Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Thế giới nghệ thuật thơ Hoàng Nhuận Cầm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.5 KB, 109 trang )






ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM








ĐỒNG THỊ ĐỨC HẠNH





THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
THƠ HOÀNG NHUẬN CẦM





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN








THÁI NGUYÊN - 2013






ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM







ĐỒNG THỊ ĐỨC HẠNH



THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
THƠ HOÀNG NHUẬN CẦM




Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60220121


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lưu Khánh Thơ




THÁI NGUYÊN - 2013

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




LỜI CẢM ƠN!

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Lưu Khánh Thơ - người
thầy đã tận tình hướng dẫn, động viên tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm – tác giả đã
cung cấp những thông tin hữu ích để tôi hiểu sâu sắc hơn đề tài nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy - cô giáo, nhà trường đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập.
Xin chân thành gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, các
em học sinh đã dành sự ủng hộ, chia sẻ, giúp đỡ qúi báu để tôi hoàn thành

luận văn này.
Hà Nội, tháng 4 năm 2013
Tác giả



Đồng Thị Đức Hạnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam
đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và
các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn



Đồng Thị Đức Hạnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………………… 1
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………….1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Đối tượng nghiên cứu 7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 7
5. Phương pháp nghiên cứu 7
6. Đóng góp của luận văn 8
7. Cấu trúc của luận văn 9
II. PHẦN NỘI DUNG 9
CHƯƠNG 1. DIỆN MẠO THƠ CHỐNG MỸ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG
TÁC CỦA HOÀNG NHUẬN CẦM 9
1.1. Diện mạo thơ chống Mỹ………………………………………………….9
1.1.1 Sự xuất hiện của thơ trẻ thời kì chống Mỹ…………………………….9
1.1.2 Các chặng đường thơ trẻ thời kì chống Mỹ……………………………10
1.1.2.1 Chặng thứ nhất: từ 1964 đến 1968…………………………………10
1.1.2.2 Chặng thứ hai: từ 1969 đến 1972……………………………………12
1.1.2.3 Chặng thứ ba: từ 1973 đến 1985……………………………………14
1.2. Hành trình sáng tác của Hoàng Nhuận Cầm……………………………16
1.2.1 Tiểu sử…………………………………………………………… 16
1.2.2 Hành trình sáng tác……………………………………………………17
1.2.2.1 Thơ tuổi hai mươi - trẻ trung, tươi mới như màu xanh quân phục…17
1.2.2.2 Những câu thơ viết đợi mặt trời - chất lý tưởng nồng say của người
lính trẻ……………………………………………………………………….21
1.2.2.3 Xúc xắc mùa thu - tiếng thơ tiếc nuối thời gian…………………… 23
CHƯƠNG 2. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VÀ NHỮNG NGUỒN CẢM
HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG THƠ HOÀNG NHUẬN CẦM…………… 28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




2.1. Quan niệm nghệ thuật………………………………………………… 28
2.1.1 Khái niệm về “Quan niệm nghệ thuật”……………………………… 28
2.1.2 Quan niệm nghệ thuật trong thơ Hoàng Nhuận Cầm…………………28
2.1.2.1 “Không có thơ người ta không thở được”…………………………29
2.1.2.2 Cố gắng “Giữ được sự thanh xuân của ngòi bút”………………….31
2.1.2.3 Người “…Lặng lẽ đốt thơ mình”…………………………………….32
2.2. Những nguồn cảm hứng chủ đạo trong thơ Hoàng Nhuận Cầm……… 34
2.2.1 Khái niệm “cảm hứng chủ đạo”………………………………………34
2.2.2 Cảm hứng chủ đạo trong thơ Hoàng Nhuận Cầm…………………… 34
2.2.2.1 Cảm hứng tuổi thơ và tuổi học trò trong sáng………………………35
2.2.2.2 Cảm hứng chiến tranh và người lính………………………………42
2.2.2.3 Cảm hứng về tình yêu………………………………………………50
CHƯƠNG 3. ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT THƠ HOÀNG NHUẬN CẦM…64
3.1 Hệ thống biểu tượng…………………………………………………….64
3.1.1 Biểu tượng mùa hoa phượng cháy……………………………………65
3.1.2 Biểu tượng mùa thu……………………………………………………69
3.1.3 Biểu tượng chiếc lá, cỏ……………………………………………….75
3.2 Ngôn ngữ……………………………………………………………….81
3.2.1 Ngôn ngữ giàu tính nhạc……………………………………………82
3.2.2 Ngôn ngữ trong sáng, giản dị…………………………………………85
3.3 Giọng điệu……………………………………………………………….89
3.3.1 Giọng điệu trữ tình sâu lắng………………………………………….90
3.3.2 Giọng điệu giãi bày tâm sự………………………………………… 92
III. PHẦN KẾT LUẬN………………………………………………… 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………98


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1



I. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thơ trẻ thời kì chống Mỹ là một hiện tượng rất đáng chú ý của Văn học
hiện đại Việt Nam, đánh dấu sự xuất hiện, trưởng thành của một thế hệ nhà
thơ và bước phát triển mới của nền thơ chống Mỹ. Những tác giả như: Lê Anh
Xuân, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Đức Mậu,
Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Cầm, Trần Đăng
Khoa… là những gương mặt tiêu biểu đem lại vinh quang cho cả thế hệ thơ
trẻ thời chống Mỹ. Chính các anh đã đem đến cho nền thơ hiện đại Việt Nam
một tiếng nói mới mẻ, tươi trẻ, khoẻ khoắn. Tiếng nói của một thế hệ sinh ra
và lớn lên trong lòng cách mạng. Tiếng nói của những người chiến sĩ xung
kích trên mặt trận chống quân thù, thực sự đáp ứng được yêu cầu của thời đại.
Nguyễn Hoàng Sơn từng nhận xét về những cây bút của thời kì này: “Bên
cạnh một Nguyễn Duy già dặn, từng trải, một Nguyễn Đức Mậu như còn
vương lửa khói và đất bụi chiến hào, một Lâm Thị Mĩ Dạ nhẹ nhõm, giàu nữ
tính là một Hoàng Nhuận Cầm trẻ trung, tươi rói như màu quân phục mới,
như tiếng chim cất lên trên vòm me sân trường” [76].
Hoàng Nhuận Cầm đã đứng trong dòng chảy của lịch sử để chiến đấu,
đứng trong dòng chảy của thi ca để cống hiến. Anh là một trong những gương
mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ chống Mỹ. Hoàng Nhuận Cầm đã làm nên một
“thương hiệu” riêng với các tác phẩm chính: Thơ tuổi hai mươi (1974),
Những câu thơ viết đợi mặt trời (1983), Xúc xắc mùa thu (1992) và Thơ với
tuổi thơ (2004)…
Thành công và sự nổi tiếng của Hoàng Nhuận Cầm được minh chứng
qua một loạt các giải thưởng. Đầu tiên phải kể đến Giải nhất cuộc thi tuần báo
Văn nghệ năm 1972 – 1973, với chùm thơ: Nhật ký, Thư mùa thu, Nghe chim
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2


kể chuyện trên đồi chốt, Anh bộ đội và tiếng nhạc la. Tiếp theo là giải thưởng
của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993 với tập thơ Xúc xắc mùa thu. Và gần
đây nhất, nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm đã vinh dự được nhận giải thưởng Nhà
nước về Văn học Nghệ thuật năm 2012.
Đó chính là những lý do mà chúng tôi chọn đề tài “Thế giới nghệ
thuật thơ Hoàng Nhuận Cầm” để nghiên cứu. Luận văn muốn khẳng định
những giá trị thẩm mĩ cao cả và lâu bền của thơ trẻ thời chống Mỹ nói chung
và thơ Hoàng Nhuận Cầm nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Điểm qua lịch trình nghiên cứu thơ Hoàng Nhuận Cầm, chúng tôi thấy
hiện đã có một số bài viết lớn nhỏ về tác giả này. Tổng hợp các tài liệu cho
thấy, nghiên cứu về thơ Hoàng Nhuận Cầm có khá nhiều, nhưng chưa có công
trình nào có quy mô thực sự. Các bài nghiên cứu, phê bình của các tác giả đi
trước mới chỉ là những bài viết giới thiệu về tập thơ, về bài thơ, hay những
khía cạnh nào đó trong đời thơ của tác giả. Tất cả những bài viết đó được in
riêng lẻ trên các báo và tạp chí.
Sau giải nhất báo văn nghệ năm 1972 – 1973 với tập thơ trình làng Thơ
tuổi hai mươi (in chung), Hoàng Nhuận Cầm không nhận được nhiều sự chú ý
từ giới nghiên cứu, phải đến khi tập thơ thứ ba của anh ra đời mới có một loạt
bài đăng trên các báo giới thiệu Xúc xắc mùa thu:
Ngô Vĩnh Bình viết Có một loài hoa nở hoài trên mũ quân nhân, đăng
trên báo Quân đội nhân dân, số 106, ra ngày 11/7/1992.
Nguyễn Việt chiến giới thiệu Xúc xắc mùa thu trên báo Hà Nội mới số
8421, ra ngày 27/6/1992.
Vân Long có bài Xúc xắc mùa thu - Sự không chừng mực ở Hoàng
Nhuận Cầm, trên báo Văn nghệ số 32, ra ngày 8/8/1992.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3


Đoàn Minh Tuấn viết về Nỗi buồn khoẻ khoắn và niềm cô đơn âm vang
đăng trên báo Phụ nữ Hà Nội số 14, ra ngày 22/8/1992.
Năm 1993, tập thơ Xúc xắc mùa thu được nhận giải thưởng thường niên
của Hội Nhà văn Việt Nam và một lần nữa Hoàng Nhuận Cầm lại được giới
nghiên cứu quan tâm:
Hồ Thế Hà viết Xúc xắc mùa thu ru trong cỏ, đăng trên báo Thừa
Thiên Huế, số 338, ra ngày 19/10/1993.
Ngay sau đó, Khả Xuân có bài Viên xúc xắc xoay tròn, trên báo Bình
Định, số 429, ra ngày 22/10/1993.
Nguyễn Ngã nhận xét về Thơ Hoàng Nhuận Cầm trên báo Giáo dục và
Thời đại ngày 11/2/1996.
Nguyễn Hoàng Sơn đăng bài Hoàng Nhuận Cầm - tiếng thơ riêng khó
lẫn trên báo Tiền phong ngày 10/11/2002.
Thu Hà có bài Hoàng Nhuận Cầm “Không ai cho mình hạnh phúc”
trên báo điện tử vnexpress.net ngày 23/12/2004.
Minh Trường có bài Nhà thơ tình – Nhà biên kịch, hai trong một con
người trên trang web 100years.vnu.edu.vn.
Phạm Khải viết Cuộc hò hẹn bốn mươi năm của người cầm bút trên
trang vnca.cand.vn/tulieuvanhoa, ngày 8/1/2008/
Đặc biệt, trong những năm gần đây, giới nghiên cứu quan tâm thơ
Hoàng Nhuận Cầm cũng đề cập khá nhiều đến hiện tượng thơ Hoàng Nhuận
Cầm, những dấu ấn trong sáng tác của anh về cả nội dung và hình thức nghệ
thuật:
Trong bài viết: Nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm “Người làm vườn cần
mẫn” trên báo điện tử Giadinh.net.vn, ngày 02/12/2006, có ghi lại ấn tượng
thơ Hoàng Nhuận Cầm đến với bạn đọc: “Cách đây mấy chục năm, đêm nào
Hoàng Nhuận Cầm đọc thơ là cả kí túc xá Mễ Trì hầu như không ngủ. Nữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4


sinh viên mê thơ (có khi mê cả người) Hoàng Nhuận Cầm như điếu đổ. Đúng
là trong thơ anh chất sinh viên đậm đặc, tinh khiết… Có ánh đèn giảng
đường, có tiếng lá sân trường, có cái nhìn đắm đuối, có cơn đói khi hết
tiền…”[84].
Trần Hoàng Thiên Kim trong cuốn sách Ánh đèn và ô cửa, Nhà xuất
bản Văn học 2010, với 33 chân dung như 33 nét vẽ. Trong cuốn sách, chị đã
ghi lại những cảm nhận về con người Hoàng Nhuận Cầm: “Gần gũi Hoàng
Nhuận Cầm, cảm giác gia tài của Hoàng Nhuận Cầm chả có gì ngoài những
vần thơ. Những vần thơ như lửa đốt và mê hoặc sự yêu tin của bao trái tim
thiếu nữ đang vào tuổi yêu thương, mơ mộng, những vần thơ lãng mạn, bay
bổng với một tình yêu chưa kịp nói nên lời…”. Dù trong bất kì trạng thái nào,
Hoàng Nhuận cầm vẫn luôn khẳng định bản ngã và tình yêu thơ của mình:
“Không có thơ là chết, không thở được, sẽ chết dần chết mòn cho hết màu
xanh…”[20].
Mai Anh Tuấn trong bài viết Chân dung thơ Hoàng Nhuận Cầm trên
trang web
có ghi: “Khởi sự, Hoàng Nhuận Cầm đã là
con người tài hoa lãng mạn, bởi tố chất này, ít nhiều ông tiếp nhận từ cha
mình, nhạc sĩ Hoàng Giác, người, trước ngày nổ ra chiến tranh Việt – Pháp,
đã làm xao động Hà Nội bởi nhạc phẩm đầu tay Mơ hoa. Hoàng Cầm, về sau,
như là một định phận, cũng làm xao động tuổi hoa niên kinh kì bởi những thi
phẩm viết về phố, về kỉ niệm sân trường… Thể như, Hà Nội, đã và mãi là giai
điệu phong cầm trữ tình êm dịu chảy tràn từ thuở ấu thơ đến tận bây giờ nơi
gác nhỏ phố Hàng Bạc của Hoàng Nhuận Cầm. [60] Quả thật, Hoàng Nhuận
Cầm là thi sĩ của những cung bậc trong trẻo, thơ mộng, lãng mạn. Anh không
thể - ngay cả khi “chán những lời vu vơ, giả dối” làm đau, làm già đi cảm xúc

của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5


Không chỉ vậy, Lê Thiếu Nhơn trong bài Hoàng Nhuận Cầm và vần
thơ thơm “Mùi cỏ cháy” trên trang web evan.vnexpress.net cập nhật ngày
1/4/2012 có nhận xét về thơ Hoàng Nhuận Cầm “Giọng điệu hào sảng của
Hoàng Nhuận Cầm lẫn vào dàn đồng ca thơ chống Mỹ giục giã cho tương lai
một dân tộc đang bị chia cắt giữa hờn căm”, và “Thơ Hoàng Nhuận Cầm vừa
trọng âm vận vừa trọng nhạc tính, nên lời thơ thường tràn qua cả ý thơ”. [67]
Phạm Khải với bài viết Nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm: sáu mặt đời lắc
cắc tiếng thơ anh trên báo An ninh Thế giới cuối tuần, số ra tháng 4/2012 đã
ghi lại những trạng thái cảm xúc, những dấu ấn nghệ thuật thơ Hoàng Nhuận
Cầm: “Có thể nói, Hoàng Nhuận Cầm là nhà thơ của những trạng huống xao
xuyến, bâng khuâng… rất khó biểu đạt. Thơ anh giầu nhạc tính, có sức ngân
vang. Với anh ngoài phần hình ảnh (là phần mà anh có nhiều tìm tòi) thì
nhạc giữ một vai trò quan trọng, tạo nên sức nặng và sức chinh phục”. Có
phải thế chăng mà trong rất nhiều chương trình thơ, Hoàng Nhuận Cầm
thường thích trực tiếp đọc thơ mình chứ ít chịu để người khác đọc. Hay cũng
trong bài viết này Phạm Khải nhận xét: “Một điều đáng nói nữa, trong sự
nâng lên, đặt xuống của nhịp điệu từng khổ thơ, Hoàng Nhuận Cầm rất chú ý
lựa chọn … điểm rơi của ý tưởng”. “Thơ Hoàng Nhuận Cầm cứ nửa truyền
thống, nửa hiện đại. Âu đó cũng là cái duyên góp phần làm nên sức hấp dẫn
của thơ anh”[58].
Nguyễn Đức Mậu trong bài Đêm pháo hoa ở Huế đăng trên tạp chí Thơ
của Hội Nhà văn Việt Nam số 4 – 2012 có viết “Thơ Hoàng Nhuận Cầm giàu
nhạc điệu và giàu sức ám ảnh người đọc”. Bài viết cũng đề cập đến việc
Hoàng Nhuận Cầm sáng tác trường ca Giữa hai hàng lục bát - trường ca đầu
tiên và duy nhất trong đời anh. “Hoàng Nhuận Cầm viết rất nhanh, viết cho

kịp những điều đang trào dâng, thổn thức”[83].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6


Thảo An trong bài viết Nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm: tuổi 60 của bác sĩ
Hoa súng đã nhận xét: “Nhiều người cho rằng, tuổi Nhâm Thìn là tuổi có tài
thì Hoàng Nhuận Cầm là một người như thế. Dù gần anh, cảm giác gia tài
của Hoàng Nhuận Cầm chẳng có gì ngoài những vần thơ. … Ngay đến bây
giờ, trong thời buổi thơ ca đã trượt giá tới mức báo động, thì gặp Hoàng
Nhuận Cầm, bao giờ anh cũng đọc thơ, nói lên tình yêu thơ da diết và luôn
khẳng định rằng, không có thơ, Hoàng Nhuận Cầm sẽ vô nghĩa trong cuộc
đời này”[44].
Với Hoàng Nhuận Cầm, “sự khoẻ khoắn và đam mê lao động mới là
ngọn lửa tuổi 20”, “Nếu cho anh tự phác hoạ chân dung mình, Hoàng Nhuận
Cầm sẽ nói: Mê thơ đến muốn chết, yêu điện ảnh đến phát mệt, cả hai làm
nên tình yêu, cuộc sống của tôi”[84] . Không ồn ào, Hoàng Nhuận Cầm như
người làm vườn cần mẫn với chiếc cuốc trên cánh đồng nghệ thuật.
Nguyễn Hữu Sơn trong bài viết Thơ Hoàng Nhuận Cầm - cảm nhận
qua sáu mặt có nhận xét: “Thơ Hoàng Nhuận Cầm hàm chứa một lẽ gì vu vơ,
chung chiêng, hư ảo, định hình rõ nét một giọng điệu thống nhất – nhưng
không dễ nắm bắt. Các dòng mạch cảm xúc, ý thơ, tứ thơ, hình ảnh …cứ như
những con sóng gối tiếp vào nhau, giao hoà trong nhau, ào ạt đến mênh
mang, bất định”[77]…
Như vậy, vấn đề nghiên cứu thơ Hoàng Nhuận Cầm đã gây sức hút
trong nhiều năm gần đây. Tuy nhiên, đến nay chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách tổng thể về “Thế giới nghệ thuật thơ Hoàng Nhuận
Cầm”. Vì vậy, việc nghiên cứu có hệ thống “Thế giới nghệ thuật thơ Hoàng
Nhuận Cầm” để làm sáng tỏ thêm những thành công của thơ chống Mỹ nói
chung, thơ Hoàng Nhuận Cầm nói riêng là một hướng nghiên cứu mới, góp

phần nhìn nhận một cách nghiêm túc những đóng góp của thơ Hoàng Nhuận
Cầm trong dòng chảy thơ trẻ chống Mỹ nói riêng và thơ hiện đại nói chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7


3. Đối tượng nghiên cứu
Để thực hiện việc nghiên cứu Thế giới nghệ thuật thơ Hoàng Nhuận
Cầm, chúng tôi đi vào khảo sát và trích dẫn các tập thơ sau:
- Thơ tuổi hai mươi (in chung), Nxb Quân đội Nhân dân, 1974.
- Những câu thơ viết đợi mặt trời, Nxb Tác phẩm mới, 1983.
- Xúc xắc mùa thu, Nxb Hội Nhà văn, 1993
Ngoài ra, trong quá trình khảo sát, chúng tôi có thể đối sánh thơ Hoàng
Nhuận Cầm với thơ của một số nhà thơ trước, sau hoặc cùng thời với Hoàng
Nhuận Cầm, để rút ra những nét khác biệt trong thơ Hoàng Nhuận Cầm.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Đề tài Thế giới nghệ thuật thơ Hoàng Nhuận Cầm nhằm thực hiện
các nhiệm vụ sau:
- Khảo sát, nhận diện thơ Hoàng Nhuận Cầm.
- Nghiên cứu tác phẩm trong sự thống nhất giữa nội dung và hình
thức nghệ thuật.
- Tìm hiểu những nguồn cảm hứng chủ đạo và những đặc sắc nghệ
thuật trong thơ Hoàng Nhuận Cầm.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp tiếp cận hệ thống: chúng tôi coi thế giới nghệ thuật thơ
Hoàng Nhuận Cầm là một chỉnh thể toàn vẹn bộc lộ quan điểm thống nhất về
thế giới và con người của tác giả.
- Phương pháp so sánh văn học: Luận văn sử dụng phương pháp này để

làm rõ Thế giới nghệ thuật thơ Hoàng Nhuận Cầm với những nét độc đáo
trong phong cách sáng tạo của nhà thơ.
- Phương pháp khảo sát thống kê và phân tích, chứng minh văn học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8


6. Đóng góp của luận văn.
- Khảo sát, lí giải một cách có hệ thống, thuyết phục đối với những yếu
tố nghệ thuật chính làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của Thế giới nghệ thuật
thơ Hoàng Nhuận Cầm.
- Khẳng định sự tiếp nối và cách tân trong nghệ thuật thơ Hoàng
Nhuận Cầm.
- Chỉ ra những đóng góp đáng kể của thơ Hoàng Nhuận Cầm trong
dòng chảy thơ đương đại.
7. Cấu trúc của luận văn.
Phần Mở đầu.
Phần Nội dung.
Chương 1. Diện mạo thơ chống Mỹ và hành trình sáng tác của Hoàng
Nhuận Cầm.
Chương 2. Quan niệm nghệ thuật và những nguồn cảm hứng chủ đạo
trong thơ Hoàng Nhuận Cầm.
Chương 3. Đặc sắc nghệ thuật trong thơ Hoàng Nhuận Cầm
Phần Kết luận.
Tài liệu tham khảo.










Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9


II. PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. DIỆN MẠO THƠ CHỐNG MỸ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG
TÁC CỦA HOÀNG NHUẬN CẦM
1.1. Diện mạo thơ chống Mỹ
1.1.1 Sự xuất hiện của thơ trẻ thời kì chống Mỹ.
Trong một thời gian không dài (1964 - 1975), văn học Việt Nam phát
triển với một nỗ lực phi thường để đáp ứng được yêu cầu của lịch sử văn học
dân tộc, của thời đại chống Mỹ. Thực tế cho thấy, văn học Việt Nam trong
giai đoạn này phát triển mạnh mẽ và đồng đều nhiều thể loại. Truyện, ký,
thơ, kịch bản văn học … tất cả đều nở rộ. Trong sự phát triển đó, thơ chống
Mỹ nổi lên và nhanh chóng đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Sự xuất hiện
của đội ngũ các nhà thơ trẻ trong nền thơ chống Mỹ có một ý nghĩa vô cùng
lớn lao.
Với lý tưởng cách mạng, sự nhạy cảm, sự hiểu biết, tài năng và vốn
sống thực tế ở chiến trường, các nhà thơ trẻ đã có những đóng góp to lớn, góp
phần phát triển nền thơ Việt Nam hiện đại. Thơ của họ ngời sáng ngọn lửa
nhiệt tình cách mạng, giầu chất sống chiến trường, rất sôi nổi giục giã nhưng
cũng đằm sâu tâm trạng và nghĩ suy. Thơ của họ đánh dấu một bước phát
triển về nghệ thuật, đã thực sự “tạo thành một vùng sáng rất đẹp trong thơ”
[11]. Những đóng góp của thơ trẻ thời chống Mỹ đã được dư luận đương thời,
kể cả trong và ngoài nước ủng hộ, khẳng định.

Các nhà thơ trẻ thời kì chống Mỹ - theo quan niệm của chúng tôi – là
những nhà thơ tuổi đời còn trẻ. Họ đến với thơ ca do sự thôi thúc của cuộc
sống chiến đấu chống xâm lược Mỹ của dân tộc, do nhu cầu muốn biểu lộ
những tình cảm cao đẹp của mình đối với Tổ quốc, với nhân dân. Được đào
luyện trong nhà trường xã hội chủ nghĩa, khi đến với thơ họ đã có một vốn
kiến thức văn hoá nói chung và hiểu biết một cách hệ thống về văn học dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10


tộc. Họ đã “thâu thái thêm tinh thần nhân văn, đã hiểu thêm cái chân, thiện,
mỹ trong kho tàng văn hoá dân tộc” [39]. Đa số trong số họ là những người
chiến sĩ trực tiếp cầm súng ở chiến hào đánh Mỹ. Lửa chiến trường đã tôi
luyện ý chí, đã nung nấu những nghĩ suy và tác động mạnh mẽ vào cảm xúc
thúc đẩy nhanh quá trình trưởng thành và chín muồi của những tâm hồn thi sĩ
trẻ. Sáng tác của họ xuất hiện và thực sự được khẳng định trong những năm
chống Mỹ anh hùng của toàn dân tộc.
Nhìn một cách tổng quát, nền thơ chống Mỹ được hình thành từ nhiều
thế hệ nhà thơ: Thế hệ nhà thơ xuất hiện từ trước cách mạng (Tố Hữu, Xuân
Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh…), thế hệ nhà thơ trưởng thành trong
thời kì chống Pháp (Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông…),
và thế hệ nhà thơ xuất hiện trong thời kì chống Mỹ - thế hệ nhà thơ sinh ra,
lớn lên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa (Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Xuân
Quỳnh, Lâm Thị Mĩ Dạ, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Hoàng Nhuận
Cầm, Trần Đăng Khoa…). Họ đều là những gương mặt tiêu biểu đem lại vinh
quang cho cả thế hệ thơ trẻ thời kì chống Mỹ.
1.1.2 Các chặng đường thơ trẻ thời kì chống Mỹ.
Nhìn một cách tổng quát, thơ trẻ thời kì chống Mỹ có thể chia thành ba
chặng đường. Mỗi chặng đường có những nét riêng gắn liền với sự xuất hiện
của những nhà thơ tiêu biểu. Tuy nhiên sự phân chia này cũng chỉ mang tính

chất tương đối, vì thực chất thơ trẻ thời kì chống Mỹ là một dòng chảy liên
tục.
1.1.2.1 Chặng thứ nhất: từ 1964 đến 1968.
Ở chặng đầu tiên này, có thể kể tên các tác giả tiêu biểu: Bằng Việt,
Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Mỹ, Lê Anh Xuân… Tiếng thơ của họ
trẻ trung, tươi tắn, sôi nổi. Cảm xúc của họ còn mang nhiều dấu ấn của sách
vở nhà trường: thiêng liêng, trong trẻo và đầy tin cậy. Ở thời điêm này, với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11


những dự cảm vào cuộc, khát vọng ra trận, chia tay, cuộc hành quân, “sự sống
át cái chết” là những mô típ điển hình. Đêm hành quân, Qua sông Thương,
Gửi tới các anh (Lưu Quang Vũ), Gửi Bến Tre (Lê Anh Xuân), Tiếng gà trưa,
Chiến hào (Xuân Quỳnh), Tình yêu và báo động, Trở lại trái tim mình (Bằng
Việt)… là những bài thơ đáng chú ý.
Những rung cảm chân thành đối với cuộc sống, quê hương, đất nước
được thể hiện rõ trong những vần thơ đậm chất trữ tình của những nhà thơ trẻ.
Thơ của họ tràn ngập chất men say nồng của tuổi trẻ khát khao được cầm
súng trực tiếp chiến đấu:
Ôi ta thèm được cầm khẩu súng
Đi giữa đoàn quân cùng với bạn bè
Nằm chờ giặc trên quê hương anh dũng
Ta cay nồng mùi lá rụng bờ tre.
(Gửi Bến Tre – Lê Anh Xuân)
Những năm đầu cuộc chiến tranh, thơ của các nhà thơ trẻ còn bồng bột,
mang đậm cái nhìn lãng mạn. Hình ảnh thế hệ cầm súng chỉ thấp thoáng trong
thơ họ. Có chăng đó chỉ là hình ảnh những bước chân du kích, những anh giải
phóng:
Phía trước chúng tôi cả miền Nam ruột thịt

Đang hành quân mải miết đêm ngày
Bước chân biểu tình, bước chân du kích
Anh giải phóng quân đuổi giặc không giầy.
(Hành quân - Lữ Huy Nguyên)
Thơ trẻ thời kì này cũng thường đề cập cuộc chia ly đầy lưu luyến và
thơ mộng, nhưng thấm đẫm tinh thần lạc quan của thời đại:
Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai hồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12


(Cuộc chia ly màu đỏ - Nguyễn Mỹ)
Trong những năm cuối của chặng đường thứ nhất, thơ trẻ bắt đầu giàu
có thêm nhờ chất suy nghĩ và khả năng khái quát. Ấy là những suy tư khá già
giặn, sâu sắc trong thơ Bằng Việt; là những khái quát về Dáng đứng Việt Nam
tạc vào thế kỉ của anh giải phóng quân trên đường băng Tân Sơn Nhất trong
thơ Lê Anh Xuân Không khí cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước được
gợi lên một phần trong thơ, hình ảnh con người và thời đại chống Mỹ chủ yếu
được nhấn mạnh ở cái thanh tao, đường hoàng, hay cái bình thường của cuộc
sống và con người trong lửa đạn. Các nhà thơ trẻ ở chặng đường này đều có
khuynh hướng đi tìm chất thơ trong mảng đời sống trong trẻo của chiến tranh.
Mặc dù không tránh khỏi những non nớt nhưng đây là chặng mở đầu đầy ý
nghĩa, rất đáng ghi nhận, tạo tiền đề hết sức quan trọng cho sự phát triển của
thơ trẻ chống Mỹ ở những chặng đường sau.
1.1.2.2 Chặng thứ hai: từ 1969 đến 1972.
Cùng với những tác giả xuất hiện ở chặng thứ nhất, đến chặng thứ hai
này, đội ngũ thơ trẻ được bổ sung thêm nhiều cây bút tài năng khác: Phạm
Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Đức Mậu, Phan Thị Thanh Nhàn,
Hoàng Nhuận Cầm, Lâm Thị Mĩ Dạ…Chính sáng tác của những nhà thơ trẻ

này đã góp phần quan trọng đưa nền thơ chống Mỹ phát triển đến đỉnh cao,
làm thay đổi bộ mặt của cả nền thơ chống Mỹ. Ở chặng này, những nhà thơ
trẻ đã thực sự khẳng định được tiếng nói riêng của thế hệ mình qua những vần
thơ giàu tính chân thực, sinh động như còn vương bụi đất chiến trường và mùi
khét lẹt của đạn bom, mang khí thế hừng hực của cuộc chiến đấu.
Nếu ở chặng đường trước, các nhà thơ trẻ có khuynh hướng đi tìm chất
thơ trong mảng hiện thực đời sống có vẻ nên thơ, trong trẻo; thì ở chặng
đường này, họ lại có khuynh hướng đi tìm chất thơ trong mảng hiện thực trần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13


trụi, thô nhám, dữ dội, đầy ác liệt của cuộc sống chiến trường. Cảm hứng vì
thế càng trở nên mãnh liệt, sôi nổi, khác hơn ở chặng đường trước.
Thơ trẻ giai đoạn này đã vươn tới tầm khái quát những mảng hiện thực
lớn của cuộc chiến tranh chống Mỹ với tính chất dữ dội, ác liệt của nó, làm
ngời sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng của các thế hệ trẻ trong thời đại
chống Mỹ. Những chi tiết chân thực của đời sống chiến trường như ùa vào
các trang thơ. Chỉ đọc thơ thôi, người ta cũng có thể hình dung được cuộc
sống thực của những người lính ở ngoài mặt trận: Ghi chép ở chiến trường,
Nằm hầm (Nguyễn Đức mậu), Thư mùa thu (Hoàng Nhuận Cầm), Thung lũng
tiếng chim (Lâm Huy Nhuận), Khoảng trời và hố bom (Lâm Thị Mĩ Dạ)…
Điều đáng chú ý là những dòng thơ ấy không chỉ dừng lại ở mức độ
phản ánh, biểu hiện những bức tranh, những nét sinh hoạt cụ thể ở chiến
trường và những con người ở chiến trường; mà đã vươn lên tầm cao hơn: tầm
khái quát. Chính sự vươn lên tầm khái quát ấy đã cho phép thơ trẻ nói được
những vấn đề cơ bản của đời sống dân tộc. Từ một tiếng chim kể chuyện trên
đối chốt : “Mẹ ơi đất nước cắt chia - Tiếng kêu con cuốc vọng về quả tim”,
Hoàng Nhuận Cầm đã nói lên được tình cảm của một dân tộc, một đất nước
từng bị chia cắt. Từ một “Hơi ấm ổ rơm”, Nguyễn Duy đã nói lên được bản

chất của tình quân dân. Từ một trái cây chín, từ một ngọn “Lửa đèn”, Phạm
Tiến Duật đã nói về sức mạnh truyền thống, sức sống lâu đời bất diệt của đất
nước và con người Việt Nam…
Thơ trẻ chặng đường này vẫn tiếp tục viết về đề tài quê hương, đất
nước nhưng với một ý thức tự giác cao hơn và tình cảm sâu nặng hơn. Sự
thống nhất cao độ giữa ý thức của nhà thơ với trách nhiệm công dân, tư cách
người chiến sĩ cầm súng đã tạo nên những trang thơ của các nhà thơ một
chiều sâu mới trong nhận thức và trong tình cảm. Thấm thía hơn trong thực tế
chiến tranh, các nhà thơ trẻ càng nhận rõ hơn trách nhiệm của mình, càng thấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14


mình gắn bó sâu nặng hơn với nhân dân, với đất nước. Thơ họ chính là tiếng
lòng của những con người trực tiếp cầm súng chiến đấu, lấy máu mình để gìn
giữ bảo vệ non sông: Hơi ấm ổ rơm (Nguyễn Duy), Âm điệu đồng bằng
(Nguyễn Đức Mậu), Vùng làng (Phạm Tiến Duật), Mặt đường khát vọng
(Nguyễn Khoa Điềm), Nghe chim kể chuyện trên đồi chốt (Hoàng Nhuận
Cầm) …
Có thể nói, cũng cùng một lớp viết trẻ, nhưng so với các tác giả ở
chặng đường trước, các tác giả ở chặng đường này có những nét khác biệt, tuy
không thành ranh giới thật rõ ràng nhưng cũng dễ nhận thấy. Điều đó càng
làm tăng thêm diện mạo thơ của lực lượng trẻ. Thơ viết trong điều kiện chiến
tranh khắc nghiệt nhưng vẫn được chắt lọc, gọt rũa kỹ càng, phản ánh nhiều
mặt và phản ánh sâu hơn hiện thực chiến trường.
1.1.2.3 Chặng thứ ba: từ 1973 đến 1985.
Ở chặng cuối này, đội ngũ các nhà thơ ngày càng đông đảo. Bên cạnh
những nhà thơ đã xuất hiện ở hai giai đoạn trước, là sự góp mặt của các cây
bút: Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Trần Mạnh Hảo, Văn Lê, Anh Ngọc… Họ đều
là những nhà thơ chiến sĩ. Thuận lợi lớn đối với họ là có một cái nhìn xuyên

suốt toàn bộ cuộc kháng chiến của dân tộc. Từ đỉnh cao của những chiến
thắng liên tục ở những năm cuối cùng của cuộc chiến đấu, tầm nhìn và nhận
thức của các anh được mở rộng, sâu sắc hơn trước. Thực tế của cuộc chiến
đấu gay go, ác liệt đòi hỏi nhà thơ phải có một bước phát triển nào đó mới đáp
ứng được yêu cầu của thời đại. Thời đại không cho phép thơ rơi vào cảm xúc
nhạt nhẽo, nông cạn, những suy nghĩ hời hợt. Do vậy mà đến với hiện thực
đời sống để khám phá, sáng tạo và đúc kết nên chân lý của cuộc sống, có
được những hình tượng thơ giàu ý nghĩa khái quát, đó là hướng đi chính của
thơ trẻ giai đoạn này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15


Chặng đường cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã tạo nên thế
mạnh của những nhà thơ trẻ: có cái nhìn bao quát, toàn cảnh về cuộc chiến
tranh ái quốc vĩ đại. Chứng kiến chiến thắng vĩ đại, oai hùng của dân tộc, các
nhà thơ trẻ đồng thời cũng thấu hiểu sự hi sinh, mất mát, cái giá phải trả cho
những vinh quang đó. Cũng chính ở chặng này, khuynh hướng muốn phản
ánh mảng hiện thực lớn của chiến tranh, tổng kết cuộc chiến tranh ái quốc vĩ
đại đã xuất hiện như một đòi hỏi chính đáng của thời đại. Bức tranh hiện thưc
đời sống chiến trường hiện lên qua những trang thơ trẻ ở chặng này cũng
phong phú, đa dạng và phức tạp hơn: có hi sinh, mất mát, có chiến thắng lạc
quan, tin tưởng… Thơ trẻ chặng này nói nhiều hơn, sâu sắc hơn, thấm thía
hơn về người mẹ, về nhân dân, đất nước, về những con người vô danh, về
những con người bình thường mà kiên cường, bất khuất, về Tổ quốc và thế hệ
mình… Ý thức về cái tôi – thế hệ các nhà thơ trẻ - đạt đến độ sâu sắc nhất.
Chân dung tinh thần của thế hệ trẻ cầm súng chiến đấu hiện lên thật cụ thể,
chân thực, phong phú và sâu sắc:
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(nhưng tuổi 20 làm sao không tiếc)

nhưng ai cũng tiếc tuổi 20 thì còn chi Tổ quốc?
(Những người đi tới biển - Thanh Thảo)
Ngay khi mình 20 tuổi – dòng sông
Nước trong vắt mùa thu chim sẻ hót
Nước chua xót Cửa Tiền năm giặc đốt
Máu loang thơ Đồ Chiểu đến tay mình.
(Ngay khi mình 20 tuổi – Hoàng Nhuận Cầm)
Không phải ngẫu nhiên mà từ sau 1975, thơ trẻ chống Mỹ xuất hiện
một loạt những trường ca viết về chiến tranh, thể hiện khát vọng tổng kết cuộc
kháng chiến thông qua cách nhìn và sự trải nghiệm riêng của mỗi nhà thơ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16


Những người đi tới biển, Những ngọn sóng mặt trời (Thanh Thảo), Mặt trời
trong lòng đất, Đất nước hình tia chớp (Trần Mạnh Hảo), Con đường của
những vì sao (Nguyễn Trọng Tạo) … là sự thể hiện cụ thể của những khát
vọng đó. Qua những trường ca này, tính chất dữ dội, khốc liệt của chiến tranh
được khơi sâu, nhấn mạnh. Đọc trường ca, người ta có thể nhận ra ngọn
nguồn sâu xa nhất đã tạo nên sức mạnh quật cường của dân tộc, thúc đẩy cuộc
kháng chiến trường kì tới chiến thắng vĩ đại. Có thể nói, trong những trang
thơ này, người đọc bắt gặp những rung cảm trữ tình vào loại thâm trầm nhất,
những suy tư vào loại sâu sắc nhất về những phạm trù lớn như nhân dân, Tổ
quốc, quê hương, đất nước…
1.2. Hành trình sáng tác của Hoàng Nhuận Cầm.
1.2.1 Tiểu sử.
Hoàng Nhuận Cầm sinh ngày 7 tháng 2 năm 1952 tại Hà Nội, là con
đầu của nhạc sỹ Hoàng Giác. Quê quán: Đông Ngạc - Từ Liêm – Hà Nội.
Năm 1969, Hoàng Nhuận Cầm là sinh viên trường Đại học Tổng hợp
Hà Nội. Năm 1971, đang học dở khoa Văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội,

Hoàng Nhuận Cầm tình nguyện nhập ngũ vào binh củng Phòng không –
Không quân. Anh đã từng chiến đấu tại mặt trận Quảng Bình, Quảng Trị,
Thừa Thiên Huế cho đến chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Năm 1976, anh
trở lại tiếp tục học chương trình Đại học. Năm 1981 anh làm việc tại Hãng
Phim truyện Việt Nam. Sau đó, anh chuyển sang làm việc cho Đài Truyền
hình Việt Nam một thời gian rồi lại quay trở lại Hãng Phim truyện Việt Nam
năm 2005. Hiện nay, anh đang sống tại Hà Nội, là Hội viên Hội Nhà văn Việt
Nam, và cùng vợ lập Hãng phim tư nhân Điệp Vân.
Các tác phẩm chính của anh đã được xuất bản: Thơ tuổi 20 (in chung,
1974), Những câu thơ viết đợi mặt trời (thơ, 1983), Xúc xắc mùa thu (thơ,
1992), Thơ với tuổi thơ (thơ, 2004), Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến (thơ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17


2007), 36 bài thơ tuyển chọn (thơ, 2008)… Ngoài sáng tác thơ, Hoàng Nhuận
Cầm còn sáng tác kịch bản phim: Lỗi lầm, Đằng sau cánh cửa, Đêm hội Long
Trì, Hà Nội – Mùa đông năm 46, Pháp trường trắng, Ai lên xứ hoa đào, Đoạn
trường chiêm bao, Nhà tiên tri, Mùi cỏ cháy…
Các giải thưởng Văn học anh đã được nhận: Giải nhất cuộc thi tuần báo
Văn nghệ năm 1972 – 1973, với chùm thơ: Nhật ký, Thư mùa thu, Nghe chim
kể chuyện trên đồi chốt, Anh bộ đội và tiếng nhạc la; Giải thưởng của Hội
Nhà văn Việt Nam năm 1993 với tập thơ Xúc xắc mùa thu; Giải thưởng Nhà
nước về Văn học Nghệ thuật năm 2012.
1.2.2 Hành trình sáng tác.
Tác phẩm văn học được xem là công trình nghệ thuật ngôn từ, là kết
quả lao động miệt mài của nhà văn. Do đó, giống như một đứa con tinh thần
quý giá, tác phẩm mang trong mình dòng máu nhiệt huyết, tài năng, khát vọng
và dấu mốc trưởng thành của nghệ sĩ ấy trên con đường sáng tạo nghệ thuật.
Với niềm say mê sáng tạo, Hoàng Nhuận Cầm dường như không một

chút phân tâm trước những níu kéo ồn ào của cuộc đời thường nhật, để rồi
lặng lẽ và trang trọng đặt vào nền thi ca Việt Nam đương đại những sáng tác
xinh xắn.
1.2.2.1 Thơ tuổi hai mươi - trẻ trung, tươi mới như màu xanh
quân phục.
Thơ tuổi hai mươi là thành quả lao động nghệ thuật đầu tiên của Hoàng
Nhuận Cầm. Trong tập thơ in chung với Vũ Đình Văn này, Hoàng Nhuận
Cầm có mười lăm bài, mười lăm khúc hát về đời lính trẻ. Và cũng đúng như
tên tập thơ – Thơ tuổi hai mươi, những tác giả của nó cũng chỉ vừa hai mươi,
hai mốt tuổi và tập thơ cũng viết về những người hai mươi tuổi cùng thế hệ.
Trong những con người “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước – Mà lòng phơi
phới dậy tương lai” ấy có chàng sinh viên người Hà Nội trẻ trung cất lên tiếng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18


hát “Mùa thu này ta hát khắp Trường Sơn” (Thư mùa thu). Hoàng Nhuận
Cầm đã đi, đã hát và đã viết những bài thơ về đời lính trẻ, về cuộc chiến đấu
và về Trường Sơn.
Cuộc sống trong chiến tranh với đầy gian khổ, ác liệt, hi sinh … nhưng
đôi mắt trẻ trung vẫn nhìn ra ở đó chất thơ. Hoàng Nhuận Cầm từng chia sẻ:
“thơ ca cũng như tình yêu, không ép buộc được đâu, khi gọi nó không đến
nhưng khi đuổi nó không chịu đi. Bằng kinh nghiệm làm thơ riêng mình, tôi
thấy những bài thơ hay lại ra đời trong hoàn cảnh chẳng thơ chút nào. Những
bài thơ được giải báo Văn nghệ năm 72, tôi viết khi còn ở chiến trường, giữa
cái chết cận kề, bận đánh giặc làm gì có bút mà viết. Ý thơ nào đến chỉ nhớ,
ghi lại trong đầu rồi khi tan khói bom lại sấp sấp ngửa ngửa lấy cây bút chì
ghi lại rồi gửi về cho báo Văn nghệ” [68]. Vậy thôi mà những câu thơ viết
vội, băng qua khói lửa chiến trường đã làm cho những vị giám khảo ở Hà Nội
- những con người từng trải hơn trao cho anh giải nhất xứng đáng. Chùm thơ

mang đầy chất trẻ trung ấy cũng được chọn in trong tập thơ này, đó là chùm
thơ gồm bốn bài: Nhật kí, Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu, Thư mùa thu,
Nghe chim kể chuyện trên đồi chốt.
Mười lăm bài thơ trong một tập thơ như một cuộc hành quân kì thú và
đầy mới lạ, đi đánh giặc mà như một chuyến phiêu lưu dọc theo chiều dài đất
nước. Như rất nhiều nhà thơ khác, những bài thơ đầu đời là những bài dành
tặng tuổi học trò, dành tặng “những kỉ niệm đã là hoa”. Hoàng Nhuận Cầm
cũng vậy, những vần thơ đầu tiên anh viết về Dòng sông và phù sa, Nắng từ
ngõ nhỏ, nhưng giữa thời đại sục sôi đâu còn có:
Mỗi mùa ngô là mỗi mùa hò hẹn
Màu xanh nào cũng rất đỗi thơ ngây.
(Dòng sông và phù sa)
Và cũng đâu còn:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19


Mỗi mùa hoa quen thuộc ra đi
Để quên những bông hoa trên mái phố
Cây gạo già từng cành buông nỗi nhớ
Và lá xoè như tiễn một hè qua.
(Nắng từ ngõ nhỏ)
Chiến tranh đến đem theo sự tàn khốc và chết chóc như phá vỡ những
kỉ niệm tươi đẹp chỉ còn lại thương đau:
Không còn bông hoa đỏ tuổi thơ
Mảnh bom Mĩ cắm vào trang cổ tích
Lửa quầng thâm bên khung cửa sổ
Sững sờ như con mắt mồ côi.
(Nắng từ ngõ nhỏ)
Biến đau thương thành hành động, những nỗi xót xa thành lời hối thúc

người trai trẻ ra đi :
Mùa hè ấy thành lời thúc giục
Có bao điều gọi nắng lại đi ngay.
(Nắng từ ngõ nhỏ)
Trong ba lô người lính ra chiến trường là bao kỉ niệm của quê hương,
kỉ niệm một thời áo trắng, kỉ niệm một thời bắt ve, trèo sấu được người lính
trẻ mang vào chiến trường. Có lẽ chất hồn nhiên, vô tư của một thời áo trắng
vẫn còn vẹn nguyên trong tâm hồn nên những vần thơ đánh giặc của Hoàng
Nhuận Cầm không có cái dữ dội đến tàn khốc như thơ của các bậc đàn anh. Ở
chặng thơ đầu tiên này, nhà thơ trẻ và chàng tân binh hoà làm một trong thơ
Hoàng Nhuận Cầm. Con người đó trẻ cả tuổi đời lẫn tuổi quân. Đó là sự hồi
hộp của anh lính lần đầu tiên ra trận:
Có ngủ được đâu
Nằm nghe lá thở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

×