Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

CÁC LOÀI CÂY LÀM THUỐC PHỔ BIẾN Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.61 KB, 32 trang )

NHÓM CÂY LÀM THUỐC
Sự phong phú và da dạng về giá trị nguồn gen
Trong nguồn tài nguyên LSNG của Việt Nam, cây thuốc có một vị trí quan trọng
về thành phần loài cũng như về giá trị sử dụng và giá trị kinh tế xã hội. Theo kết
quả điều tra của Viện Dược liệu (Bộ Y tế), tính đến cuối năm 2004 đã phát hiện và
thống kê được ở Việt Nam 3.948 loài, thuộc 1.572 chi, 307 họ của 12 ngành thực
vật và Nấm lớn có công dụng làm thuốc. Trong đó, thuộc nhóm Nấm có 22 loài,
nhóm Tảo: 52 loài, Rêu: 4 loài, Lá thông: 1 loài, Tháp bút: 3 loài, Dương xỉ: 128
loài và Thực vật Hạt trần và Hạt kín: 3.675 loài. Cây làm thuốc có mặt trong tất cả
các nhóm thực vật bậc thấp (kể cả Nấm) lẫn thực vật bậc cao. Hàng trăm loài còn
được coi là đặc hữu hoặc là nguồn gen độc đáo trong hệ thực vật của Việt Nam
cũng như của thế giới. Trong tổng số 3.948 loài cây có giá trị làm thuốc kể trên,
hơn 90% số loài là những cây thuốc mọc tự nhiên, tập trung chủ yếu trong các
quần xã rừng. Rừng còn là nơi có nhiều loài cây thuốc có trữ lượng lớn, có giá trị
sử dụng và kinh tế cao.
Sự phong phú về giá trị sử dụng và giá trị kinh tế
Việt Nam hiện có 54 dân tộc khác nhau. Từ ngàn đời nay, cộng đồng các dân tộc
sống trên đất nước ta đã biết sử dụng các loài cây sẵn có để làm thuốc chữa bệnh
và bồi bổ sức khỏe. Vốn kinh nghiệm qúy báu này ngày càng được tích lũy và
hoàn thiện thêm. Theo các số liệu đã được ngành Y tế thông báo, trong tổng số
3.948 loài cây thuốc đã biết ở Việt Nam, phần lớn chúng được sử dụng theo kinh
nghiệm của cộng đồng ở các địa phương. Cây thuốc được sử dụng trực tiếp trong y
học cổ truyền, để điều trị hầu hết các chứng bệnh từ thông thường cho đến các loại
bệnh nan giải khác về xương – khớp, gan, thận, huyết áp và thần kinh…
Từ nguồn cây thuốc mọc tự nhiên, mỗi năm đã cung cấp tới vài chục ngàn tấn
dược liệu khác nhau cho nhu cầu sử dụng trong nước, bao gồm thuốc dùng trong y
học cổ truyền và nguyên liệu cho công nghiệp, chiết xuất hoạt chất để làm thuốc.
Bên cạnh đó, nhiều loài cây thuốc quý như ba kích, bình vôi, cẩu tích, mạn kinh, sa
nhân, thiên niên kiện… vẫn thường xuyên được xuất khẩu với khối lượng lớn,
mang lại kim ngạch từ 10 đến 15 triệu đô la Mỹ mỗi năm. Rõ ràng rằng, cây thuốc
tự nhiên là nhóm cây kinh tế quan trọng trong nguồn tài nguyên LSNG ở Việt


Nam.
Bảo tồn đi đôi với việc khai thác hợp lý và phát triển trồng thêm cây thuốc là
một hướng đi đúng đắn trong chiến lược của chuyên ngành LSNG ở Việt Nam
Do khai thác liên tục trong nhiều năm, ít chú ý tới bảo vệ tái sinh và cùng với
nhiều nguyên nhân tác động khác, đã làm cho nguồn cây thuốc tự nhiên ở Việt
Nam bị giảm sút nghiêm trọng. Nhiều vùng rừng ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hà
Giang, Lào Cai, Yên Bái, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An và nhất là ở Tây
Nguyên… trước đây phát hiện có nhiều loài cây thuốc mọc tập trung đến nay đã
không còn nữa. Hầu hết các loài cây thuốc có giá trị sử dụng và kinh tế cao, mặc
dù vốn có vùng phân bố rộng, khai thác được nhiều, như ba kích, đảng sâm, hà thủ
ô đỏ, hoàng tinh (các loại), hoàng đằng, vàng đắng… hiện không còn khả năng
khai thác lớn và thậm chí đã trở nên hiếm rõ rệt. Nghiêm trọng hơn là đối với một
số loài cây thuốc quý, vốn có phạm vi phân bố hạn chế và số cá thể không nhiều,
lại bị tìm kiếm và khai thác gay gắt, như các loài sâm mọc tự nhiên (Panax spp.);
các loài hoàng liên (Coptis spp., Berberis spp., Mahonia spp.); lan một lá (Nervilia
spp.); cỏ nhung (Anoectochilus spp.)… Những loài cây thuốc
quý hiếm này hiện đã ở trong tình trạng bị đe dọa tuyệt chủng cao tại Việt Nam.
Để duy trì khả năng khai thác lâu dài nguồn tài nguyên cây thuốc của nước ta,
trước hết cần phải xác lập kế hoạch khai thác một cách hợp lý những loài cây thuốc
đã được xác định có
khả năng khai thác tự nhiên (không nằm trong danh sách bảo tồn). Việc khai thác
những loài
cây thuốc này phải tuân thủ theo quy trình khai thác, đảm bảo tái sinh tự nhiên.
Mặt khác, phối
hợp với các Vườn Quốc gia và khu Bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ các loài cây thuốc
có tên trong
Sách Đỏ Việt Nam (1996) và Danh lục Đỏ cây thuốc Việt Nam (2006) đã phát hiện
được trong
hệ thống rừng đặc dụng của nước ta. Đồng thời tiến hành nghiên cứu nhân giống
và đưa vào

trồng thêm tại chỗ, trên đất phi nông nghiệp những loài cây thuốc, mà tái sinh tự
nhiên không
đáp ứng được nhu cầu khai thác sử dụng và xuất khẩu.
Bảo tồn đi đôi với phát triển trồng thêm cây thuốc có giá trị sử dụng và kinh tế cao
là một
trong những nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững chuyên
ngành LSNG ở
Việt Nam hiện nay.
393
BA GẠC
Rauvolfia verticillata (Lour.) Baill., 1888
Tên đồng nghĩa: Rauvolfia chinensis (Hance) Hemsl., 1889
Tên khác: Ba gạc lá vòng, tích tiên (vùng Ba Vì – Hà Tây); sam tô, lạc toọc (Tày);
cơn đồ (Mường), la phu mộc
Họ: Trúc đào - Apocynaceae
Hình thái
Cây bụi, sống lâu năm, cao 1 – 2 m. Rễ cọc cắm
sâu xuống đất. Thân hình trụ, nhẵn, có nốt sần nhỏ,
màu lục sau chuyển màu xám. Cành non dẹt, có khía
dọc, sau tròn, màu xám. Lá mọc vòng 3, có cuống
ngắn, đôi khi 4 hoặc mọc đối, phiến hình mác, dài 6 –
11 cm, rộng 1,5 – 3 cm, gốc thuôn, đầu nhọn.
Cụm hoa mọc ở gần ngọn thành xim dạng tán
kép, dài 4 – 7 cm. Hoa nhỏ màu trắng; 5 lá đài rất
nhỏ; 5 cánh hoa hình mắt chim hợp thành ống hẹp
hơi cong, phình lên ở phía giữa; 5 nhị đính ở bên
trong chỗ phình của ồng tràng; bầu 2 ô.
Quả hạch đôi, hình trứng, màu tím đen khi chín;
hạt nhỏ, có vỏ cứng, có vân nhăn.
Toàn cây có nhựa mủ trắng.

Các thông tin khác về thực vật
Ngoài loài ba gạc giới thiệu ở trên, ở Việt Nam còn có một số loài ba gạc khác
cũng được
sử dụng làm thuốc như:
- Ba gạc lá nhỏ (Rauvolfia micrantha Hook.f.): phân bố ở Bình Định, Phú Yên,
Quảng Ngãi,
Khánh Hòa, Ninh Thuận, Kiên Giang (Phú Quốc).
- Ba gạc lá to (Rauvolfia cambodiana Pierre ex Pitard): phân bố ở Quảng Trị,
Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk.
- Ba gạc châu đốc (Rauvolfia chaudocensis Pierre ex Pitard): phân bố ở Phú Yên,
Kiên
Giang (Phú Quốc).
- Ba gạc hoa đỏ (Rauvolfia serpentina (L.) Benth. ex Kurz): phân bố ở Đắk Lắk.
- Ba gạc bốn lá (Rauvolfia tetraphylla L.): Nhập trồng.
Ba gạc - Rauvolfia verticillata (Lour.) Baill
1- Cành mang hoa; 2- Hoa; 3- Bầu và vòi nhụy;
4- Quả
394
- Ba gạc phú hộ (Rauvolfia vomitoria Afzel. ex Spreng.): Có lẽ được nhập trồng
trước năm
1954, nay còn sót lại một quần thể nhỏ hoang dại hóa, tại Trung tâm cây ăn quả
Phú Hộ, Phú
Thọ (bờ rào).
Ba gạc thân gỗ (Rauvolfia cafra Sond.): Nhập trồng từ Cu Ba.
Phân bố
Việt Nam:
Tỉnh Lạng Sơn (Văn Quan); Nghệ An (Kỳ Sơn) và có
thể ở một số nơi khác. Ở Việt Nam, loài này còn có một thứ
là R. verticillata var. hainanensis phân bố rộng rãi hơn loài

gốc của nó.
Thế giới:
Trung Quốc.
Đặc điểm sinh học
Ba gạc là cây ưa sáng, hơi chịu bóng, nhất là khi còn
nhỏ; thường mọc lẫn với các cây bụi nhỏ khác ở ven rừng
hoặc còn sót lại ở bờ nương rẫy. Cây sinh trưởng mạnh
trong mùa mưa ẩm; rụng lá mùa đông; ra hoa quả đều hàng
năm. Mùa hoa: tháng 4 – 5; mùa quả: tháng 5 – 10. Tái sinh
tự nhiên tốt bằng hạt và bằng cách mọc chồi sau khi bị chặt.
Bộ phận dùng và công dụng
Bộ phận dùng:
Vỏ rễ và rễ con phơi khô.
Thành phần hóa học:
Trong vỏ rễ và rễ con ba gạc có chứa 0,9 – 2,2% alcaloid toàn phần, trong đó gồm
reserpin, ajmalicin, spegatrin, verticilatin… Trong lá cũng có khoảng 0,72 – 1,69%
các loại
alcaloid này.
Công dụng:
Các hoạt chất alcaloid trong ba gạc được dùng làm thuốc chữa cao huyết áp. Dạng
dùng là
cao lỏng (alcaloid toàn phần) hoặc một vài alcaloid trong đó được chiết xuất dưới
dạng tinh
khiết, chế tạo thành thuốc viên hoặc thuốc tiêm.
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng
Trên thực tế loài ba gạc trên chưa được trồng phổ biến để lấy nguyên liệu làm
thuốc. Qua
nghiên cứu bảo tồn cho thấy, cây trồng bằng gieo hạt có tỷ lệ nảy mầm đạt 75%.
Hạt gieo tươi.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, chỉ đưa vào trồng trên quy mô lớn những loài

có hàm
lượng alcaloid cao, như ba gạc hoa đỏ (R. serpentina), ba gạc bốn lá (R.
tetraphylla), ba gạc
phú hộ hay còn gọi là ba gạc châu phi (R. vomitoria).
Phân bố ba gạc ở Việt Nam
395
Cách trồng giống nhau là đều từ hạt. Hạt gieo khi còn tươi. Tỷ lệ nảy mầm của các
loài trên
từ 70 đến 90%. Cây trồng trên đất thoát nước; dễ chăm sóc và sau 18 tháng (ba gạc
bốn lá),
hoặc 24 – 36 tháng (2 loài còn lại) đã có thể cho thu hoạch.
Khai thác, chế biến và bảo quản
Rễ ba gạc khai thác vào mùa thu hoặc mùa đông. Khi đào lên thường không rửa
(dễ làm
mất alcaloid), mà tìm cách khác để làm sạch đất cát. Đối với rễ to chỉ gọt (bóc) lấy
vỏ rễ, rễ nhỏ
thì lấy cả.
Ở Việt Nam mới chỉ có một số sản phẩm thuốc từ ba gạc như:
- Cao lỏng 1,5% alcaloid toàn phần (từ loài R. verticillata).
- Viên Raucacin và Rauvomin, mỗi viên có 2 mg alcaloid toàn phần (từ R.
tetraphylla và
R. vomitoria).
- Viên Rauviloid chứa 2 mg alcaloid toàn phần (từ loài R. serpentina).
Trên thế giới thường chế tạo Reserpin dưới dạng tinh khiết để làm thuốc chữa cao
huyết
áp. Nguyên liệu sản xuất chủ yếu từ loài R. serpentina, R. vomitoria hoặc R.
tetraphylla.
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Những loài ba gạc có hàm lượng alcaloid cao đều là những cây thuốc có giá trị
kinh tế cao.

Các nước như Ấn Độ, Bangladesh, Sri Lanka, Thái Lan là nơi cung cấp nguyên
liệu loài
Rauvolfia serpentina; còn châu Phi cung cấp nguyên liệu loài R. vomitoria… Ở
Việt Nam đã
từng đưa vào trồng sản xuất 2 loài R. tetraphylla (ở Ba Vì) và R. vomitoria (ở Vĩnh
Phú cũ).
Về giá trị nguồn gen thì hầu như tất cả các loài ba gạc mọc tự nhiên ở Việt Nam
đều là
những cây thuốc cần bảo vệ (có tên trong Sách Đỏ Việt Nam và Danh lục Đỏ cây
thuốc Việt
Nam). Trong đó, đáng lưu ý loài ba gạc châu đốc (R. chaudocensis) là đặc hữu hẹp
của Việt
Nam; loài R. micrantha là đặc hữu khu vực (Đông Dương). Còn loài R. serpentina
phân bố chủ
yếu ở các nước nhiệt đới Nam Á, ở Việt Nam đã phát hiện được 2 điểm có loài này
mọc tự
nhiên tại tỉnh Đắk Lắk; nhưng với kích thước quần thể rất nhỏ.
Ở Việt Nam còn có một số loài ba gạc khác mọc tự nhiên là R. vietnamensis Ly; R.
latifron
Tsiang; R. reflexa Teijsm et Binn; R. yunnanensis Tsiang, cùng với 3 loài nhập nội,
nâng tổng
số loài ba gạc hiện có ở Việt Nam lên tới 12 loài (9 loài mọc tự nhiên và 3 loài
nhập nội).
Để bảo tồn có hiệu quả nguồn gen ba gạc ở Việt Nam, trước hết cần thu thập đầy
đủ các
loài trên về trồng lưu giữ tại các vườn thuốc.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Tập (2006). Danh lục Đỏ cây thuốc Việt Nam năm 2006. Tạp chí Dược
liệu; số 3 (11); trang 97 – 105;
2. Nguyễn Tiến Bân - chủ biên (1996). Sách Đỏ Việt Nam, Tập II – Phần thực vật.

Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội;
trang 225 - 233; 3. Nguyễn Tiến Bân - chủ biên (2005). Danh lục các loài thực vật
Việt Nam, Tập II. Nxb Nông nghiệp,
Hà Nội; trang 46 - 48; 4. Nhiều tác giả (2004). Cây thuốc và động vật làm thuốc ở
Việt Nam; Tập I. Nxb Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội; trang 90 - 100.
396
BA KÍCH
Morinda officinalis How, 1958
Tên khác: Ba kích thiên, dây ruột gà; chẩu phóng xì, thau tày cáy (Tày); chồi
hoàng kim, sáy cáy (Thái); chày kvằng dòi (Dao); Medicinal indian
mulberry (Anh)
Họ: Cà phê – Rubiaceae
Hình thái
Cây leo bằng thân quấn, sống lâu năm, dài hàng
mét. Rễ củ mập, thắt khúc, vặn vẹo. Thân và cành
non có lông, màu tím hoặc xanh; cành già nhẵn, màu
nâu. Lá mọc đối, có cuống ngắn, hình thuôn hoặc
bầu dục, dài 6 – 14 cm, rộng 2,5 – 6 cm, gốc tròn,
đầu thuôn nhọn, mép nguyên; lá non có lông ở gân
và mép lá, dày hơn ở mặt dưới, màu xanh lục, lá già
ít lông hơn và màu trắng mốc; lá kèm mỏng, gốc dính
thành ống và ôm sát thân.
Cụm hoa mọc ở đầu cành thành tán tròn, dài 0,3
– 1,5 cm; hoa nhỏ màu trắng sau hơi vàng; đài hình
chén hay hình ống, lá đài nhỏ phát triển không đều
nhau; tràng 4 cánh, hàn liền ở dưới thành ống ngắn;
nhị 4; bầu hạ.
Quả hình cầu, rời, hoặc dính với nhau, đường
kính 6 – 10 mm, màu đỏ khi chín, có đài tồn tại ở

đỉnh. Hạt nhỏ, màu vàng nhạt, vỏ hạt nhám.
Các thông tin khác về thực vật
- Trong tự nhiên cũng như trong quần thể ba kích trồng, có cả những cây mang quả
rời,
quả tụ, hay trên một cây vừa có quả tụ và quả rời.
- Về màu sắc của ngọn non, cuống lá có thể có màu tím nâu hay màu xanh.
Tất cả những dạng hình thái trên vẫn chỉ thuộc 1 loài Morinda officinalis How.
Ngoài ra, còn
loài ba kích lông (M. cochinchinensis DC.) mọc tự nhiên, với kích thước lớn hơn
nhiều so với
loài trên; cụm hoa dạng tán kép; quả tụ; rễ củ to nhưng phần lõi gỗ chiếm tỷ lệ lớn
và cũng
được dùng làm thuốc như ba kích.
Phân bố
Việt Nam:
Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Tuyên
Quang,
Yên Bái, Phú Thọ, Hà Tây, Hòa Bình. Gần đây mới phát hiện thấy ở Quảng Nam
(Tây Giang)
và Quảng Trị (Hướng Hóa).
Ba kích - Morinda officinalis How
1- Cành mang hoa và quả; 2- Hoa;
3- Chùm quả; 4- Rễ củ
397
Thế giới:
Lào, Trung Quốc (Hải Nam, Quảng Tây, Vân Nam).
Đặc điểm sinh học
Cây ưa sáng và có thể hơi chịu bóng, nhất là khi còn
nhỏ; thường mọc rải rác dưới tán rừng thứ sinh, rừng xen tre
nứa; độ cao dưới 500 m (ở Miền Bắc), tại hai điểm mới phát

hiện ở các tỉnh phía Nam, có độ cao gần 1.000 m.
Ba kích ưa khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm, nhiệt độ trung
bình năm 22 – 24oC, lượng mưa hàng năm khoảng 2.000
mm. Đất có ba kích mọc tự nhiên thuộc loại feralit đỏ vàng
hay vàng đỏ, hơi chua. Cây sinh trưởng mạnh trong vụ xuân
hè. Cây được chiếu sáng đầy đủ ra hoa quả nhiều hơn hẳn
cây bị che bóng, mọc dưới tán rừng.
Tái sinh tự nhiên chủ yếu bằng hạt; cây bị chặt phá vẫn
có khả năng mọc chồi từ phần còn lại của thân và gốc.
Ra hoa tháng 4 – 5, quả tháng 5 – 10.
Bộ phận dùng, công dụng
Bộ phận dùng:
Rễ củ, bỏ lõi, phơi hay sấy khô.
Thành phần hóa học:
Rễ củ chứa anthraglucosid, iridoid glucosid, các sterol, lacton, đường, nhựa, acid
hữu cơ,
tinh dầu, vitamin C (ở rễ tươi) và nhiều chất vô cơ khác.
Công dụng:
Ba kích là vị thuốc quý được sử dụng từ lâu đời trong y học cổ truyền ở Trung
Quốc và
Việt Nam.
Ba kích được dùng làm thuốc bổ dương, tăng cường sinh dục nam; chữa đau nhức
xương
khớp, đau lưng và kinh nguyệt không đều. Liều dùng: 12 – 15 g, dưới dạng thuốc
sắc hoặc
ngâm rượu uống; cũng có thể phối hợp với các vị thuốc khác.
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng
Nhân giống:
- Bằng hạt:
Đến tháng 10, khi quả chín, hái về ủ 2 – 3 ngày cho mềm, đãi bỏ phần thịt quả, vỏ

và chỉ
lấy hạt chìm. Hạt thu được đem phơi trong bóng râm cho khô và thường gieo ngay
vào vườn
ươm. Vườn ươm có mái che bớt nắng.
Phân bố ba kích ở Việt Nam
398
Hạt gieo sau 60 ngày (hoặc hơn) mới nảy mầm. Nếu gieo trên cát vàng thô ẩm, tỷ
lệ nảy
mầm đạt gần 80%. Khi cây bắt đầu ra 1 – 2 đôi lá thật đầu tiên thì nhổ trồng vào
bầu. Đất đóng
bầu gồm đất : cát vàng : phân chuồng mục theo tỷ lệ 5 : 2 : 3; kích thước bầu có
đường kính 4
– 6 cm, cao 10 – 12 cm. Cây trồng vào bầu được chăm sóc ở vườn ươm 8 – 12
tháng sau mới
đem trồng.
- Giâm cành:
Vào tháng 2 – 3, chọn cành bánh tẻ, cắt thành từng đoạn dài 10 – 15 cm (thường
xử lý
chất kích thích ra rễ). Sau khi mọc rễ và chồi, trồng vào bầu, chăm sóc ở vườn
ươm, sau 8
tháng đem trồng.
Trong 2 cách trên, nhân giống bằng hạt có hiệu quả hơn.
Trồng và chăm sóc:
Nơi trồng:
Trồng trên đất nương rẫy cũ còn màu mỡ, hành lang ven rừng, vườn trang trại hoặc
trồng
xen với cây ăn quả ở vườn gia đình. Đất trồng không bị ngập úng, nhưng cần ẩm
hoặc có thể
chủ động tưới nước dễ dàng. Trước khi trồng cần phát, cuốc bỏ gốc cây, đốt; lên
luống rộng

0,8 – 1,0 m; cao 30 cm; cuốc hố, cự ly 1,5 m / hố. Bón lót phân chuồng mục 15 –
20 tấn / ha.
Thời vụ trồng:
Tháng 2 – 3 hoặc tháng 7 – 8.
Cách trồng:
Mỗi hốc đặt 1 cây, xé bỏ bầu, lấp chặt đất, tưới nước. Trước khi trồng cần bón lót
phân
chuồng mục, mỗi hốc 2 kg.
Chăm sóc:
Xới đất, vun gốc, tưới nước khi gặp hạn; hàng năm bón thúc bằng phân NPK hoặc
phân vi
sinh. Cây trồng sau 8 – 12 tháng phải cắm giá thể. Giá thể leo bằng các cọc tre
(còn nhánh)
hay cọc gỗ, có thể chịu được 4 – 6 năm không mục nát.
Ba kích trồng sau 2 năm bắt đầu có hoa quả, các năm sau nhiều hơn; sau 4 – 5 năm
cho
thu hoạch củ. Nếu được chăm sóc tốt, mỗi khóm có thể cho 1 – 3 kg rễ tươi hoặc
hơn. Cá biệt
có cây trồng ở vườn sau 7 năm cho tới 11 – 13 kg rễ tươi / khóm.
Khai thác, chế biến và bảo quản
Thời gian khai thác, thu hoạch thích hợp: tháng 9 –12.
Đào rộng xung quanh, cắt lấy toàn bộ phần rễ củ có đường kính từ 1 cm trở lên,
sau đó vùi
lại phần gốc, giẫm chặt đấ_____t cho cây tái sinh. Đối với ba kích trồng, có gia
đình (ở Phú Thọ) thu
hoạch theo kiểu chỉ lấy rễ củ lớn, mỗi năm chỉ đào một bên luống, sau đổ thêm
phân chuồng,
lấp chặt đất và tưới nước ngay.
Rễ củ đào được cần rửa sạch đất cát. Có 3 cách chế biến như sau:
399

- Ba kích khô: Khi rễ còn tươi, ủ 3 – 5 ngày, cắt thành từng đoạn rút bỏ lõi, đem
phơi hay
sấy khô.
- Chích ba kích: Rễ củ ba kích đã phơi hay sấy khô (vẫn còn lõi), cho vào đun với
nước
cam thảo (1 kg ba kích 120 g cam thảo). Sau khi mềm rút bỏ lõi, phơi hay sấy khô.
- Diêm ba kích: Rễ củ ba kích đã phơi hay sấy khô (vẫn còn lõi), ngâm với nước
muối (1 kg
ba kích : 20 gam muối), sau đem đồ cho mềm, rút bỏ lõi, phơi hay sấy khô.
Ba kích đã chế biến được đóng thành bao; bảo quản nơi khô ráo, thoáng mát. Chú
ý kiểm
tra, dược liệu ba kích dễ bị ẩm mốc.
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Ba kích là cây thuốc quý, được dùng nhiều trong y học cổ truyền. Trước kia, mỗi
năm ở
Miền Bắc thường khai thác được từ vài chục đến trên 100 tấn / năm, cung cấp cho
thị trường
trong nước và xuất khẩu với giá trị kinh tế cao.
Giá ba kích trên thị trường dược liệu Việt Nam năm 2005 như sau:
- Ba kích mọc tự nhiên ở Hoành Bồ (Quảng Ninh): 120.000 – 150.000 đ / kg khô,
đã bỏ lõi.
- Ba kích bán ở Lạng Sơn (có lẽ do nhập khẩu): 40.000 – 60.000 đ / kg đã bỏ lõi.
Sở dĩ có sự khác nhau về gíá ba kích trên đây là do không có thông tin thống nhất.
Dược
liệu ba kích trên thị trường (Lạng Sơn, Hà Nội) về thực chất không rõ xuất xứ.
Được biết, có
một số loài cây khác (không thuộc loài Morinda officinalis) có rễ củ giống ba kích
cũng được
khai thác, ví dụ: một loài thuộc chi Polygala (họ Polygalaceae) mọc tự nhiên ở Sa
Pa (Lào Cai)

đã được khai thác xuất khẩu qua biên giới với tên “Ba kích”. Hoặc một loài thuộc
chi Zygostema
(họ Asclepiadaceae), do một doanh nghiệp thu mua nhầm, đã đưa đến Viện Dược
liệu kiểm
định, cây này cũng được gọi là “Ba kích”.
Do khai thác ồ ạt nhiều năm, nguồn ba kích ở Việt Nam đã bị giảm sút nghiêm
trọng. Ba
kích đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam (1996) và Danh lục Đỏ cây thuốc Việt
Nam (2006) để
khuyến cáo bảo vệ.
Để bảo vệ có hiệu quả cây thuốc quý này, hiện nay cần đình chỉ khai thác tự nhiên,
khuyến
khích trồng ở các tỉnh trung du và miền núi thấp; giá trị kinh tế thu được hơn hẳn
trồng lúa, ngô,
khoai, sắn…
Tài liệu tham khảo chính
1. Nguyễn Chiều, Lê Thanh Sơn (2002). Nghiên cứu trồng ba kích (Morinda
officinalis How) trong mô hình vườn
gia đình, vườn trang trại. Tạp chí Dược học; số 10; trang 8; 2. Nguyễn Tập (2006).
Danh lục Đỏ cây thuốc Việt Nam
năm 2006. Tạp chí Dược liệu; số 3 (11); trang 97 – 105; 3. Nguyễn Tiến Bân - chủ
biên (1996). Sách Đỏ Việt Nam, Tập
II – Phần thực vật. Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội; trang 194 - 195; 4. Nhiều
tác giả (2004). Cây thuốc và động vật
làm thuốc ở Việt Nam; Tập I. Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội; trang 101 – 105;
5. Vũ Văn Dũng, Hoàng Hữu Nguyên,
Trịnh Vĩ & Nguyễn Tập (2002). Các loại LSNG chọn lựa có giá trị kinh tế cao ở
Việt Nam; Trong: Tổng quan Ngành
LSNG của Việt Nam. Tài liệu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Đại sứ
quán Vương quốc Hà Lan tại Việt Nam,

IUCN và Viện Khoa học Lâm nghiệp xuất bản; trang 49 - 51.
400
BÁCH BỘ
Stemona tuberosa Lour., 1790
Tên khác: Củ ba mươi, dây đẹt ác; slam slip lạc, mằn sòi (Tày); bẳn sam sip
(Thái); pê chầu chàng (H’Mông); mùa sấy dòi (Dao); hơ ling (Ba Na)
Họ: Bách bộ - Stemonaceae
Hình thái
Dây leo bằng thân quấn, dài 4 – 6 m, hoặc hơn.
Rễ củ dạng chùm, gồm 30 – 100 củ; hình thuôn nhọn
2 đầu, màu trắng ngà, dài 15 – 30 cm. Thân khí sinh
hình trụ hơi có cạnh, nhẵn, hơi phình lên ở những
mấu, màu lục nhạt. Lá mọc đối, hoặc so le, hình
trứng hoặc bầu dục dài 9 – 15 cm, rộng 6 – 12 cm,
gốc hình tim, đầu thuôn nhọn; gân chính 7 – 13, hình
cung, chạy từ cuống lá đến đầu lá, gân nhỏ nằm
ngang, sít nhau rất đặc sắc, hai mặt nhẵn, gần như
cùng màu; cuống dài 3 – 7 cm.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá, cuống dài 2 – 4 cm, mang
1 - 2 hoa màu vàng lục; lá bắc hẹp; bao hoa gồm 4
mảnh giống nhau, hẹp ngang, dài khoảng 4 cm, mặt
trong màu đỏ tía, có mùi hôi khó chịu; nhị 4 bằng
nhau, chỉ nhị ngắn, đính ở gốc; bầu hình tháp.
Quả nang, hình trứng thuôn, dài 3.5 cm. Hạt 5 –
8, nhỏ, màu nâu.
Phân bố
Việt Nam:
Phân bố rộng rãi gần như khắp các tỉnh miền núi và trung du. Những tỉnh hiện còn
nhiều
bách bộ như: Tuyên Quang, Yên Bái, Hòa Bình, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ

An, Quảng
Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Kon Tum, Gia Lai và Lâm
Đồng.
Thế giới:
Lào, Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ.
Đặc điểm sinh học
Bách bộ là loài cây của vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Ở Việt Nam, cây phân bố
rộng rãi ở
cả vùng có khí hậu nhiệt đới điển hình phía Nam, cũng như khí hậu á nhiệt đới ở
các tỉnh miền
núi phía Bắc. Cây ưa ẩm và sáng, tuy vậy có thể hơi chịu bóng. Bách bộ thường
leo lên các
cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ ở ven rừng, dọc theo hai bên bờ khe suối, ở cửa rừng kín
thường
xanh, dưới chân rừng núi đá vôi và bờ nương rẫy. Độ cao phân bố có thể từ vài
chục mét (ở
vùng rừng ven biển và đảo) lên tới gần 1000 m sâu trong lục địa.
Bách bộ - Stemona tuberosa Lour.
1- Một đoạn dây mang quả; 2- Hoa; 3- Nhị;
4- Bộ rễ củ
401
Bách bộ ra hoa quả hàng năm. Mùa hoa: tháng 6 – 7;
quả: tháng 7 – 9. Khi quả già tự mở để hạt thoát ra ngoài. Cây
tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt và cây chồi sau khi bị cắt,
thậm chí sau khi khai thác rễ củ, phần gốc vùi lại vẫn có khả
năng tái sinh.
Bộ phận dùng, công dụng
Bộ phận dùng:
Rễ củ bỏ lõi phơi hay sấy khô. Khi dùng làm thuốc mới
chế biến lại hoặc nấu thành cao.

Thành phần hóa học:
Trong rễ củ chứa nhiều loại alcaloid: stemonin,
tuberostemonin, neotuberostemonin, oxotuberostemonin,
isotuberostemonin, hypotuberostemonin, stenin, stemotiin …
Công dụng:
Bách bộ là vị thuốc quen thuộc dùng để chữa ho, có tác
dụng bổ phổi, nhuận phổi. Liều dùng từ 4 – 12 gam/ngày dưới
dạng bách bộ đã chế biến sắc uống, hoặc nấu thành cao
lỏng. Bách bộ cũng được dùng làm thuốc tẩy giun kim.
Rể củ bách bộ tươi có độc, vì thế trong nhân dân dùng
để diệt chấy, rận.
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng
Hiện chưa được nghiên cứu, nhưng có thể trồng được bằng hạt.
Khai thác, chế biến và bảo quản
Khai thác vào mùa thu, khi quả đã già và phát tán hạt giống. Đào rộng xung quanh
gốc để
lấy được toàn bộ rễ củ. Cắt lấy rễ củ, cắt bỏ phần thân khí sinh, vùi lại cho cây có
thể tái sinh.
Rễ củ đem về, cắt bỏ đầu và đuôi; rửa sạch đất; bổ dọc củ bỏ lõi, sau đem đồ cho
chín;
phơi hoặc sấy đến khô.
Dược liệu bách bộ khô được đóng gói 2 lần túi nilon và bao tải; để nơi khô ráo;
thường
xuyên kiểm tra vì dễ mốc. Theo quy định của Dược điển Việt Nam, hàm lượng
alcaloid toàn
phần trong rễ bách bộ cần đạt 0,15% tính theo tuberostemonin.
Khi dùng làm thuốc có 2 cách chế biến: Cách thứ nhất, thái mỏng thành lát, tẩm
mật 1
đêm, sau đem sao vàng. Cách thứ hai là nấu thành cao lỏng (có thể nấu từ khi dược
liệu còn

tươi).
Phân bố bách bộ ở Việt Nam
402
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Từ lâu năm, bách bộ là cây thuốc được ngành Y tế khai thác và thu mua. Vài năm
gần đây
còn được tư thương xuất khẩu qua biên giới; giá thu mua ở Lào Cai năm 2004 vào
khoảng
5.000 đ / kg củ tươi chưa chế biến.
Bên cạnh loài bách bộ kể trên, ở các tỉnh phía Nam còn khai thác cả loài bách bộ lá
nhỏ
(Stemona pierre Gagnep.). Một số loài khác có kích thước nhỏ, rễ củ cũng nhỏ như
Stemona
cochinchinensis Gagnep., S. collinsae Craib và S. saxorum Gagnep Chúng là
những loài hiếm
trong chi Stemona, cần được bảo tồn ở Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Tiến Bân - chủ biên (1996). Sách Đỏ Việt Nam, Tập II – Phần thực vật.
Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà
Nội; trang 372 - 375; 2. Nhiều tác giả (2004). Cây thuốc và động vật làm thuốc ở
Việt Nam; Tập I. Nxb Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội; trang 118 - 122.
BÁCH HỢP
Lilium brownii F. E. Brown var. viridulum Baker, 1885
Tên đồng nghĩa: Lilium brownii var. colchesteri Wils. ex Stapf., 1921
Tên khác: Tỏi rừng, tỏi trời; khẻo ma, sluôn phạ (Tày); kíp pá (Thái); cà ngái dòi
(Dao); Brown’s lily (Anh)
Họ: Loa kèn – Liliaceae
Hình thái
Cây thảo, cao 0,5 – 1 m. Thân hành màu trắng đục hoặc hồng nhạt, tạo thành bởi

nhiều
vảy hành, nhẵn. Thân trên mặt đất mọc đứng, không phân nhánh, nhẵn, màu lục,
khi non có
điểm những đốm đỏ. Lá mọc so le, có bẹ, hình mũi mác, gốc tròn, đầu thuôn nhọn,
gân lá hình
cung, hai mặt nhẵn.
Cụm hoa mọc ở ngọn thân. Lá bắc dạng lá. Hoa to, mọc 2 – 5 cái màu trắng ngà,
hoặc
vàng ngà, họng màu tím; tràng hoa hình phễu hay loa kèn, miệng xẻ 5 phiến, khi
nở cong ra
ngoài; chỉ nhị mảnh dài, bao phấn màu vàng, hình trái xoan hay thuôn.
Quả nang, dài 4 – 5 cm, có 3 ngăn; hạt nhỏ, nhiều.
Phân bố
Việt Nam:
Lào Cai (huyện Sa Pa, Bát Xát); Lai Châu (Phong Thổ, Than Uyên, Sìn Hồ); Hà
Giang
(Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc); Cao Bằng (Đèo Gió); Yên Bái (Mù
Cang Chải); Kon
Tum (Tu Mơ Rông)…
403
Thế giới:
Trung Quốc.
Đặc điểm sinh học
Bách hợp là cây ưa sáng và ưa khí hậu ẩm mát.
Thường mọc ở vùng núi cao (1.300 – 2.100 m); nhiệt
độ trung bình 13 – 17oC; về mùa đông, khi cây đã tàn
lụi, chúng có thể chịu được nhiệt độ 5 – 0oC (vùng
đèo Hoàng Liên Sơn, độ cao 2.100 m). Vào đầu mùa
xuân, từ thân hành dưới mặt đất mọc lên 1 thân khí
sinh mang lá, đến tháng 6 – 7 ra hoa kết quả. Quả

già tồn tại đến tháng 10 – 11; khi quả già khô xác, tự
mở theo 3 rãnh dọc cho hạt phát tán ra xung quanh.
Cây con mọc từ hạt quan sát được vào tháng 5 – 7.
Bách hợp thường mọc lẫn trong các trảng cỏ
hoặc cây bụi thấp ở trên các sườn núi, các hốc đá ở
chân núi. Ở đèo Hoàng Liên Sơn (phía Lai Châu),
bách hợp mọc lẫn với nhiều loại cỏ cao. Do thảm cỏ
dày, để cạnh tranh ánh sáng, cây thường phải vươn
rất cao và cho hoa quả nhiều. Khi hạt giống rơi
xuống, nếu không tiếp xúc được với mặt đất sẽ
không có cơ hội nảy mầm.
Bộ phận dùng, công dụng
Bộ phận dùng:
Các hành nhỏ, tách ra từ thân hành, đã được phơi hay
sấy khô.
Thành phần hóa học:
Bách hợp chứa tinh bột 30%, protid 4%, chất béo 0,1%,
colchicein và vitamin C. Ngoài ra, còn có một số chất khác
như: asdenosin; methyl-α-D manopyranosid; reganosid A, D,
E, F; tenuifoliosid A, B; linosid A, B…
Công dụng:
Bách hợp là vị thuốc quý dùng trong y học cổ truyền, làm
thuốc chữa ho, bổ phổi, sốt, thần kinh suy nhược… Liều
dùng 15 – 30 g / ngày dưới dạng thuốc bột hoặc sắc uống;
thường phối hợp với các cây thuốc khác.
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng
Bách hợp chưa được trồng trên quy mô lớn, mới chỉ
được đưa trồng trong phạm vi thực nghiệm với mục đích bảo
tồn, tại Trạm cây thuốc Sa Pa (Viện Dược liệu).
Phân bố bách hợp ở Việt Nam

Bách hợp - Lilium brownii F. E. Brown
var. viridulum Baker
1- Cành mang hoa; 2- Chùm quả và hạt;
3- Thân hành (củ); 4- Hành con (vảy hành)
404
Cách trồng:
Tháng 10 - 11 đào lấy những củ bách hợp trong tự nhiên, đem về tách riêng các
hành nhỏ,
để cho hơi bị héo (khô vỏ ngoài). Đến tháng 12 hoặc tháng 1 năm sau đem trồng ở
vườn, với
cự ly 40 x 40 cm / cây. Ngoài ra, có thể nhổ các cây con mọc từ hạt trong tự nhiên
về để trồng.
Cây trồng sinh trưởng phát triển tốt, sau 18 tháng mới cho hoa quả lần đầu.
Khai thác, chế biến và bảo quản
Khai thác bách hợp vào tháng 10 – 12. Đào sâu lấy toàn bộ phần thân hành; cắt bỏ
thân,
rễ; rửa sạch, tách từng hành con riêng rẽ; sau đó đem đồ qua hoặc nhúng nước sôi
30 phút,
vớt ra đem phơi hoặc sấy khô. Có trường hợp trước khi dùng, tẩm mật, sao qua.
Chú ý bảo quản cẩn thận vì dược liệu dễ bị mốc.
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Bách hợp được coi là nguồn gen quý hiếm ở Việt Nam. Ngoài giá trị làm thuốc,
cây còn
được trồng làm cảnh do có hoa đẹp, khá bền lại có mùi thơm nhẹ.
Trong những thập ký 60 – 70 của thế kỷ trước, ngành Y tế đã từng khai thác thu
mua bách
hợp để làm thuốc. Sau đó, do thấy trữ lượng tự nhiên ít nên đã đình chỉ và tìm cây
thuốc khác
thay thế. Mặc dù vậy, cây thuốc này vẫn bị một số người khai thác bán qua biên
giới (1990 –

1992). Hiện cây đã trở nên hiếm rõ rệt và đã được đưa vào Danh lục Đỏ cây thuốc
Việt Nam
(2006), để khuyến cáo bảo vệ.
Cần nghiêm cấm khai thác cây mọc tự nhiên; nghiên cứu phát triển trồng ở một số
tỉnh
vùng núi cao phía Bắc.
Tài liệu tham khảo chính
1. Nguyễn Tập (2006). Danh lục Đỏ cây thuốc Việt Nam năm 2006. Tạp chí Dược
liệu; số 3 (11); trang 97 – 105;
2. Nhiều tác giả (2004). Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam; Tập I. Nxb
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội; trang
122 – 124.
BẢY LÁ MỘT HOA
Paris polyphylla Smith, 1819
Tên đồng nghĩa: Paris kwangtungensis Miau, 1982
Daiswa polyphylla (Smith) Raf., 1883
Tên khác: Tảo hưu, thất diệp nhất chi hoa, cúa dô (H’Mông); parisette, herbeparis
(Pháp)
Họ: Trọng lâu - Trilliaceae
405
Hình thái
Cây thảo, sống nhiều năm, cao 0,5 – 0,7 m.
Thân rễ to, mọc bò ngang, chia nhiều đốt, có những
ngấn ngang và sẹo to. Thân khí sinh mọc đứng,
không phân nhánh, màu lục hoặc tím tía, mang một
tầng lá mọc vòng từ 7 đến 9 cái, thường là 7, có
cuống dài, phiến lá hình thuôn hoặc mác thuôn, dài
15 – 25 cm, rộng 6 – 10 cm, đầu hơi nhọn, mép
nguyên lượn sóng, hai mặt nhẵn, mặt trên sẫm bóng,
mặt dưới nhạt hơn, 3 gân tỏa ra từ gốc lá, nhưng 2

gân bên men sát mép lá.
Cụm hoa mọc đơn độc ở ngọn thân, cuống cụm
hoa dài bằng hoặc ngắn hơn lá. Lá đài hình mác
thuôn dạng lá, dài 4 – 6 cm. Cánh hoa hình sợi màu
vàng, chiều dài bằng hoặc hơi ngắn hơn lá đài; nhị
nhiều, mảnh, bao phấn màu vàng nâu; bầu màu tím
đỏ có 3 ô.
Quả mọng, hình tháp tròn, có cạnh, màu tím đen
khi chín; hạt to màu vàng.
Các thông tin khác về thực vật
Theo Nguyễn Thị Đỏ và Nguyễn Tiến Bân (2005), họ
Trọng lâu (Trilliaceae) ở Việt Nam chỉ có 1 chi Paris với 6 – 7
loài. Xuất phát từ cách gọi tên loài Paris polyphylla của Trung
Quốc, dịch ra tiếng Việt là “Bảy lá một hoa”. Các loài trong chi
này ở Việt Nam có 6 – 9 lá, nên nhiều người cũng gọi chung
là “Bảy lá một hoa”.
Căn cứ vào hình dạng lá, tạm thời có thể chia thành 2
nhóm: nhóm có lá thuôn dài gồm các loài: Paris delavayi
Franch.; P. polyphylla Smith và P. yunnanensis Franch
Nhóm lá hình trứng hay hình mác tròn có các loài: P.
hainanensis Merr.; P. chinensis Franch. và P. fargesii
Franch
Tất cả các loài trên đều có công dụng làm thuốc như
nhau.
Phân bố
Việt Nam:
Sơn La (Mộc Châu); Hà Giang (Phó Bảng).
Cả 5 loài còn lại cũng đều là những cây thuốc hiếm gặp
ở Việt Nam.
Bảy lá một hoa - Paris polyphylla Smith

1- Cây mang hoa; 2- Quả
Phân bố bảy lá một hoa ở Việt
Nam
406
Thế giới:
Trung Quốc, Ấn Độ, Nepal, Mianmar (Nguyễn Thị Đỏ, 1995).
Đặc điểm sinh học
Bảy lá một hoa (Paris polyphylla Smith) cũng như các loài khác cùng chi, nhìn
chung có
những đặc điểm sinh học gần giống nhau. Đó là những cây ưa ẩm, ưa bóng; thường
mọc dưới
tán rừng kín thường xanh. Độ cao phân bố từ 600 m (ở Miền Bắc) và từ 800 m trở
lên (ở Miền
Nam). Cây thường mọc trên đất ẩm, nhiều mùn, dọc theo các bờ khe suối hoặc hốc
đá. Toàn
bộ phần trên mặt đất tàn lụi hàng năm vào mùa đông; đến mùa xuân năm sau, từ
thân rễ sẽ
mọc lên 1 thân mang lá mới. Cây ra hoa quả hàng năm. Mùa hoa tháng 5 – 6; mùa
quả tháng 6
– 10. Khi quả già tự mở cho hạt rơi xuống đất. Cây con mọc ra từ hạt quan sát thấy
vào khoảng
tháng 4 – 5.
Cây có khả năng tái sinh tự nhiên từ phần đầu mầm thân rễ.
Bộ phận dùng, công dụng
Bộ phận dùng:
Thân rễ (củ) dùng tươi hoặc phơi, sấy khô.
Thành phần hóa học:
Trong thân rễ chứa 7 – 9 % đường; 2 glucosid chủ yếu là α-paridin và α-
paristyphnin.
Công dụng:

Bảy lá một hoa mới được sử dụng chủ yếu theo kinh nghiệm của nhân dân để làm
thuốc
chữa sốt cao, kinh giật (ở trẻ em), tiêu viêm mụn nhọt, giải độc khi bị rắn cắn…
dưới dạng
thuốc sắc uống 4 – 12 g dược liệu khô một ngày.
Theo kinh nghiệm của nhân dân ở nhiều tỉnh phía Bắc, khi bị rắn cắn, sau khi ga
rô, rửa
vết thương (bằng cồn hoặc xà phòng) lấy củ tươi giã đắp.
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng
Hiện tại chưa được nghiên cứu trồng cụ thể, nhưng qua việc thu thập trồng với
mục đích
bảo tồn, cho thấy có thể trồng bằng đoạn đầu mầm thân rễ, vào cuối mùa đông
hoặc đầu mùa
xuân (khi cây đang tàn lụi, mới hình thành chồi ở đầu thân rễ). Ngoài ra, có thể
trồng bằng cách
gieo hạt, lấy từ các quả già (bắt đầu nứt theo 3 đường dọc) và gieo ngay trên đất
ẩm.
Chú ý: Các loài bảy lá một hoa đều ưa ẩm và ưa bóng, nên phải trồng trong vườn
có mái
che, hay dưới bóng các cây gỗ, ở vùng núi.
Khai thác, chế biến và bảo quản
Thân rễ (củ) thu vào mùa thu hay đầu mùa đông, khi quả đã già và cây sắp tàn lụi.
Dùng
dao cắt lấy phần thân rễ già, để chừa lại phần đầu mầm thân rễ (dài khoảng 4 – 5
cm) để cho
cây tái sinh.
407
Cắt bỏ hết rễ, rửa sạch, thái lát, phơi hay sấy khô. Dược liệu khô đóng gói trong túi
nilon,
để nơi thoáng mát, song vẫn phải thường xuyên kiểm tra vì dễ bị mốc.

Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Các loài bảy lá một hoa chủ yếu được sử dụng trong phạm vi nhân dân để làm
thuốc.
Trong những năm 90 thế kỷ trước, loài cây thuốc này đã bị thu gom nhiều ở các
tỉnh phía Bắc
để bán qua biên giới. Giá thu gom ở Lào Cai và Lai Châu từ 5.000 đến 10.000 đ /
kg củ tươi.
Vốn là loài cây thuốc hiếm, chúng đã trở nên càng hiếm gặp hơn ở các tỉnh miền
núi phía Bắc
Việt Nam. Đặc biệt là các loài P. polyphylla, P. delavayi và P. yunnanensis. Tất cả
các loài bảy
lá một hoa đều có tên trong Sách Đỏ Việt Nam và Danh lục Đỏ cây thuốc Việt
Nam. Cần chú ý
bảo tồn tại chỗ một số loài: P. hainanensis ở VQG Tam Đảo và Khu BTTN Nà
Hang; P.
chinensis ở Khu BTTN Đắk Krông (Quảng Trị); P. fargesii và P. yunnanensis ở
VQG Hoàng
Liên Sơn. Các loài khác cần điều tra thu thập bảo tồn chuyển vị.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Tập (2006). Danh lục Đỏ cây thuốc Việt Nam năm 2006. Tạp chí Dược
liệu; số 3 (11); trang 97 – 105;
2. Nguyễn Tiến Bân - chủ biên (1996). Sách Đỏ Việt Na
BÌNH VÔI
Stephania sinica Diels, 1910
Tên khác: Dây mối trơn, củ một, cà tòm, củ bồng bềnh; cáy pầm (Tày); co cáy
khẩu (Thái); tở lùng dòi (Dao); p’lồi (K’Ho); voon seed (Anh)
Họ: Tiết dê - Menispermaceae
Hình thái
Dây leo, sống nhiều năm, dài 2 – 6 m. Thân non nhẵn, khi già có nhiều bì khổng,
hơi hóa

gỗ, có khi xoắn vặn. Rễ củ to, vỏ ngoài xù xì, màu nâu xám. Lá mọc so le, có
cuống dài, đính
khoảng 1 / 3 vào trong phiến lá; phiến lá mỏng, gần hình tròn hoặc tam giác tròn,
gốc bằng, đầu
tù, mép hơi lượn sóng, hai mặt nhẵn, gân lá xuất phát từ chỗ đính của cuống lá, tỏa
ra hình
chân vịt, nổi rõ ở mặt dưới.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc những cành già đã rụng lá thành xim tán. Hoa đực và
hoa cái
khác gốc; hoa đực có 5 – 6 lá đài, 3 – 4 cánh hoa màu vàng cam, 3 – 6 nhị, thường
là 4; hoa
cái có 1 lá đài, 2 cánh hoa; bầu hình trứng.
408
Quả hạch, hình cầu, hơt dẹt, màu đỏ khi chín;
hạt cứng, hình móng ngựa với những hàng vân
ngang dạng gai, hai mặt bên lõm, ở giữa không có lỗ
thủng.
Các thông tin khác về thực vật
Thuộc chi Stephania Lour. ở Việt Nam hiện đã
biết gần 15 loài, trong đó có khoảng 10 loài có rễ
phình thành củ, nhìn hình thái bên ngoài chúng
tương đối giống nhau, vì vậy có tên gọi chung là
“bình vôi”: Stephania brachyandra Diels; S.
cambodica Gagnep.; S. cepharantha Hayata; S.
dielsiana Y. C. Wu; S. kwangsiensis H. S. Lo; S.
pierrei Diels; S. rotunda Lour.; S. venosa (Blume)
Spreng.v.v… Tất cả những loài này đều được dùng
làm thuốc.
Phân bố
Việt Nam:

Trong số các loài bình vôi kể trên, có một số loài
như S. sinica Diels, S. kwangsienssis H. S. Lo, S.
rotunda Lour. thường mọc lẫn với nhau ở rừng núi đá
vôi, tại các tỉnh: Ninh Bình, Hà Nam, Thanh Hóa, Hòa Bình, Quảng Ninh, Hải
Phòng (Cát Bà),
Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tây…
Thế giới:
Trung Quốc, Lào.
Đặc điểm sinh học
Bình vôi là loại cây ưa sáng hoặc hơi chịu bóng. Cây
thường mọc ở các kẽ đá, leo trùm lên các loại cây khác hoặc
phủ lên đá, ở loại hình rừng ẩm trên núi đá vôi. Độ cao phân
bố của loài S. sinica Diels thường từ vài chục đến vài trăm
mét và chưa phát hiện thấy ở khoảng 1.000 m so với mặt
biển.
Bình vôi có hiện tượng rụng lá vào mùa đông, mọc lại
vào mùa xuân và hoa xuất hiện sau khi ra lá non. Mùa hoa
quả tháng 4 – 8, cá biệt thấy quả chín vào tháng 10. Cây tái
sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt hoặc từ các phần khác còn lại
sau khi bị cắt. Ngoài ra, từ củ bình vôi đem vùi 1 / 3 xuống đất
hoặc chỉ cần đặt phần gốc tiếp xúc với đất ẩm cũng mọc
thành cây mới.
Bộ phận dùng và công dụng
Bộ phận dùng:
Củ thái lát phơi hay sấy khô, dùng làm thuốc theo y học
Phân bố bình vôi ở Việt Nam
Bình vôi - Stephania sinica Diels
1- Cả cây mang hoa và củ; 2- Cụm hoa;
3- Hoa cái; 4- Quả; 5- Hạt
409

cổ truyền. Để chiết xuất hoạt chất làm thuốc thì dùng củ tươi.
Thành phần hóa học:
Trong củ các loài bình vôi nói chung thường có một số nhóm hoạt chất, trong đó
thành
phần chủ yếu là các alcaloid như: L-tetrahydropalmatin, stepharin, cycleanin,
tuduranin,
palmatin, dihydropalmatin, dicentrin …
Công dụng:
Trong y học cổ truyền dùng củ bình vôi thái lát phơi khô sắc uống có tác dụng an
thần,
chữa ho, sốt, lỵ, đau dạ dày … Liều dùng 3 – 6 g / ngày. Tuy nhiên, cách dùng này
hiện nay ít
được áp dụng, vì dễ bị ngộ độc (gây nôn) do có nhiều alcaloid.
Bình vôi là nguyên liệu chiết alcaloid (L-tetrahydropalmatin hay còn gọi là
rotundin) làm
thuốc an thần, chữa mất ngủ. Thuốc được làm dưới dạng viên có tên là Rotunda,
mỗi viên
chứa 0.05 g L-tetrahydropalmatin clohydrat.
Liều dùng mỗi lần 1 – 2 viên trước khi đi ngủ.
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng
Ở Việt Nam hiện chưa có nơi nào trồng bình vôi theo hướng sản xuất, chỉ mới
trồng trong
phạm vi thí nghiệm hay trồng ở vườn mẫu.
Nhìn chung tất cả các loài bình vôi đều có thể trồng từ hạt và từ đầu mầm củ, nghĩa
là lát
cắt khoảng 1 / 3 phần đầu của củ, các phần khác của củ không hoặc rất ít có khả
năng nảy
mầm.
Hạt gieo lấy từ quả chín (tháng 7 – 8), ủ 2 – 3 ngày cho mềm, đãi bỏ phần thịt quả,
chỉ lấy

hạt chìm. Hạt thu được phơi trong bóng râm cho khô, gieo ngay hoặc để đến tháng
1 – 2 năm
sau mới gieo. Hạt gieo ở vườn ươm có mái che, hoặc được che bóng bởi cây khác.
Đối với loài
S. brachyandra Diels và S. kwangsiensis H.S.Lo, gieo vào tháng 10, sau khoảng 3
tháng mới
nảy mầm; tỷ lệ nảy mầm đạt khoảng 65 – 75%. Nếu gieo vào tháng 2 hoặc tháng 3,
thời gian
nảy mầm rút ngắn chỉ còn khoảng 1 tháng, nhưng tỷ lệ nảy mầm chỉ vào khoảng
dưới 60%.
Cây con một năm tuổi khi đem trồng đã trở thành dây leo nhỏ, dài trên 20 cm và
hình thành củ
ở gốc, dạng thuôn dài, đường kính 0,6 – 1,2 cm. Cây trồng sau 3 năm, đường kính
củ đạt tới 7
– 10 cm, hiện chưa rõ về năng suất trồng.
Bình vôi là loại dây leo, cây trồng cần có giá thể leo.
Khai thác, chế biến, bảo quản
Khai thác củ vào mùa thu, khi quả đã chín. Hầu hết các loại bình vôi có củ mọc nổi
trên mặt
đất, nên việc đào bới không khó khăn. Nhưng đối với những loài ở núi đá vôi, khi
khai thác cần
cẩn thận, đề phòng tai nạn.
Để đảm bảo cho cây tái sinh, chỉ khai thác những củ có đường kính trên 10 cm.
Củ bình vôi tươi có thể để được trên 1 tháng, sau đó phải vận chuyển ngay về nơi
sản xuất
để chiết xuât alcaloid.
410
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Bình vôi là cây thuốc quý. Do nguồn nguyên liệu tương đối dồi dào nên giá thu
mua rẻ. Tại

nơi khai thác, giá mua khoảng 1.000 – 1.500 đ / kg tươi. Bởi vậy giá thuốc thành
phẩm ở Việt
Nam cũng rất rẻ (2.000 – 2.500 /1 vỉ 10 viên)
Tuy nhiên, do phát động khai thác ồ ạt (từ năm 1992 đến nay), cung cấp cho thị
trường
trong nước và xuất khẩu, đã làm cho nguồn bình vôi ở các tỉnh miền núi phía Bắc
mau cạn kiệt.
Bên cạnh đó, ở Việt Nam còn có một số loài bình vôi được coi là quý hiếm, như:
Stephania
brachyandra Diels có hàm lượng L-tetrahydropalmatin cao nhất trong số những
loài đã biết
(khoảng 2.3 – 3.5%), chỉ phân bố ở một số vùng núi cao trên 1.000 m. Hoặc loài
Stephania
cepharantha Hayta chứa hợp chất Cepharantin, có tác dụng làm thuốc chữa ung
thư, mới chỉ
phát hiện ở hai điểm tại Quảng Ninh và Hòa Bình … Những loài này đã được đưa
vào Sách Đỏ
và Danh lục Đỏ cây thuốc Việt Nam để bảo vệ, do có mức bị đe dọa tuyệt chủng
cao.
Để khai thác lâu dài nguồn bình vôi ở Việt Nam, trước mắt chỉ nên khai thác hạn
chế, với
khối lượng vừa đủ cho nhu cầu sử dụng trong nước (ước tính 50 – 100 tấn / năm).
Bên cạnh
đó, cần hoàn tất việc nghiên cứu, phát triển trồng một số loài có hàm lượng hoạt
chất cao như
S. brachyandra Diels và S. kwangsiensis H. S. Lo, tại các tỉnh miền núi phía Bắc.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Tập (2006). Danh lục Đỏ cây thuốc Việt Nam năm 2006. Tạp chí Dược
liệu; số 3 (11); trang 97 – 105;
2. Nguyễn Tiến Bân - chủ biên (1996). Sách Đỏ Việt Nam, Tập II – Phần thực vật.

Nxb Khoa học và Kỹ thuật; trang
258–263; 3. Nhiều tác giả (2004). Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam;
Tập I. Nxb Khoa học và Kỹ thuật; trang
210–215. 4. Nguyen Tien Ban, Bui Thi Bang, Nguyen Tap, Nguyen Chieu (1999);
Stephania Lour.In: L.S. de Padua, et
al.; Plant Resources of South – East ASia, N0 12 (1) – Medicinal & Poisonous
Plants (1); Backhuys Publishers; Leiden,
Netherlands; p.463 – 467
BỒ CÔNG ANH
Lactuca indica L., 1771
Tên khác: Diếp dại, diếp trời, rau bồ cóc, cây mũi mác, rau mét, phiắc bao, lin hán
(Tày), lày máy kỉm, rau bao (Dao); Indian lettnee (Anh); laitue indienne,
laitue d’Inde (Pháp).
Họ: Cúc – Asteraceae
Hình thái
Cây thảo mọc đứng, sống một năm hay hai năm, cao 0,5 – 1,0 m, có thể đến gần 2
m.
Thân nhẵn, ít phân cành, màu lục, đôi khi có những đốm tía. Lá mọc so le, không
cuống, rất đa
dạng. Những lá ở phần dưới thuôn dài khoảng 30 cm, rộng 5 – 6 cm, xẻ thùy
không đều hẹp và
sâu, mép có răng cưa, đầu nhọn; lá ở giữa và ở gần ngọn có phiến ngắn và hẹp hơn,
xẻ ít răng
hoặc hoàn toàn nguyên.
411
Cụm hoa mọc ở ngọn thân và kẽ lá thành chùy
dài 20 – 40 cm, phân nhánh nhiều, mỗi nhánh mang
2 – 5 đầu, mỗi đầu có 8 – 10 hoa màu vàng. Tràng
hoa có ống mảnh và lưỡi dài; nhị 5, bao phấn có đỉnh
tròn, tai hình dùi; vòi nhụy có gai.

Quả bế, 2 cạnh có cánh, 2 cạnh kia giảm thành
một đường lồi, màu đen khi chín, có mào lông trắng
nhạt ở đỉnh.
Toàn cây có nhựa mủ màu trắng.
Phân bố
Việt Nam:
Phân bố rải rác khắp các tỉnh vùng núi thấp,
trung du và có cả ở đồng bằng. Hiện có nhiều ở Vĩnh
Phúc, Thái Nguyên, Bắc Giang, Cao Bằng, Lạng
Sơn, Quảng Ninh, Phú Thọ, Tuyên Quang, Hòa Bình,
Hà Tây, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An…
Còn được trồng ở các tỉnh xung quanh Hà Nội.
Thế giới:
Nam Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Ấn Độ, Malaysia,
Indonesia, Philippin.
Đặc điểm sinh học
Bồ công anh là cây ưa ẩm và ưa sáng, thường mọc ở
những nơi đất còn tương đối màu mỡ, ở bãi sông, nương rẫy,
các bãi đất hoang quanh làng, ven đường đi. Hàng năm, cây
mọc từ hạt xuất hiện vào mùa xuân, sinh trưởng nhanh trong
mùa hè; ra hoa khoảng tháng 4 – 6; đến mùa thu sau khi quả
già, toàn cây tàn lụi. Quả bồ công anh có túm lông, phát tán
nhờ gió và có khả năng nảy mầm tốt.
Bộ phận dùng và công dụng
Bộ phận dùng:
Cả cây (bỏ rễ), thu hái khi bắt đầu có nụ; được phơi hay
sấy khô.
Thành phần hóa học:
Trong lá bồ công anh chứa các chất protid, glucid,
flavonoid, caroten, vitamin C, β-amyrin, taraxasterol,

germanicol; có 2 chất đắng là lactucin và lactucopicrin.
Bồ công anh - Lactuca indica L.
1- Ngọn; 2- Cành mang hoa; 3- Hoa; 4- Quả
Phân bố bồ công anh ở Việt Nam
412
Công dụng:
Bồ công anh là cây thuốc được sử dụng từ lâu đời trong nhân dân, có tác dụng tiêu
độc,
làm mát, trong các trường hợp bị mụn nhọt, mẩn ngứa, lở loét, chữa đau dạ dày, và
kích thích
tiêu hóa.
Lá non tươi của cây còn dùng làm rau ăn. Đây là món ăn ưa thích của đồng bào
Thái, Dao,
Tày,…
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng
Cây được trồng ở các tỉnh xung quanh Hà Nội, vào tháng 2 – 3; gieo bằng hạt.
Vào mùa thu khi quả già (lá bắt đầu vàng úa), cắt lấy cả bông, phơi nắng. Khi thấy
các quả
bung ra cùng tùm lông trắng, giũ nhẹ cho hạt rơi xuống, phơi thêm 1 nắng nữa, sau
đóng gói,
cất kỹ để đến mùa xuân năm sau mới đem gieo.
Đất trồng bồ công anh cần cày bừa kỹ, bón lót khoảng 20 tấn phân chuồng mục /
ha; lên
luống, sau gieo hạt theo từng rạch. Hạt gieo sau 15 – 25 ngày nảy mầm. Khi cây
cao 10 cm tỉa
thưa, chỉ để lại với cự ly 30 – 35 cm / cây. Chăm sóc đơn giản, bao gồm làm cỏ,
xới đất, tưới
nước khi bị hạn. Cây trồng sau 3 tháng cho thu hoạch. Hiện chưa rõ về năng suất.
Ở vùng Hoành Bồ (tỉnh Quảng Ninh), người Dao còn trồng bồ công anh ở vườn
làm rau

ăn.
Khai thác, chế biến và bảo quản
Khi cây sắp có hoa thì thu hái. Cắt lấy toàn bộ phần trên mặt đất; rửa sạch đất cát;
chặt
thành từng đoạn 4 – 5 cm; phơi hay sấy đến khô.
Dược liệu bồ công anh khô dễ bị ẩm mốc, cần bảo quản nơi khô mát.
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Mặc dù mọc hoang dại rải rác trong thiên nhiên, song từ nhiều năm nay, dược liệu
bồ công
anh trên thị trường miền Bắc Việt Nam chủ yếu do trồng trọt. Được biết, giá trị
đem lại do trồng
bồ công anh cao hơn lúa và ngô. Thời gian trồng ngắn, chỉ khoảng 3 tháng đã thu
hoạch. Mặt
khác, do là cây trồng nên chủ động về thời gian thu hái, dược liệu có chất lượng
cao và đồng
đều hơn thu hái từ cây mọc tự nhiên. Bởi vậy, hiện chưa phải lo lắng đến vấn đề
bảo tồn loài
cây thuốc này ở Việt Nam.
Tài liệu tham khảo chính
1. Đỗ Tất Lợi (1999). Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. Nxb Khoa học và
Kỹ thuật, Hà Nội; trang 84 – 85; 2.
Nguyễn Tiến Bân - chủ biên (2003). Danh lục các loài thực vật Việt Nam; Tập III.
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội; trang 219;
3. Nhiều tác giả (2004). Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam; Tập I. Nxb
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội; trang
235 – 237; 4. National Intitute of Materia Medica (1999). Selected Medicinal
Plants in Vietnam; Vol.II. Science and
Tecnology Publishing House – Hanoi; pp.49 – 51 & 127; 5. Roemantyo (1994).
Lactuca indica L.; In: J. S. Siemonsma
et al Plants Resources of South – East Asia; No8 – Vegetable; Bogor Indonesia;

pp.184 486.
413
CÀ ĐỘC DƯỢC
Datura metel L., 1753
Tên đồng nghĩa: Datura fastuosa L., 1759; D. alba Rumph. ex Nees
Tên khác: Cà diên, cà lục lược (Tày); sùa tùa (H’Mông); lửa kía piếu (Dao); phờn
khiu (K’Ho); white datura, white thorn-apple, recurved thorn-apple,
downy thorn-apple, downy datura (Anh); pomme épíneuse (Pháp)
Họ: Cà - Solanaceae
Hình thái
Cây bụi, sống một năm, cao 1 – 1,5 m. Thân
nhẵn, gốc hơi hóa gỗ, phân cành nhiều, màu lục
hoặc lục tía. Lá mọc so le, hình bầu dục, dài 6 – 15
cm, rộng 5 – 12 cm, gốc lệch, đầu nhọn, mép uốn
lượn, mặt trên nhẵn màu lục sẫm, mặt dưới nhạt có
rất ít lông; lá vò ra có mùi hắc; cuống lá dài 2 – 5 cm.
Hoa to mọc riêng lẻ ở kẽ lá gần ngọn, có cuống
rất ngắn, màu trắng, đốm tím hoặc hơi vàng ở mặt
ngoài, 5 lá đài hàn liền thành ống hình trụ, dài 5 – 8
cm, 5 cánh hoa hợp rồi nở xòe ra hình phễu, dài 15 –
25 cm, đầu cánh có mũi nhọn cong, nhị dài bằng
tràng, chỉ nhị đính vào ống tràng đến tận giữa.
Quả nang, hình cầu, có gai ngắn, đường kính 2,5
cm, khi chín nứt thành những mảnh không đều nhau,
đài tồn tại hình đĩa; hạt nhiều, dẹt, mặt ngoài nhăn
nheo màu vàng nâu.
Các thông tin khác về thực vật
Chi Datura L. trên thế giới có trên 10 loài, nguồn gốc chủ yếu từ phần lãnh thổ
phía Nam
Bắc Mỹ, sau lan ra khắp thế giới. Ở Việt Nam, hiện có 4 hoặc 5 loài, trong đó gồm:

2 loài mọc
tự nhiên là loài cà độc dược kể trên và loài cà độc dược lùn thân tía (Datura tatula
L.); 3 loài
nhập nội là D. stramonium L. (khác hẳn loài cà độc dược lùn thân tía); D. innoxia
L. và D.
suaveolens Humbl et Bonpl. trồng làm cảnh ở Đà Lạt. Tất cả các loài này đều được
dùng làm
thuốc.
Phân bố
Việt Nam:
Cây phân bố rải rác khắp các tỉnh, từ đồng bằng đến trung du và vùng núi thấp.
Gặp nhiều
nhất ở tỉnh Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam,
Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên và Ninh Thuận.
Cà độc dược - Datura metel L.
1- Cành mang hoa quả; 2- Quả; 3- Hạt
414
Thế giới:
Nguồn gốc từ châu Mỹ, hiện phân bố tự nhiên và được
trồng ở nhiều nước thuộc vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, như
Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippin, Campuchia,
Brunei, Papua New Ghinê và Trung Quốc…
Đặc điểm sinh học
Cà độc dược là cây ưa sáng và ẩm. Cây thường mọc
trên các bãi cát hoang, ẩm ở quanh làng, ven đường đi hoặc
dưới chân các đồi núi thấp ở vùng ven biển, đảo lớn và trung
du. Cây thích nghi với nhiều loại đất, tuy nhiên, đất ẩm và
màu mỡ (đất phù sa bãi sông) thì sinh trưởng tốt hơn. Hàng
năm cây con mọc từ hạt vào tháng 3 – 4; sinh trưởng nhanh

trong mùa xuân và đầu mùa hè, sau đó ra hoa quả. Hoa
thường nở vào nửa đêm, kéo dài đến 9 – 10 giờ sáng. Quả
già tự mở cho hạt thoát ra ngoài. Đến đầu mùa thu, cây bị tàn
lụi.
Bộ phận dùng, công dụng
Bộ phận dùng:
Lá hoặc toàn bộ phần cành mang lá đã làm khô (làm
nguyên liệu chiết hyosciamin). Hoa, nhưng chỉ gồm phần
tràng hoa sấy hoặc phơi khô.

×