Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận triết Tư tưởng triết học pháp gia và những giá trị hạn chế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.84 KB, 17 trang )

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Tên đề tài:
Tên đề tài:


GVHD:
GVHD:




TS. Bùi Văn Mưa
TS. Bùi Văn Mưa


Lớp:
Lớp:




CHKT K21 – Đêm 5
CHKT K21 – Đêm 5


Nhóm:
Nhóm:


04


04
HVTH:
HVTH:


Lê Hoàng Thu Dung
Lê Hoàng Thu Dung
TP. Hồ Chí Minh, tháng 2 năm 2012
TP. Hồ Chí Minh, tháng 2 năm 2012
Tiểu luận Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
1.2.1Những tư tưởng trước Hàn Phi 3
1.2.2Tư tưởng của Hàn Phi 5
Chương 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ 12
2.1Những giá trị của tư tưởng triết học Pháp gia 12
2.2Những hạn chế của tư tưởng triết học Pháp gia 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………… 16
Tiểu luận Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
MỞ ĐẦU
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia mà đại biểu
xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước
và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc.
Hàn Phi (280 – 233 TCN) chính là người tập đại thành tư tưởng Pháp gia.
Ông đã tiếp thu điểm ưu trội của ba trường pháp “pháp”, “thuật”, “thế” để xây dựng
và phát triển một hệ thống lý luận pháp trị tương đối hoàn chỉnh và tiến bộ so với
đương thời. Hàn Phi coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để đem lại hòa bình, ổn định
và công bằng, ông cũng chính là người đã đề xuất tư tưởng dùng luật pháp để trị
nước. Có thể nói “Hàn Phi Tử” là một bộ sách chính trị học vĩ đại và học thuyết
chính trị của ông được người xưa gọi là “học thuyết của đế vương”, chính những

điều này đã tạo nên dòng cảm xúc và những ấn tượng sâu sắc cho tôi khi viết đề tài
này.
Xin chân thành gửi lời cảm ơn đến các thầy cô khoa lý luận chính trị, tiểu
ban triết học, trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh đặc biệt là Thầy TS.
Bùi Văn Mưa (chủ biên bộ tài liệu Triết học, phần I – Đại Cương về lịch sử triết
học, tài liệu do PGS.TS Doãn Chính chủ biên Từ điển Triết học Trung Quốc, GS
Nguyễn Đăng Thục biên soạn Lịch sử Triết học Phương Đông, tác giả Phùng Hữu
Lan với Lịch sử Triết học Trung Quốc – Tập 1: Thời Đại Tử Học, tác giả Nguyễn
Thị Kim Bình (Đại học Đà Nẵng) tài liệu về Tư tưởng trị nước của Pháp gia và vai
trò của nó trong lịch sử như là những nguồn tài liệu chính giúp tôi hoàn thành bài
tiểu luận này.
Nhiệm vụ của đề tài nhằm làm rõ những giá trị và xem xét các mặt còn hạn
chế của tư tưởng Pháp gia. Do đó, nội dung chính của bài tiểu luận sẽ xoay quanh
việc xác định nội dung chính của tư tưởng Pháp gia, vai trò, tầm quan trọng cũng
như những ảnh hưởng của sự ra đời của tư tưởng triết học Pháp gia.
HV: Lê Hoàng Thu Dung 1
Tiểu luận Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
Chương 1 : NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
PHÁP GIA
1.1 Khái quát sự hình thành của phái pháp gia
Vào thời Xuân Thu, Quản Trọng (? – 645 TCN) là người nước Tề, vốn xuất
thân từ giới bình dân nhưng rất có tài chính trị, được coi là người đầu tiên bàn về
vai trò của pháp luật như là phương cách trị nước. Tư tưởng về pháp trị của Quản
Trọng được ghi trong bộ Quản Tử, bao gồm 4 điểm chủ yếu sau: luật, lệnh, hình,
chính. Trong khi đề cao luật pháp, cần chú trọng đến đạo đức, lễ, nghĩa, liêm
trong phép trị nước. Như vậy có thể thấy rằng Quản Trọng chính là thủy tổ của
Pháp gia, đồng thời ông cũng là cầu nối Nho gia với Pháp gia.
Sang nửa đầu thời Chiến quốc, tư tưởng pháp trị được phát triển bởi ba nhà
Pháp gia: Thận Đáo (370 – 290 TCN) chủ trương dùng "Thế" làm yếu tố trọng yếu
trong việc cai trị đất nước, Thân Bất Hại (401 – 337 TCN) chủ trương dùng "Thuật"

là yếu tố trọng yếu nhất và Thương Ưởng (390 – 338 TCN) thì lại nhấn mạnh "
Pháp ".
Cuối thời chiến quốc, Hàn Phi (280 – 233 TCN) đã kết hợp các học thuyết
Nho, Lão, Pháp lại với nhau, ngoài ra ông còn trình bày tư tưởng của Pháp gia trong
tác phẩm "Hàn Phi Tử" khoảng 35 thiên. Trong tác phẩm này đã tổng hợp ba quan
điểm về pháp, thế, thuật một cách hệ thống, Hàn Phi Tử đồng ý rằng cả ba yếu tố
"Thế, Pháp, Thuật " đều cần thiết đối với chính trị và chính quyền và chúng có tác
động mật thiết với nhau.
Chính vì có tư tưởng này của Hàn Phi Tử mà Tần Thủy Hoàng đã thống nhất
được thiên hạ, "Âm Pháp, dương Nho, lấy Đạo hỗ trợ" là chủ lưu văn hóa chính trị
Trung Hoa. Có thể nói Pháp gia là một trong "Bách gia chư tử" của Trung Hoa cổ
đại.
Để hiểu một cách tương đối có hệ thống về đường lối trị nước của phái Pháp
gia chúng ta cần tìm hiểu các tư tưởng cơ bản của các nhà pháp trị trong nửa đầu
thời Chiến quốc về sự cần thiết của đường lối Pháp trị trong việc cai trị đất nước.
HV: Lê Hoàng Thu Dung 2
Tiểu luận Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
1.2 Những tư tưởng cơ bản Triết học Pháp gia
1.2.1 Những tư tưởng trước Hàn Phi
Nho, Mặc, Lão, Trang có tư tưởng chính trị riêng và bất đồng, nhưng cùng
giống nhau ở quan điểm lấy dân chúng làm cơ sở để luận bàn chính trị. Còn một
nhóm nhà tư tưởng chuyên lấy vua hay quốc gia làm cơ sở mà luận bàn chính trị, và
được người đương thời gọi là pháp thuật chi sĩ (các nhà pháp, thuật) mà thiên Cô
Phẫn trong Hàn Phi Tử đã nhắc đến, còn người đời Hán gọi là Pháp gia. Học thuyết
Pháp gia thịnh hành ở nước Tề và Tấn; nguyên vì Tề Hoàn Công (685 - 643 TCN)
và Tấn Văn Công (635 - 628 TCN) đều đã là bá chủ một thời, nhờ sự tiến bộ và cải
cách chính trị hiệu quả, do nhạy bén và nắm bắt được xu thế hiện thực chính trị
cùng lý luận hoá thời bấy giờ, mà hình thành nên một học phái mới vậy. Pháp gia
có ba phái: trọng thế, trọng thuật, trọng pháp.
 Phái trọng thế

"Thế" trước hết là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm quyền mà trước
hết là của nhà vua. "Thế" có vị trí quan trọng đến mức có thể thay thế được hiền
nhân: "Chỉ có bậc hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò
của bậc hiền vậy Kiệt làm thiên tử chế ngự được thiên hạ không phải vì hiền mà
vì có quyền thế. Nghiêu thất phu không trị nổi ba nhà không phải vì hiền mà vì địa
vị thấp" [2;348]. "Thế" không chỉ là địa vị, quyền hành của vua mà còn là sức mạnh
của dân, của đất nước, của vận nước (xu thế lịch sử). "Thế" là yếu tố không thể
thiếu được trong pháp trị. Pháp gia cho rằng muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch
và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành thì nhà vua phải có "Thế".
Một đại biểu của phái Pháp gia là Thận Đáo (370-290 TCN), ông là người
nước Triệu và chịu ảnh hưởng một số tư tưởng triết học về đạo của Lão Tử, nhưng
về chính trị ông lại đề xướng đường lối trị nước bằng pháp luật. Thận Đáo cho rằng
Pháp luật phải khách quan như vật "vô vi" và điều đó loại trừ thiên kiến chủ quan,
riêng tư của người cầm quyền. Phải nói rằng đây là một tư tưởng khá tiến bộ mà sau
này Hàn Phi đã tiếp thu và hoàn thiện. Trong phép trị nước, đặc biệt Thận Đáo đề
cao vai trò của "Thế". Nghiêu hồi còn làm dân thường thì không trị được ba người
mà Kiệt khi làm thiên tử có thể làm loạn cả thiên hạ, do đó biết rằng quyền thế và
HV: Lê Hoàng Thu Dung 3
Tiểu luận Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
địa vị đủ để nhờ cậy được mà bậc hiền, trí không đủ cho ta hâm mộ. Cây ná yếu mà
bắn được mũi tên lên cao là nhờ sức gió đưa đi, kẻ bất tiếu mà lệnh ban ra được thi
hành là nhờ sức giúp đỡ của quần chúng, do đó mà xét thì hiền và trí không đủ cho
đám đông phục tùng, mà quyền thế và địa vị đủ khuất phục được người hiền"
[2;337].
 Phái trọng thuật
"Thuật" là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong việc tuyển
người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc, giúp pháp luật được thực
hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". “Nhiệm vụ chủ yếu của "Thuật" cai
trị là phân biệt rõ ràng những quan lại trung thành, tận tâm và những quan lại xu
nịnh ma giáo, thử năng lực của họ, kiểm tra công trạng và những sai lầm của họ với

mục đích tăng cường bộ máy cai trị trên cơ sở bộ máy luật pháp và chế độ chuyên
chế" [2;349].
"Thuật" còn thể hiện trong "thuật dùng người". Pháp gia đưa ra nguyên tắc
cơ bản của thuật dùng người là: "Chính danh", "Hình danh", "Thực danh". Chẳng
hạn một người hứa đến thăm ta thì lời hứa đó là "Danh" còn hành động tới thăm là
"Hình" hay "Thực" vậy. Nếu người đó đến thăm thực thì chứng tỏ "danh", "hình"
(hay "danh" và "thực") hợp nhau, "danh" và "thực" hợp nhau là "chính danh", còn
"danh" và "thực" không hợp nhau là trái, là không "chính danh" từ đó sẽ có căn cứ
mà thưởng phạt một cách nghiêm minh. "Thuật" phải nắm được cái cốt yếu là lấy
danh làm đầu, danh chính thì vật định, danh lệch thì vật đổi. Vua nắm lấy danh, còn
bề tôi làm ra hình. Nếu hình và danh so sánh giống nhau thì trên dưới hòa điệu. Mọi
người trong xã hội đều nhất nhất phải làm tròn bổn phận, chức vụ của mình, không
có ai dám làm trái hay làm quá danh phận đã định. Để chọn đúng người trao đúng
việc thì vua phải biết dùng "Thuật". "Bề tôi tỏ lời muốn làm việc gì thì vua theo lời
mà trao việc, cứ theo việc mà trách công. Công xứng việc, việc xứng lời thì thưởng.
Công không xứng việc thì phạt" [2;350].
Thân Bất Hại (401 - 337 TCN), là người nước Trịnh chuyên học về hình
danh, làm quan đến bậc tướng quốc. “Thân Bất Hại vốn theo học đạo Lão tử, nhưng
lại rất chú trọng đến hình danh, luật pháp, nhất là “thuật” trị nước” [2;330]. Ông
HV: Lê Hoàng Thu Dung 4
Tiểu luận Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
chính là người đưa ra chủ trương ly khai "Đạo đức" chống "Lễ" và đề cao "Thuật"
trong phép trị nước. Thân Bất Hại cho rằng "Thuật" là cái “bí hiểm" của vua, theo
đó nhà vua không được lộ ra cho kẻ bề tôi biết là vua sáng suốt hay không, biết
nhiều hay biết ít, yêu hay ghét mình bởi điều đó sẽ khiến bề tôi không thể đề
phòng, nói dối và lừa gạt nhà vua.
 Phái trọng pháp
Trong tư tưởng Trung Quốc cổ đại, "Pháp" là phạm trù triết học được hiểu
theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là chế độ chính trị xã
hội của đất nước; theo nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật lệ, những luật lệ

mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương.
Cùng thời với Thận Đáo, có một người cũng nêu cao tư tưởng Pháp trị, đó là
Thương Ưởng. Ông đã hai lần giúp vua Tần cải cách pháp luật hành chính và kinh
tế làm cho nước Tần trở nên hùng mạnh. Trong phép trị nước Thương Ưởng đề cao
"pháp" theo nguyên tắc "Dĩ hình khử hình" (dùng hình phạt để trừ bỏ hình phạm).
Theo ông pháp luật phải nghiêm và ban bố cho dân ai cũng biết, kẻ trên người dưới
đều phải thi hành, ai có tội thì phạt và phạt cho thật nặng. Trong chính sách thực
tiễn, Thương Ưởng chủ trương: Tổ chức liên gia và cáo gian lẫn nhau, khuyến
khích khai hoang, cày cấy, nuôi tằm, dệt lụa, thưởng người có công, phạt người
phạm tội. Đối với quý tộc mà không có công thì sẽ hạ xuống làm người thường dân.
Ông cũng là người đã thực hiện cải cách luật pháp, thi hành một thứ thuế thống
nhất, dụng cụ đo lường thống nhất nhờ đó chỉ sau một thời gian ngắn, nước Tần
đã mạnh hẳn lên và lần lượt thôn tính được nhiều nước khác.
1.2.2 Tư tưởng của Hàn Phi
Cuối thời chiến quốc, Hàn Phi (280 – 233 TCN), là một vị công tử, vương
thất nhà Hàn ở miền Tây tỉnh Hà Nam bây giờ. “Hàn Phi cùng với Lý Tư học ở
Tuân Khanh, Tư tự coi không bằng Phi” [3;331]. Cũng như Tuân Tử, ông cho rằng
bản tính con người ta là ác nhưng lại khác thầy, không chủ trương dùng lễ nghĩa,
đạo đức để cải biến con người, mà dùng hình pháp để trị nước, yên dân. Ông dâng
thư bày tỏ cách trị nước cho vua Hàn, nhưng vua Hàn không nghe. Vua Tần khi đọc
sách của Hàn Phi, tỏ ý rất ngưỡng mộ đã trọng dụng ông. Lý Tư đang làm tể tướng
HV: Lê Hoàng Thu Dung 5
Tiểu luận Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
nước Tần, biết Hàn Phi vốn tài hơn mình, đã dèm pha với vua Tần bắt Hàn Phi bỏ
ngục và ép uống thuốc độc chết trong ngục năm 233 TCN.
Hàn Phi có tật nói lắp, nhưng là một nhà tư tưởng, nhà văn có tài. Theo “Hán
thư, Nghệ văn chí” ông đã viết một cuốn sách gồm 35 thiên, khoảng hơn 10 vạn từ,
có tên là “Hàn Phi Tử”, trong đó biểu hiện cơ bản của ông về thời thế, lịch sử xã
hội, đạo đức và hình pháp – đỉnh cao của lý luận về luật pháp của Pháp gia.
Hàn Phi là người có công tổng kết và hoàn thiện tư tưởng trị nước của pháp

gia. Trước hết Hàn Phi đề cao vai trò của pháp trị. Theo ông, thời thế hoàn cảnh đã
thay đổi thì phép trị nước không thể viện dẫn theo "đạo đức" của Nho gia, "Kiêm
ái" của Mặc gia, "Vô vi nhi trị" của Đạo gia như trước nữa mà cần phải dùng Pháp
trị. Hàn Phi đưa ra quan điểm tiến hóa về lịch sử, ông cho rằng lịch sử xã hội luôn
trong quá trình tiến hoá và trong mỗi thời kỳ lịch sử thì mỗi xã hội có những đặc
điểm dấu ấn riêng. Do vậy, không có một phương pháp cai trị vĩnh viễn, cũng như
không có một thứ pháp luật luôn luôn đúng trong hệ thống chính trị tồn tại hàng
ngàn năm. Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng pháp gia thành một
đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy giờ.
 Sự trọng yếu của Pháp luật
Hàn Phi đã tiếp thu điểm ưu trội của ba trường pháp “pháp”, “thuật”, “thế”
để xây dựng và phát triển một hệ thống lý luận pháp trị tương đối hoàn chỉnh và tiến
bộ so với đương thời. Coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để đem lại hòa bình, ổn
định và công bằng, Hàn Phi đã đề xuất tư tưởng dùng luật pháp để trị nước. Ông
đưa ra một số nguyên tắc cơ bản trong xây dựng và thực thi pháp luật, như pháp luật
phải nghiêm minh, không phân biệt sang hèn, mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật Với những tư tưởng đó, học thuyết của Hàn Phi được người xưa gọi là “học
thuyết của đế vương”.
“Pháp” là một phạm trù của triết học Trung Quốc cổ đại, có thể hiện theo
nghĩa hẹp, là luật lệ, quy định, là điều luật, hiến lệnh có tính chất khuôn mẫu mà
mọi người không phân biệt vua tôi, trên dưới, sang hèn đều phải tuân thủ; theo
nghĩa rộng, pháp có thể hiểu như là thể chế, chế độ xã hội.
HV: Lê Hoàng Thu Dung 6
Tiểu luận Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
“Pháp” là tiêu chuẩn, căn cứ khách quan để định rõ danh phận, tỏ rõ thị phi,
phân rõ tốt xấu. để mọi người biết rõ bổn phận, trách nhiệm của mình, biết rõ điều
gì phải làm và điều gì không được làm. Pháp đã ban bố thì phải thi hành một cách
nghiêm minh, chuyên nhất, thủ tín và trọng thưởng, nghiêm phạt.
Đọc sách "Hàn Phi Tử", người ta thấy chữ "Pháp" hay gắn liền với chữ
"Cấm". Vậy cái gọi là Pháp, tức là lệnh cấm, là những gì mà kẻ thống trị đòi hỏi

một chiều ở người dân, ai làm đúng với lệnh đó thì được thưởng, trái với lệnh đó là
phải thọ phạt. Thưởng và Phạt là hai cái cán, giúp cho kẻ thống trị kiểm soát, thậm
chí nô dịch nhân dân. Để pháp lệnh được thi hành hữu hiệu, đòi hỏi kẻ hành pháp
phải công bằng vô tư.
Hàn Phi đã viết trong thiên "Ngũ xuẩn" rằng:"Phù thùy khấp bất dục hình
giả, nhân giã; nhiên nhi bất khả bất hình giả, pháp giã. Tiên vương thắng kỳ pháp,
bất thính kỳ khấp". (Phàm là người rơi lệ, không đành lòng gia hình cho kẻ khác, là
Nhân; nhưng buộc không thể không gia hình cho kẻ khác là Pháp. Tiên vương sở dĩ
đã thắng lợi thành công, là nhờ vào Pháp, chẳng màng đến tiếng khóc than).
Theo quan niệm của Hàn Phi như vậy, thì Pháp chẳng những có ý nghĩa pháp
lệnh quốc gia về mặt chính trị, đồng thời còn là tiêu chuẩn tối cao về giá trị xã hội
nữa. Do đó, Hàn Phi đã đả kích hầu hết các học thuyết khác, kể cả Khổng - Mạnh,
Lão – Trang và Mặc Tử nữa.
“Cho nên bậc minh chủ sai khiến bề tôi, không đặt ý ngoài pháp, không ban
ơn ở trong pháp, không có hành động nào trái pháp” (Hàn Phi Tử, Hữu độ).
Quan lại coi như những bậc thầy về pháp luật trong thiên hạ. Bất cứ ai muốn
hỏi điều gì về luật pháp thì quan lại phải có bổn phận giảng dạy cho rõ (nhược dục
hữu học pháp lệnh dĩ lại vi sư). Nếu hỏi mà quan không đáp, hoặc tự ý giảng sai sẽ
bị trị tội. Khi giảng rồi phải chép rõ lời giảng, ngày, tháng, năm và tên người giảng
lên một tờ khoán. Người giảng giữ nửa bên phài và người được giảng giữ nửa bên
trái của tờ khoán, không ai có thể gian lận trước pháp lệnh được (Hàn Phi Tử, Định
phận).
Trong phương pháp trị nước, cùng với luật pháp minh bạch, chặt chẽ, khách
quan, được ghi vào đồ thư, bày nơi quan phủ, ban bố rộng rãi trong dân…là “thế”.
HV: Lê Hoàng Thu Dung 7
Tiểu luận Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
“Thế” là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Địa vị đó của kẻ trị
vì là độc tôn, mọi người phải tuân theo, gọi là “tôn quân quyền”.
Muốn thi hành pháp lệnh phải có “Thế”. “Thế” trong phép trị nước theo Hàn
Phi quan trọng đến mức có thể thay thế cho vai trò của bậc hiền nhân. “Chỉ có bậc

hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò bậc hiền vậy”
(Hàn Phi Tử, Nạn thế). “Thế” được Hàn Phi ví như nỏ yếu nhờ gió kích mà tên bay
xa, như rồng bay được là nhờ mây….Do vậy thế và pháp trong pháp trị không tách
rời nhau. Trong việc trị dân, địa vị, quyền thế của vua mới là trọng yếu, còn đức
không quan trọng.
Nhưng làm thế nào vua có thể điều khiển được một nước thực hiện nghiêm
minh pháp luật đã hạn, bởi quyền thế và địa vị của mình? Pháp gia cho rằng vua
phải sử dụng “công cụ đế vương” là “thuật”.
“Thuật” là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược điều khiển công việc
và dùng người, khiến người triệt để, tận tâm thực hiện hiến lệnh của vua mà không
hiểu vua dùng họ như thế nào. Đó cũng là công cụ của thuật. Nên Hàn Phi mới nói
“vua dùng luật như trời, dùng thuật như quỷ”, là vậy.
Theo thuật để trị dân, vua phải có một bộ máy quan lại trong từng lĩnh vực,
từng địa phương và vua phải có cách thức thủ thuật sử dụng, điều khiển bộ máy đó,
trực tiếp làm nhiệm vụ trị dân theo pháp lệnh và ý muốn của vua. Vì vậy, vua trị
dân thông qua trị quan lại. “Minh chủ trị lại, bất trị dân”. Nếu như “pháp” được
công bố rộng rãi trong thần dân, thì “thuật” là cơ trí ngầm, là thủ đoạn mưu lược
của vua. “Vua mà không có thuật thì hư hỏng ở trên, bề tôi không có pháp thì rối
loạn ở bên dưới. hai cái đó không thể thiếu một và đều là công cụ của đế vương”
(Hàn Phi Tử, Định pháp).
HV: Lê Hoàng Thu Dung 8
Tiểu luận Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
 Chính danh và thực
Thuật trong pháp trị của Hàn Phi cũng như các Pháp gia là “chính danh”, là
“theo danh mà trách thực” (Hàn Phi Tử, Dương xác). Đây cũng là tư tưởng mà
Khổng Tử đặc biệt chú trọng trong triết học chính trị của mình. Nhưng nếu ở Khổng
Tử “chính danh” là yêu cầu mong mỏi mọi người trng xã hội làm trong bổn phận
của mình, thì ở Hàn Phi “chính danh” là phương sách trong thuật lãnh đạo của vua,
là mọi người phải làm vì vua.
“Thực” theo pháp gia là người giữ những chức vụ trong chính quyền hay bổn

phận của mọi người công dân trong xã hội. Còn “danh” là những chức vị về những
nhiệm vụ ấy. Vua cứ theo danh mà trách thực. Chỉ cần xem danh và thực có hợp
nhau không là có thể phân biệt được phải trái, tốt xấu, công, tội. Danh và thực hợp
nhau là phải, thì chính danh. Danh và thực không hợp nhau là trái, là không chính
danh. Khi phải trái, đúng sai đã phân biệt thì cứ theo đó mà trọng thưởng, nghiêm
phạt công minh. Như vậy, theo thuật “lấy danh trách thực” từ dân đến quan, trong
xã hội mọi người đều nhất nhất tự động nhận rõ bổn phận, nhiệm vụ của mình mà
thi hành, không ai dám làm sai, làm vượt quá hay không tròn danh phận, vua không
cần phải làm gì cả mà không gì không được làm; điều này chẳng khác gì tư tưởng
“vô vi nhi trị” của Lão Tử cả.
Để chọn người đúng tài năng trao đúng chức vụ quyền hạn, vua cũng nhờ
thuật: “Bề tôi tỏ lời muốn làm việc gì, thì vua sẽ theo lời trao việc, cứ theo việc mà
trách công: Công xứng việc, việc xứng lời thì thưởng. Công không xứng việc, việc
không xứng lời thì phạt” (Hàn Phi Tử, Nhị bính). Cứ như thế cùng với việc thưởng
phạt nghiêm minh thì người không có tài đức dẫu muốn có danh vọng cũng không
dám nhận chức vụ. Do đó vua sẽ loại được những kẻ bất tài, lựa được những người
hiền giáo chức vụ trong chính quyền và họ sẽ có đủ năng lực để làm tròn công việc.
Nhưng làm thế nào vua biết được danh và thực có hợp nhau hay không mà
thưởng cho đúng công và phạt cho đúng tội? Hàn Phi nói vua có hai cách: Một là
vua trực tiếp đi kiểm tra, thẩm định kết quả của bề tôi đã làm. Hai là vua dùng
người khác có đủ khả năng tài đức hoặc được vua giao, hoặc tự mình nhận nhiệm
vụ, thay mặt vua thẩm định kết quả công việc. Người thay mặt vua đi thẩm định,
HV: Lê Hoàng Thu Dung 9
Tiểu luận Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
kiểm tra kết quả công việc đã làm, cũng phải tuân theo luật “lấy danh trách thực”
mà vua đã dùng với mọi người khác.
 Thưởng phạt nghiêm minh
Đi đôi với thuật “lấy danh trách thực”, việc thưởng phạt nghiêm minh cũng
là công cụ quan trọng của nhà vua trong thuật trị nước. Trọng thưởng, nghiêm phạt
được Hàn Phi coi như là hai tay của nhà vua, hay hai cái cán của thuật cầm quyền:

nó biểu hiện cái thế và là phương cách hữu hiệu trong thuật của vua, vì nó đánh
trúng vào tâm lý “hám lợi, tránh hại” của con người.
Theo Hàn Phi, nội dung chính yếu của Pháp là thưởng và phạt. Sở dĩ phải
nhấn mạnh vấn đề thưởng phạt, là vì có ba nguyên nhân sau đây:
1/ Người ta có tâm lý ham thưởng sợ phạt, nên áp dụng luật thưởng phạt, là
phương pháp cai trị hữu hiệu nhất.
2/ Nếu vua chúa để mắt nhìn, để tai nghe và dùng đầu óc suy tư thì rất dễ bị
thần thuộc a dua lừa bịp. Một khi đã áp dụng luật lệ thưởng phạt, thì sẽ tránh được
tệ hại đó bởi điều thưởng phạt là phán xét theo sự kiện khách quan, việc gì đáng
thưởng, điều nào đáng phạt, đều được định sẵn bằng luật lệ minh bạch, khỏi bị ảnh
hưởng bởi tình cảm chủ quan.
3/ Thưởng phạt là lợi khí sắc bén, để vua chúa kiểm soát thần thuộc.Bá Di,
Thúc Tề vì tưởng niệm cố quốc, bất mãn chính trị mà chịu chết đói trên núi hoang,
được Khổng Tử tôn là hiền sĩ, nhưng với Hàn Phi thì cho rằng, những người chẳng
ham thưởng, không sợ phạt như vậy, là "hạng thần dân vô ích", theo tiêu chuẩn giá
trị chữ "Pháp".
 Triết lý vô vi của Pháp gia
Trong thuật trị nước, ngoài thực hiện “chính danh” thưởng phạt, còn một
nguyên tắc quan trọng nữa, mà hầu như trong thiên nào Hàn Phi Tử cũng nhắc tới,
đó là: vua phải giữ kín tâm ý, sở thích của mình, không được tin ai. Không cho bề
tôi biết mình nghĩ gì, muốn gì, yêu gì và ghét gì; để bề tôi lợi dụng, dèm pha, xu
nịnh, tô vẽ, “biểu lộ cái khác với bản tính của mình” với vua, dòm ngó để tìm cách
hại vua và chiếm ngôi vua (Hàn Phi Tử, Chủ đạo, Hữu độ, Gian hiếp thí thần). Tốt
nhất là vua “Bỏ điều ham muốn, bỏ điều mình ghét mới thấy rõ lòng dạ bề tôi. Bỏ
HV: Lê Hoàng Thu Dung 10
Tiểu luận Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
kinh nghiệm, bỏ khôn ngoan của mình thì bầy tôi sẽ tự đề phòng” (Hàn Phi Tử,
Chủ đạo). “Làm vua phải bỏ lòng thích, lòng ghét đi thì bề tôi không biết được lòng
vua thì không bị che lấp”.
Đó chính là đạo lấy cái vô khiến cái hữu, dùng sự trống tĩnh khiến cái danh

tự nó được lập ra, sự việc tự nó được xác định. Vậy bỏ kinh nghiệm, hiểu biết, khôn
ngoan là vượt lên trên sự hiểu biết, là sáng suốt vô vi, là thượng trí. Nhà vua khi đó
chẳng cần làm gì mà bề tôi cứ tự giác, tận tâm làm mọi việc theo ý muốn của vua.
 Tính ác
Hàn Phi phát huy thuyết “Tính ác” của Tuân Tử, đưa ra thuyết luân lý cá
nhân vị lợi để khẳng định tính đúng đắn của phép trị nước bằng pháp luật của ông.
Qua đó, ông cũng đã đóng góp vào lý luận nghiên cứu bản tính và tâm lý con người
trong triết học Trung Quốc thời bấy giờ. Hàn Phi cho rằng: con người sinh ra là ích
kỷ, vị lợi, là “thích điều lợi và tìm nó, ghét cái hại và tránh nó, đó là tính con người”
(Hàn Phi Tử, Gian hiếp thi thần). Vì thế người ta “luôn chỉ lo mưu lợi cho riêng
mình” (Hàn Phi Tử, Cố phẫn).
Do bản tính con người là ác và do trong xã hội người tốt cũng có ít, còn kẻ
xấu thì rất nhiều nên muốn xã hội yên bình, không nên trông chờ vào số ít, mong họ
làm việc thiện (thực hành nhân nghĩa trị), mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn
không cho họ làm điều ác (thực hiện pháp trị). Tuy thế, bản chất ích kỷ, vị lợi của
con người ta, chưa thể hiện ra là tính thiện hay tính ác. Điều thiện hay ác, tốt hay
xấu của con người chỉ được thể hiện qua hành động nhằm thoả mãn ham muốn, lợi
ích của mình; và, điều này theo Hàn Phi, nó lại phụ thuộc vào hoàn cảnh, đời sống.
Ông viết: “Việc giúp đỡ lẫn nhau của người nguyên thuỷ, không phải do bẩm sinh
họ có phẩm chất đạo đức thương người, mà do lúc đó có nhiều của cải; hiện nay, sở
dĩ người này cướp đoạt của người kia cũng không phải là vì họ sinh ra là thù ghét
người khác, mà là do của cải ít” (Hàn Phi Tử, Ngũ đố).
HV: Lê Hoàng Thu Dung 11
Tiểu luận Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
Chương 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ
2.1 Những giá trị của tư tưởng triết học Pháp gia
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia mà đại biểu
xuất sắc là Hàn Phi, ông có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước
và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Pháp gia đã đề cao vai trò
của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Tư tưởng Pháp gia

mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có giá trị lịch sử lâu dài và
có ý nghĩa đến tận ngày nay.
Tư tưởng của Hàn Phi hết sức sâu rộng, bao gồm chính trị, pháp luật, triết
học, xã hội, kinh tế, quân sự, giáo dục, ; trong đó, then chốt chính là tư tưởng
chính trị. Ông để tâm suy nghĩ làm sao cho vị vua trong điều kiện xã hội đương thời
có thể vận dụng vô số các phương pháp khác nhau để đạt được cục diện chính trị ổn
định, để cho nước giàu quân mạnh. Có thể nói “Hàn Phi Tử” là một bộ sách chính
trị học vĩ đại và học thuyết chính trị của ông được người xưa gọi là “học thuyết của
đế vương).
Như vậy, tư tưởng pháp trị đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng
Trung Quốc cổ đại với Quản Trọng là người khởi xướng. Sự nghiệp thống nhất và
phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải phát
triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về "Thế", "Thuật", "Pháp" vừa đuợc
phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong một học thuyết duy nhất. Tư
tưởng chủ đạo của pháp gia là muốn trị nuớc, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng
và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nuớc có đông dân bao nhiêu
thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch
sử đó, với chủ trương dùng luật lệ, hình pháp khách quan như đạo tự nhiên làm
phép tắc tiêu chuẩn điều chỉnh hành vi của con người. Pháp gia chính là công cụ
chủ yếu của nhà nước trong cuộc đấu tranh chống lại các lực lượng xã hội bảo thủ,
củng cố chế độ phong kiến ở Trung Quốc thời Chiến quốc và nó còn là sự kế thừa
những tư tưởng về “đạo”, “đức” của Lão giáo, tư tưởng “chính danh” của Nho gia,
là sự tổng hợp giữa “pháp”, “thế” và “thuật” trong phép trị nước. Đây chính là tiếng
HV: Lê Hoàng Thu Dung 12
Tiểu luận Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
nói đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đã tiến hành đấu tranh quyết liệt chống lại
tàn dư của chế độ truyền thống công xã gia trưởng, đặc biệt là chống lại tư tưởng
bảo thủ và tư tưởng mê tín tôn giáo đương thời. Học thuyết chính trị của Pháp gia
đã được nhà Tần ra sức vận dụng và kết cục đã đưa nước Tần đến thành công trong
việc kết thúc cục diện phân tán cát cứ, thống nhất được đất nước Trung Hoa sau

những năm dài chiến tranh khốc liệt.
2.2 Những hạn chế của tư tưởng triết học Pháp gia
Hàn Phi có nhiều yếu tố tích cực đáp ứng được yêu cầu phát triển của lịch
sử, song tư tưởng triết học Pháp gia cũng có những mặt hạn chế của nó:
Sự khiếm khuyết chính của học phái Pháp gia là về quyền Lập pháp; Pháp
gia không tìm thấy một khởi điểm chính xác, đúng đắn. Pháp gia cũng công nhận
rằng nhà vua lập ra pháp luật, cùng thiết lập pháp luật để tự trị lấy mình, đặt kiểu
mẫu, mực thước để tự mình noi theo. Nhưng còn vấn đề Lập pháp từ đâu sinh ra,
lấy cái gì làm nên cơ sở, thì Pháp gia cũng trả lời là tự nhà cầm quyền, do nơi vua
chúa. Khi các vua chúa thiết lập luật pháp của họ, thì họ huỷ một vài điều ở pháp
luật cũ đi. Nhưng chủ trương ấy sẽ không thành sự thực được. Nếu người ta muốn
có một quan niệm Pháp trị vững chắc, thì ít nhất người ta cũng phải căn cứ vào một
cái gì khác nữa, ví dụ ngày nay gọi là Hiến Pháp.
Một luật pháp khiến cho những pháp luật được thi hành một cách chắc chắn
thì người ta chưa dám quyết đoán. Nhưng ở các chế độ quân chủ thì không có cách
nào giải quyết được vậy nếu không có một cơ quan giám sát mà nhà vua có quyền
huỷ bỏ, thì ít ra cũng phải là ông vua lý tưởng như vua Nghiêu, vua Thuấn để luật
pháp được tôn trọng một cách chắc chắn, thì đó thực vẫn là nhân trị chứ không phải
pháp trị.
Việc nhấn mạnh biện pháp trừng phạt nặng nề, phủ nhận tình cảm đạo đức,
thủ tiêu văn hóa giáo dục… là đi ngược lại xu hướng phát triển của văn minh nhân
loại. “Vì vậy, do thực hành triêt để pháp trị mà nhà Tần đã bị mất nước. Từ thời
Hán về sau, dù Pháp gia không chính thức được công nhận, nhưng những tư tưởng
có giá trị của phái này đã được các học phái khác hấp thụ để bổ sung, hoàn chỉnh
quan điểm của mình” [4;74].
HV: Lê Hoàng Thu Dung 13
Tiểu luận Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa
KẾT LUẬN
Những tư tưởng về pháp trị của Pháp gia đã có những đóng góp to lớn cho sự
phát triển của tư tưởng Trung Quốc cổ đại và nhất là cho sự nghiệp thống nhất đất

nước Trung Hoa lúc bấy giờ. Cần phải khẳng định rằng trong bối cảnh xã hội Trung
Hoa cuối thời Chiến quốc, tư tưởng chính trị của pháp gia mà tiêu biểu nhất là Hàn
Phi Tử có nhiều yếu tố tích cực đáp ứng được yêu cầu phát triển của lịch sử. Ông
đưa ra một số nguyên tắc cơ bản trong xây dựng và thực thi pháp luật, như pháp luật
phải nghiêm minh, không phân biệt sang hèn, mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật Tư tưởng pháp gia vẫn còn nhiều yếu tố có giá trị có thể vận dụng trong việc
xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở nuớc ta hiện nay.
Nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ
trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước, từ đó góp phần tạo ra một xú thế lịch sử
cho việc xây dựng một nhà nước trung ương tập quyền phong kiến thống nhất. Trên
thực tế, sau khi sử dụng hệ thống pháp trị, nhà Tần đã thu phục được các nước còn
lại, thống nhất Trung Quốc, mở ra một trang sử mới cho dân tộc Trung Hoa. Tuy
nhiên, Pháp gia lại cùng hệ thống pháp trị của mình nhanh chóng mất đi chỗ đứng
của mình do bản thân cách làm của Pháp gia tồn tại quá nhiều điểm cực đoan như
đồng nhất giữa việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các hình phạt
nghiêm khắc, máy móc cứng nhắc trong việc sử dụng pháp luật, bỏ qua các nhân tố
tập quản, giải thích mục tiêu pháp luật quá chú trọng đến phương diện vật chất…
Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có
giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
HV: Lê Hoàng Thu Dung 14
Tiểu luận Triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa

TÀI LIỆU THAM KHẢO0
1. Nguyễn Thị Kim Bình (Đại học Đà Nẵng), Tư tưởng trị nước của Pháp gia
và vai trò của nó trong lịch sử, Đăng trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ,
Đại học Đà Nẵng, Số 3 (26), Năm 2008;
2. PGS.TS Doãn Chính (chủ biên), Đại cương triết học Trung Quốc, NXB
Chính trị quốc gia Hà Nội 1997
3. PGS.TS Doãn Chính, Từ điển Triết học Trung Quốc, Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia, Năm 2009;

4. TS Bùi Văn Mưa (Chủ biên), Triết Học – Phần I: Đại cương về lịch sử Triết
học, Tài liệu dùng cho Học viên cao học và nghiên cứu sinh, Lưu hành nội
bộ, Năm 2011;
5. GS Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử Triết học Phương Đông, Nhà xuất bản Từ
Điển Bách Khoa, Năm 2006;
6. gia
7. Phi
HV: Lê Hoàng Thu Dung 15

×