Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO GIÁO GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.02 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
VIỆN QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
MÔN TRIẾT HỌC

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO GIÁO
GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ
GVHD: BÙI VĂN MƯA
HỌC VIÊN: BÙI THỊ THANH CHÂM
LỚP ĐÊM 5 - K21
SỐ THỨ TỰ: 12
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, THÁNG 02/2012
MỤC LỤC
2
LỜI MỞ ĐẦU 3
3. Tư tưởng của triết học nho giáo về đạo đức xã hội 7
4. Tư tưởng triết học nho gia về giáo dục đạo đức 9
CHƯƠNG II. GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TRIẾT HỌC NHO GIA 10
1. Giá trị của triết học Nho gia 10
2. Hạn chế của triết học Nho gia 12
KẾT LUẬN 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO 16

Tiểu luận triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
LỜI MỞ ĐẦU
Khi nhắc đến văn hóa Phương Đông, hẳn ai cũng nghĩ tới một bộ phận dân cư
sống và lưu giữ rất nhiều nét văn hóa để phân biệt với các dân tộc khác trên thế giới.
Phương Đông tự hào có một bề dày lịch sử khá trừu tượng và đậm bản sắc dân tộc.
Nơi đây đã tiếp thu qua rất nhiều nền văn hóa khác nhau, mỗi nền văn hóa đi qua hòa
trộn, gặn lọc lại hình thành nên những nét đặc trưng cho con người bởi phong cách
sống, truyền thống gìn giữ văn hóa cũng như hệ thống giáo dục được lưu truyền từ đời
này sang đời khác.


Nền văn hóa Phương Đông đã kinh qua rất nhiều nền văn hóa như Phật Giáo,
Đạo giáo, Nho giáo, …. Trong đó, Nho giáo được khởi xướng bởi Khổng Tử vào
khoảng thế kỉ thứ VI TCN. Những đóng góp của ông đã hình thành nên một hệ tư
tưởng Nho giáo mà chúng ta không thể phủ nhận rằng việc ra đời của Nho giáo đã có
góp phần vào sự phát triển văn hóa Phương Đông qua hàng chục thiên niên kỉ. Nho
giáo đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển từ hưng thịnh đến suy tàn nhưng so với các
học thuyết tư tưởng khác sức ảnh hưởng của Nho giáo khá mạnh mẽ bởi tính nhân đạo,
đề cao nhân nghĩa và giáo dục con người qua tư tưởng “đức trị”.
Khi được nhận đề tài này cá nhân tôi đã cảm thấy rất thích thú và có cảm hứng
trong việc tìm hiểu thêm về một nền văn hóa rất gần gũi với cá nhân mình. Những nét
văn hóa trong ứng xử, trong lối sống vẫn còn phảng phất trong rất nhiều hoạt động gia
đình và xã hội ngày nay. Những điểm mạnh của Nho giáo còn được mang vào trường
lớp giảng dạy và giáo dục cho lớp trẻ. Bên cạnh những tư tưởng tiến bộ không thể phủ
nhận rằng Nho giáo còn những nét cổ hủ, lỗi thời và không phù hợp thời đại. Vậy với
vai trò của những con người đang và sẽ làm chủ đất nước chúng ta cần hiểu và học tập
như thế nào khi đứng trước rất nhiều hệ tư tưởng để vận dụng những ưu điểm của nó
vào việc phát triển đất nước cũng như truyền bá lại cho thế hệ mai sau. Đây vốn dĩ là
một bài toán đặt ra cho bao đời và luôn cần những ý tưởng sáng tạo để lèo lái đất nước
trong một tương lai không xa.
HVTH: Bùi Thị Thanh Châm 3
Tiểu luận triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG I. TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC NHO GIÁO
1. Điều kiện lịch sử
Một trong những cái nôi của văn hóa cổ đại là đất nước Trung Hoa gắn liền với
nền văn minh Hoàng Hà, cùng phát triển theo đó là những văn hóa, khoa học và triết
học cổ xưa, phong phú và rực rỡ, đóng góp không ít vào kho tàng văn minh nhân loại.
Trung Hoa cổ đại có lịch sử lâu đời từ cuối thế kỷ III TCN kéo dài đến thế kỷ II TCN
với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa bằng uy quyền và bạo lực, mở đầu
thời kỳ Trung Hoa phong kiến. Trong khoảng 2000 năm lịch sử ấy, lịch sử Trung Hoa
được chia thành 2 thời kỳ lớn:

• Thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu)
• Thời Xuân Thu-Chiến Quốc
Sự phát triển của Nho giáo không chỉ được ghi nhận ở bề rộng trải dài trên
nhiều quốc gia, lãnh thổ mà còn đi sâu vào các giai đoạn lịch sử của nó. Đã rất nhiều
lần Nho giáo được đem ra phân tích, khái quát ý nghĩa, các mặt ưu điểm cũng như
nhược điểm từ tính không hoàn chỉnh của nó khi du nhập vào từng quốc gia thế cho
nên người ta mới nói rằng nó không phải là nhất thành bất biến mà chuyển biến từ cặn
nguồn của chính nó. Đã từng có giai đoạn Nho giáo và Phật giáo đấu tranh mà chung
sống. Nho giáo đã trở thành tư tưởng, văn hoá, in đậm dấu ấn của mình lên lịch sử của
một nửa châu Á trong suốt hai nghìn năm trăm năm qua, và cho đến tận hôm nay, lất
phất ít nhiều chúng ta cũng nhận thấy rằng còn rất nhiều người đang chịu ảnh hưởng
học thuyết Nho gia, học thuyết này đã trở thành cốt lõi của cái mà ta gọi là văn hóa
phương Đông. Dĩ nhiên, nó có những hạn chế nhất định, trước hết là những hạn chế
của thời đại, nhưng những giá trị nhân văn mà nó mang lại là điều không thể chối cãi.
Vài nét về Khổng Tử và những người đóng góp vào tư tưởng Nho Giáo:
Khổng Tử (551-479 TCN) tên Khâu, hiệu Trọng Ni, người nước Lỗ (Sơn
Đông) là nhà tư tưởng, nhà giáo dục lớn và đầu tiên của Trung Quốc. Dù có làm một
số chức quan ở nước Lỗ trong mấy năm, nhưng phần lớn thời gian trong cuộc đời của
mình, ông chu du nhiều nước để trình bày chủ chương chính trị của mình và sau đó mở
trường dạy học. Tương truyền số học trò của ông có đến 3000 người, trong đó có
nhiều người thành đạt mà sử sách gọi là thất thập nhị hiền. Khổng Tử không chỉ dạy
học mà còn chỉnh lý các sách (san Thi, dịch Thư, tán Dịch, định Lễ, bút Xuân Thu).
HVTH: Bùi Thị Thanh Châm 4
Tiểu luận triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
Lý luận của ông là một hệ thống triết lý sâu sắc về đạo đức-chính trị-xã hội, được học
trò chép lại thành sách Luận Ngữ. Lý luận về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng… tạo nên
nội dung quan điểm về đạo đức của ông. [1, 53]
Theo sau đó còn có Mạnh Tử (372-298 TCN) và Tuân Tử (315-230 TCN) kế
thừa và phát huy những giá trị tư tưởng do Khổng Tử để lại. Mạnh Tử tin tưởng sâu
sắc vào sự tồn tại thiên mệnh và cho rằng mọi việc đều do trời quyết định. Theo ông,

bản tính thiện của con người thông qua lý luận về nhân, lễ, nghĩa và trí, trong đó
nhân-nghĩa đóng vai trò trọng tâm. Và từ đó ông khẳng định “Nhân chi sơ tính bản
thiện”. Đường lối tư tưởng của ông cũng dựa vào đức trị dựa trên tinh thần quý dân,
yêu thương dân như con, rồi đến đất nước sau cùng mới là vua. [1,53]
Sau đây là một số tìm hiểu về nội dung tư tưởng mà Nho giáo mang lại trên
nhiều khía cạnh về đạo đức cá nhân, đạo đức xã hội và giá trị giáo dục.
2. Tư tưởng của triết học nho giáo về đạo đức cá nhân
Khổng Tử sáng lập ra Nho gia vào cuối thời Xuân Thu và đặt ra một loạt tam
cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức… để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị
và an sinh xã hội. Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam
tòng và Tứ đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã
hội giữ được tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được an bình.
Nói về ngũ thường, thì bao gồm “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”. Trong đó nhân được
coi là nguyên tắc đạo đức cơ bản mà người quân tử phải lấy làm trọng, không có đạo
nhân thì không có đạo của người quân tử. Nhân là lòng thương người, lòng trắc ẩn,
biết đồng cảm sẻ chia cùng đồng loại nỗi đau thể xác và tinh thần, việc mình không
muốn làm thì cũng không bắt người khác phải theo, kính trên, nhường dưới, ôn hòa,
hiếu thảo, vị tha là những điều người quân tử cần phải có và chỉ có người quân tử mới
có đức nhân.
Quan niệm về Nghĩa chính là lối cư xử đối với mọi người theo lẽ phải, không vì
lợi lộc, bổng tước mà mất tính khách quan của chính bản thân mình. Nghĩa chính là
chủ quan cá nhân nhận thức ở chính mình việc gì nên việc gì không nên đối với mọi sự
vật sự việc. “Khổng Tử cho rằng, con người muốn sống tốt thì phải biết lấy nghĩa để
đáp lại lợi chứ không vì cái lợi mà đáp lại lợi, vì lợi đáp lợi sẽ sinh ra oán trách…” [1,
HVTH: Bùi Thị Thanh Châm 5
Tiểu luận triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
58]. Nghĩa là được nhận thức từ mối quan hệ nhân quả giữa con người với con người.
Nghĩa tự do bản thân mình thấu hiểu và thấm nhuần, tuy nhiên quan niệm của ông chỉ
dừng lại ở quan điểm về người quân tử mới có nghĩa, còn kẻ tiểu nhân sẽ không thể có
được. Bởi người quân tử sống vì nghĩa còn kẻ tiểu nhân chỉ dựa vào lợi ích cá nhân.

Tiểu nhân và quân tử được ông phân giai tầng một phần dựa trên địa vị xã hội và phần
lớn là dựa vào phẩm chất đạo đức.
Quan niệm về Lễ theo Khổng Tử thì đó là nhân tố để lập lại xã hội trong thời
đại rối ren, trật tự kỷ cương từ gia đình đến xã hội đều bị xáo trộn. Khi con người nhận
thức được lễ thì có thể xác định được vai trò, nghĩa vụ cũng như bổn phận của từng
người trong các mối quan hệ. Lễ thể hiện hành vi ứng xử, ý thức của con người đối với
nhau, không chỉ dựa vào các mối quan hệ trong xã hội mà còn dựa vào nhân của từng
người. Khi con người có đầy đủ đức nhân thì họ sẽ nhận thức được lễ, người có đức
nhân thì không bao giờ thất lễ. Tuy nhiên bên cạnh quan điểm rất tích cực của ông thì
mặt khác nó có phần cứng nhắc về như quy tắc, phong tục, luật lệ, hình pháp và không
thể ép buộc tuân theo ở mọi thời đại, mọi quốc gia, chính vì vậy khi truyền bá sâu rộng
ra bên ngoài thì các quy tắc luật lệ này dần dần được thay đổi để phù hợp với phong
tục tập quán của từng nơi.
Quan niệm về Trí: là sự thông minh, nhạy bén, minh mẫn khi nhìn nhận mọi sự
vật sự việc luôn là điều cần thiết để con người hiểu thấu đáo mọi việc. Khổng Tử coi
trí là điều kiện để có nhân, trí không chỉ là sự thông minh mà là tự tích cóp dần dần
qua việc học tập. Xã hội thời này cũng vì thế mà rất coi trọng việc học, trau dồi kinh
thư, thi cử, học hành đỗ đạt để lên làm quan phò vua giúp nước.
Quan niệm về Tín: là sự tín nhiệm của mọi người dựa trên việc làm và lời nói
luôn song hành cùng nhau của con người. Khổng Tử đã đưa ra một quan điểm vô cùng
chính xác và rất có ảnh hưởng kể cả thời đại ngày nay. Người ta nói chữ tín còn là còn
tất cả ngay cả khi người ta mất đi của cải vật chất, tinh thần nhưng khi vẫn giữ được
chữ tín đối với mọi người thì có thể lấy lại tất cả những gì đã mất.
Quan niệm về Dũng: đây là sức mạnh tinh thần, sự can đảm, dũng cảm biết lên
tiếng bảo vệ chính nghĩa. Kẻ có dũng dám đứng lên bảo vệ sự thật không chút e dè lo
sợ. Nhưng người có dũng cũng cần có nhân, nghĩa, trí để cư xử phù hợp, người chỉ có
dũng mà không có nhân, nghĩa, trí thì chỉ là người nóng tính, bồng bột, hành động
theo cảm xúc. Có lẽ chính vì điều này mà Khổng Tử khi nói lên ý kiến của mình luôn
HVTH: Bùi Thị Thanh Châm 6
Tiểu luận triết học GVHD: Bùi Văn Mưa

gắn kết các nhân tố lại với nhau để hình thành nên một khuôn khổ giáo dục đạo đức
con người.
Bên cạnh đó, Nho giáo còn xây dựng chuẩn mực cho người phụ nữ bắt buộc
phải có đủ đức tính “tam tòng, tứ đức”. Tam tòng gồm ba điều căn bản gồm “ Tại gia
tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” nghĩ là khi chưa xuất giá thì con gái phải
nghe theo cha, lúc lấy chồng thì chỉ biết đến chồng, chồng qua đời thì phải theo con.
Còn tứ đức là bốn tính nết mỗi người phụ nữ phải đạt được công-dung-ngôn-hạnh.
Người phụ nữ phải biết khéo léo thu xếp công việc, chăm sóc bản thân để luôn hòa nhã
xinh đẹp, đoan trang, lời nói lúc nào cũng mềm mại, nhẹ nhàng, tính cách hiền lành,
khéo léo trong cách đối nhân xử thế trong và ngoài xã hội.
Theo Nho gia nguyên thủy, các quan niệm khác nhau của hệ thống phạm trù
đạo đức bao gồm: “ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng ” đã trở thành một chuẩn mực đạo
đức ảnh hưởng rất nhiều đến cách giáo dục cá nhân trong thời đại này và về sau. Hệ
thống giáo dục thời đại cũng căn cứ dựa trên nhưng quan điểm này để giáo dục con
người, chính vì thế tầm ảnh hưởng của Nho giáo không chỉ ảnh hưởng sâu mà còn
rộng cho một đại bộ phận khu vực các nước phương Đông …
3. Tư tưởng của triết học nho giáo về đạo đức xã hội
Thời đại Xuân Thu - Chiến Quốc là thời đại loạn lạc, chiến tranh triền miên
khiến cho cuộc sống con người luôn rơi vào cảnh lầm than, giết chóc khắp mọi nơi.
Đây cũng chính là đơn đặt hàng của lịch sử đã cho ra một tư tưởng mới để cỗ vũ tinh
thần con người, giúp con người vượt qua nỗi đau bị đàn áp, xác lập lại xã hội theo
đúng với tôn ti trật tự của nó. Thuyết chính danh ra đời cột chặt con người theo vị trí
của chính mình, chính danh là phải dựa trên danh và thực phải thống nhất hài hòa với
nhau. Sự thống nhất này buộc con người phải có cái danh và cái thực phản ánh đúng
cái danh mà con người mang theo. Khổng Tử từng nói: “ Nếu danh không chính thì
ngôn không thuận. Lời nói không thuận ắt việc chẳng thành”. Mọi sự vật sự việc tồn
tại đều có ý nghĩa nhất định, không gì là không có danh cả, để chính danh Khổng Tử
cho rằng phải dùng Đức trị thay vì Pháp trị, phải dùng luân lý, đạo đức, quy tắc để
điều hành lại các mối quan hệ xã hội. Chính danh là cái để phân biệt thật giả trong thời
đại nhiễu nhương, xác định lại hệ thống phân quyền và uy quyền cho xã hội. Ba mối

HVTH: Bùi Thị Thanh Châm 7
Tiểu luận triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
quan hệ chủ đạo xây dựng trong xã hội thời này là quân-thần, phụ- tử, phu-phụ, mà
các mối quan hệ này được đặt ra dựa trên những nguyên tắc hà khắc như “ Quân xử
thần tử, thần bất tử bất trung” hay “ phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu nghĩa” [2].
Thời đại này trở thành thời đại hoàng kim của Nho giáo, mọi nguyên tắc luật lệ đều đi
vào khuôn mẫu, phổ biến khắp mọi nơi. Con người từ già đến trẻ, lớn đến bé, nam đến
nữ đều sống theo suy nghĩ tam cương đã được đặt ra. Ngay cả trong nền giáo dục thời
này cũng mang đậm tính nho giáo sâu sắc. Đó là cách giáo dục để trở thành người
quân tử phải đạt được ngũ thường bao gồm năm điều phải có khi ở đời là “ nhân,
nghĩa, lễ , trí, tín” như đã nói ở trên. Người phụ nữ phải sống tiết hạnh, thuận với đạo
lý. Thế nhưng thời đại này người phụ nữ vẫn bị xem thường, rẻ rúng, chỉ thuộc hạng
người tiểu nhân, không có tiếng nói trong xã hội. Vô hình chung cuộc sống của họ trở
nên lệ thuộc theo cách sống, cách nghĩ và cách giáo dục theo thời đại và ảnh hưởng
đến tận ngày nay, tư tưởng Nho giáo vẫn còn hiện hữu trong mỗi gia đình và xã hội
Phương Đông cho nên cuộc sống của họ đôi khi vẫn thiệt thòi trong cách phân biệt đối
xử.
Theo Nho giáo, quan niệm người quân tử phải đạt được ba điều trong quá trình
tu thân là đạt đạo, đạt đức và thông hiểu thi thư lễ nhạc. Đạo là phương cách ứng xử
mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống, đạo dựa trên các mối quan hệ xã hội
như vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè. Đây chính là ngũ thường hay ngũ
luân. Trong xã hội cách tốt nhất là “trung dung”, mọi sự vật sự việc xảy ra dù như thế
nào cũng phải giữ cho mình một thái độ không thái quá. Bên cạnh đó để đạt được đức,
quân tử phải đạt được ba đức là “nhân-trí-dũng” Khổng Tử nói: “ Đức của người quân
tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn, người trí không nghi ngại,
người dũng không sợ hãi” [2]. Nhưng sau đó Mạnh Tử bổ sung thay dũng bằng “lễ,
nghĩa” nên trở thành bốn đức. Hán nho thêm một đức nữa và hoàn chỉnh thành năm
đức gọi là ngũ thường “ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Biết thi thư lễ nhạc là các tiêu chuẩn
ngoài đạo và đức để góp phần hoàn thiện toàn diện người quân tử.
Sau khi tu thân thì người quân tử phải hành đạo, cũng như việc học phải gắn kết

với thực hành, phải biết vận dụng những gì đã học để tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Tức phải hoàn thành tốt công việc từ nhỏ đến lớn, phải biết giúp gia đình đầm ấm, yên
lành mới giúp vua điều hành việc nước rồi mới có thể thống nhất thiên hạ. Để làm
được tất cả những điều này thì cần phải dựa vào nhân trị, nhân được coi như là trung
HVTH: Bùi Thị Thanh Châm 8
Tiểu luận triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
tâm của ngũ thường “Người không có nhân thì lễ để làm gì? Người không có nhân thì
nhạc mà làm gì?” [2]. Việc cai trị con người cũng phải dựa từ nhân trị mới bền và giải
quyết được cặn nguồn của vấn đề. Bên cạnh đó cần phải có chính danh, sự vật sự việc
phải đúng vị trí, tên gọi của chính nó thì mới giải quyết về đúng bản chất của nó.
“Người quân tử có điều gì mình không biết thì bỏ qua mà không nói. Nay danh bất
chính tất lời nói không thuận. Lời nói mà không thuận tất việc chẳng thành. Việc
chẳng thành thì tất lễ nhạc không hưng thịnh. Lễ nhạc không hưng thịnh thì tất hình
phạt chẳng đúng phép, hình phạt mà không đúng khuôn phép thì tất dân không biết
đặt tay chân vào đâu để nhờ cậy. Cho nên người quân tử quan niệm được danh ắt nói
ra được, mà nói ra được tất làm được”. Người quân tử nói ra điều gì nên dè dặt không
cẩu thả được, “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra
cha, con ra con” [2]. Khổng Tử đề cao chính danh cho người quân tử, mọi việc được
giải quyết từ người quân tử đã trở thành lẽ phải, … Chủ yếu nhân trị và chính danh
giúp người quân tử cai trị chính quyền, đó chính là cái quyền mà chỉ có người quân tử
có được, những kẻ địa vị thấp kém, đạo đức hèn mọn thì không bao giờ có cái quyền
được lên tiếng trong những chuyện từ trong gia đình đến chính sự.
4. Tư tưởng triết học nho gia về giáo dục đạo đức
Bên cạnh việc đưa ra những tư tưởng về đạo đức con người và đạo đức xã hội,
Khổng Tử còn trình bày rõ lập trường quan điểm là dùng “Đạo Đức” cai trị hay nói
khác hơn là đường lối “Đức Trị”. Tuy nhiên, phải đến Mạnh Tử đường lối "Đức Trị"
mới được phát triển tương đối hoàn chỉnh và trở thành đường lối Nhân Chính (chính
trị nhân nghĩa). Tìm hiểu được quá trình phát triển đó sẽ giúp chúng ta hiểu sâu thêm
sức sống lâu bền của tư tưởng "Đức Trị" ở các nước Châu Á.
Nho học về thực chất là một học thuyết chính trị đạo đức mà biểu hiện tập trung

ở đường lối "Đức Trị". Đối với các xã hội phong kiến Châu Á, đường lối "Đức Trị"
luôn luôn là đường lối trị nước duy nhất trong hơn hai nghìn năm lịch sử. Một đường
lối trị nước được độc tôn lâu dài. Như vậy trong lịch sử rất cần được đi sâu vào nghiên
cứu. Hơn nữa, đối với các xã hội Á Đông đương đại, Nho học trong đó có tư tưởng
"Đức Trị" không phải là vấn đề cổ xưa, càng không phải là vấn đề đã hoàn toàn thuộc
về lịch sử.
HVTH: Bùi Thị Thanh Châm 9
Tiểu luận triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
Trên thực tế sự hiện diện của Nho học với những mức độ khác nhau, vẫn luôn
luôn mang tính thời sự mới mẻ. Với thời đại ngày càng phát triển không ngừng về kinh
tế kéo theo một nền văn hóa được pha trộn rất nhiều giữa các quốc gia với nhau thì tư
tưởng Đức trị lại càng trở nên cần thiết để hướng con người luôn giữ trong mình
những giá trị tốt đẹp, giàu tính nhân văn mà Nho giáo mang lại. Một sự nghiên cứu có
hệ thống về quan điểm“Đạo Đức” hay đường lối "Đức Trị" trong triết lý Nho học lại
càng cần thiết.
CHƯƠNG II. GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TRIẾT HỌC NHO GIA
1. Giá trị của triết học Nho gia
Có thể nói, nhiều tư tưởng của Khổng Tử như học thuyết “Chính Danh” “Ngũ
Luân”, tư tưởng về giáo dục và tự giáo dục là những tư tưởng nền tảng ảnh hưởng lớn
đến đời sống tinh thần và hoạt động thực tiễn của một đại bộ phận dân tộc. Trong giai
đoạn giáo dục nước ta từ xưa đến nay thì học thuyết về “Chính Danh” “Ngũ Luân” tư
tưởng về giáo dục và tự giáo dục của Khổng Mạnh có giá trị rất lớn. Xã hội ngày nay
theo luồng kinh tế thị trường càng ngày càng phát triển đi cùng đó là việc xuống cấp,
mai một về Đạo Đức chính bởi thế mà trong giáo dục rất cần thiết phải khôi phục, phải
giáo dục về “Lễ”. Bên cạnh đó, chúng ta cũng nên kết hợp giữa giáo dục đạo đức và
giáo dục pháp luật (Đức trị và Pháp trị). Việc giáo dục đạo đức còn góp phần vào việc
thức tỉnh lương tâm, thức tỉnh bản chất con người, phải sống không những có trách
nhiệm với bản thân mà còn phải sống có trách nhiệm với gia đình và xã hội.
Tư tưởng “Đức Trị” của Khổng Tử còn thể hiện ở quan niệm coi nhẹ chính
hình và giảm bớt sưu thuế cho dân, đề cao vai trò của dân. Khổng Tử quan niệm:

"Không giáo hoá dân để dân phạm tội rồi giết, như vậy là tàn ngược". Khổng Tử chủ
trương giảm hình phạt, coi nhẹ hình phạt vì ông thật sự không bao giờ tin vào bá
đạo: “Lấy sức mạnh để phục người thì người không tâm phục thật sự, bởi vì sức không
chống lại được mà thôi. Lấy đức để phục người thì trong lòng người vui vẻ mà nghe
theo thật sự vậy” [2]. Khổng Tử cho việc thi ân rộng rãi cứu giúp dân chúng là sự
nghiệp của thánh Vương mà Nghiêu, Thuấn chưa chắc đã làm được như vậy. “Dưỡng
dân“ theo Khổng Tử trước hết phải làm cho dân no đủ, giàu có. Ông coi trọng việc
HVTH: Bùi Thị Thanh Châm 10
Tiểu luận triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
dưỡng dân còn hơn việc bảo vệ xã tắc và hơn cả việc giáo hoá dân nữa. Dưỡng dân
còn phải biết "Sử dân dĩ thời" nghĩa là khiến dân làm việc phải hợp thời cụ thể là vào
lúc dân rảnh việc nhà nông. Như vậy "Sử dân dĩ thời" vừa thể hiện sự nhân đạo trong
chính sách trị dân, vừa là bổn phận của người cầm quyền, người được tôn là cha mẹ
dân.
Nho giáo đã xây dựng và tạo lập thành công truyền thống học tập và tự phát
huy bản thân qua việc rèn luyện bản thân một tinh thần học tập, ham học hỏi, hoàn
thiện bản thân mình qua việc học tập và thực hành. Với một xã hội ngày càng phát
triển thì điều không thể thiếu đó là một lớp trẻ năng động, sáng tạo và được đào tạo
đầy đủ kiến thức cần thiết để áp dụng vào thực tế.
Trong quan niệm của các nhà Nho, xã hội lý tưởng phải là xã hội bảo đảm được
sự kết hợp hài hòa giữa đời sống kinh tế và đời sống tinh thần, đạo đức lành mạnh. Và
theo họ, sự hài hòa ấy là một trong những yếu tố cơ bản để giữ vững ổn định, trật tự
của xã hội phong kiến, là tiền đề để xây dựng một xã hội đại đồng. Với chủ trương coi
trọng đạo đức, coi việc hoàn thiện nhân cách đạo đức của mỗi người là điều kiện để
xây dựng và hoàn thiện xã hội lý tưởng, Nho giáo đã góp phần tạo dựng cho con người
lối sống có trách nhiệm với gia đình, đất nước, với cả chính mình và đặc biệt coi trọng
trật tự, kỷ cương một lối sống mà "Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ
bất năng khuất". Nho giáo đã tạo ra một cộng đồng xã hội có tôn ti trật tự, hòa mục từ
trong gia đình đến Nhà nước, thiên hạ. Học thuyết “Đức Trị“ chứa đựng hầu hết các
giá trị tinh hoa của Nho giáo và ngày nay vẫn rất cần được chúng ta tiếp tục nghiên

cứu sâu thêm nữa và chắc chắn sẽ còn tìm được trong đó nhiều bài học bổ ích.
Sự thịnh trị của Nho giáo từ thế kỷ XV cũng là một hiện tượng góp phần thúc
đẩy lịch sử tư tưởng nước ta tiến lên một bước mới. Là một học thuyết tích cực nhập
thể, nó cổ vũ và khuyến khích mọi người đi sâu vào tìm hiểu những quan hệ xã hội,
những vấn đề của thực tiễn chính trị, pháp luật và đạo đức. Do đó, nhận thức lý luận
của dân tộc ta về các vấn đề ấy cũng được nâng cao hơn. Dựa vào lịch sử của Nho
giáo, nhà vua và các nho sĩ giải thích các vấn đề ấy có lập luận và có lý lẽ đầy đủ hơn.
Các quy định về nghi thức, lễ nghi và thuyết chính danh của Khổng Tử giúp cho xã
hội sắp xếp lại quy củ, trật tự và luôn đề cao việc tuân thủ các đạo đức ứng xử trong
gia đình và xã hội. Việc này mang lại cho con người ta thói quen và hình thành nên
truyền thống được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
HVTH: Bùi Thị Thanh Châm 11
Tiểu luận triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
2. Hạn chế của triết học Nho gia
Nho giáo dựa trên tam cương và ngũ thường để cai trị xã hội, các quy định, tập
tục, lễ nghi được đặt ra có phần hà khắc và giáo điều. Bên cạnh việc giúp cho xã hội
thời nhiễu nhương lập lại trật tự kỷ cương, vai trò và trách nhiệm của mỗi người thì
những quy tắc này đã làm hạn chế quyền nhân sinh, lối sống bị lệ thuộc, các lễ nghĩa,
quy tắc có phần mang tính ép buộc. Mọi người trong xã hội đều bị trói buộc bởi năm
mối quan hệ tự nhiên như cha-con, vua-tôi, vợ-chồng, anh-em và bằng hữu, các mối
quan hệ này thể hiện tính hai mặt của cuộc sống hiện thực trong các mối quan hệ gia
đình và quan hệ xã hội. Hàng loạt các chế độ tông pháp và chế độ gia trưởng trong mỗi
gia đình đồng thời thực hiện cùng chế độ đẳng cấp chính trị trong xã hội. Xã hội không
hề có sự bình đẳng giới, người phụ nữ trong xã hội thời đại bị trói buộc bởi tam tòng
tứ đức một cách rập khuôn và gay gắt. Chính vì điều này vô hình chung tạo nên quan
niệm “trọng nam khinh nữ” đã ăn sâu vào tiềm thức con người qua rất nhiều thời đại
và ngày nay tư tưởng này tuy có phần bớt gay gắt nhưng vẫn ảnh hưởng đến rất nhiều
khía cạnh xã hội nước ta về bình đẳng giới.
Tuy Khổng Tử đặt quan niệm “dân làm gốc” nhưng ông lại mâu thuẫn trong
phân cấp đặc quyền con người trong xã hội này. Ông cho rằng chỉ có người quân tử là

những người có phẩm chất đạo đức theo quy tắc ngũ thường mới là những người có
nhân quyền, còn những kẻ tiểu nhân chỉ biết hám danh lợi thì không phải là người, chỉ
là công cụ lao động phục vụ.Vô hình chung ông cũng gom những người phụ nữ thời
đại này vô cùng một khái niệm đó, ngoài ra nhưng kẻ tiểu thương, lái buôn, và những
người lao động khốn khó cũng theo quan niệm của ông trở thành kẻ tiểu nhân. Khổng
Tử coi trong việc học hành, trau dồi kiến thức cho bản thân để trở thành người có đủ
nhân nghĩa phục vụ đất nước, phục vụ xã hội nhưng ông quên mất một điều, một xã
hội muốn phát triển bền vững thì không chỉ vững mạnh trên lĩnh vực giáo dục mà cần
phải mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh tế. Theo ông, thời Chiến Quốc loạn lạc là do con
người chạy theo “lợi” vì vậy nho giáo coi thường những người chạy theo lợi nhuận,
làm giàu là “vi phú bất nhân, vi nhân bất phú”, thương nhân chỉ là kẻ tiểu nhân. Chính
quan điểm này đã ảnh hưởng đến nền kinh tế của các nước phong kiến, không giao
thương với nước ngoài, nền kinh tế trở nên trì trệ, phương thức làm ăn ngày càng trở
nên lạc hậu với thời đại.
HVTH: Bùi Thị Thanh Châm 12
Tiểu luận triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
Trong quan điểm về thế giới, Khổng Tử có sự giao động giữa lập trường duy
vật và lập trường duy tâm vì có khi Khổng Tử tin có mệnh trời: ông cho rằng “tử sinh
có mệnh” (sống chết tại ở trời, không cãi được mệnh trời). Khổng Tử cho rằng người
quân tử có 3 điều sợ trong đó sợ nhất là mệnh trời, 2 là sợ bậc đại nhân, 3 là sợ lời
thánh nhân. Nhưng có khi Khổng Tử lại không tin có mệnh trời: ông cho rằng trời là
lực lượng tự nhiên không có ý chí, không can thiệp vào công việc của con người. Ông
cho rằng “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa cứ vận hành thay đổi, trăm vật trong vũ trụ
cứ sinh sôi”. Tuy nhiên nhìn chung thì lập trường của ông vẫn thiên về thế giới quan
duy tâm bảo thủ. Trong học thuyết nho giáo, thiên mệnh nắm tầm quan trọng nhất. Tin
vào thiên mệnh Khổng Tử coi việc hiểu biết mệnh trời là một điều kiện trở thành
người hoàn thiện, con người theo lối tư tưởng của ông sống phụ thuộc vào tâm niệm
thờ phụng thiên mệnh, coi vua trở thành bậc nhất, bởi đó chính là hình ảnh đại diện
của trời. Mọi hoạt động kinh tế xã hội, văn hóa cho tới giáo dục mục đích để phục tùng
cho hệ thống chính trị phong kiến.

Nói riêng về Nho giáo Việt Nam dù có lý do để tồn tại và phát triển thì cũng
vẫn gắn liền với giai cấp phong kiến địa chủ trong nước và là công cụ thống trị và tư
tưởng của giai cấp đó. Mà giai cấp địa chủ đó từ thế kỷ XV trở về trước tuy có một vai
trò nhất định nhưng vẫn là một giai cấp bóc lột đối với nhân dân. Và bất cứ một giai
cấp bóc lột nào ngay cả khi đang lên cũng mang theo những vết bùn nhơ và bàn tay
vấy máu của những người lao động.
Vào khoảng thế kỉ XV, Nho giáo ở Việt Nam khi chiếm ở vị trí độc tôn thì đã
làm cho chủ nghĩa giáo điều và bệnh khuôn sáo phát triển mạnh trong lĩnh vực tư
tưởng và trong địa hạt giáo dục khoa học. Các quan lại, sĩ phu, đều lấy thánh kinh,
hiền truyện của Nho giáo làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi người suy nghĩ và hành
động của mình, lấy cái xã hội thời Nghiêu Thuấn làm khuôn mẫu cho mọi tình trạng
xã hội; lấy những sự tích và điều phạm trong kinh, thư, kinh xuân thu làm tiêu chuẩn
để bình giá mọi sự việc.
Bệnh giáo điều và khuôn sáo này đã ăn sâu vào trong lĩnh vực khoa học và
nghệ thuật nhất là trong văn học và sử học khiến cho sự sáng tạo trong các lĩnh vực
này bị dập vào những cái khuôn sẵn có. Đó là một tật bệnh đã được rèn đúc ngay từ
khi người nho sĩ phải mài dũa văn chương để tiến vào con đường cử nghiệp.
HVTH: Bùi Thị Thanh Châm 13
Tiểu luận triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
Sự thịnh trị của Nho giáo còn khuyến khích mọi người nhất là các phần tử tri
thức đi sâu vào cải tạo “tu tề trị bình” vào việc học hành, thi đỗ, dương danh thiên hạ.
Vì vậy mà trong thực tế, Nho giáo đã làm cho những người gia nhập tầng lớp Nho sĩ
này xa rời sinh hoạt kinh tế và lĩnh vực sản xuất xã hội, nó chỉ biết đề cao đạo tư thân
và đạo tự nước chứ không hề đếm xỉa đến các tri thức vè khoa học tự nhiên cũng như
về các ngành sản xuất và lưu thông. Tính chất tiêu cực ấy của Nho giáo càng về sau
càng gây tác hại không nhỏ trong việc phát triển lực lượng sản xuất của xã hội.
Khi đã chiếm được địa vị thống trị trên vũ đài tư tưởng, Nho giáo Việt Nam
không tiếp tục đi sâu vào khám phá những vấn đề bản chất của đời sống và của vũ trụ,
vì mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác. Nó chỉ chú trọng đến những quan hệ chính trị
và đạo đức thực tế. Cho nên khi xã hội phong kiến rối loạn, vấn đề số phận và yêu cầu

giải phóng con người được đặt ra thì Nho giáo trở thành bất lực. Nó không giải đáp
được vấn đề ấy vì nó đã sớm bỏ con đường phát triển tư duy trừu tượng.
Hơn nữa, một khi Nho giáo chiếm vị trí độc tôn thì lễ chế của nó đặc biệt phát
triển mạnh. Khi đó nó bắt đầu đè nặng lên con người và bóp nghẹt nếp sống giản dị,
những quan hệ xã hội trong sáng, những tình cảm tự nhiên và chân thực của suy sụp
cùng với xã hội phong kiến thì nó trở nên phản động, cổ hủ và lạc hậu. Do đó,bên cạnh
những ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng đem lại không ít tác động tiêu cực mà cho
đến nay nó vẫn còn là nhân tố kìm hãm sự phát triển văn hoá tại các vùng nông thôn
Việt Nam.
HVTH: Bùi Thị Thanh Châm 14
Tiểu luận triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
KẾT LUẬN
Trước sự rối ren của xã hội trong thời kì Trung Hoa cổ, trung đại đã làm sản
sinh ra các nhà tư tưởng lớn, hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh
với những triết lý nhân sinh cao đẹp. Khổng Tử được xem là người sáng lập ra trường
phái Nho giáo và những đóng góp tích cực của ông vẫn còn ảnh hưởng sâu rộng đến
nhiều nước trên thế giới hiện nay. Đây cũng là cơ sở đóng góp tích cực vào chủ nghĩa
duy vật biện chứng sau này.
Bên cạnh những ưu điểm từ tư tưởng này mang lại thì còn rất nhiều hạn chế khi
tư tưởng Nho giáo dựa chủ yếu vào chủ nghĩa duy tâm để phát triển lý thuyết của
mình. Vì những hạn chế này đã ảnh hưởng rất nhiều đến hệ tư tưởng của nhân loại sau
này, và ngày nay với một xã hội phát triển dựa trên khoa học kĩ thuật và kinh tế mở
rộng, hiểu biết của con người cũng trở nên sâu sắc hơn, có khả năng học hỏi chọn lọc
những giá trị mà mỗi tư tưởng mang lại.
Thực sự bài viết cũng chỉ mới khai thác được một phần nào đó nội dung tư
tưởng Nho giáo nhưng cũng cố gắng làm nổi bật giá trị và hạn chế mà tư tưởng đã
mang lại trong kho tàng triết học nhân loại và việc vận dụng vào thực tế tùy theo hoàn
cảnh của từng quốc gia, từng dân tộc. Tuy Nho giáo không được sử dụng nhiều trong
phép biện chứng duy vật nhưng Nho giáo có giá trị nhân văn rất cao. Có lẽ vì vậy mà
những nét văn hóa từ Nho giáo đã trở thành truyền thống, mang giá trị cao, trở thành

khuôn thước xây dựng tính cách con người./
HVTH: Bùi Thị Thanh Châm 15
Tiểu luận triết học GVHD: Bùi Văn Mưa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Mưa, Triết học phần I, Đại cương về lịch sử triết học , NXB Đại học Kinh
Tế Thành phố Hồ Chí Minh , 2011.
2. Luận Ngữ thánh kinh của người Trung Hoa.
3. Nguyễn Thị Kim Bình, Đường lối “Đức Trị” của Nho giáo – từ Khổng Tử đến
Mạnh Tử, Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng – số 4 (27), 2008.
4. Phan Đại Doãn, Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, Học viện chính trị quốc gia .
5.Trần Trọng Kim, Nho giáo, NXB Tân Việt.
HVTH: Bùi Thị Thanh Châm 16

×