Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Thực trạng áp dụng các công cụ quản lý rừng A Lưới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.57 KB, 20 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
A lưới là một huyện vùng cao của tỉnh Thừa Thiên Huế, có tổng diện tích tự nhiên
là 1229,02 km2, trong đó diện tích đất lâm nghiệp là 73.561,6 ha, chiếm 65% tổng diện
tích đất tự nhiên. Rừng và đất lâm nghiệp ở A Lưới đã và đang bị suy giảm do nhiều
nguyên nhân như ảnh hưởng của chất độc trong chiến tranh, khai thác không hợp lý cho
tiêu dùng và sản xuất, v.v. Cũng như nhiều nơi khác, công tác quản lý và sử dụng nguôn
lợi từ rừng và đất rừng ở đây đang nẫy sinh nhiều vấn đề cần phải được giải quyết. Thiếu
sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ và chức năng quản lý rừng.
Nhiệm vụ và hệ thống tổ chức lâm nghiệp các cấp không ổn định và còn chồng chéo.
Giữa cách thức quản lý Nhà nước và cách thức quản lý truyền thống về rừng đang còn
nhiều mâu thuẫn và xung đột. Vì vậy, hiệu quả của công tác bảo tồn và phát triển tài
nguyên rừng và đất rừng còn nhiều hạn chế. Điều này ảnh hưởng đến đời sống của các
cộng đồng dân cư, nhất là cộng đồng các dân tộc thiểu số sống trên và gần địa bàn rừng.
Thử thách lớn cho việc quản lý bền vững tài nguyên rừng và đất rừng bảo vệ và phát triển
nguồn tài nguyên cùng với việc giảm nghèo cho người dân địa phương (Bảo, 1999).
Chính vì vậy nhóm chúng tôi đã chọn đề tài “Thực trạng áp dụng các công cụ
quản lý rừng A Lưới” nhằm nghiên cứu thực trạng các công cụ quản lý tài nguyên rừng
và ảnh hưởng của nó đến sinh kế của người dân miền núi tỉnh Thừa Thiên Huế, góp phần
cải thiện công tác quản lý rừng bảo đảm cả mục tiêu bảo vệ và phát triển nguồn tài
nguyên cùng với việc cải thiện sinh kế cho người dân địa phương.
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý luận
 Khái niệm quản lý môi trường
Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ
thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững
kinh tế xã hội quốc gia.
 Khái niệm công cụ quản lý môi trường
Công cụ quản lý môi trường là các biện pháp hành động thực hiện công tác quản lý
môi trường của nhà nước, các tổ chức khoa học và sản xuất. Mỗi một công cụ có một
chức năng và phạm vi tác động nhất định, liên kết và hỗ trợ lẫn nhau.
1


Phân loại công cụ quản lý môi trường
Công cụ mệnh lệnh và kiểm soát:
- Tiêu chuẩn môi trường
- Giấy phép không thể chuyển nhượng
Công cụ kinh tế:
- Tăng cường quyền tài sản
- Thuế tài nguyên gồm: Thuế sử dụng đất; Thuế sử dụng nước; Thuế rừng; Thuế
tiêu thụ năng lượng; Thuế khai thác khoáng sản.
- Thuế/phí môi trường: Thuế / phí ô nhiễm đánh vào nguồn gây ô nhiễm; Thuế / phí
ô nhiễm đánh vào sản phẩm gây ô nhiễm; Phí đánh vào người sử dụng.
- Giấy phép môi trường có thể chuyển nhượng: Giấy phép xả khí thải; Giấy phép xả
nước thải; Giấy phép chứng nhận đầu tư trồng rừng.
- Hệ thống đặt cọc - hoàn trả
- Ký quỹ môi trường
- Trợ cấp môi trường: Trợ cấp không hoàn lại; Các khoản cho vay ưu đãi; Cho phép
khấu hao nhanh; Ưu đãi thuế (miễn, giảm thuế).
- Nhãn sinh thái
Tuyên truyền giáo dục cộng đồng
2. Cơ sở thực tiễn
2.1 Thực trạng áp dụng các công cụ quản lý tài nguyên rừng trên thế giới
Rừng chiếm 31% tổng diện tích đất trên thế giới, là lá phổi của Trái đất, là thảm
thực vật giữ vai trò to lớn đối với con người như: cung cấp gỗ, củi; điều hoà khí hậu;
ngăn chặn gió bão; tạo ra Oxy; điều hoà nước; là nơi cư trú của muôn loài động thực vật
và nơi tàng trữ các nguồn tài nguyên quý hiếm… Đặc biệt, rừng là một yếu tố quan trọng
trong sự phát triển bền vững toàn cầu. Theo Ngân hàng Thế giới, ước tính có hơn 1,6 tỷ
người sống phụ thuộc vào rừng, và ngành công nghiệp lâm sản là một nguồn cung cấp
khối lượng lớn việc làm, góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia và khu vực.
Số liệu thống kê mới đây cho thấy, 30% diện tích rừng được sử dụng để sản xuất gỗ và
các sản phẩm phi gỗ, thương mại lâm sản ước đạt 327 tỷ USD mỗi năm. Tuy nhiên, hiện
nay, rừng đang bị con người khai thác quá mức, khiến thiên nhiên bị tàn phá nặng nề,

2
môi trường và khí hậu thay đổi, đe doạ sự sống trên khắp Trái đất. Ước tính của Tổ chức
Nông Lương Liên Hợp Quốc (FAO) cho biết, mỗi năm 130.000km² rừng trên thế giới bị
biến mất do nạn phá rừng. Điều này khiến cho môi trường sống của 2/3 loài trên Trái đất
bị thu hẹp, đa dạng sinh học bị suy giảm, và với đà này, trong tương lai không xa, mỗi
ngày chúng ta sẽ phải nói lời chia tay với 100 loài. Bên cạnh đó, việc chuyển đổi đất rừng
sang đất nông nghiệp, đất định cư, thu hoạch gỗ không bền vững, quản lý đất đai không
hiệu quả cũng là những lý do phổ biến nhất cho sự thất thoát rừng ở nhiều khu vực trên
thế giới.
Thực tế cho thấy, nếu chỉ có các biện pháp mệnh lệnh – điều khiển truyền thống như
luật pháp, ký kết công ước thì không thể bảo vệ được diện tích rừng tự nhiên còn lại
của nhân loại, nhất là rừng nhiệt đới tập trung chủ yếu ở các nước đang phát triển. Một
trong những biện pháp quan trọng hiện nay được cả cộng đồng quốc tế cũng như từng
quốc gia đặc biệt quan tâm, đó là cùng với những giải pháp truyền thống trên, cần thiết
lập phương pháp Quản lý rừng bền vững (QLRBV) và cấp Chứng chỉ rừng (CCR). Từ
đó, một tổ chức quốc tế hoạt động độc lập, Hội đồng Chứng chỉ rừng (FSC) được thành
lập năm 1993, với nhiệm vụ thúc đẩy quản lý rừng của thế giới có hiệu quả về kinh tế, xã
hội và môi trường. FSC cung cấp một hệ thống cho việc công nhận tự nguyện và chứng
nhận cho phép người sở hữu chứng chỉ cho thị trường các sản phẩm và dịch vụ của họ
như là kết quả của việc quản lý có trách nhiệm. FSC có bộ tiêu chuẩn cho sự phát triển và
phê duyệt các tiêu chuẩn quản lý quốc tế, phù hợp với từng loại rừng. Dựa trên các tiêu
chuẩn, FSC cung cấp một hệ thống chứng nhận cho các tổ chức để tiếp thị sản phẩm của
họ đó là Chứng chỉ FSC. Với các sản phẩm được FSC công nhận sẽ được thị trường thế
giới chấp nhận với giá cả cao hơn và có thị trường rộng hơn, thậm chí một số thị trường
nếu không có chứng nhận của FSC sẽ không trao đổi được. Cho đến năm 2010, đã có hơn
118,33 triệu ha rừng tại 82 nước được cấp chứng chỉ và có hơn 12.000 cơ sở, vận chuyển,
chế biến sản phẩm gỗ tại 83 quốc gia được cấp Chứng chỉ của FSC quốc tế. Bên cạnh
hình thức “quản lý rừng bền vững” và “cấp chứng chỉ rừng” còn có hình thức quản lý tư
nhân – công cụ kinh tế. Đây là hình thức quản lý thấp nhất về quy mô. Trong đó, mỗi cá
thể là một chủ thể được giao trách nhiệm quản lý chất lượng môi trường ở một khu vực

trong một lĩnh vực nào đó
3
Xuất phát từ việc tối đa hoá hệ quản lý rừng nhà nước đã dẫn đến tình trạng tài
nguyên rừng bị suy thoái. Như sự mất và suy thoái rừng nhiệt đới ở 75 nước đang phát
triển (năm 1980 có 11,3 triệu ha rừng bị mất, năm 1990 mất tới 15,4 triệu ha); đặc biệt
khu vực Đông Nam á có tỷ lệ mất rừng cao nhất là 1,6% năm (tỷ lệ chung của thế giới là
0,8%) (Phạm Hoài Đức, 1997). Và chính sự suy thoái rừng ở các nước đang phát triển đã
phản ánh việc quản lý không có hiệu quả của hệ quản lý rừng nhà nước. Nguyên nhân là
do chưa đủ lực, trang bị về kỹ thuật, thiếu kinh nghiệm, dân số tăng nhanh, thiếu điều
kiện, Thất bại đó là một trong những bài học quan trọng nhất về phát triển trong nửa thế
kỷ qua ở các nước đang phát triển (Bromlay và Cernea, 1989). Từ sự không thành công
của quản lý rừng nhà nước đã dẫn đến người ta hy vọng rằng việc trao quyền quản lý
rừng cho tư nhân là một giải pháp tốt để có thể bảo vệ và phát triển rừng. Quản lý tư nhân
là một loại hình quản lý rừng và đất rừng có hiệu quả, vì chủ thể được xác định rõ ràng,
họ biết chắc chắn sẽ được hưởng lợi những gì trên mảnh rừng đó. Thực tiễn phát triển của
các trang trại trên thế giới trong những năm qua đã minh chứng rõ ràng nhất cho loại hình
quản lý này. Trang trại phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, theo hướng mở rộng diện
tích, sản xuất hàng hoá, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân.
Nhưng nếu quá nhấn mạnh đến hình thức quản lý tư nhân lại dẫn đến những hậu quả
xã hội khác. Như ở Philippin người ta chỉ coi trọng quản lý rừng tư nhân và đã gây nên
hậu quả xã hội: phân hoá giàu nghèo mãnh liệt, Nhà nước mất quyền lợi, không kiểm
soát được hoạt động sản xuất kinh doanh về rừng của tư nhân.
Công cụ cuối cùng mà không chỉ riêng Việt Nam chúng ta mà tất cả các nước trên
thế giới đều rất chú trọng và không thể bỏ qua đó chính là viêc tuyên truyền giáo dục
nâng cao trình độ nhận thức của người dân, bất cứ công cụ gì muốn thành công đều đòi
hỏi phải có sự hợp tác, sự tuân thủ của người dân. Đưa công tác giáo dục bảo vệ môi
trường nói chung và bảo vệ rừng nói riêng vào chương trình giáo dục của các em học
sinh ngay từ khi còn nhỏ. Và để nâng cao nhận thức về bảo tồn cũng như tăng cường
quản lý và phát triển rừng bền vững vì lợi ích của các thế hệ hiện tại và tương lai, Liên
Hợp Quốc đã chính thức tuyên bố năm 2011 là Năm Quốc tế về rừng.

2.2 Thực trạng áp dụng các công cụ quản lý tài nguyên rừng ở Việt Nam
4
Việt Nam cũng như các nước có nền kinh tế đang trong quá trình chuyến đổi, nhu
cầu sử dụng tài nguyên rừng và đất rừng rất lớn, do vậy, tài nguyên rừng đã và đang bị
suy giảm nhiều. Nước ta được xem là nước có diện tích rừng tự nhiên tương đối lớn trong
vùng Đông Nam Á. Theo số liệu của Bộ NN&PTNT, tổng diện tích rừng của cả nước
năm 2010 là 13.258.843 ha, trong đó diện tích rừng tự nhiên là 10.339.305 ha, diện tích
rừng trồng là 2.919.538 ha, độ che phủ là 39,1%. Tuy diện tích rừng có tăng lên trong
những năm gần đây do thực hiện các chương trình trồng rừng, khoanh nuôi xúc tiến tái
sinh tự nhiên nhưng chất lượng rừng vẫn tiếp tục bị suy giảm, do việc khai thác rừng tự
nhiên không đúng quy trình, khai thác bất hợp pháp. Để có thể quản lý tốt tài nguyên
rừng nước ta cũng đã và đang phấn đấu nâng cao hiệu quả của các công cụ quản lý.
• Công cụ mệnh lệnh kiểm soát
* Các văn bản pháp luật
Cho đến năm 2010, nước ta đã có 25 văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến
quản lý rừng bền vững. Trong đó, số văn bản thuộc các cấp ban hành là: Quốc hội: 3,
Chính phủ: 7, Thủ tướng Chính phủ: 5, Bộ NN-PTNT: 10. Các đạo luật lâm nghiệp và
Chiến lược lâm nghiệp quốc gia thể hiện cam kết thực hiện quản lý rừng bền vững. Các
vấn đề về Quản lý rừng bền vững là một yếu tố chủ chốt trong các chính sách, chiến lược
và kế hoạch hành động của nước ta. Điều này được thể hiện trong các văn bản pháp quy
dưới đây:
- Luật đất đai năm 2003
- Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004
- Chương IV - Luật Bảo vệ môi trường năm 2005
- Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020
- Quyết định 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/3/2006 của thủ tướng chính phủ về việc
ban hành quy chế quản lý rừng.
- Thông tư số 56/1999/TT/BNN-KL ngày 30/3/1999 của Bộ nông nghiệp và phát
triển nông thôn về việc hướng dẫn xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng ở địa
phương.

- Văn bản số 455/TTg-NN do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 20/4/2005, đồng
ý cho phép Bộ NN&PTNT lựa chọn, xây dựng, thực hiện mô hình Công ty Lâm nghiệp,
Lâm trường quản lý rừng theo mục tiêu phát triển bền vững.
5
- Quyết định số 178/2001/QĐ – TTg ngày 12/11/2001của Thủ tướng chính phủ về
quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, thuê, nhận khoán rừng và
đất lâm nghiệp.
Và còn có nhiều văn bản pháp luật có lên quan khác nữa. Thực tế thì các văn bản
pháp lý về bảo vệ và phát triển rừng ở nước ta còn chưa rõ ràng, chồng chéo lên nhau, từ
đó làm cho hiệu quả của việc thực hiện các chính sách đề ra chưa cao, vẫn còn rất nhiều
tình trạng sử dụng đất lâm nghiệp không đúng mục đích, chất lượng rừng còn thấp. Tuy
nhiên, theo tổng cục thống kê thì diện tích rừng bị chặt phá đã giảm qua các năm (diện
tích rừng bị chặt phá năm 2008 là 3172,2 ha, năm 2009 là 1563,0 ha và sơ bộ năm 2010
là 1057,4 ha).
* Hương ước bảo vệ rừng
Nước ta quản lý rừng theo hương ước (hay còn gọi là quy ước bảo vệ rừng của công
đồng dân cư thôn, làng, buôn, bản, ấp), theo Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT/BTP-
BVHTT-UBTƯMTTQVN ngày 31/03/2000 của liên Bộ Tư pháp – Bộ Văn hóa Thông
tin – Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về hướng dẫn việc xây dựng và
thực hiện hương ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư. Hương ước do cộng đồng dân
cư cùng thoả thuận đặt ra để điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính tự quản của nhân
dân, là ý chí, nguyện vọng của nhân dân, xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của cộng đồng nên
hương ước có ảnh hưởng mạnh mẽ tới ý thức, hành vi của cộng đồng người dân, hỗ trợ
cho các quy định pháp luật được hoàn thiện và hiệu quả hơn. Hương ước đã và đang đóng
vai trò quan trọng trong việc bảo vệ rừng, góp phần phục hồi những thuần phong mỹ tục,
lối sống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số. Ngoài ra, hương ước còn góp phần giải quyết
các mâu thuẫn, tranh chấp nảy sinh trong nội bộ cộng đồng, phòng chống các tệ nạn xã
hội, tạo điều kiện cho nhân dân có thu nhập chính đáng từ rừng, làm giàu chính đáng theo
quy định của pháp luật và hỗ trợ tích cực trong việc kiểm soát, chấp hành luật pháp.
Hương ước đã được áp dụng ở nhiều nơi như: quảng nam, miền nam trung bộ và đã thành

công trong công tác bảo vệ rừng (ví dụ: Khu rừng Miếu Cấm với diện tích 10ha ở làng
Nghi Sơn, xã Quế Hiệp - Quế Sơn - Quảng Nam và gần 250 ha rừng chủ yếu là keo, bạch
đàn được bảo vệ nghêm ngặt ở xã Quế Hiệp; Rừng Nà với diện tích hơn 350.000 m
2

làng Lương Nông, xã Đức Thạnh - Mộ Đức - Quảng Ngãi …) Tuy nhiên, nhiều quy định
6
trong hương ước không phù hợp với quy định của pháp luật, các quyết định vượt quá
thẩm quyền của cấp xã như: trục xuất người vi phạm ra khỏi cộng đồng, thu hồi rừng nhà
nước đã giao cho người có hành vi vi phạm quy ước bảo vệ rừng, bắt giam người vi phạm
quy ước … Người soạn thảo quy ước không hiểu rõ, không nắm vững luật, trình độ văn
hoá thấp nên chất lượng quy ước bảo vệ rừng không cao.
• Công cụ kinh tế
* Giao, cho thuê, khoán rừng và đất lâm nghiệp
Nước ta đã thực hiện giao, cho thuê, khoán rừng và đất lâm nghiệp cho hộ gia
đình,cá nhân từ năm 1994 (theo nghị định số 02/1994/NĐ-CP ban hành ngày 15 - 01 -
1994) để bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng rừng, nhằm tạo động lực kinh tế khuyến
khích nhân dân tích cực tham gia bảo vệ và phát triển rừng; làm cho thu nhập từ rừng trở
thành một nguồn thu đáng kể, góp phần bảo đảm cuộc sống của những người làm nghề
rừng, đồng thời làm rõ trách nhiệm của người được giao, cho thuê, nhận khoán rừng đối
với việc bảo vệ và phát triển rừng. Các hộ gia đình, cá nhân được quyền hưởng lợi các
sản phẩm trên đất lâm nghiệp như: gỗ, lâm sản ngoài gỗ, sản phẩm trồng xen … theo quy
định nhưng bên cạnh đó, các hộ gia đình, cá nhân cũng phải có trách nhiệm bảo vệ và
phát triển rừng, nộp thuế cho Nhà nước theo Quyết định số 178/2001/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ ra ngày 12/11/2001. Việc giao đất giao rừng cho nhân dân, cho các làng
bản đã tạo điều kiện cho nhân dân phát triển kinh tế không phải bằng nghề khai thác
rừng, mà bằng việc phát triển rừng, bảo vệ rừng và được hưởng lợi từ các sản phẩm tận
dụng của rừng. Cuộc sống của đồng bào được cải thiện và các khu rừng được bảo vệ,
phát triển (theo tổng cục thống kê, diện tích rừng trồng tăng qua các năm, cụ thể: năm
2008 là 200.100 ha, năm 2009 là 243.000 ha và sơ bộ năm 2010 là 252.500 ha). Nhưng

với mức thuế rừng tự nhiên gần như cao nhất đối với khung thuế suất tài nguyên, hơn nữa
còn có sự chênh lệch lớn giữa thuế rừng tự nhiên với thuế rừng trồng (rừng trồng mức
thuế chỉ có 4%, trong khi đó thuế rừng tự nhiên là 10 – 40%, trung bình là 20%) nên đối
với người dân thì việc kinh doanh từ rừng tự nhiên hay kinh doanh rừng trồng không có
gì khác nhau. Thậm chí hiệu quả kinh tế do kinh doanh rừng tự nhiên không thể bằng với
rừng trồng vì rừng tự nhiên có tốc độ sinh trưởng chậm hơn. Vì vậy đã không kích thích
được người dân tham gia vào công tác bảo vệ và phát triển rừng.
7
Việc giao đất, giao rừng hiện nay còn rất nhiều bất cập. Việc giao rừng, đất lâm
nghiệp cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước đang đe doạ nghiêm trọng tới việc bảo
vệ và phát triển rừng ở nước ta. Trong cuộc họp Quốc hội thảo luận ở tổ về việc thực hiện
dự án trồng mới 5 triệu ha rừng toàn quốc (Dự án được Quốc hội phê chuẩn bằng Nghị
quyết số 08/1997/QH10 và được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo thực hiện bằng Quyết
định số 661/QĐ - TTg ngày 29/7/1998), Đại biểu Trần Du Lịch ( TP HCM) khẳng định:”
Trên thực tế, riêng chuyện giao đất cho doanh nghiệp (DN) thì có mấy DN đi trồng rừng?
Đa số người ta khai thác, chuyển qua trồng cao su, cây nọ cây kia. Bao nhiêu đất lâm
nghiệp trồng rừng trên giấy tờ nhưng thực chất DN làm resort. Hầu hết các resort ven núi,
ven rừng toàn là từ giao đất lâm nghiệp. Đó là đất lâm nghiệp giả nhưng vẫn cứ được
thống kê vào báo cáo là đất lâm nghiệp hết!”, và theo số liệu diều tra thực tế thì diện tích
rừng đã giảm ở một số nơi như: Đăk Lăk giảm 6,6%, Bình Phước giảm 10,6% … ĐB Lê
Minh Thông (Thanh Hóa) phản ánh những bức xúc của dư luận, báo chí nêu trong thời
gian qua về việc cho nước ngoài thuê đất, thậm chí cả đất quốc phòng với giá rất thấp,
chẳng khác gì cho không (chỉ 180.000 đồng/ha), với thời hạn kéo dài 50 năm, trong khi
người dân địa phương vẫn có nhu cầu nhận đất để trồng rừng.
Từ thực tế trên cho thấy công tác quản lý rừng hiện nay ở nước ta còn lỏng lẻo, việc
cho thuê rừng và đất lâm nghiệp để vừa bảo vệ, phát triển rừng, vừa phát triển kinh tế
chưa đạt hiệu quả, lợi ích cộng đồng chưa được cao.
* Chi trả dịch vụ hệ sinh thái (PES)
Chi trả dịch vụ hệ sinh thái hay còn gọi là chi trả dịch vụ môi trường (PES) là công
cụ kinh tế, sử dụng để những người được hưởng lợi từ các dịch vụ hệ sinh thái chi trả cho

những người tham gia duy trì, bảo vệ và phát triển các chức năng của hệ sinh thái đó. Cụ
thể: các khu rừng đầu nguồn có tác dụng giữ nước, duy trì chất lượng nước, chống sạt lở
đất và lũ lụt cho hạ lưu … nên những người được hưởng lợi ở hạ lưu cần chi trả một
khoản tương xứng cho những người trực tiếp tham gia duy trì và bảo vệ các chức năng
của rừng đầu nguồn.
Nước ta đã thực hiện thí điểm PES tại 2 tỉnh Lâm Đồng và Sơn La nhưng có ảnh
hưởng thi hành đến nhiều tỉnh thành như Lâm Đồng, Sơn La, Đồng Nai, Ninh Thuận,
Bình Thuận, Hoà Bình và thành phố Hồ Chí Minh với các loại dịch vụ: điều tiết nguồn
8
nước; hạn chế xói mòn, bồi lấp; cảnh quan du lịch. Và mới đây, từ ngày 1/6/2011 PES đã
được áp dụng tại tỉnh Thừa Thiên Huế với mức thu chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng
là 40 đồng/m
3
nước tiêu thụ. PES đã tạo cơ chế khuyến khích và mang lại lợi ích cho
cộng đồng cung cấp dịch vụ hệ sinh thái, nhằm thực hiện xã hội hoá nghề rừng để bảo
vệ, phát triển rừng cùng các hệ sinh thái, tạo nguồn tài chính bền vững cho công tác bảo
tồn đa dạng sinh học, nâng cao ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi tổ chức, cá nhân đối
với sự nghiệp bảo vệ và phát triển rừng.
* Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng (QLRBV & CCR)
Trong thời gian qua do nhu cầu về QLR và tiêu thụ sản phẩm, một số đơn vị tư
nhân, nhất là các đơn vị trồng rừng, khai thác, chế biến gỗ liên doanh hoặc 100% vốn
nước ngoài đã tự xây dựng kế hoạch thực hiện và được cấp Chứng chỉ FSC (Hội đồng
Chứng chỉ rừng (FSC) được thành lập năm 1993, với nhiệm vụ thúc đẩy quản lý rừng của
thế giới có hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường) quốc tế hoặc Chứng chỉ quản lý
rừng tương đương cho đơn vị mình.
QLRBV và CCR đã và đang trở thành một công cụ để quản lý kinh doanh rừng
trong giai đoạn hiện nay. Nước ta đã thực hiện cấp chứng chỉ rừng cho nhiều đơn vị như:
cấp chứng chỉ cho 9,9 ha rừng tại công ty TNHH trồng rừng Quy Nhơn, 6000 ha rừng và
đất lâm nghiệp của Tổng Công ty Giấy Việt Nam (VINAPACO) và đặc biệt đã cấp chứng
chỉ cho nhóm trồng rừng gồm 118 hộ sinh sống tại 5 thôn thuộc hai huyện Gio Linh và

Vĩnh Linh của tỉnh Quảng Trị với diện tích rừng keo được cấp chứng chỉ là 317 ha…
CCR đảm bảo cho việc thu hoạch các sản phẩm gỗ và ngoài gỗ trong khi vẫn duy trì được
tính đa dạng sinh học, năng suất và quá trình sinh thái của rừng, giúp cho người dân địa
phương và toàn xã hội được hưởng lợi ích lâu dài từ rừng, cung cấp các biện pháp
khuyến khích mạnh mẽ để người dân địa phương tuân thủ kế hoạch quản lý rừng dài hạn
và duy trì được tài nguyên rừng. Nhưng việc QLRBV & CCR còn gặp một số khó khăn
như: hệ thống quản lý, các văn bản pháp quy còn kém hiệu quả và chồng chéo lẫn nhau;
Thị phần xanh cho các lâm sản còn rất ít; Chi phí để cấp CCR cao dẫn tới đại đa số các
chủ rừng sẽ đứng ngoài việc cấp CCR do khó khăn về tài chính …
• Tuyên truyền giáo dục cộng đồng
9
Để bảo vệ và phát triển rừng không chỉ phụ thuộc vào công tác quản lý của Nhà
nước mà còn phụ thuộc rất nhiều vào ý thức của con người. Vì vậy, việc tuyên truyền,
giáo dục nhân dân trong việc bảo vệ tài nguyên, môi trường rất quan trọng và cần thực
hiện đầu tiên. Một số hình thức để nâng cao ý thức về bảo vệ rừng như: thành lập các câu
lạc bộ bảo vệ và phát triển rừng ở các trường THPT, tuyên truyền miệng (họp dân), tuyên
truyền trên các phương tiện truyền thông (loa phóng thanh, truyền hình, apphich, tờ rơi,
băng rôn), tuyên truyền thông qua cổ động trực tiếp, tổ chức các hội thi
Năm nay, ngày môi trường thế giới 5/6 được tổ chức với chủ đề “ Rừng: giá trị
cuộc sống từ thiên nhiên” đã cho thấy tầm quan trọng của rừng, đồng thời nâng cao nhận
thức của mọi người về việc bảo vệ rừng, Tuy nhiên, công tác tuyên truyền vẫn vướng
phải một số khó khăn như: kỹ năng tuyên truyền của một số cán bộ còn thiếu và yếu,
trình độ dân trí rất nhiều vùng, nhất là vùng cao còn hạn chế hay nhiều nơi bà con không
hiểu hết tiếng phổ thông. Hình thức tuyên truyền được triển khai nhiều nơi chưa phù hợp
với phong tục, nếp sống của người dân…
2.3 Thực trạng áp dụng các công cụ quản lý ở rừng A Lưới
Để việc quản lý rừng tốt hơn thì bất cứ địa phương nào cũng phải có cách thức quản
lý riêng của mình, và những cách thức quản lý đó đều phải dựa vào đặc điểm địa bàn, dân
cư của từng vùng, theo đó việc quản lý mới có thể thực hiện tốt hơn. Chính quyền
huyện A Lưới cũng đã sử dụng các công cụ để bảo vệ và quản lý rừng trên địa bàn, dưới

đây là một số công cụ đã được áp dụng:
1. Công cụ mệnh lệnh kiểm soát
Đây là phương thức tồn tại rõ nét nhất và có quyền lực cao nhất trong việc ra các
quyết định liên quan đến quản lý rừng trên địa bàn. Đặc điểm của phương thức quản lý
này là thực hiện các chức năng nhiệm vụ quản lý rừng với phương pháp tiếp cận từ trên
xuống và chú trọng chủ yếu đến vấn đề lâm luật, cụ thể là ban hành các văn bản pháp luật
và xây dựng các hương ước bảo vệ rừng.
• Các văn bản pháp luật
UBND huyện đã ban hành các văn bản trong lĩnh vực QLBVR-PCCCR phục vụ kịp
thời cho công tác chỉ đạo điều hành gồm:
10
- Chỉ thị số 01/CT-UBND, ngày 04/01/2010, Về việc tăng cường các biện pháp
trong quản lý nương rẫy, phòng cháy chữa cháy rừng năm 2010;
- Chỉ thị số 30/2010/CT-UBND, ngày 08/10/2010 về tăng cường các biện pháp cấp
bách quản lý, bảo vệ rừng;
- Quyết định 1201/QĐ-UBND, ngày 29/10/2009 của UBND huyện về việc kiện
toàn BCH thực hiện Chỉ thị 12- 08/TTg & Phòng cháy chữa cháy rừng;
- Công văn số 12/UBND-NN, ngày 18/01/2011, về việc tăng cường các biện pháp
trong quản lý nương rẫy, phòng cháy chữa cháy và chống chặt phá rừng;
Với các văn bản pháp luật trên sẽ giúp cho công tác bảo vệ rừng thực hiện dễ hơn,
người dân nghiêm túc hơn trong việc khai thác, bảo vệ và phát triển rừng. Ngoài ra, hình
thức quản lý này còn có ưu điểm là nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cả về kỹ
thuật và hiểu biết lâm luật nên có thể giải quyết tốt những vấn đề chuyên môn như chống
cháy rừng, dự báo và phòng trừ sâu bệnh hại, kỹ thuật tạo giống, xử lý vi phạm lâm luật.
Nhưng phần lớn các trường hợp vi phạm luật bảo vệ rừng, khai thác rừng trái phép, phá
rừng làm nương rẫy đều là dân tộc thiểu số, những hộ gia đình có đời sống kinh tế khó
khăn nên việc xử phạt cũng không có hiệu quả vì họ không có tiền để nộp, khi không có
đất sản xuất thì buộc họ phải phát rừng làm nương rẫy để có cái ăn dẫn tới tình trạng các
cơ quan chức năng rất khó khăn trong việc giải quyết tình trạng phá rừng, khai thác rừng
trái phép trên địa bàn huyện.

• Hương ước bảo vệ rừng
Trên toàn huyện đã xây dựng 41 quy ước bảo vệ rừng cho 41/131 thôn, bản. Trong
năm đã hướng dẫn cho 05 thôn tham gia xây dựng hương ước bảo vệ rừng, nâng số thôn
đã xây dựng hương ước bảo vệ rừng trên toàn huyện lên 41 thôn/131thôn.
Bên cạnh đó, nhà nước còn đưa ra các yêu cầu về việc kiểm tra, xử lý các vi phạm
hành chính liên quan đến việc bảo vệ rừng. Do đó, UBND huyện đã phối hợp với lực
lượng kiểm lâm trên địa bàn huyện triển khai 26 đợt truy quét các tổ chức, cá nhân khai
thác lâm sản trái phép, trong đó có 24 đợt phối hợp với các đơn vị chủ rừng, chính quyền
địa phương, lập biên bản: 46 vụ, lâm sản tịch thu: 9,296 m
3
gỗ, huỷ tại rừng 82,555 m
3
gỗ
xẻ các loại, tịch thu 02 cưa xăng, xử phạt vi phạm hành chính 8.000.000 đồng, thả vào
rừng 65 cá thể động vật các loại, tháo gỡ 1.408 dây bẫy các loại, góp phần hạn chế các
điểm nóng về phá rừng, từng bước lập lại trật tự QLBVR trên địa bàn.
11
2. Công cụ kinh tế
• Triển khai giao rừng tự nhiên
Để quản lý rừng, Nhà nước đã thực hiện chuyển giao đất sản xuất từ rừng cho nhân
dân, giao rừng tự nhiên do UBND xã đang quản lý cho các cộng đồng dân cư thôn có nhu
cầu nhận rừng để quản lý, bảo vệ và hưởng lợi. Đến nay trên địa bàn huyện đã giao rừng
cho 15 cộng đồng và 15 hộ gia đình với diện tích rừng tự nhiên giao là 6.477,20 ha.
Trong năm đã xây dựng xong đề án giao rừng, cho thuê rừng giai đoạn 2010-2014 trình
UBND tỉnh phê duyệt, với diện tích dự kiến giao còn lại trên toàn huyện là 17.705,95ha;.
Bên cạnh đó, UBND huyện A Lưới còn thực hiện đề án giao rừng, cho thuê rừng
giai đoạn 2010-2014. Đến nay (Năm 2011), đã triển khai giao rừng thí điểm cho 03 xã
Phú Vinh, Đông Sơn và Hồng Thái với diện tích giao khoảng 1.000 ha.
• Khoán quản lý bảo vệ rừng
Đối với bảo vệ rừng trồng và rừng tự nhiên, trong năm 2010 đơn vị đã giao khoán

cho các hộ dân trên địa bàn bảo vệ với diện tích 2.987,9 ha, với tổng số vốn 299.089.000
đồng.
Các công cụ kinh tế được áp dụng để quản lý rừng A Lưới chủ yếu là hình thức giao
khoán cho các hộ gia đình quản lý nên tỏ ra khá hiệu quả vì các hộ gia đình sẽ giám sát
chặt chẽ với trách nhiệm cao do ý thức được đó là tài sản của họ. Nhưng bên cạnh đó vẫn
còn nhiều vấn đề bất cập, gần 100ha rừng trồng tái sinh ở huyện A Lưới đã bị người dân
tự ý chặt trụi để lấy gỗ và làm rẫy trước sự bất lực của cơ quan chức năng. Tình trạng
người dân chặt, đốt phá rừng tại tiểu khu 321(nơi giáp ranh giữa xã Hương Nguyên và xã
Hồng Tiến) đã diễn ra từ cuối năm 2010 đến nay, khi xã có chủ trương xin chuyển đổi
giao rừng cho người dân thôn Ta Rá quản lý, số diện tích rừng bị đốt phá đã hơn 30ha.
Tình trạng phá rừng này vẫn đang tiếp diễn trong khi các cơ quan chức năng vẫn chưa có
hướng giải quyết hiệu quả.
• Bên cạnh đó, Nhà nước còn triển khai các dự án nhằm bảo vệ và phát triển rừng trồng
Dự án 147
Thực hiện dự án 147 với giai đoạn 2010-2015: Tham gia chỉ đạo 06 xã gồm: Hồng
Thủy, Hồng Vân, Hồng Trung, Bắc Sơn, Hồng Hạ và Hương Nguyên, với 1.310 ha.
Trong đó:
12
- Trồng rừng tập trung: 800 ha;
- Trồng rừng thí điểm: 200 ha;
- Trồng rừng phân tán: 250 ha;
- Vườn ươm 4 vườn.
Dự án 661
Năm 2011 dự án 661 đã kết thúc, nhằm thực hiện tốt các hạng mục công trình lâm
sinh dở dang. Hiện nay đơn vị đã đề nghị tỉnh tiếp tục đầu tư để phát triển rừng bền vững
cho 3 công trình: Chăm sóc, KNXTTS và BVR:
* Bảo vệ rừng 3.000 ha
* Chăm sóc rừng 115 ha rừng trồng
* Khoanh nuôi tái sinh bảo vệ .1590 ha
 Nhận xét

Tóm lại, qua việc xem xét phân tích các loại hình công cụ để quản lý rừng như trên
thì nhóm chúng em đã rút ra được công cụ kinh tế là công cụ quản lý hiệu quả nhất với
phương thức quản lý rừng cộng đồng là chủ yếu. So với trước đây, rừng được nhà nước
quản lý một cách tổng thể thì hình thức giao, khoán cho cộng đồng quản lý, khai thác,
hưởng lợi tỏ ra rất thiết thực và hiệu quả hơn nhiều. Cộng đồng được nhà nước giao rừng,
cấp sổ đỏ (họ được công nhận là chủ rừng) nên họ luôn có các biện pháp tốt nhất để quản
lý rừng. Chẳng hạn như: xây dựng quy ước bảo vệ rừng, tổ chức khai thác hợp lý nên
tránh được tình trạng chặt phá rừng bừa bãi, vô tội vạ như trước đây, công tác phòng cháy
chữa cháy rừng đảm bảo diện tích rừng cần bảo vệ hàng năm được giữ vững và phát
triển ổn định. Thực tiễn cho thấy thời gian qua mô hình quản lý rừng cộng đồng đã đạt
kết quả khả quan, thành công của mô hình đã khẳng định hình thức quản lý rừng cộng
đồng thôn, bản là một trong những hình thức quản lý rừng có hiệu quả phù hợp với điều
kiện các địa phương ở nước ta nói chung và huyện A Lưới nói riêng.
3. Tuyên truyền – giáo dục
Công tác tuyên truyền vận động nhân dân tham gia BVR là việc làm thường xuyên
ở mọi lúc, mọi nơi, mọi đối tượng và ở rừng A Lưới đã thực hiện các hoạt động như:
- Tổ chức họp dân tuyên truyền các văn bản liên quan đến công tác QLBVR-
PCCCR cho các cộng đồng dân cư trên địa bàn;
13
- Tổ chức tuyên truyền lưu động 03 đợt vào thời gian cao điểm nắng nóng; Xây
dựng đĩa tuyên truyền để phát ở loa phóng thanh của 21 xã thị trấn vào thời điểm nắng
nóng kéo dài, có nguy cơ cháy rừng cao.
- Xây dựng nội dung chương trình và phối hợp với các cơ quan như Phòng Giáo
dục, huyện đoàn. Tổ chức hội thi tìm hiểu công tác QLBVR trên địa bàn Huyện cho đối
tượng là các em học sinh khối THCS thuộc 04 trường Thị trấn, Hồng Thượng, Hồng
Quảng và trường THCS Hương Lâm, thu hút trên 400 lượt học sinh tham gia.
- Cấp phát 1.675 Poster tuyên truyền các loại cho quần chúng nhân dân ở các vùng
trọng điểm về khai thác lâm sản trái phép, khu vực thường xảy ra cháy rừng;
- Tổ chức tập huấn công tác PCCCR cho lực lượng dân quân tự vệ xã Nhâm, Hồng
Thái với 50 người tham gia, tổ chức diễn tập chữa cháy rừng cho 100 người là lực lượng

dân quân tự vệ xã Hồng Hạ và Hương Nguyên;
- Tổ chức cán bộ đến tận thôn bản để vận động thực hiện Luật bảo vệ và Phát triển
rừng, làm cam kết với các tổ chức và nhân dân sống gần rừng về công tác QLBVR-
PCCCR.
Việc tuyên truyền ngày càng sâu rộng trong quần chúng nhân dân với nhiều hình
thức đã làm cho nhận thức của phần lớn người dân nơi đây về công tác QLBVR -
PCCCR ngày một nâng lên, đặc biệt là đã thu hút được sự quan tâm của học sinh làm cho
ý thức về bảo vệ rừng ngày càng chuyển biến tích cực hơn.Bên cạnh đó, lực lượng BVR
nói chung và kiểm lâm nói riêng đã được đào tạo tốt về chuyên môn nghiệp vụ, nắm bắt
nhanh thực tiễn góp phần bảo vệ và phát triển rừng ngày càng tốt hơn. Tuy nhiên, trình
độ nhận thức của một số người dân còn hạn chế và vì công cuộc mưu sinh nên người dân
vẫn liều lĩnh khai thác rừng trái phép đã làm ảnh hưởng tới việc bảo vệ, phát triển rừng
của địa phương.
2.4 Thuận lợi, khó khăn khi áp dụng công cụ
2.4.1 Mệnh lệnh kiểm soát
 Thuận lợi
- Được sự chỉ đạo của Sở NN và PTNT Tỉnh Thừa Thiên Huế, Thường vụ Huyện
Uỷ, UBND Huyện
14
- Đội ngũ cán bộ kiểm lâm có trình độ về chuyên môn và hiểu biết về lâm luật nên
dễ dàng áp dụng luật và hướng dẫn người dân thực hiện theo luật.
- Lực lượng Kiểm lâm địa bàn đã bám sát địa bàn, tham mưu kịp thời cho Chủ tịch
UBND xã, thị trấn trong lĩnh vực lâm nghiệp.
 Khó khăn
- Quyền hạn xử lý còn thấp.
- Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn cấp huyện chưa được phân
chia rõ ràng.
- Hạn chế về nguồn nhân lực và tài chính.
2.4.2 Công cụ kinh tế
 Thuận lợi

- Quá trình thực hiện nhiệm vụ được sự quan tâm của các Ban ngành: Chi cục Lâm
nghiệp, Hạt Kiểm lâm A Lưới , cũng như chính quyền địa phương và các Phòng Ban đã
tạo điều kiện cả về vật chất lẫn tinh thần
- Đã có sự phối kết hợp khá nhịp nhàng giữa các cơ quan liên quan gồm: Kiểm lâm,
chủ rừng, công an, quân sự, biên phòng và chính quyền địa phương trong việc hạn chế
bùng phát các điểm nóng.
- Quá trình thực hiện các dự án (661, 147) đã được đại bộ phận người dân địa
phương nhiệt tình tham gia, cùng với sự nhiệt tình, trách nhiệm của Lãnh đạo và cán bộ
nhân viên của ban quản lý rừng phòng hộ A Lưới nhằm quyết tâm thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ.
 Khó khăn
- Năng lực quản lý của cán bộ thôn còn hạn chế, thiếu đội ngũ đào tạo;
- Các chủ rừng là hộ gia đình cá nhân, cộng đồng dân cư thôn được giao rừng chưa
quán xuyến được các lâm phần được giao để quản lý (lâm phần rừng tự nhiên) còn để
tình trạng khai thác gỗ trái phép xảy ra. Thiếu phương tiện, không có kinh phi hỗ trợ
trong BVR.
- Kiểm lâm được phân công về địa bàn một số còn gặp nhiều hạn chế về kỹ năng
giao tiếp, khả năng làm việc độc lập do chưa thành thạo tiếng và hiểu biết nhiều văn hoá
15
của người đồng bào dân tộc thiểu số mặt khác chính quyền cấp xã chưa thực sự sử dụng
kiểm lâm địa bàn có hiệu quả, chưa tạo điều kiện về nơi ăn ở, làm việc cho KLĐB.
2.4.3 Tuyên truyền giáo dục
 Thuận lợi
- Cơ sở vật chất phục vụ công tác quản lý bảo vệ rừng được đầu tư trang bị chu đáo
nhất là các phương tiện sử dụng để tuyên truyền tạo điều kiện cho việc tuyên truyền được
thuận lợi và dễ dàng hơn.
 Khó khăn
• Áp lực dân số ngày một gia tăng, đời sống của người dân gần rừng, ven rừng gặp
nhiều khó khăn, một số bộ phận người dân còn sống chủ yếu vào việc khai thác tài
nguyên rừng, nhận thức bảo vệ rừng của người dân còn hạn chế nên vẫn còn tiếp tục vào

rừng kiếm kế sinh nhai, lấn chiếm đất lâm nghiệp để canh tác.
• Dân cư sống trong vùng đại bộ phận là đồng bào dân tộc ít người, nhận thức kém,
thiếu hiểu biết về những chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong vấn đề bảo
vệ và Phát triển rừng.
• Bên cạnh đó, huyện A Lưới là một huyện miền núi, điều kiện cơ sở vật chất còn
khó khăn, số lượng loa phóng thanh còn hạn chế nay lại rất nhiều loa bị hỏng nên không
thể tuyên truyền sâu rộng, liên tục trong nhân dân.
Năng lực của cán bộ đội ngũ làm công tác truyền thông, cán bộ thôn, xã vẫn còn hạn chế.
2.5 Giải pháp cho các công cụ được áp dụng ở rừng A Lưới
 Giải pháp cho công cụ mệnh lệnh – điều khiển
- Tăng cường thực hiện theo quy chế đã được UBND các xã, thị trấn ban hành về
việc phối hợp giữa lực lượng kiểm lâm, công an xã và lực lượng dân quân tự vệ trong
công tác bảo vệ rừng.
- Thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc thi hành Luật bảo vệ và Phát triển rừng.
- Tăng cường chỉ đạo KLĐB thực hiện đúng quy chế hoạt động theo Quyết định số
414/QĐ-KL, ngày 28/10/2009 của Chi cục Kiểm lâm TT.Huế và thực hiện tốt nhiệm vụ
KLĐB xã được quy định tại Quyết định số 83/2007/QĐ-BNN ngày 04/10/2007 của Bộ
NN&PTNT;
- Kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy chế công vụ, đạo đức nghề nghiệp;
16
- Tranh thủ sự chỉ đạo của các ban ngành cấp tỉnh, Sở Nông nghiệp và PTNT, Chi
cục Kiểm lâm, Thường vụ Huyện uỷ. Kịp thời báo cáo những khó khăn, vướng mắc lên
cấp trên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ để xin ý kiến chỉ đạo kịp thời.
 Giải pháp cho công cụ kinh tế
- Xử lý nghiêm minh trường hợp các chủ rừng, các tổ chức, cá nhân được Nhà nước
giao đất, giao rừng để sản xuất kinh doanh để xảy ra khai thác trái phép, mua bán vận
chuyển lâm sản và sử dụng rừng sai mục đích làm ảnh hưởng đến tài nguyên rừng.
- Nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ viên chức nhằm đẩy mạnh
hiệu quả công việc.
- Kêu gọi các Dự án trong và ngoài nước đầu tư vào để tạo điều kiện nâng cao năng

lực công tác, đẩy mạnh hiệu quả quản lý rừng.
 Giải pháp cho công cụ tuyên truyền – giáo dục
- Tăng cường hơn nữa việc tổ chức các hoạt động tuyên truyền để nâng cao nhận
thức của người dân sống gần, ven, trong rừng trong công tác QLBVR-QLLS
- Tiếp tục tổ chức các đợt tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ viên chức Ban
Quản lý.
- Công tác tuyên truyền vận động nhân dân tham gia BVR phải thường xuyên ở mọi
lúc, mọi nơi và cho mọi đối tượng. Việc tuyên truyền thường xuyên phải được lồng ghép
vào các cuộc họp thôn bản, trên nhiều phương tiện, loại hình.
- Cần chú trọng tuyên truyền cho đối tượng là học sinh để việc tuyên truyền đảm
bảo tính chiến lược lâu dài.
- Thường xuyên tổ chức các cuộc thi tìm hiểu công tác QLBVR-PCCCR một cách
thiết thực, hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tế, tránh phô trương, hình thức.
 Bên cạnh đó còn có các giải pháp nhằm quản lý và bảo vệ rừng tốt hơn như:
- Khuyến khích người dân xây dựng mô hình rừng hỗn hợp, phát triển mẫu RVAC
Cần khuyến khích các hộ gia đình phát triển kinh tế theo RVAC, xây dựng mô hình
rừng hỗn hợp nhằm vừa phát triển kinh tế vừa tăng độ che phủ rừng. Cần có hỗ trợ giống
để người dân đầu tư lao động trồng rừng trên đất lâm nghiệp được giao ổn định lâu dài và
hưởng toàn bộ sản phẩm khai thác được.
- Về công tác quản lý
17
Tiếp tục đổi mới hệ thống quản lý ngành lâm nghiệp để đáp ứng nhu cầu cho công
tác quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng. Nhanh chóng xã hội hóa hoạt động lâm nghiệp
theo phương thức tiếp cận dựa vào cộng đồng, trong đó mọi người dân đều có thể tham
gia vào các hoạt động sản xuất lâm nghiệp, nông lâm kết hợp, từ đó sẽ tạo đòn bẩy thúc
đẩy sự tham gia của người dân vào các hoạt động quản lý và bảo vệ rừng. Đó được xem
như chính sách huy động tổng lực sức dân cho công tác bảo vệ rừng. Cần phải có sự tham
gia tích cực của các doanh nghiệp với vai trò là bà đỡ cho các hoạt động sản xuất lâm
nghiệp, nông lâm kết hợp cùng với các ngành như: khuyến nông khuyến lâm, các tổ chức
đoàn thể như thanh niên, phụ nữ, nông dân.

- Về tổ chức thực hiện
Xây dựng và duy trì hoạt động của các tổ đội quần chúng bảo vệ rừng tại các địa
phương. Có chính sách khen thưởng và động viên kịp thời đối với các tổ chức, cá nhân
làm tốt công tác bảo vệ rừng.
3. Kết luận
Để thực hiện tốt công tác quản lý và bảo vệ rừng A Lưới thì Nhà nước và chính
quyền địa phương cần quan tâm, chỉ đạo, đi sâu vào thực tiễn hơn nữa. Ngoài việc áp
dụng các công cụ quản lý rừng đã có thì Ban quản lý cũng như chính quyền các cấp cần
nghiên cứu, đưa các công cụ quản lý mới tiên tiến hơn, đã thành công ở nhiều nơi áp
dụng vào rừng A Lưới để nâng cao hiệu quả quản lý và bảo vệ rừng. Bên cạnh đó, để cho
công cụ quản lý phát huy tác dụng thì cần thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý
vi phạm cũng như tuyên tuyền giáo dục nhằm tránh các trường hợp vi phạm và giúp
người dân nhận thức sâu sắc hơn về tầm quan trọng của rừng đối với cuộc sống của con
người.
18
Tài liệu tham khảo
-
-
tay/141/7153669.epi
-
-
GiaoDien=9&ChucNang=153&NewsID=20110615090805
-
-
%A9ng-ch%E1%BB%89-r%E1%BB%ABng-th%E1%BA%BF-gi%E1%BB
%9Bi
19
-
html
-

- Báo cáo tổng kết công tác kiểm lâm năm 2010 và triền khai nhiệm vụ năm
2011 của hạt kiểm lâm huyện A Lưới.
- Báo cáo tổng kết nhiệm vụ năm 2010 – kế hoạch và giải pháp thực hiện năm
2011 của ban quản lý rừng phòng hộ A Lưới.
- Báo cáo tổng kết công tác quản lý bảo vệ rừng – phòng cháy chữa cháy rừng
2010 – triển khai nhiệm vụ năm 2011 của UBND huyện A Lưới.
- Giáo trình “Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế” của Trần Thanh Lâm
nhà xuất bản lao động Hà Nội 2006.
20

×