Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.38 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TRƯỜNG PHÁI ĐẠO
GIA 2


1. Giới thiệu Đạo Gia 2
2. Một số tư tưởng triết học cơ bản của Đạo gia 2
2.1 Tư tưởng triết học trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử 2
2.1.1 Lý luận về “đạo” và “đức” 2
2.1.2 Quan niệm biện chứng về thế giới 4
2.1.3 Quan niệm nhân sinh và chính trị xã hội 5
2.2 Trang Tử và sự phát triển của Đạo gia 6
CHƯƠNG II: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TRƯỜNG PHÁI ĐẠO
GIA 8
1. Những giá trị của tư tưởng triết học Đạo gia 8
2. Những hạn chế của tư tưởng triết học Đạo gia 9
KẾT LUẬN 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tư tưởng triết học Đạo Gia và những vai trò, hạn chế của nó
PHẦN MỞ ĐẦU
Lão Tử là một đại diện xuất sắc của nền triết học cổ đại phương Đông. Tư
tưởng triết học của Lão Tử là một trong những tinh hoa tạo nên bản sắc độc đáo
của văn hóa Trung Hoa. Cùng với nền văn hóa vĩ đại này, ảnh hưởng tư tưởng
triết học của Lão Tử đã lan tỏa ra nhiều nước ở khu vực Đông Á và các khu vực
khác của thế giới. Tiếp nối và phát triển thêm cho tư tưởng của ông còn có nhiều
triết gia khác nhưng người đóng góp nhiều nhất và có ý nghĩa nhất là Trang Tử.
Nếu như Lão Tử có Đạo Đức Kinh thì Trang Tử có Nam Hoa Kinh để cho nhiều
đời sau phải nghiên cứu.


Tư tưởng triết học Đạo Gia thể hiện qua hai tác phẩm kinh điển là Đạo Đức
Kinh và Nam Hoa Kinh đã được nhiều học giả từ Đông sang Tây nghiên cứu bàn
luận trong nhiều thế kỷ. Các chú giải và phân tích về tư tưởng triết học này rất
phong phú và không phải lúc nào cũng thống nhất với nhau. Cùng với những
tham khảo về các vấn đề đã được tham khảo chủ yếu ở các sách giáo trình: Bùi
Văn Mưa (Chủ biên), Triết học – Phần 1 – Đại cương về lịch sử triết học,
Trường Đại Học Kinh Tế TPHCM, 2011 và TS Nguyễn Ngọc Thu – TS Bùi
Văn Mưa, Giáo trình Đại cương Lịch sử Triết học, NXB Tổng hợp TP.HCM,
2003 cũng như một số báo, tạp chí và các website đáng tin cậy, tôi muốn trình
bày thêm một số suy nghĩ của mình về các tư tưởng của Đạo Gia để từ đó thấy rõ
hơn các giá trị mà tư tưởng này mang lại cũng như các mặt hạn chế của bản thân
nó.
Trang 2
Tư tưởng triết học Đạo Gia và những vai trò, hạn chế của nó
CHƯƠNG I
NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TRƯỜNG
PHÁI ĐẠO GIA
1. Giới thiệu Đạo gia
Đạo gia được Lão Tử sáng lập ra và sau đó được Trang Tử phát triển thêm
vào thời Chiến quốc. Kinh điển của Đạo gia chủ yếu được tập trung lại trong bộ
Đạo đức kinh và bộ Nam hoa kinh. Đạo đức kinh có khoảng 5000 câu do Lão Tử
soạn, nó gồm hai thiên nói về Đạo và Đức. Nam hoa kinh gồm các bài do Trang
Tử và một số người theo phái Đạo gia viết [1; 64].
Triết học của Lão Tử như một kim tự tháp lớn trong triết học Trung Quốc,
cùng với nho giáo, nó như cái bóng bao trùm và dẫn dắt quá trình tư tưởng của
Trung Hoa. Với cách diễn đạt vắn tắt, thâm trầm, gợi mở bằng những châm ngôn,
ngạn ngữ có tính ẩn dụ, Lão Tử đã trình bày ba vấn đề triết học căn bản là: Học
thuyết về “đạo” và “đức”, tư tưởng về phép biện chứng và học thuyết “vô vi”.
2. Những tư tưởng của trường phái Đạo gia
2.1. Tư tưởng triết học trong Đạo Đức Kinh của Lão tử

2.1.1. Lý luận về Đạo và Đức
- Đạo
Lão Tử là người đầu tiên coi “đạo” là phạm trù triết học vừa để chỉ bản
nguyên vô hình, phi cảm tính, phi ngôn từ, sâu kín, huyền diệu của vạn vật, vừa
để chỉ con đường, quy luật chung của mọi sự sinh thành, biến hóa xảy ra trong
thế giới [1; 64] và được tạm hiểu như sau:
Đạo vừa là cái có trước vừa là cái nằm trong bản thân sự vật, nhưng khi có
sự can thiệp của con người thì đạo không còn là đạo nữa [1; 65]. Ông đã viết: có
một vật do sự hỗn hợp mà thành; nó sinh ra trước trời đất; vừa trống không vừa
yên lặng; đứng yên một mình mà không biến cải; trôi đi khắp mọi nơi mà không
thôi; có thể làm mẹ đẻ của thiên hạ. Cái hỗn hợp đó chưa có tên nên tạm gọi là
Trang 3
Tư tưởng triết học Đạo Gia và những vai trò, hạn chế của nó
đạo. Cái được gọi là đạo, một khi đã gọi được thì không phải là tự thân đạo nữa
rồi.
Theo Lão Tử, đạo có thể sinh ra muôn vật, nhưng đạo lại không phải là
muôn vật, đạo tồn tại ở muôn vật nhưng bản than đạo lại là vô. Đạo sinh ra Một
(khí thống nhất), Một sinh ra Hai (âm, dương đối lập), Hai sinh ra Ba (trời, đất,
người), Ba sinh ra vạn vật [4; Chương 42]. Đạo là cái nói rằng không nhưng lại
có, nói rằng thực nhưng lại hư, là mập mờ thấp thoáng, nhưng trong cái mập mờ
thấp thoáng ấy lại có cái hình tượng của vũ trụ, lại chứa đựng cả đất trời muôn
vật. Nó vừa sâu xa vừa mờ tối nhưng trong đó lại có cái nguyên lí và nguyên chất
của mọi vật chất sinh mệnh.
Như vậy, đạo có thể được tạm hiểu như là cái từ nhiên tĩnh mịch, yên lặng,
mộc mạc, hỗn độn, mập mờ, thấp thoáng, không có đặc tính, không có hình thể;
là cái mắt không thấy, tai không nghe, tay không nắm bắt, ngôn ngữ không thể
diễn đạt, tư duy không nhận thức được; là cái năng động tự sinh sôi, nảy nở, tiến
hóa [1; 64]…. Nhưng nó sinh ra vạn vật và là bản chất, quy luật của mọi cái đã,
đang và sẽ tồn tại trong thế giới. Đạo vừa mang tính khách quan (vô vi) vừa
mang tính phổ biến; vì vậy, trong thế giới, không đâu không có đạo, không ai

không theo đạo…
- Đức
Đức là một phạm trù triết học dùng để thể hiện sức mạnh tiềm ẩn của đạo,
là cái hình thức nhờ đó vạn vật được định hình và phân biệt được với nhau, là cái
lý sâu sắc để nhận biết vạn vật [1; 64].
Nếu như đạo sinh ra vạn vật thì đức sẽ bao bọc, bồi dưỡng, nuôi lớn tới
thành thục, che chở vạn vật. Vạn vật nhờ đạo mà được sinh ra, nhờ đức mà thể
hiện, và khi mất đi cũng là lúc vạn vật quay trở về với đạo [1; 65]. Người có đức
là người sống theo đạo. Trong đời sống hằng ngày, hễ có tinh thần giúp vạn vật
sinh sôi, không sát hại, biết thương yêu từ người đến vật, hiền lương, trung tín lễ
Trang 4
Tư tưởng triết học Đạo Gia và những vai trò, hạn chế của nó
nghĩa…. thì đó là đạo. Đem những hành động thi thố và lời nói truyền bá giúp
đời trên con đường chánh nghiệp đó là đức.
Như vậy, quan niệm về đạo và đức của trường phái Đạo gia đã thể hiện một
trình độ khái quát cao của tư duy biện chứng khi giải quyết vấn đề bản nguyên
thế giới [1; 65].
2.1.2. Quan điểm biện chứng về thế giới của Lão tử
Lão Tử cho rằng vũ trụ vận động biến đổi theo hai quy luật: quy luật bình
quân và quy luật phản phục [1; 65]. Vũ trụ vận hành với đạo, vạn vật đều nương
tựa vào nhau mà sinh tồn và tương tác tạo điều kiện cho nhau “có và không cùng
sinh; khó và dễ cùng thành, dài và ngắn cùng hình, cao và thấp cùng nghiêng,
thanh và âm cùng họa, trước và sau cùng theo”
- Quy luật bình quân
Luật bình quân làm cho vạn vật vũ trụ vận động, biến hóa trong trạng thái
cân bằng theo một trật tự điều hòa tự nhiên, không có cái gì thái quá, không có
cái gì bất cập [1; 65]. Cái gì khuyết ắt sẽ được tròn đầy, cái gì cong sẽ được
thẳng, cái gì vơi sẽ được bù đắp cho đầy, cái gì cũ sẽ được đổi mới. Ông viết:
“Gãy thì liền, cong thì thẳng, trống thì đầy, cũ thì mới, ít thì được, nhiều thì mất”
[4; Chương 22]. Đó chính là cái “đạo của trời, chỗ cao thì ép xuống thấp, chỗ

thấp thì nâng lên cao, có dư thì bớt đi, không đủ thì bù vào. Đạo của trời bớt chỗ
dư bù chỗ thiếu” [4; Chương 42]. Nếu vi phạm luật bình quân, phá vỡ trạng thái
vận động cân bằng của vũ trụ, thì vạn vật sẽ rối loạn, trì trệ và có nguy cơ bị phá
hoại: “Nhón gót lên thì không đứng vững. Xoạc chân ra thì không bước được. Tự
xem là sáng thì không sáng. Tự xem là phải thì không chói” [4; Chương 40].
- Quy luật phản phục
Cùng với luật bình quân, vũ trụ vạn vật còn tuân theo luật phản phục. Theo
quy luật phản phục, cái gì phát triển đến đột đỉnh sẽ trở thành các đối lập với nó;
sự vật khi phát triển đến cực điểm các tính chất của nó thì những tính chất ấy sẽ
Trang 5
Tư tưởng triết học Đạo Gia và những vai trò, hạn chế của nó
đi ngược lại để trở thành tính chất tương phản. Lão Tử viết: “Ít thì được, nhiều
thì mất” [4; Chương 22], “vật hễ thêm nó, thì nó bớt; bớt nó thì nó thêm” [4;
Chương 42] và “trong thiên hạ cái rất mềm thì làm chủ cái rất cứng” [4; Chương
43]. Theo Lão Tử, phản phục có thể được hiểu theo hai nghĩa:
Nghĩa thứ nhất, phản phục là sự vận động, biến hóa có tính chất tuần hoàn,
đều đặn, nhịp nhàng và tự nhiên của vạn vật. Đó là quy luật bất di bất dịch của tự
nhiên. Vạn vật cứ “mập mờ, thấp thoáng”, khi đầy khi vơi, lúc sinh lúc tử dưới
sự chi phối tác động của luật phản phục. Vòng biến đổi tuần hoàn, tự nhiên bất
tận ấy của vạn vật, Lão Tử gọi là “thiên quân” .
Nghĩa thứ hai, phản phục còn là sự vận động trở về với “đạo” của vạn vật,
gọi là sự “phản giả đạo chi động” [4; Chương 40]. Trở về với đạo tự nhiên, vô vi
là trở về với gốc rễ, cội nguồn của mình, bền bỉ, trường tồn. Lão Tử viết: “Đến
chỗ cùng cực hư không là giữ vững được trong cái tĩnh. Vạn vật đều sinh ra, ta
lại thấy nó lại trở về với gốc. Ôi! mọi vật đều trùng trùng trở về với cội rễ của nó.
Trở về cội rễ gọi là tĩnh, thế gọi là quay về với mạng” [4; Chương 16].
Từ luật bình quân và phản phục của vũ trụ, vạn vật, Lão Tử nâng lên thành
nghệ thuật sống của con người, đó là sự từ ái, khiêm nhường, tri túc, tri chỉ. Ông
dạy mọi người: “Sắp muốn thu lại, ắt hãy mở ra đấy; muốn làm yếu đi, ắt hãy
làm cho mạnh lên đấy; muốn làm vật suy tàn hãy làm cho nó hưng lên; muốn

đoạt lấy hãy cho đi ” [4; Chương 36]
2.1.3. Quan niệm nhân sinh và chính trị xã hội
- Thuyết vô vi
Vô vi là sống và hành động theo lẽ tự nhiên, thuần phát, không giả tạo,
không gò ép trái với bản tính của mình và ngược với bản tính của tự nhiên; là từ
bỏ tính tham lam, vị kỷ để không làm mất đức. Chỉ khi nào từ bỏ được thói tư lợi
thì mới nhận thấy đạo; và chỉ khi nhận thấy đạo mới có thể vô vi được [1; 67].
Trang 6
Tư tưởng triết học Đạo Gia và những vai trò, hạn chế của nó
“Vô vi” còn có nghĩa là không làm mất cái đức tự nhiên, thuần phác vốn có
của vạn vật, không ý chí, dục vọng, không ham muốn những gì trái với bản tính
tự nhiên của mình và của vật. Nếu để mất đức tự nhiên, ham muốn những gì trái
với bản tính tự nhiên của mình, cố tình thỏa mãn những dục vọng đó, dẫn tới sự
can thiệp vào guồng máy tự nhiên sẽ mang lại những tai họa: “Ngũ sắc làm cho
mắt mờ, ngũ âm làm cho tai điếc, ngũ vị làm cho miệng chán, cưỡi ngựa săn bắn
làm cho lòng phát cuồng, vật khó khiến làm cho lòng tà vậy” [4; Chương 12]
- Đường lối trị nước an dân
Lão Tử cho rằng hành động hay nhất là đừng can thiệp đến việc đời; nhưng
nếu đời cần ta phải làm thì ta hãy làm cái không làm một cách kín đáo, khéo léo.
Ông coi đây là giải pháp an bang tế thế. Đối với ông, chính phủ yên tĩnh vô vi thì
dân sẽ biến thành chất phát, chính phủ tích cực làm việc thì dân đầy tai họa [1;
67].
Lão Tử mơ ước trở lại đời sống chất phác của thời đại công xã nguyên thủy,
không thể chế, không có chế độ tư hữu và trao đổi hàng hóa, sống tự cấp tự túc.
Đó là cảnh mộc mạc, “vô danh phi phác”, như đạo vô danh của ông: “Nước nhỏ,
dân ít. Dù có khí cụ gấp trăm gấp chục sức người cũng không dùng đến. Ai nấy
đều coi sự chết là hệ trọng nên không đi đâu xa. Có xe thuyền mà không ai ngồi.
Có gươm giáo mà không bao giờ dùng. Bỏ văn tự, bắt người ta trở lại dùng lối
thắt dây ghi dấu thời thượng cổ. Ai nấy đều chăm chú vào việc ăn no, mặc ấm, ở
yên, vui với phong tục của mình. Ở nước này có thể nghe tiếng gà gáy chó sủa

của nước kia, nhân dân trong những nước ấy đến già chết mà vẫn không qua lại
lẫn nhau” [4; Chương 80].
2.2 Trang tử và sự phát triển của Đạo gia
Trang Tử được coi là nhà tư tưởng lớn về đạo học trong triết học cổ Trung
Quốc, người có công mài dũa viên ngọc “đạo” của Lão Tử làm hiện lên đầy đủ
vẻ lấp lánh huyền hoặc của nó. Vì thế, người đời xưa thường gọi trường phái triết
học này là Lão – Trang.
Trang 7
Tư tưởng triết học Đạo Gia và những vai trò, hạn chế của nó
Sang thời Chiến Quốc, Trang Tử đã biến các yếu tố biện chứng trong triết
học của Lão Tử thành chủ nghĩa tương đối và thuyết ngụy biện. Từ đó, ông xây
dựng quan niệm nhân sinh thoát tục – vị ngã – toàn sinh đầy tính duy tâm, tiêu
cực trong trường phái Đạo gia [1; 68].
Trang Tử cũng có quan niệm về Đạo như Lão tử nhưng biến các yếu tố biện
chứng của triết học Lão tử thành chủ nghĩa tương đối coi đúng – sai, trên – dưới,
sang – hèn, sống – chết… bằng nhau, quên vật quên ta, coi đời bằng cõi mộng.
Ông chủ trương cần loại bỏ mọi thứ sang một bên để tiến vào vương quốc tiêu
dao. Muốn đạt tới sự tiêu dao thì phải xem vạn vật bình đẳng, xem rộng ra sẽ
thấy sống chết như nhau, giàu nghèo không khác, xấu đẹp cũng vậy Từ đó sẽ
thấy tham sống, tham giàu, tham đẹp là sai, vì mỗi hoàn cảnh, mỗi vật có một
giá trị riêng của nó, tất cả đều nằm trong Đạo
Song song đó, Trang Tử cũng có khái niệm “vô vi” gồm ba nội dung chính:
Thứ nhất, sống và tồn tại theo bản tính tự nhiên vốn có của mình, không
cần phải có sự tham gia của hành động con người vào nó.
Thứ hai, thuận theo lẽ tự nhiên mà làm, không làm gì trái với tự nhiên, hành
động như thế là “làm mà không phải mình làm”, vì cái đó không còn bị ràng buột
bởi ý chí, mục đích của con người nữa, cũng giống như nóng và sáng là tính tự
nhiên của lửa, nó vốn như thế, không phải không thể là nó (bất đắc bất nhiên).
Và cuối cùng là làm cho mọi vật đều được tự do, bình đẳng sống, hành
động theo đúng bản tính, khả năng, sở thích tự nhiên của chúng.

Trang 8
Tư tưởng triết học Đạo Gia và những vai trò, hạn chế của nó
CHƯƠNG II
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC ĐẠO GIA
1. Những giá trị của tư tưởng triết học Đạo Gia
Thể hiện một trình độ khái quát cao của tư duy biện chứng khi giải quyết
vấn đề bản nguyên thế giới. Như đã nói, Lão Tử cho rằng đạo là tự nhiên và ông
đã xác định tính chất quan trọng trước hết của đạo là thuần phác, chất phác [5;
41]. Trên cơ sở nhận thức đó, ông đã cố gắng giải thích nguyên nhân sâu xa về sự
bất ổn của xã hội và sự tha hóa của con người. Ông cho rằng xã hội loạn lạc là vì
con người mỗi ngày một xa đạo, không sống thuận theo đạo tức không thuận tự
nhiên, đánh mất sự chất phác, quá nhiều dục vọng, càng thông minh càng nhiều
dục vọng, càng xảo trá, tranh giành nhau, chém giết nhau. Từ đây, ông chủ kêu
gọi mọi người nên sống và làm theo lẽ tự nhiên, nghĩa là “vô vi”. Mang con
người đến cuộc sống gần gũi, làm bạn với thiên nhiên, không hủy hoại, làm xáo
trộn trật tự tự nhiên vốn mang tính điều hòa. Cũng từ thuyết vô vi, Lão Tử đã rút
ra nghệ thuật sống dành cho con người là từ ái, cần kiệm, khiêm nhường, khoan
dung. Tất cả chúng đều mang đến giá trị nhân bản to lớn là hướng con người
vươn tới sự cao cả của thánh thiện.
Trong tư tưởng về phép biện chứng, có thể nói Lão Tử căn bản đã vạch ra
được quy luật, con đường vận động, biến đổi của vạn vật trong thế giới khách
quan. Theo ông, nguồn gốc của sự vận động, biến đổi ấy của vũ trụ, vạn vật là sự
liên hệ, tác động, chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong chính các sự vật. Đây là
thành quả đặc sắc nhất trong triết học của Lão Tử, biểu hiện năng lực quan sát
tinh vi và trình độ tư duy sắc sảo của ông đối với sự vật khách quan.
Những tư tưởng về đạo và đức, cũng như phép biện chứng về thế giới và
thuyết vô vi là mạch suối nguồn làm phát sinh nhiều tư tưởng triết học đặc sắc
của nền triết học phương Đông.
Trang 9

Tư tưởng triết học Đạo Gia và những vai trò, hạn chế của nó
Tư tưởng của Lão Tử chủ nghĩa "vô vi" là rất sâu sắc và độc đáo. Với trình
độ tư duy lí luận cao, những quan điểm ấy của Lão Tử đã đóng góp đáng kể vào
sự phát triển tư tưởng triết học phương Đông. Trong cái "lờ mờ", "hỗn độn" và
gợi mở, Lão Tử đã làm cho người đời sau kinh ngạc, thán phục trước sức mạnh
của tư duy trừu tượng.
Xét về sự tiếp nối của triết học Trang Tử, phần không kém đặc sắc trong
triết học của ông là phép biện chứng tự phát. Trang Tử đã xem xét vũ trụ, tự
nhiên bằng quan điểm biện chứng, mà nổi bật là tư tưởng về sự vận động, biến
hóa không ngừng của thế giới.
2. Những hạn chế của tư tưởng triết học Đạo gia
Tư tưởng biện chứng của Lão Tử tuy đã vẽ nên đúng đắn bức tranh sinh
động của hiện thực, nhưng về căn bản nó vẫn mang tính chất tự phát, ngây thơ,
dựa trên những kinh nghiệm có tính trực quan cảm tính và chủ yếu là mô tả sự
biến chuyển của sự vật, hiện tượng xảy ra trong tự nhiên cũng như trong xã hội.
Nó chưa có cơ sở để vạch ra sự hạn chế bị quy định bởi tính chất thời đại lịch sử
mà còn do sự hạn chế bởi trình độ nhận thức còn thấp kém ở Trung Quốc thời
bấy giờ.
Phép biện chứng của Lão Tử mang tính máy móc đơn giản. Chính hai luật
phổ biến trong đạo (bình quân và phản phục) đã làm cho phép biện chứng của
Lão Tử mất sinh khí và có tính chất máy móc, lặp đi lặp lại có tính chất tuần
hoàn.
Trong học thuyết về quy luật vận động của vạn vật, Lão Tử chỉ mới thấy
các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng nương tựa nhau một cách hình thức, giản
đơn. Lão Tử quan niệm sự chuyển hóa của các mặt đối lập chỉ là sự thay thế,
chuyển đổi vị trí cho nhau một cách tuần tự, kế tiếp, phản phục, quân bình,
không có sự đấu tranh phủ định, bài trừ, thâm nhập vào nhau một cách biện
chứng. Do vậy, sự vận động, biến đổi của sự vật hiện tượng không có bước nhảy
Trang 10
Tư tưởng triết học Đạo Gia và những vai trò, hạn chế của nó

vọt, không có sự thay đổi về chất, mà chỉ là quá trình lặp đi lặp lại một cách đơn
điệu.
Theo Lão Tử, sự đấu tranh, chuyển hoá của các mặt đối lập không theo
hướng phát triển, xuất hiện cái mới mà theo vòng tuần hoàn của luật phản phục.
Hơn nữa, Lão Tử không chủ trương giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh của các
mặt đối lập mà ông chủ trương lấy cái tĩnh, cái vô vi, cái điều hoà để tạo thành sự
chuyển hoá. Sự chuyển hoá của các mặt đối lập ở Lão Tử, chính là sự điều hoà
theo luật quân bình.
Với mong muốn xã hội lý tưởng là những nước nhỏ, dân ít, không học
hành, không tư lợi, Lão Tử không khuyến khích dân sử dụng trí tuệ, không cần
tôn trong người hiền, không coi trong của cải… Ông muốn đưa xã hội trở về thời
đại nguyên thủy chất phác, mơ ước cô lập cá nhân với xã hội để hòa tan con
người vào đạo tức con người với tự nhiên hòa làm một. Với tư tưởng đi lùi với sự
phát triển này, Lão Tử cho thấy được sự bế tắc và tuyệt vọng của thời cuộc lúc
bấy giờ. Chính sự bi quan ấy đã khiến ông mong muốn xã hội và con người phải
quay về thuở ban sơ, không đấu tranh, không tham vọng, mọi người ai cũng như
ai. Một xã hội đối với ông là không có sự phát sinh thêm cái mới, không hề có sự
phát triển. Ông cố gắng giải thích sự tha hóa của con người trong xã hội lúc bấy
giờ nhưng ông lại không nhận thấy nguyên nhân sâu xa của sự tha hóa đó nên
càng làm xã hội không phát triến và bị tụt hậu.
Bên cạnh đó, ta có thể thấy rằng, quan điểm triết học của Trang Tử cũng đã
thể hiện tư tưởng và địa vị giai cấp của tầng lớp quý tộc sa sút trong thời kỳ loạn
lạc. Hoài nghi hiện thực, yếm thế nhưng phóng nhiệm; trở về với tự nhiên, trở về
với đạo như một sức mạnh thiên nhiên huyền bí. Nó đã tạo nên quan niệm nhân
sinh - thoát tục - vị ngã toàn sinh đầy tính duy tâm tiêu cực. Trang Tử cho rằng,
trời đất và ta cùng sinh ra, vạn vật với ta đều là một, mà đã là một thì cần chi
phân biệt giữa cái này với cái kia làm gì [1; 68]. Với quan niệm đó, ông đã không
Trang 11
Tư tưởng triết học Đạo Gia và những vai trò, hạn chế của nó
phân biệt đúng – sai, trên – dưới mà áp mọi việc đều như nhau, tạo nên tâm lý bất

cần, bi quan và bỏ mặc cho xã hội thay đổi một cách tiêu cực.
Do thoát tục mà phải sống trong trần tục nên Trang Tử chủ trương phải toàn
sinh và vị ngã, nghĩa là phải thuận theo thời, vì cái tự nhiên nào cũng hợp lý cả,
không khen chê phải – trái, tốt – xấu làm gì, phải lánh nạn để bảo toàn sinh mạng
[1; 68]. Đi cùng với tư tưởng đó sẽ là những con người không tìm tòi học hỏi để
phát triển, nếu tìm được cái sai thì phải biết khắc phục chứ không phải lánh sang
một bên để mặc cuộc đời muốn tiến thì tiến muốn lui thì lui.
Thực chất Trang Tử đã đề cao và tuyệt đối hóa mặt tự nhiên của con người,
xem xét con người tách hẳn với xã hội hay đối lập hoàn toàn với xã hội. Biến con
người thành một thực thể riêng biệt, khép kín, phủ nhận mặt xã hội của con
người, đồng nhất họ với tự nhiên. Khi đề cao bản chất tự nhiên của con người,
Trang Tử đã hạ thấp con người, đánh đồng con người có ý thức với muôn vật vô
tri vô giác. Quan điểm đó của ông đã thể hiện khuynh hướng đồng nhất tự nhiên
và xã hội.
Trang 12
Tư tưởng triết học Đạo Gia và những vai trò, hạn chế của nó
KẾT LUẬN
Những tư tưởng sâu sắc và độc đáo về “đạo”, về “đức”, về phép biện
chứng, về “vô vi” trong hệ thống triết học của Lão Tử đã nâng ông lên vị trí
những nhà triết học hàng đầu trong nền triết học Trung Hoa cổ đại. Chúng là
mạch suối nguồn làm phát sinh nhiều tư tưởng triết học đặc sắc của nền triết học
phương Đông nói chung và triết học Trung Hoa nói riêng… Tuy nhiên, cách sống
dửng dưng, thoát tục, vị ngã của trường phái Đạo gia là một phản ứng tiêu cực
trước sự bế tắc của thời cuộc bấy giờ nhưng nó lại phù hợp với quan niệm nhân
sinh của nhiều người trong thời đại ấy, nhất là tầng lớp quý tộc sa sút trong cuộc
chiến triền miên. Vì vậy, trường phái Đạo gia vẫn được nhiều người ủng hộ và tin
theo
Với tư tưởng hết sức đặc sắc về “đạo” về phép biện chứng chất phác cũng
như về quan điểm “vô vi”, triết học của Đạo Gia thực sự trở thành viên ngọc quý
của nền triết học phương Đông. Trong cái “mập mờ”, “thấp thoáng”, mơ hồ

nhưng luôn chói sáng tính chất gợi mở, vạch đường, tư tưởng của ông làm người
đời sau phải kinh ngạc và thán phục trước sức mạnh tư duy độc đáo của ông. Tuy
các tư tưởng triết học Đạo Gia vẫn còn những thiếu sót, hạn chế, nhưng về
phương diện lịch sử, chúng ta cũng phải nghiêng mình trước những di sản tài hoa
và sắc sảo của Lão Tử nói riêng và Đạo Gia nói chung.
Trang 13
Tư tưởng triết học Đạo Gia và những vai trò, hạn chế của nó
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bùi Văn Mưa (Chủ biên), Triết học – Phần 1 – Đại cương về lịch sử triết
học, Trường Đại Học Kinh Tế TPHCM, 2011.
[2] Hàn Sinh Tuyến – Lê Anh Minh, Tư tưởng Đạo gia, NXB Tam giáo đồng
nguyên, 2008.
[3] TS Nguyễn Ngọc Thu – TS Bùi Văn Mưa, Giáo trình Đại cương Lịch sử
Triết học, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2003.
[4] Thu Giang- Nguyễn Duy Cần, Đạo Đức Kinh, Hà Nội 8/2007.
[5] Lê Hồng Giang, Về vấn đề con người và xã hội con người trong Triết học
Lão Tử, Tạp chí Phát triển Kh&CN, Tập 12, Số 01-2009.
[6] Nguyễn Ước, Lão Tử, Website www.timsach.com.vn, 2007.
Trang 14

×