giáo 13
2.3 Thành tựu và hạn chế trong Triết học Feuerbach 16
2.4 Đóng góp vào cuộc sống 20
Theo Feuerbach, con người vừa mang bản tính cá nhân vừa mang bản tính cộng đồng,
quan hệ giữa người và người chỉ có một đó là tình yêu. Ông coi tình yêu là bản tính vốn
có của con người, là cái thiêng liêng nhất, đáng được tôn trọng, đáng được tôn thờ như
một niềm tin tôn giáo. Quan niệm của ông đã mang lại cho nhân loại một cái nhìn mới
mẻ về chính bản thân mình, khi cho rằng, con người cũng như xã hội loài người là một
thực thể, một bộ phận của thế giới tự nhiên, là kết quả phát triển lâu dài của giới tự
nhiên đem lại.(8) 20
Chương 3: 21
Tài liệu tham khảo 23
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 1 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Triết học là là sản phẩm tinh thần của hiện thực và thời đại, là nền tảng


hình thành và phát triển của xã hội loài người. Triết học được xem như là gốc rễ
của ngành khoa học. Triết học phát triển từ thấp đến cao, giống như một cây cổ
thụ từ lúc nảy mầm, phát triển đến khi trưởng thành.
Dưới tán cây cổ thụ triết học lịch sử có biết bao bông hoa nở rộ, mỗi một
bông hoa mang một gam màu làm tươi đẹp cuộc sống của chúng ta, giúp khai
sáng tri thức của nhân loại. Trong số những bông hoa ấy, Ludwig Feuerbach nổi
lên như đại biểu cuối cùng của triết học cổ điển Đức. Và ông đã mang đến vinh
quang cho toàn bộ nền triết học tư sản cổ điển. Feuerbach là nhà triết học duy vật
duy nhất một mình chống lại hệ thống triết học duy tâm của triết học tư bản cổ
điển Đức. Triết học của ông chất chứa đầy tính duy vật khả tri và nhân bản, nó là
cội nguồn tư tưởng của triết học Mác .
Đặc biệt trong quan điểm triết học của Feuerbach thì vấn đề về tôn giáo và
con người chiếm vị trí chủ đạo. Hơn nữa, vấn đề con người của ông thể hiện tính
nhân bản cao, ông đề ra các nguyên tắc và chuẩn mực hành vi của con người
trong xã hội – đạo đức. Đây là những khía cạnh rất quan trọng trong đời sống xã
hội, nó đã và đang chi phối mạnh mẽ đến hành vi của mỗi con người. Và
Feuerbach chính là một trong những người đặt nền tảng đầu tiên và sâu sắc trong
vấn đề này. Vì vậy, nhóm 7 đã chọn lựa đề tài này nhằm đem đến một cái nhìn rõ
hơn về quan điểm của Feuerbach về bản chất của tôn giáo và đạo đức.
Về phương pháp nghiên cứu bài viết này dùng phương pháp mô tả, phân
tích dựa trên các tài liệu sẵn có. Đây chỉ là một bài khảo cứu chuyên ngành nên
bài viết chỉ giới hạn trong những điểm cơ bản nhất về quan điểm đạo đức và tôn
giáo trong Triết học Feuerbach. Tuy nhiên, với những giới hạn nhất định và khả
năng nghiên cứu có hạn nên bài tiểu luận không tránh khỏi một số thiếu sót, rất
mong được những lời góp ý chân thành của Thầy và bạn đọc.
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 2 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
B. PHẦN NỘI DUNG

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Khái quát triết học cổ điển Đức
1.1.1 Hoàn cảnh ra đời
Vào cuối thế 18 đầu thế kỷ 19, Tây Âu đã đạt được những thành tựu Kinh
tế – xã hội mới, Chủ nghĩa tư bản được thiết lập ở một số nước như Italia, Anh,
Pháp. Sự thiết lập đó đã đem lại một nền sản xuất ưu việt, và tân tiến chưa từng
có trong lịch sử so với tất cả các chế độ trước đó. Trong khi các nước Tây Âu đạt
được những thành tựu to lớn như vậy nhưng nước Đức cho đến đầu thế kỷ 19 vẫn
là một quốc gia phong kiến lạc hậu. Sở dĩ nước Đức còn ở trình độ rất lạc hậu vì
hai lý do:
Thứ nhất, về địa lý, nước Đức đứng ngoài những đường thương mại quốc
tế lớn, chủ yếu bấy giờ đang phát triển ở bờ biển Đại Tây Dương (Tư bản phát
triển ở Anh, Hà Lan, Pháp), ngoại thương không có điều kiện phát triển nên nền
kinh tế Đức lúc bấy giờ vẫn lạc hậu và kém phát triển.
Thứ hai, trong giai đoạn này nền kinh tế và chính trị của Đức lạc hậu và
rơi vào khủng hoảng. Các lực lượng tiến bộ ở Đức đã bị đàn áp và tiêu hủy phần
lớn, các giai cấp nông dân, tiểu tư sản và tư sản bị chế độ hoàng thân lần lượt đàn
áp. Cả đất nước bao trùm bầu không khí bất bình của đông đảo quần chúng. Chế
độ phong kiến thối nát vẫn được tích cực duy trì làm cản trở đất nước phát triển
theo con đường tư bản chủ nghĩa. Liên bang Đức chỉ tồn tại về hình thức, thực
chất, đất nước cũng phân chia thành nhiều tiểu vương quốc nhỏ tách biệt nhau.
(1)
Trong bối cảnh đó, Nước Đức cần phải có cách nhìn mới về hiện tượng tự
nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại, cần có quan niệm mới về khả năng và hoạt
động của con người. Với nhu cầu đó, triết học cổ điển Đức ra đời. Với sứ mạng
lịch sử đó, Triết học cổ điển Đức thời kỳ này đạt được sự phát triển chưa từng có
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 3 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức

TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
đồng thời góp phần phát triển về tự nhiên, văn hoá nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu
cầu về tư tưởng của nước Đức cũng như các nước phương tây.
1.1.2 Các nhà triết học tiêu biểu
Đây là thời kỳ vàng son của Triết học cổ điển Đức, vì nó được xem như
đã hoàn thành sứ mạng lịch sử với nhiều đại diện triết học tiêu biểu như:
1.1.2.1. Immanuel Kant
Immanuel Kant (22/4/1724 - 12/2/1804) được xem là triết gia quan trọng
của nước Đức, vì tư tưởng triết học của ông thể hiện nền văn hóa tân tiến và của
nhiều lĩnh vực khoa học nhân văn khác. Sự nghiệp triết học của ông được biết
đến qua hai giai đoạn: "tiền phê phán" và sau năm 1770 là "phê phán". Học
thuyết "Triết học siêu nghiệm" (Transzendentalphilosophie) của Kant đã đưa triết
học Đức bước vào một kỉ nguyên mới. "Danh tiếng của ông đã đẩy lùi những gì
đi trước vào bóng tối và toả sáng lên trên những gì đi sau", như nhận xét của triết
sử gia J. Hirschberger.
1.1.2.2. George Wilhelm Friedrich Hegel
George Wilhelm Friedrich Hegel ( 27/8/1770 – 14/11/1831) là một nhà
triết học người Đức, cùng với Johann Gottlieb Fichte và Friedrich Wilhelm
Joseph Schelling, Hegel được coi là người sáng lập ra chủ nghĩa duy tâm Đức.
Hegel là người có ảnh hưởng tới vô số các nhân vật, bao gồm cả những
người hâm mộ ông (Bauer, Marx, Bradley, Sartre, Küng) lẫn những người nói
xấu ông (Schelling, Kierkegaard, Schopenhauer, Nietzsche, Heidegger, Russell).
Ông bàn luận về mối quan hệ giữa tự nhiên và tự do, tính nội tại và sự siêu
nghiệm, về sự thống nhất của hai mặt mà không phải loại trừ hay giảm bớt thái
cực nào. Những khái niệm có tầm ảnh hưởng của ông là về Logic phân tích, Biện
Chứng, Chủ Nghĩa Duy Tâm Tuyệt Đối, tinh thần, biện chứng về "ông chủ/nô
lệ", về cuộc sống đạo đức và tầm quan trọng của lịch sử. Hegel bị kết tội là cha
đẻ của Chủ nghĩa phát xít, dù nhiều người ủng hộ ông lại không đồng ý với quan
điểm này.
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 4 Tiểu luận triết học

Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
Dù thế nào đi nữa thì Hegel vẫn là người có công lớn trong việc phát triển
triết học thế giới vì ông là người đầu tiên sử dụng phép biện chứng một cách có
hệ thống, chính nhờ vào phép biện chứng của Hegel mà Marx đã có những thành
công rực rỡ trong việc phát triển lý luận Chủ Nghĩa Xã Hội khoa học, là hạt nhân
của Chủ Nghĩa Marx-Lenin ngày nay.
1.1.2.3. Johann Gottlieb Fichte
Johann Gottlieb Fichte (19/5/1762 – 27/1/1814) là một nhà triết học
Đức. Ông là một trong những nhân vật sáng lập phong trào triết học được gọi là
chủ nghĩa duy tâm Đức, một phong trào đã phát triển từ các tác phẩm lý luận và
đạo đức của Immanuel Kant. Fichte thường bị coi như là một con số mà triết lý
hình thành một cầu nối giữa các ý tưởng của Kant và chủ nghĩa duy tâm của
Hegel. Fichte cũng đã viết triết học chính trị và được xem là một trong những cha
đẻ của chủ nghĩa dân tộc Đức.
1.1.2.4. Ludwig von Andreas Feuerbach
Ludwig von Andreas Feuerbach (28/7/1804 - 13/9/1872) là một nhà
triết học Đức và nhà nhân chủng học. Ông là con trai thứ tư của luật gia nổi
tiếng Paul Ritter von Johann Anselm Feuerbach, anh trai của nhà toán học Karl
Wilhelm Feuerbach, và chú của họa sĩ Anselm Feuerbach.
Ông là đại diện cuối cùng, là sự kết thúc vẻ vang của Triết học cổ điển
Đức. Ông là nhà cải cách triệt để, nhà duy vật và vô thần. Feuerbach bắt đầu sự
nghiệp của mình với tư cách là một nhà duy tâm, là môn đệ và là học trò của
Hegel. Ông thuộc nhóm Hegel trẻ. Tư tưởng cải cách triết học của ông nhen
nhóm từ 1828 và được hình thành từ năm 1829, khi ông vừa hoàn thành Luận án
Tiến sĩ và bắt đầu giảng môn logic học và siêu hình học tại Erlangen. Triết học
Feuerbach là sản phẩm tất yếu của những điều kiện mới, hình thành vào cuối
những năm 30 - đầu những năm 40. Đó là thời kỳ nhen nhóm tình thế cách mạng
ở nhiều nơi trên nước Đức, thời kỳ gia tăng các cuộc đấu tranh tư tưởng giữa giai

cấp tư sản và phản động.
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 5 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
Feuerbach là nhà tư tưởng tự do và là nhà triết học duy vật duy nhất một
mình chống lại chủ nghĩa duy tâm với bài viết “ Góp phần phê phán triết học
Hegel”(1839) trong hệ thống triết học Đức, tuy nhiên Ông chỉ là nhà triết học
duy vật trong lĩnh vực tự nhiên còn trong lĩnh vực xã hội ông vẫn bị ảnh hưởng
của chủ nghĩa duy tâm. Đồng thời, các tư tưởng triết học của ông mang đậm tính
nhân bản nên mặc dù ông có rất nhiều tác phẩm nhưng nó không phục vụ cho
giai cấp thống trị và tư sản nên các tác phẩm: “Tư tưởng về cái chết và sự bất
tử”(1830); “Lịch sử triết học cận đại từ Becơn đến Spinoza(1833), “Trình bày,
phát triển và phê phán triết học Leibniz”(1837) ; “Pie Beilơ. Về lịch sử triết học
và lịch sử loài người”(1838); “Luận cương khởi đầu về cải cách triết học”
(1842); “Các luận điểm triết học cơ bản của tương lai" (1843) lúc bấy không
được quan tâm.
1.2. Quan điểm chung về đạo đức và tôn giáo
1.2.1. Đạo đức là gì
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về đạo đức, nhưng khái quát chung
đạo đức có thể được định nghĩa như sau:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những qui tắc, nguyên
tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh cách đánh giá và cách ứng xử của con
người với nhau trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực
hiện bởi niềm tin cá nhân, sức mạnh của truyền thống và sức mạnh của dư luận
xã hội.
(2)
1.2.2 Tôn giáo là gì
Khi nói đến tôn giáo, dù theo ý nghĩa hay cách biểu hiện nào thì luôn luôn
phải đề cập đến vấn đề hai thế giới: thế giới hiện hữu và thế giới phi hiện hữu,

thế giới của người sống và thế giới sau khi chết, thế giới của những vật thể hữu
hình và vô hình.
Tôn giáo không chỉ là những sự bất lực của con người trong cuộc đấu
tranh với tự nhiên và xã hội, do thiếu hiểu biết dẫn đến sợ hãi và tự đánh mất
mình do đó phải dựa vào thánh thần mà còn hướng con người đến một hy vọng
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 6 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
tuyệt đối, một cuộc đời thánh thiện, mang tính “Hoàng kim nguyên thủy”, một
cuộc đời mà quá khứ, hiện tại, tương lai cùng chung sống. Nó gieo niềm hi vọng
vào con người, dù có phần ảo tưởng để yên tâm, tin tưởng để sống và phải sống
trong một thế giới trần gian có nhiều bất công và khổ ải.
Như vậy: Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình,
mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại
một cách hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên
kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử,
hoàn cảnh địa lý – văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo,
được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng
cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau.
1.2.3. Sơ lược các quan điểm về đạo đức và tôn giáo
1.2.3.1 Quan niệm về đạo đức
+ Nho gia: những phạm trù đạo đức thể hiện các nguyên tắc cơ bản của
đạo đức Nho gia – đạo đức hướng đến xây dựng mẫu người quân tử, và muốn trở
thành người quân tử cần phải tu thân.
(3)
+ Đạo gia: đạo đức thực hiện theo quan điểm vô vi, khuyên con người
trong cuộc sống phải thực hiện sáu điều: a) Tri túc (biết đủ thì dừng lại), b)
Không cạnh tranh, không bạo động, lấy thiện thắng ác, lấy nhu thắng cương, c)
Công thành thân thoái, d) Sống vô tư, hồn nhiên, đ) Lấy đức báo oán, e) Tu luyện

thần hóa, hạn chế dục tính.
(4)

+ Aristote: đời sống đạo đức, hạnh phúc của con người không nằm trong
thế giới ý niệm trên trời mà nằm trong thế giới hiện thực dưới đất, nơi trần gian,
đồng thời chúng phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, nhu cầu của từng người
trong cộng đồng xã hội.
(5)

+ Immanuel Kant: Kant cho rằng một mặt con người là một nhân cách
đạo đức, trong đó lý tính là nguồn gốc duy nhất phát sinh các nguyên lý, chuẩn
mực hướng dẫn hành vi đạo đức, mặt khác khát vọng cá nhân hướng con người
đến hành vi phi đạo đức. Đạo đức của ông thể hiện lý tưởng cao đẹp nhất mà cả
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 7 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
nhân loại hướng đến - lý tưởng tự do.
(6)
⇒ Quan điểm đạo đức tuy có nhiều điểm
không tưởng phi lịch sử, phi giai cấp, thiếu cơ sở hiện thực nhưng chứa đựng
nhiều tư tưởng nhân đạo sâu sắc vì nó góp phần xóa bỏ quan niệm ích kỷ hẹp
hòi, giải phóng tư tưởng con người khỏi gông cùm của ý thức hệ phong kiến.
+ Hegel: Khi cá nhân pháp lý trở thành chủ thể đạo đức thì tinh thần
khách quan tự phát triển vào lĩnh vực đạo đức. Đạo đức là pháp quyền của hành
vi, nó lấy sự hòa hợp hành vi của các chủ thể làm cơ sở.
1.2.3.2 Quan điểm về tôn giáo
+ Denis Diderot: phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế từ lập trường duy
vật. Ông cho rằng, Thượng đế chỉ là sự thần thánh hóa các điều kiện hiện thực
của con người. Không phải Thượng đế sáng tạo ra con người mà ngược lại. Lý

tính khoa học và tôn giáo không thể kết hợp được với nhau. Vì lý tính khoa học
mang lại cho con người hiểu biết đúng đắn về thế giới còn tôn giáo chỉ mang lại
cho người những ảo tưởng.
+ Paul Henri Ditrich Holbach: Tôn giáo được bịa đặt để đặt các vua
chúa lên trên các dân tộc, và đặt các dân tộc nhận thấy cuộc sống vô cùng khổ
cực của mình trên trái đất này và tìm cách thay đổi nó thì người ta lấy Thượng
để để đe dọa họ, hòng buộc họ khuất phục, chấp nhận.
+ Wihelm Joep Schelling: ông coi giới tự nhiên là sản phẩm sáng tạo của
Thượng đế. Bằng trực giác nghệ thuật, con người chỉ có thể nhận biết một cách
mơ hồ về Thượng đế - cái tuyệt đối. Khi không tin tưởng vào trí tuệ lý trí mà
cũng không hài lòng với trực giác ngoại (phi) lý, Senlinh đặt niềm tin vào ý chí.
Sự đề cao ý chí này của ông đã được Soopenhauơ phát triển.
+ Hegel: Tôn giáo là phương thức mà ý niệm tuyệt đối sử dụng để tự
khám phá ra chính mình, để rũ bỏ mọi dấu vết vật chất bám vào mình nơi trần
gian mà quay về với mình, quay về với cái khởi đầu trong tính toàn vẹn và đầy
đủ của nó.
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 8 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
Chương 2:
QUAN ĐIỂM VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ TÔN GIÁO
TRONG TRIẾT HỌC CỦA LUDWIG FEUERBACH
Xuất phát từ quan điểm coi triết học mới phải là triết học về con người,
Feuerbach lấy con người làm đối tượng nghiên cứu của mình. Trên cơ sở đó, ông
xây dựng hệ thống quan điểm về đạo đức và tôn giáo của mình.
2.1 Quan điểm của Ludwig Feuerbach về đạo đức
Trong triết học của ông Quan điểm đạo đức đề cập rải rác trong một số tác
phẩm nên nếu cố gắng đào sâu phân tích chúng ta có thể tìm thấy nhiều nét đặc
trưng.

2.1.1 Lý luận về đạo đức
Đạo đức học của Feuerbach giả định rằng những phương tiện và những
vật để thoả mãn yêu cầu con người thì hiển nhiên mọi người đều có, hoặc là nó
chỉ mang lại cho con người nhiều lời dạy bảo tốt nhưng không áp dụng được; và
như vậy thì đạo đức học đó không đáng giá một xu đối với những người thiếu
những phương tiện nói trên. Và đó là điều mà chính Feuerbach cũng đã giải thích
bằng lời lẽ thẳng thắn: “Trong một cung điện người ta suy nghĩ khác trong một
túp lều tranh. Nếu như vì đói, vì nghèo, mà trong cơ thể anh không có chất dinh
dưỡng, thì trong đầu óc anh, trong tình cảm của anh và trong trái tim anh cũng
không có chất nuôi đạo đức”.
Theo học thuyết của Feuerbach về đạo đức thì sở giao dịch chứng khoán
là ngôi đền cao nhất của đạo đức, nếu như ở đó người ta luôn luôn đầu cơ một
cách có trí tuệ. Nếu như lòng mong muốn hạnh phúc của tôi dẫn tôi đến sở giao
dịch và nếu như ở đó, tôi biết cân nhắc thật đúng đắn những hậu quả của hành
động của tôi sao cho những hành động đó chỉ đem lại cho tôi những điều lợi, chứ
không đem lại một sự bất lợi nào, nghĩa là nếu tôi luôn luôn có lợi thì điều căn
dặn của Feuerbach đã được hoàn thành. Và đồng thời, tôi hoàn toàn không làm
hại đến lòng mong muốn hạnh phúc của người khác, vì người ấy cũng đi tới sở
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 9 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
giao dịch một cách tự nguyện như tôi, và khi người đó giao dịch đầu cơ với tôi,
thì cũng như tôi, người đó đã theo đuổi lòng mong muốn hạnh phúc của mình.
Nếu như anh ta mất tiền thì chính do hành động của anh ta tỏ ra là vô đạo đức vì
tính toán sai,và bằng cách buộc anh ta phải chịu sự trừng phạt xứng đáng, tôi có
thể tự hào rằng mình là một Ra-đa-man-tơ hiện đại. Nói một cách khác, đạo đức
học của Feuerbach được gọt giũa cho thích hợp với xã hội tư bản chủ nghĩa hiện
nay, dù ông có những mong muốn như thế nào và những ý định như thế nào đi
chăng nữa.

Theo Feuerbach tính cảm giác là động lực chủ yếu quyết định hành vi của
mỗi cá nhân và xã hội nói chung. Feuerbach phân biệt đạo đức của con người với
đạo đức tôn giáo, Feuerbach phủ nhận Thượng đế, đề cao tôn giáo “thuần khiết”
của tình yêu. Do vậy đạo đức học của Feuerbach có cơ sở từ nguyên lí nhân bản
và chủ nghĩa tự nhiên. Nếu cảm giác là tính chân lí, thì nó chi phối đạo đức, đó là
điều dễ hiểu. Các hình thức của tính cảm giác rất đa dạng: Tình yêu cuộc sống,
khát vọng, hạnh phúc, ích kỉ, quyền lợi, nhu cầu thoả mãn bản chất cảm tính của
con người, sự hài lòng.v.v….tất cả chúng đều hiện hữu, ngự trị trong con người,
biến con người thành một thực thể phức tạp.
2.1.2 Về tự do và tất yếu
Feuerbach nói, con người tự do trong tính tất yếu của mình. Con người
hành động vì thích thú, vì bị thúc giục từ một nỗi đam mê nào đó, nhưng khi
hành động con người thể hiện mình tự do. Tự do thực sự không nằm ngoài thời
gian và không gian, ngoài các sự vật được tri giác. Tự do tinh thần chỉ đến khi
thể xác được giải phóng. Feuerbach viết: “chỉ có tự do cảm tính mới là tự do tinh
thần, chỉ có khát vọng hạnh phúc mới gắn tự do với tính tất yếu”. Khái niệm tự
do của Feuerbach về cơ bản đồng nhất với khái niệm tự do của Spinoza. Con
người theo Spinoza, chỉ là phần quá nhỏ bé của thiên nhiên, vì vậy hoạt động vừa
nó phải phù hợp với “trật tự thiên nhiên phổ quát”. Trong quá trình hoạt
động,con người tìm thấy mình, khẳng định mình bằng xúc cảm và tư duy, bằng
khả năng tự bảo vệ.
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 10 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
Đối với Feuerbach tự do là sự thống nhất con người với hoàn cảnh, nơi
bản chất của nó bộc lộ ra chủ nghĩa chim tự do trong không khí, con cá tự do
trong biển cả, con người tự do ở nơi nào và khi nào mà hoàn cảnh sống của nó
cho phép nó thoả mãn khát vọng hạnh phúc. Quan điểm trừu trượng, tự nhiên chủ
nghĩa Feuerbach về tự do tương xứng với đòi hỏi của các nhà khai sáng tư sản

đặt hoàn cảnh sống của con người phù hợp với bản chất của con người, làm cho
hoàn cảnh ấy mang tính người.
2.1.3 Vấn đề khát vọng hạnh phúc
Mỗi cá nhân đều có quyền sống hạnh phúc và hướng tới hạnh phúc. Khái
niệm hạnh phúc được hiểu khá rộng, nhưng ý nghĩa, tính chất của nó chỉ có một -
tính cá thể. “mỗi nước, mỗi dân tộc và mỗi con người có hạnh phúc riêng của
mình…”. Cái gì là hạnh phúc của anh, không phải là hạnh phúc của tôi, cái gì
làm anh khiếp sợ, thì làm cho tôi thích thú…tuy nhiên ở một chổ khác.
Feuerbach nhấn mạnh con người xã hội. Chỉ có con người xã hội mới là
con người. Con người không tồn tại và phát triển trong đơn độc. Sự liên hợp tự
nhiên của con người trở nên tính tất yếu. Sự giao thiệp và hòa đồng làm cho hạnh
phúc của con người không còn là cái gì khó đạt được. Bên ngoài tôi và bên ngoài
anh không có hạnh phúc, vì vậy không có đạo đức.
Bao trùm lên toàn bộ đạo đức học của Feuerbach là nguyên lý tình yêu
phổ quát. Tình yêu là công cụ sáng tạo, cơ sở xây dựng quan hệ giữa người với
người, đối với hận thù là công cụ phá hoại, tiêu diệt xung đột.
Về hình thức, Feuerbach là một người hiện thực chủ nghĩa, ông lấy con
người làm xuất phát điểm. Ông cho rằng con người mang bản tính cá nhân, và
con người – cá nhân cũng mang bản tính cộng đồng, có bản chất nằm trong tình
yêu. Theo đó, mỗi con người là một cá thể sinh học đặc biệt có lý trí, có ý chí, có
trái tim … của riêng mình để nhận thức, để khác vọng đam mê, để rung động
cảm xúc. Hạnh phúc của mỗi cá nhân là hạnh phúc được kiếm tìm trong sự hòa
hợp với mọi người, trong cộng đồng. Tình yêu giữa con người với nhau vừa là
phương tiện vừa là mục đích của sự hòa hợp xã hội, và hơn thế nữa, nó còn là
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 11 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
động lực tiến bộ xã hội, bởi vì nó là sự thể hiện rõ nhất bản chất người trong mỗi
con người.

Đứng trên quan điểm nhận thức, ông cho rằng thực tiễn là hoạt động bản
năng mang tính thấp hèn, cần được loại ra khỏi nhận thức, trục xuất ra khỏi hệ
thống triết học mà không thấy được vai trò của thực tiễn đối với hoạt động nhận
thức và đối với đời sống xã hội.
Feuerbach chưa hề nghĩ đến nghiên cứu vai trò lịch sử của điều ác về mặt
đạo đức. Đối với ông, lịch sử nói chung là một lĩnh vực không được dễ chịu lắm
và đáng ngại, mặc dù ông đã từng phát biểu châm ngôn sau đây: “Khi con người
mới vừa sinh ra từ giới tự nhiên, chỉ là một sinh vật tự nhiên đơn thuần chứ
không phải là người. Con người là sản phẩm của con người, của văn hóa, và của
lịch sử”, Từ việc công nhận con người như là sản phẩm của văn hoá, của lịch sử,
Feuerbach đi đến quan điểm cho rằng, tính ích kỷ không chỉ mang tính cá nhân
như các nhà tư tưởng, các nhà đạo đức học trước ông (đặc biệt là những người
theo eudaimonism - chủ nghĩa duy hạnh) tuyên bố, mà nó còn mang tính xã hội.
Feuerbach viết: "Không chỉ có một tính ích kỷ đơn độc hay là tính ích kỷ
cá nhân mà còn có một tính ích kỷ xã hội, một tính ích kỷ của gia đình, của tập
thể, của cộng đồng, một tính ích kỷ yêu nước. Tất nhiên, tính ích kỷ là nguyên
nhân của mọi điều ác, nhưng cũng là nguyên nhân của mọi điều thiện, bởi vì
không cái gì khác ngoài tính ích kỷ đã tạo nên sự chiếm hữu ruộng đất, nên
thương nghiệp, cũng vì tính ích kỷ mà có nghệ thuật, có khoa học tính ích kỷ
ngăn cấm sự trộm cướp, dối trá, làm hạn chế sự ngoại tình".
Theo Feuerbach, lòng mong muốn hạnh phúc là bẩm sinh ở con người, do
đó, nó phải là cơ sở của mọi đạo đức. Song, lòng mong muốn hạnh phúc phải
chịu hai sự uốn nắn. Thứ nhất, sự uốn nắn của những hậu quả tự nhiên của hành
vi của chúng ta: sau trác táng thì đến chán chường, sau thói quen chơi bời quá độ
thì đến bệnh tật. Thứ hai, sự uốn nắn của những hậu quả xã hội của những hành
vi đó: nếu như chúng ta không tôn trọng lòng mong muốn hạnh phúc đó của
những người khác thì những người đó sẽ phản kháng lại và phá hoại lòng mong
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 12 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức

TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
muốn hạnh phúc của chúng ta. Do đó, nếu như chúng ta muốn thỏa mãn lòng
mong muốn hạnh phúc của chúng ta, chúng ta phải biết đánh giá đúng những hậu
quả của hành vi của chúng ta, và ngoài ra, chúng ta phải tôn trọng những người
khác cũng có quyền bình đẳng với chúng ta trong việc mong muốn hạnh phúc.
Do đó, sự tự hạn chế một cách hợp lý bản thân, và tình yêu - lại tình yêu! - trong
quan hệ với những người khác, là những quy tắc cơ bản của đạo đức của
Feuerbach, mà từ đó rút ra những quy tắc khác.
Nếu như con người chỉ chăm lo đến bản thân mình thì lòng mong muốn
hạnh phúc của họ chỉ được thỏa mãn trong những trường hợp rất hạn hữu và
hoàn toàn không có lợi cho họ hay cho người khác. Con người cần phải giao lưu
với thế giới bên ngoài, phải có những phương tiện để thỏa mãn yêu cầu của
mình: nghĩa là cần phải có thức ăn, một người thuộc giới tính khác mình, sách
vở, giải trí, tranh luận, hoạt động, vật dụng và đối tượng lao động.
Tình yêu! Vâng, đối với Feuerbach thì tình yêu, ở đâu và bao giờ, cũng là
một ông thần lắm phép lạ có thể giúp vượt mọi khó khăn của đời sống thực tiễn,
và điều đó diễn ra trong một xã hội chia thành những giai cấp có những lợi ích
đối lập hẳn với nhau. Do đó, những vết tích cuối cùng của tính chất cách mạng
trong triết học của ông đều biến mất hết và chỉ còn lại cái điệp khúc cũ kỹ: Hãy
yêu nhau đi, hãy ôm nhau đi, không cần phân biệt nam nữ và đẳng cấp. - Thật là
giấc mơ thiên hạ thuận hòa!
Tóm lại, học thuyết của Feuerbach về đạo đức thì cũng giống như tất cả
những học thuyết trước đó. Nó được gọt giũa cho thích hợp với mọi thời kỳ, mọi
dân tộc, mọi hoàn cảnh.
2.2 Quan điểm tôn giáo
Triết học tôn giáo là phần chiếm vị trí chủ đạo trong hệ thống triết học của
nhà triết học duy vật cổ điển Đức - Ludvig Feuerbach (1804- 1872).
(*)
Trong cuộc đời hoạt động khoa học của mình, ông đã dành phần lớn thời
gian cho việc nghiên cứu và phê phán tôn giáo. "Tư tưởng đầu tiên của tôi -

Feuerbach viết - là Thượng Đế, thứ hai - lí tính, thứ ba và cuối cùng là con người".
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 13 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
Điều đó cũng đã được chứng thực bằng việc ra đời của các tác phẩm nổi tiếng của
ông về đề tài tôn giáo: Bàn về cái chết và sự bất tử của linh hồn (1830); Bản chất
của Kitô giáo (1841); Bản chất của tôn giáo (1845); Tập bài giảng về bản chất của
tôn giáo (gồm 30 bài, mà ông đã đọc từ tháng 10 năm 1848 đến tháng 3 năm 1849
theo yêu cầu của sinh viên).
2.2.1 Nguồn gốc tôn giáo
Feuerbach cho rằng tôn giáo và niềm tin vào thượng đế đã chia cắt thế
giới cùng con người thành thế giới trần tục và thế giới thiên đường, tôn giáo làm
tha hoá con người để dễ dàng thống trị nó. Tôn giáo không chỉ làm tha hóa mà
còn tước đi ở con người tính năng động, sáng tạo, sự tự do và năng lực độc lập
phán xét. Ông đòi hỏi phải phải lựa chọn: hoặc là tôn giáo – tín ngưỡng – thượng
đế, hoặc là khoa học nhân bản – tình yêu – con người.
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa nhân bản, Feuerbach cho rằng yếu tố
quan trọng hàng đầu tạo tiền đề cho sự xuất hiện tôn giáo là trạng thái tâm lý của
con người. "Thượng Đế không phải là thực thể sinh lý hay thực thể vũ trụ-
Feuerbach viết- mà là thực thể tâm lý". Chính sự xúc cảm mạnh, sự chiêm
nghiệm hay trạng thái đau khổ của con người là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
Nhưng sự chiêm nghiệm hay trạng thái đau khổ, trạng thái xúc cảm không phải là
hiện tượng có tính chủ quan như chủ nghĩa duy tâm chủ quan quan niệm , mà
chúng có tính khách quan, nghĩa là gắn liền với các hiện tượng tự nhiên và đời
sống xã hội. Feuerbach viết " tôn giáo là giấc mơ của tinh thần con người nhưng
trong giấc mơ đó chúng ta không phải ở trên bầu trời mà ở trên mặt đất trong
vương quốc của hiện thực, chúng ta nhìn thấy các đối tượng của hiện thực không
phải trong thế giới thực tế của tính tất yếu mà là trong thế giới say mê của trí
tưởng tượng và sự kỳ quặc. Nhiệm vụ của tôi là bóc trần bản chất đích thực của

tôn giáo và triết học tư biện hay thần học, chuyển thế giới nội tâm ra thế giới bên
ngoài, nghĩa là biến đối tượng tưởng tượng thành đối tượng hiện thực".
Feuerbach viết " tôn giáo là sự phản ánh thời thơ ấu của nhân loại hay
trong tôn giáo con người là đứa trẻ. Đứa trẻ không thể thực hiện ý muốn của
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 14 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
mình bằng sức mạnh của nó, phải nhờ đến một tồn tại mà nó cảm thấy lệ thuộc
tôn giáo có nguồn gốc xuất hiện, có chỗ đứng chân chính, có ý nghĩa trong thời
thơ ấu của nhân loại".
2.2.2 Bản chất tôn giáo:
Feuerbach nghiên cứu bản chất của tôn giáo dựa trên các mối quan hệ giữa
tôn giáo với: chính trị, đạo đức, khoa học, triết học duy tâm và nghệ thuật
2.2.2.1. Mối quan hệ giữa tôn giáo với chính trị
Nghiên cứu lịch sử tồn tại và phát triển của các quốc gia từ thời cổ đại đến
đương đại, Feuerbach cho rằng, chính quyền nhà nước luôn giữ mối quan hệ với
giáo hội, tôn giáo là chỗ dựa của chính trị và ngược lại.

2.2.2.2. Mối quan hệ giữa tôn giáo với đạo đức
Dựa trên những khảo cứu lịch sử hiện thực của nhân loại, Feuerbach thấy
rằng trong thực tế thường diễn ra sự thù địch giữa tôn giáo này với tôn giáo khác,
sự thù địch giữa người theo đạo và kẻ dị giáo. Hơn nữa có những người có chức
sắc tôn giáo cao trong giáo hội, song họ vẫn có những hành vi phi đạo đức. Từ đó
ông lên tiếng phản đối quan điểm của các nhà thần học cho rằng dường như phủ
định thượng đế là một bước dẫn tới sự tiêu diệt quan hệ đạo đức. Theo
Feuerbach, để có một xã hội tất đẹp thì phải tiến hành cải cách tôn giáo: "Nếu
như bản chất con người là bản chất cao quý của con người, thì tình yêu hiện thực
đối với con người cần phải là quy luật đầu tiên cao quý của con người. Con
người đối với con người là thượng đế - đó chính là nền tảng thực tiễn cao nhất, là

xuất phát điểm của lịch sử toàn cầu. Quan hệ của đứa bé đối với cha mẹ mình,
của chồng đối với vợ, của anh đối với em, của bạn bè đối với nhau, nói chung là
quan hệ của con người đối với con người, nói tóm lại, các quan hệ đạo đức thuần
túy chính là các quan hệ tôn giáo.
2.2.2.3. Mối quan hệ giữa tôn giáo với khoa học
Feuerbach cho rằng khoa học không thể dung hòa với tôn giáo, giữa chúng
có sự khác biệt về nội dung, phương pháp và vai trò: Về nội dung, bằng những
bằng chứng khoa học đương thời, Feuerbach phủ nhận quan điểm của Kinh
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 15 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
Thánh về Chúa Sáng Thế. Về phương pháp, ông cho rằng khoa học và tôn giáo
có phương pháp tiếp cận các đối tượng nghiên cứu khác nhau. Về vai trò,
Feuerbach giải thích rằng, sự hình, tồn tại và phát triển của tôn giáo gắn liền với
sự ngu đốt, sự lạc hậu, tôn giáo được truyền bá một cách rộng rãi trong quảng đại
quần chúng. Còn khoa học là sự khai sáng trí tuệ.
2.2.2.4. Mối quan hệ giữa tôn giáo với triết học duy tâm
Feuerbach nhận thấy rằng, tôn giáo chính là xuất phát điểm của chủ nghĩa
duy tâm, còn chủ nghĩa duy tâm chính là hình thức phái sinh của tôn giáo.

Ông
viết: “Bản chất của triết học tư biện hàm chứa trong bản chất duy lí hiện thực của
thần thánh. Triết học tư biện chính là thần học duy lý chính hiệu” (Feuerbach,
Sđd.,t.I, tr 137)
2.2.2.5. Mối quan hệ giữa tôn giáo với nghệ thuật
Theo Feuerbach, trong tôn giáo và nghệ thuật thì trí tưởng tượng có vai trò
chủ đạo, chúng đều cần những phương tiện biểu đạt như hình ảnh, biểu tượng,
biểu trưng. Nghệ thuật và tôn giáo tác động một cách trực tiếp tới tình cảm con
người, gây nên trong họ những cảm xúc mạnh.

Như vậy, có thể nói một cách ngắn gọn rằng, Feuerbach đã truy tìm bản
chất của tôn giáo trong bản chất của con người, ông viết. "Bản chất thần thánh
không là cái gì khác như là bản chất con người, bản chất đó đã được gột rửa,
được giải phóng khỏi những giới hạn cá nhân, nghĩa là khỏi những con người vật
lý hiện thực, được khách quan hoá, được nhìn nhận như một bản chất độc lập xa
lạ. Bởi vậy, mọi sự xác định về bản chất thần thánh đều có liên quan đến việc xác
định bản chất con người.

2.3 Thành tựu và hạn chế trong Triết học Feuerbach
2.3.1 Thành tựu
Công lao lịch sử to lớn của Feuerbach ở chỗ, Feuerbach khôi phục, và
phát triển truyền thống duy vật thế kỷ XVIII trong hoàn cảnh chủ nghĩa duy tâm
và thần bí thắng thế ở Đức. Khác với các bậc tiền bối của triết học cổ điển Đức,
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 16 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
Feuerbach là nhà duy vật chiến đấu ở bình diện này. Engels đánh giá cao thế giới
quan duy vật của Feuerbach là đã đưa “ chủ nghĩa duy vật trở lại ngôi vua…”.
Toàn bộ hệ thống triết học của Feuerbach được gọi là chủ nghĩa duy vật
nhân bản vì ông xác định lấy con người làm đối tượng trung tâm của triết học.
Ông xác định nghiên cứu khoa học tự nhiên để phục vụ cho nghiên cứu con
người. Feuerbach đã khẳng định con người hành động theo mệnh lệnh của tính
cảm giác, chứ không phải của lực lượng bên ngoài nào.
Trong những trang sách của Feuerbach đã hiện thân qua ngôn ngữ một
tinh thần công phá, một ý chí chối từ giáo điều Trung cổ bởi một trí thức hiện
đại, dằn vặt với chính mình và thân phận con người, muốn đem tín đồ đạo Chúa,
mà theo ông, những cá thể "nửa thú vật, nửa thiên thần" về lại để "làm người,
toàn diện con người".
(7)

Feuerbach phủ nhận Thượng đế, đề cao tôn giáo “thuần khiết” của tình
yêu. Đạo đức học của Feuerbach do vậy, có cơ sở từ nguyên lí nhân bản và chủ
nghĩa tự nhiên.
Feuerbach phê phán quan niệm về con người cả ở các nhà duy vật thế kỷ
XVII - XVIII lẫn triết học tư biện Hegel. Vấn đề là ở chỗ, Đêcáctơ, La Méttơn,
Điđrô là những nhà tư tưởng lớn của thời đại mình đã đề cao năng lực tư duy, ý
chí sáng tạo, khát vọng tự do của con người, nhưng do chịu sự chi phối của các
nguyên lý cơ học và xu thế toán học hoá tư duy, nên đôi khi họ mô tả cơ thể
người theo một môtíp hết sức máy móc, đại loại như "con người - cỗ máy", “xã
hội - tổ hợp máy". Không chỉ Feuerbach, mà trước đó, quan điểm trên đã bị các
nhà duy tâm, các nhà thần học phê phán quyết liệt. Feuerbach cho rằng, các nhà
duy vật thế kỷ trước đã không làm nổi bật hình ảnh con người sống động, bằng
xương, bằng thịt.
Đóng góp lớn nhất của Feuerbach chính là ở chỗ, ông đã vượt qua một
thói quen tư duy để hình thành cách suy nghĩ mới, cả trong quan niệm về tự
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 17 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
nhiên, về lý luận nhận thức lẫn trong cách hiểu về con người. "Triết học hiện đại
từ bỏ tư tưởng kinh viện " tuyên bố đó của Feuerbach trong “Những nguyên
nhân cơ bản của triết học về tương lai” tự nó đã thể hiện thiên hướng cải cách
tích cực của ông. Triết học cần từ bỏ tính sách vở, những biện luận thuần tuý của
tư duy để đến với cuộc sống, được vật chất hoá trong hoạt động thực tiễn của con
người. Cái cần có trong dự án cải cách triết học của Feuerbach - sự kết hợp giữa
chủ nghĩa duy vật và thuyết nhân bản đã được hiệu chỉnh, hoàn thiện, phát triển
lên trình độ cao, trình độ của chủ nghĩa duy vật biện chứng triệt để và khoa học.
Quan điểm của Feuerbach được coi là một bước tiến dài trong quá trình
nhận thức tôn giáo. Ông cho rằng tôn giáo là sùng bái thần tượng con người đã
khách quan hóa bản thân nhưng lại không nhận ra khách thể chính là bản chất

con người: Tôn giáo là thái độ của con người đối với chính mình nhưng lại làm
như đấy là bản chất khác mình, xa lạ, thậm chí đối lập với mình. Vì thế nên theo
ông, mọi định nghĩa về bản chất Thượng đế đều là định nghĩa về bản chất con
người. Tuy nhiên, hạn chế trong quan niệm này của Feuerbach là con người mà
ông nói đến là con người trừu tượng, không sống trong thế giới hiện thực. Điều
đó đòi hỏi cần có một quan niệm chính xác hơn về bản chất của tôn giáo.
Feuerbach kế tục truyền thống của các nhà duy vật - vô thần Pháp, đặt ra
nhiệm vụ soi sáng bản chất của tôn giáo bằng ngọn đuốc lý tính, để làm cho con
người không còn bị biến thành trò chơi của các lực lượng hoang đường thần bí.
Qua sự phân tích trong tác phẩm “Bản chất đạo Cơ đốc” Feuerbach đưa tôn giáo
về với cơ sở trần tục của nó, bản chất tôn giáo về với bản chất con người. Tôn
giáo không phải là trò lừa dối, mà là sinh hoạt tinh thần cần thiết và quan trọng
của con người ở mọi thời đại.
2.3.2 Hạn chế
Phương án cải cách triết học của Feuerbach không tránh khỏi những ảo
tưởng, do chịu sự tác động của thời đại mình. Trong triết học tự nhiên, sự cải
cách của Feuerbach chỉ thể hiện được một nửa. Trước hết, trong khi phê phán
triết học tư biện, duy tâm của Hegel, Feuerbach không đánh giá đúng mức "hạt
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 18 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
nhân hợp lý" của phép biện chứng Hegel, vì vậy sự phê phán của ông đôi chỗ tỏ
ra thiếu sâu sắc, thiếu sức thuyết phục. Hơn nữa, mặc dù Feuerbach giải quyết
một cách duy vật vấn đề cơ bản của triết học, song ông lại né tránh thuật ngữ duy
vật, không thừa nhận bản chất thế giới quan của mình. Feuerbach xuất phát tử
những khiếm khuyết của chủ nghĩa duy vật ở những thế kỷ trước để phủ nhận các
giá trị thực sự của nó trong lịch sử, hay nói cách khác, ông quy hiện tượng nhất
thời của một khuynh hướng thế giới về bản chất của nó, tức "thấy cây mà không
thấy rừng". Ông nói nhiều đến vận động, phát triển, song không lý giải một cách

đúng đắn động lực của phát triển. Trọng tâm phân tích của Feuerbach là làm sáng
tỏ tính khách quan của tự nhiên, chứ không phải tính biến đổi, tính quy luật, tính
tất yếu khách quan và tính lịch sử của nó. Với những diều vừa nêu, có thể thấy
rằng Feuerbach chưa thể vượt qua khuôn khổ của chủ nghĩa duy vật siêu hình.
Trong thuyết nhân bản - đạo đức, Feuerbach nhấn mạnh giá trị con người,
"tố chất người" nói chung, song chưa nêu ra được những tính quy định xã hội
thực sự làm nên bản chất con người. Feuerbach đã tuyệt đối hoá tình yêu, coi tình
yêu là bản chất của con người mà không chú ý đến mặt xã hội và không thấy
được điều kiện chính trị xã hội mà con người sống. Feuerbach phê phán con
người trong triết học của Hegel là trừu tượng trong khi quan điểm của ông về con
người cũng trừu tượng.
Đạo đức học của Feuerbach, theo Friedrich Engels, tỏ ra nghèo nàn hơn
Hegel do tính dung tục hoá, tính đơn giản và tính ảo tưởng của nó. Feuerbach lấy
con người làm điểm xuất phát, nhưng đó không phải là con người sống trong một
thế giới hiện thực với những quan hệ phức tạp, mà là con người trừu tượng, phi
lịch sử mặc dù đôi khi ông cũng đưa ra hình ảnh tương phản: "trong một cung
điện người ta suy nghĩ khác trong một túp lều tranh". Friedrich Engels chỉ rõ
rằng, tư tưởng đạo đức của Feuerbach đầy ắp những giấc mơ đẹp, nhưng ông lại
không vạch ra từ đâu và bằng cách nào đề biến chúng thành hiện thực. "Đối với
Feuerbach, Friedrich Engels viết, thì tình yêu ở đâu và bao giờ cũng là một ông
thần lắm phép lạ có thể giúp vượt mọi khó khăn của đời sống thực tiễn và điều đó
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 19 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
diễn ra trong một xã hội chia thành những giai cấp có những lợi ích đối lập hẳn
với nhau!( ) hãy yêu nhau đi, hãy ôm hôn nhau đi, không cần phân biệt nam nữ
và đẳng cấp, thật là giấc mơ thiên hạ thuận hoà". Quan niệm thiện - ác, hạnh
phúc - đau khổ, tình yêu - thù địch ở Feuerbach bị chia cắt một cách siêu hình,
thiếu hẳn yếu tố tác động và chuyển hoá. Đây là bước thụt lùi so với Hegel. Ngay

cả đem so sánh với Kant, Feuerbach vẫn quá đơn điệu. Friedrich Engels viết:
"Học thuyết của Feuerbach về đạo đức được gọt dũa cho thích hợp với mọi thời
kỳ, mọi dân tộc, mọi hoàn cảnh và chính vì thế mà không bao giờ nó có thể đem
áp dụng được ở đâu cả”.
Cách tiếp cận giá trị luận về con người là cần thiết, nhưng chưa đủ cơ sở
đề lý giải bản chất thực sự của con người. Cái cần có trong triết học mang tính
cải cách của Feuerbach chỉ dừng lại ở những nét phác thảo đơn giản, sơ lược và
đầy mâu thuẫn.
2.4 Đóng góp vào cuộc sống
Theo Feuerbach, con người vừa mang bản tính cá nhân vừa mang bản tính
cộng đồng, quan hệ giữa người và người chỉ có một đó là tình yêu. Ông coi tình
yêu là bản tính vốn có của con người, là cái thiêng liêng nhất, đáng được tôn
trọng, đáng được tôn thờ như một niềm tin tôn giáo. Quan niệm của ông đã mang
lại cho nhân loại một cái nhìn mới mẻ về chính bản thân mình, khi cho rằng, con
người cũng như xã hội loài người là một thực thể, một bộ phận của thế giới tự
nhiên, là kết quả phát triển lâu dài của giới tự nhiên đem lại.
(8)
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 20 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
Chương 3:
KẾT LUẬN
Feuerbach là một trong những nhà triết học vĩ đại của triết học cổ điển
Đức, triết học của ông đã khôi phục được truyền thống duy vật thế kỷ XVIII
trong hoàn cảnh chủ nghĩa duy tâm đang thống trị đời sống tinh thần ở phương
Tây và phát triển chủ nghĩa duy vật thêm một bước.
(9)
Dù bị các thế lực thời bấy giờ chèn ép, phải sống trong một nơi hẻo lánh
nhưng ông đã rất dũng cảm khi dám bộc lộ tư tưởng triết học của mình.

Feuerbach đã phê phán triết học Hegel- người thầy của ông. Tuy Feuerbach
không phải là người đầu tiên phủ nhận quan điểm của thầy nhưng ông đã có sự
tiến bộ. Trước đây, khi Aristote đứng trên quan niệm duy vật tiến bộ phê phán
thuyết ý niệm của Platon đã rơi vào chủ nghĩa nhị nguyên luận. Quan điểm triết
học của Feuerbach không sâu, còn nhiều siêu hình phiến diện nhưng đã thiên về
lập trường duy vật.
Xuyên suốt tư tưởng triết học của Feuerbach là vấn đề con người và tôn
giáo. Triết học về đạo đức thông qua con người của Feuerbach thể hiện quan
điểm của giai cấp tư sản muốn khẳng định tính sáng tạo của con người. Nó có ưu
điểm là đã quan tâm đến con người về mặt tự nhiên- sinh học, tuy nhiên, lại quá
đề cao tình yêu mà không quan tâm đến những khía cạnh khác của đời sống con
người.
Feuerbach đứng vững trên lập trường duy vật nhận thức đúng đắn về tôn
giáo khi cho rằng tôn giáo không chỉ là những ảo tưởng phi lý mà còn là ước mơ,
khát vọng của con người. Thượng đế được thần thánh hóa để mang lại niềm tin
thực hiện những ước mơ, khát vọng đó, không phải Thượng đã sinh ra con người
mà con người đã sinh ra Thượng đế.
Triết học Feuerbach còn nhiều hạn chế nhưng đã đạt được thành tựu to lớn
là tiền đề của triết học Mác sau này.
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 21 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
Phụ lục
(1)Như Ph.Ăngghen nhận xét, “có thể coi đây là một trong những thời kỳ
yếu hèn nhất trong lịch sử nước Đức”, “Mọi thứ sắp lung lay, xem chừng sắp sụp
đổ, thậm chí chẳng còn tời một tia hy vọng chuyển biến tốt lên vì dân tộc, thậm
chí không còn đủ sức vượt bỏ cái thây ma rữa nát của chế độ đã chết rồi”.
(2) Trang 2 Giáo trình đạo đức học Mác – Leenin; TS. Đinh Ngọc Quyên,
TS. Lê Ngọc Triết, ThS Hồ Thị Thảo –

(3) Để tu thân cần phải đạt đạo mà trước hết là đạo quận – thần, phụ - tử,
phu – phụ và cần phải đạt đức, đồng thời phải biết thi, thư, lễ, nhạc. Lấy tu thân
làm gốc nhưng người quân tử phải biết hành động tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
(Trang 63, 64 – Triết học phần 1 Đại Cương về lịch sử Triết học – Trường Đại
học Kinh tế 2010).
(4) Trang 46– Lịch sử Triết học – Trần Đăng Sinh (chủ biên), Vũ Thị Kim
Dung, Lê Duy Hoa, Nguyễn Thị Thường, Bùi Thị Tỉnh, Nguyễn Mai Hồng).
(5) Trang 117 – Triết học phần 1 Đại Cương về lịch sử Triết học – Trường
Đại học Kinh tế 2010.
(6) Tự do được Kant hiểu: thứ nhất là, khả năng tiên nghiệm của giác tính
hoạt động độc lập, không bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên (trong hiện tượng
luận); thứ hai là, tính tất yếu đã được nhận thức (trong hiện tượng luận); và thứ
ba, vật tự nó – lý tưởng đạo đức cao cả nhất của nhân loại, mục đích cuối cùng
của loài người (trong đạo đức học).
(7) Một lịch sử đã muộn-Nguyễn Hữu Liêm
/>(8) Trang 207 – Triết học phần 2, Các chuyên đề triết học Mác- Lênin –
Trường Đại học Kinh Tế Tp. HCM 2010.
(9) Trang 217 - Triết học phần 1 Đại Cương về lịch sử Triết học – Trường
Đại học Kinh tế 2010.
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 22 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 19: Vấn đề tôn giáo và đạo đức
TS. BÙI VĂN MƯA trong triết học của Ludwig Feuerbach
Tài liệu tham khảo
1. />2. />3. />4. Lê Công Sự “Luận cương về Feuerbach” (trong C. Mác-Ăngghen:
Tuyển tập, T.I. Sự thật, Hà nội, 1980, tr. 255). Địa chỉ truy cập: http://diendan
kienthuc.net/diendan/triet-hoc-phuong-tay/9950-quan-niem-ve-con-nguoi-trong-
triet-hoc-l-feuerbach.html
5. Cac.Mác và Ph.Ăng-ghen Toàn tập. Tập 3. (1845-1847). Hà Nội: Nxb.
Chính trị quốc gia, 1995. Địa chỉ truy cập: php?

option=com_content&view=article&id=14:lun-cng-v-phoi-bc&catid=6:h-hinh-
tam-thc-hc&Itemid=193
6. Lịch sử tư tưởng trước Mác, Trần Đức Thảo, NXB. Khoa học xã hội,
1995( Nguồn mở: Triethoc.edu.vn,
_content&view=article&id=258:lch-s-t-tng-trc-marx-phn-11&catid=40:trn-c-tho
&Itemid=203)
7. Các. Mác và Ph. Ăng-ghen. Toàn tập, tập 21. Hà Nội: Nxb. Chính trị
Quốc gia, 1999.
8.
d=160:ludwid-feuerbach-va-s-cao-chung-ca-trit-hc-c-in-c&Itemid=5
9. Triết học phần 1,2 , TS. Bùi Văn Mưa, TS. Trần Nguyên Ký, PGS TS.
Lê Thanh Sinh, TS. Nguyễn Ngọc Thu, TS. Bùi Bá Linh, TS. Bùi
Thanh Xuân, Trường Đại học Kinh tế, 2010.
10. Trần Văn Toàn về “Ludwig Feuerbach va quan- niệm vô- thần lối
mới”. Địa chỉ truy cập: />11. Tạp chí triết học
HVTH: Lê Thị Thùy Trang 23 Tiểu luận triết học
Nhóm 7 Đêm 1 K20

×