Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tư tưởng triết học pháp gia và những giá trị hạn chế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (639.57 KB, 22 trang )

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Tên đề tài:
Tên đề tài:
GVHD:
GVHD:




TS. Bùi Văn Mưa
TS. Bùi Văn Mưa
Lớp:
Lớp:




CHKT K21 – Đêm 5
CHKT K21 – Đêm 5
Nhóm:
Nhóm:


04
04
HVTH:
HVTH:


Dương Tiến Dũng (Lớp trưởng)


Dương Tiến Dũng (Lớp trưởng)
STT:
STT:
035
035
TP. Hồ Chí Minh, năm 2012
TP. Hồ Chí Minh, năm 2012
Mục lục:
Mục lục:
Phần mở đầu:
Phần mở đầu:
I.
I.
NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC PHÁP GIA :
NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC PHÁP GIA :




1
1
1.1 Khái quát sự hình thành của trường phái pháp gia :
1
1.2 Những tư tưởng cơ bản Triết học Pháp gia :
2
1.2.1. Những tư tưởng trước Hàn Phi :
2
−Phái Trọng Thực :

2

−Phái Trọng Thế :

3
−Phái Trọng Thuật :

3
−Phái Trọng Pháp :

4
1.2.2 Tư tưởng của Hàn Phi :
5
1.2.2.1. Ba cơ sở của thuyết Pháp trị Hàn Phi:
5
1.2.2.2. Phép trị quốc của Hàn Phi:
5
1.2.2.3. Bàn về sự trọng yếu của pháp luật, chính danh, vô vi, tính ác, thưởng
phạt nghiêm minh.

7
Ti
Ti


ểu luận Triết Học:
ểu luận Triết Học:
“Tư tưởng Triết học Pháp gia và những giá trị, hạn chế”
−Sự trọng yếu của pháp luật :

7
−Chính danh :


7
−Triết lý vô vi :

8
−Thưởng phạt nghiêm minh :

9
−Tính ác :

9
II.
II.
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ:
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ:




10
10
2.1. Những giá trị của tư tưởng triết học Pháp gia:
10
2.2. Những hạn chế của tư tưởng triết học Pháp gia:
11
Phần kết luận:
Phần kết luận:





14
14
Danh mục tài liệu tham khảo:
Danh mục tài liệu tham khảo:




16
16
Phần phụ lục:
Phần phụ lục:




17
17
1. Sơ đồ mô tả các nhân vật theo thời gian trong trường phái Pháp gia:
17
2. Sơ đồ mô tả sự hình thành Pháp gia từ Pháp – Thuật – Thế và vai
trò Pháp gia trong xã hội: 18
Giảng viên hướng dẫn: Học viên Thực hiện
TS Bùi Văn Mưa Dương Tiến Dũng
3
Phần mở đầu:
Phần mở đầu:
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2012
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2012

Ngày nay xã hội ngày càng phát triển, đứng trước những thách thức và
biến đổi không ngừng, luật pháp không thể không cải tiến để điều chỉnh các hành vi
con người theo mong muốn chung của nhân loại. Đứng trước sự phức tạp về bản
chất và hành vi của con người, trong quá trình nghiên cứu hai chuyên đề: lịch sử
Triết học Phương Đông và Lịch sử Triết học Phương Tây thì các tư tưởng Triết học
Pháp gia thực sự gây ấn tượng về các tư tưởng quản lý trong xã hội Trung Hoa cổ
đại và các tư tưởng này có thể áp dụng để giải quyết các vấn đề trong xã hội hiện
nay. Vì thế khi được phân công viết đề tài “Tư tưởng Triết học Pháp gia và
những giá trị, hạn chế” học viên rất phấn khích và tâm đắc về các tư tưởng mà
trương phái Pháp gia đề cập.
Về tài liệu dùng để viết tiểu luận, học viên đã sưu tầm và đọc qua gần 10
đầu sách, tạp chí và bài viết có liên quan đến đề tài trong đó quan trọng nhất là ba
tác phẩm: Hàn Phi Tử (Hàn Phi, Phan Ngọc dịch), Lịch sử triết học Phương đông
(Nguyễn Đăng Thục), Tài liệu dùng cho học viên cao học môn Triết học (TS Bùi
Văn Mưa), Đại cương lịch sử Triết học Phương đông cổ đại (Doãn Chính, Trương
Văn Chung, Nguyễn Thế Nghĩa, Vũ Tình) và bài viết của PGS.TS Nguyễn Văn Vĩnh
nói về học thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền cần
phải có trạng thái pháp trị tốt và nhà cầm quyền trí tuệ”. Ngoài ra học viên còn
đọc thêm một số tài liệu khác nhằm bổ sung làm rõ các vấn đề cần phân tích.
Sau khi nghiên cứu tài liệu, học viên viết đề tài này nhằm làm rõ một số
vấn đề về các tư tưởng cơ bản trong trường phái Triết học Pháp gia và những giá trị,
hạn chế đã được đúc kết tổng hợp qua các sách. Trường phái Pháp gia mà Hàn Phi
là đại biểu nổi bậc nhất xuất phát từ bối cảnh xã hội thời Xuân Thu – Chiến Quốc.
Ông đã viết tác phẩm Hàn Phi Tử là một tác phẩm vĩ đại, kiệt xuất lúc bấy giờ. Về
mặt chính trị, nó là một công trình quan trọng của chính trị học Trung Hoa. Về tư
tưởng, xác lập trường phái Pháp gia một trong bốn trường phái lớn nhất của tư
tưởng Trung Quốc (Nho, Lão, Mặc, Pháp). Lý thuyết của Hàn Phi đã được Tần
Thủy Hoàng dùng để thống nhất Trung Quốc cổ đại. Sau đó: “nó trở thành lý
thuyết của nền quân chủ Trung Hoa nhưng bao giờ cũng bị che giấu dưới cái vẻ
bên ngoài của Nho giáo …” [5; 25].

Ti
Ti


ểu luận Triết Học:
ểu luận Triết Học:
“Tư tưởng Triết học Pháp gia và những giá trị, hạn chế”
I. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHÁP GIA:
1.1 Khái quát sự hình thành tư tưởng trường phái Pháp gia:
Pháp gia xuất hiện vào giữa thời đại Chiến Quốc và trở nên cực thịnh vào
thời đại ấy, là một trong trường phái triết học chủ trương dùng hình pháp như một
công cụ, phép tắc hữu hiệu để điều chỉnh hành vi, đạo đức con người và duy trì, ổn
định trật tự thể chế xã hội; bắt nguồn từ các cơ sở triết lý, tiền đề thực tiễn lịch sử xã
hội và quan điểm về luân lý đạo đức nhất định.[4; 514]
Xã hội thời thời Xuân Thu – Chiến Quốc là xã hội nô lệ suy tàn đang cuyển
sang xã hội phong kiến đã đem đến hai kết quả:
- Giải phóng các tầng lớp nô lệ khỏi ách cai trị trực tiếp;
- Tập trung thế lực chính trị vào tay chính quyền thống trị;
Khuynh hướng chính trị của thời đại này là phong trào vận động đi từ chính thể
chiếm hữu nô lệ đi đến chính thể Vua chúa có quyền hành tuyệt đối nghĩa là từ
phương pháp chính trị căn cứ vào Lễ (luân lý phong tục) đến phương pháp chính trị
căn cứ vào Pháp [6; 305]. Lúc đó trật tự cương thường xã hội bị đảo lộn, đạo đức
suy đồi. Để cải tạo xã hội, nếu Nho gia chủ trương dùng Nhân nghĩa, Mặc gia chủ
trương dùng Kiêm ái, Đạo gia chủ trương dùng Vô vi … thì Pháp gia chủ trương
dùng Pháp trị [5, 72]
Cơ sở triết lý Pháp gia đó là học thuyết về đạo và lý có tính truyền thống
trong triết học Trung Quốc nói chung, cũng như trong quan điểm về đạo và đức của
Lão tử nói riêng. Về thực tiễn lịch sử xã hội, đó là quan điểm và quá trình tiến hóa
xã hội. Về mặt luân lý đạo đức, đó là học thuyết về bản tính ác của con người, được
khởi xướng từ Tuân Tử mà Hàn Phi đã vận dụng và lý giải một cách sinh động

trong thuyết Pháp trị của mình.
Tư tưởng Pháp gia được trở thành một lý thuyết chính trị có hệ thống, dựa
vào quan niệm của Đạo gia về nhân sinh và hấp thụ những tư tưởng đại cương của
Nho gia cùng những tư tưởng chính danh xác thực của Mặc gia [6; 332]. Khổng,
Lão, Mặc tuy khác nhau nhưng đều chủ trương về chính trị lấy dân làm gốc (tư
tưởng nhân trị) nhưng Pháp gia lại chủ trương về chính trị khác hẳn ở chổ họ đứng
về quan điểm của chính quyền hay của nhà thống trị làm phát sinh tư tưởng Pháp
trị [6; 305].
Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia đã hình thành và phát triển qua nhiều
thời kỳ với các tư tưởng của : Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng,
… và được hoàn thiện bởi Hàn Phi. Tóm lại, trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ
đại, tư tưởng Pháp gia mà đại diện xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt
trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến
Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ
Giảng viên hướng dẫn: Học viên Thực hiện
TS Bùi Văn Mưa Dương Tiến Dũng
5
Ti
Ti


ểu luận Triết Học:
ểu luận Triết Học:
“Tư tưởng Triết học Pháp gia và những giá trị, hạn chế”
trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên
trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận
ngày nay
1.2 Những tư tưởng cơ bản của triết học Pháp gia:
1.1 Những tư tưởng trước Hàn Phi:
∗ Phái trọng Thực:[4; 514] theo từ điển Triết học Trung Quốc, phái

trọng thực này gồm một số nhân vật tiêu biểu có quan điểm cụ thể như sau:
- Người đầu tiên là Quản Trọng: (? – 645 TCN) ông làm tướng quốc
cho Tề Công Hoàn, được coi là người đầu tiên bàn về pháp luật như một cách trị
nước và chủ trương công bố rộng rãi pháp luật trong công chúng. Trong cuốn Quản
Tử ông chỉ rõ người trị nước phải coi trọng Luật, Lệnh, Hình, Chính [7;56]. Tùy
theo thời thế và ý của dân mà đưa ra Pháp một cách rõ ràng; phải chỉ cho dân biết rõ
Pháp rồi mới thi hành và khi hành pháp phải giữ cho được lòng tin với dân (tính
nghiêm minh của pháp luật). Như vậy có thể coi Quản Trọng là người đầu tiên khởi
xướng Pháp gia [5, 72]. Theo Quản tử, Minh Pháp giải Quản Trọng cũng nói lên
sự trọng thế tức cùng quan điểm với Phái trọng thế của Thận Đáo, đã cho rằng Vua
một nước phải có uy thế thì mới có thể sai khiến được dân chúng.
- Sau Quản Trọng 100 năm, Tử Sản được xếp vào trường phái Pháp gia
vì ông áp dụng Pháp chế để loại bỏ lần bọn thế gia hào phiệt mà an định được xã
tắc. Ông cho đúc "hình thư" cho đúc những cái đỉnh để ghi lại hình pháp. Tuy chưa
phải chủ trương pháp trị, nhưng cũng đã làm cho pháp luật có tính cách khách quan
hơn trước, nhà cầm quyền không thể tự ý giải thích theo quyền lợi của mình nữa; Vì
dân, ông đã tước một chút quyền của giai cấp quý tộc của mình [7; 63].
- Lý Khôi: Ông làm quan thú đất Thượng Địa rồi làm tướng quốc cho
Ngụy Văn Hầu, không rõ năm sinh tử, chỉ biết sống ở hậu bán thế kỷ thứ 4. Tương
truyền ông viết bộ Pháp kinh gồm 6 thiên và Thương Ưởng sau này dùng bộ đó để
biến pháp ở Tần. Hàn Phi chịu ảnh hưởng ít nhiều của Lý Khôi và trong thiên XXX
- Nội trừ thuyết thượng, có nhắc tới ông [7; 66].
- Ngô Khởi: Ông chính là một Binh gia, nhưng đồng thời cũng là một
Pháp gia về thực hành: Binh gia và Pháp gia trên tinh thần có nhiều điểm giống
nhau. Ông sống cùng thời với Lý Khôi, mới đầu là tướng quân nước Sở, sau làm
quan thú đất Tây Hà và tướng quốc cho Ngụy Vũ Hầu, con Ngụy Văn Hầu, sau
cùng làm tướng quốc cho Sở Điệu Vương. Theo Hàn Phi thì thời của Hàn, người ta
chứa cất nhiều sách của Thương Quân, Quản tử, Ngô tử. Ngô tử tức Ngô Khởi và
bộ binh thư của ông gồm 18 thiên. [7; 66].
Giảng viên hướng dẫn: Học viên Thực hiện

TS Bùi Văn Mưa Dương Tiến Dũng
6
Ti
Ti


ểu luận Triết Học:
ểu luận Triết Học:
“Tư tưởng Triết học Pháp gia và những giá trị, hạn chế”
Sang nửa đầu thời Chiến quốc, tư tưởng pháp gia được tiếp tục
phát triển trong đó có ba phái tiêu biểu:
∗ Phái trọng Thế: đại diện là Thận Đáo (370 -> 290 TCN). Ông “là
người nước Triệu, học đạo Lão tử, ông viết 42 thiên sách và bị thất truyền và được
Hán Thư, Nghệ Văn Chí xếp vào phái Pháp gia, chủ trương của ông dùng Thế và
được Thân Bất Hại, Hàn Phi khen giỏi” [3; 26].
- Tư tưởng triết học của Thận Đáo một phần chịu ảnh hưởng của triết học
Lão tử về tự nhiên, thuần phát, vô vi nhưng Thận Đáo chủ trương trị nước
bằng pháp luật; và pháp luật đó phải khách quan, công minh như vật vô tri
vô giác, như thước quy, thước củ, mới loại bỏ được tâm ý chủ quan, thiên
kiến riêng tư; và nếu có được luật pháp như vậy, sẽ có lợi hơn trăm người
tài giỏi và Tuân tử cũng đã phê phán luận điểm trên [3; 76].
- Tuân tử trong thiên Phi thập nhị tử sắp Thận Đáo vào phái Pháp gia, chê
ông quá trọng "pháp" và "thế". Theo Hàn Phi tử trong thiên Nạn thế, thì
Thận Đáo bàn về "thế" như sau: “… Nghiêu hồi còn là kẻ thất phu thì
không trị được ba người, mà Kiệt khi làm thiên tử thì có thể làm loạn cả
thiên hạ. Do đó ta biết rằng quyền thế và địa vị đủ để nhờ cậy được, còn sự
khôn ngoan sáng suốt không đủ cho ta hâm mộ. … Nghiêu khi còn là kẻ
thuộc hạ, giáo dục thì dân không nghe; đến khi ngồi quay mặt về phương
Nam, làm vương thiên hạ, ban lệnh là người ta thi hành liền, cấm đoán là
người ta phải ngừng ngay. Do đó mà xét tài giỏi và khôn ngoan không đủ

cho dân chúng phục theo; mà quyền thế, địa vị đủ khuất phục được người
hiền.” [5; 528].
- Vì trọng "Thế" nên Thận Đáo chủ trương tập quyền, cấm không được lập
bè đảng, địa vị và quyền lợi của vợ lớn bé, con cả con thứ phải rõ ràng, đại
thần không được lấn Vua, phải bỏ ý riêng mà chỉ theo luật [7; 82].
∗ Phái trọng Thuật: đại diện là Thân Bất Hại (401 – 337 TCN) là người
nước Kinh làm quan nhỏ ở nước Trịnh. Hàn Chiêu Hầu thấy ông có tài đã trọng
dụng và phong làm tướng quốc. Thân Bất Hại vốn theo học đạo Lão tử, nhưng lại
chú trọng đến hình danh, luật pháp, nhất là thuật trị nước [3; 330].
- Có người hỏi: giữa Thân Bất hại và Công Tôn Ưởng, lời của ai cần cho
nước hơn? Đáp: Không thể trả lời được. Người không ăn thì mười ngày sẽ
chết. Trời rét lớn, không mặc áo thì cũng chết. Hỏi ăn và mặc cái nào cần
hơn thì không thể thiếu một trong hai, vì chúng là thứ để nuôi sống. Nay
Thân Bất Hại nói về thuật cai trị; Công Tôn Ưởng nói về pháp luật. Thuật
cai trị là ăn cứ trách nhiệm và giao chức quan, tùy tên gọi mà yêu cầu sự
thực; nắm quyền sinh sát hiểu rõ năng lực bầy tôi, đó là điều Vua nắm lấy.
Giảng viên hướng dẫn: Học viên Thực hiện
TS Bùi Văn Mưa Dương Tiến Dũng
7
Ti
Ti


ểu luận Triết Học:
ểu luận Triết Học:
“Tư tưởng Triết học Pháp gia và những giá trị, hạn chế”
Pháp luật là mệnh lệnh rõ ràng được ban bố ở cửa công và hình phạt thì tất
ở lòng dân, thưởng cho những kẻ giữ gìn cẩn thận pháp luật, nhưng phạt
những kẻ làm trái lệnh. Đó là những điều mà bầy tôi phải tuân theo. Nhà
Vua không có Thuật trị nước thì ở trên bị che đậy; bầy tôi mà không có

pháp luật thì cái loạn sinh ra ở dưới. Hai cái không thể thiếu cái nào, đó đều
là công cụ của bậc đế vương (Hàn Phi Tử, Thiên Định Pháp) [5; 541].
∗ Phái trọng pháp: đại diện là Thương Ưởng (390 – 338 TCN) chủ
trương dùng Pháp và biến Pháp trong phép trị nước.
- Thương Ưởng hay Công Tôn Ưởng thường gọi là Thương Quân hay Vệ
Quân là người nước Vệ, cùng thời với Mạnh Tử Ông chú trọng việc dùng
hình Pháp và biến Pháp và dùng thưởng phạt trong việc thi hành pháp luật,
trị nước. Ban đầu ông giúp nước Ngụy, sau giúp Tần do ông là nhà chính trị
có tài được Tần Hiếu Công trọng dụng làm Tể tướng.
- Trong thời gian từ 359-350 TCN, Ông giúp nhà Tần thực hiện hai cuộc biến
pháp, cải cách pháp luật (về ruộng đất, quyền mua bán ruộng đất tự do,
khuyến khích khẩn hoang, phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp và buôn
bán) cải cách chế độ thuế, hành chính, nhà nước, … làm cho nhà Tần mau
chóng hùng mạnh lần lượt thôn tính: Tề, Sở, Ngụy, Yên, Hàn và Triệu.
- Sau khi Tần Hiếu Công chết, Huệ Văn Vương lên ngôi, Thượng Ưởng bị
giết vì bị nghi oan làm phản do trước đây khi còn sống trong khi biến đổi
pháp luật đã đụng chạm nhiều đến quyền lợi của tầng lớp quý tộc phong
kiến. [3; 331]
Tới đây học thuyết của Pháp gia có đủ ba phái: Thế của Thận Đáo, Thuật
của Thân Bất Hại, và Pháp của Thương Ưởng kể như đã hoàn bị. Chỉ cần một
người tập đại thành, sửa chữa, thêm bớt và người đó là Hàn Phi mà học viên sẽ
phân tích trong phần sau. Nhưng Hàn Phi muốn làm chính trị mà không được dùng
mà bị Lý Tư hại chết, người áp dụng học thuyết của Hàn Phi là Tần Thủy Hoàng và
kết quả là đã thống nhất được Trung Quốc cổ đại. Xét lại, trong thời Xuân Thu và
Chiến Quốc, những người có công thúc đẩy sự biến chuyển của xã hội Trung Hoa
từ chế độ phong kiến qua chế độ quân chủ chuyên chế, không phải Nho gia, Mạc
gia hay Đạo gia mà chính là Pháp gia. Những nước Tề, Trịnh, Hàn, Ngụy, Tấn nhờ
Quản Trọng, Tử Sản, Thân Bất Hại, Ngô Khởi, Thương Ưởng, Lý Tư đã thay nhau
nổi bật lên nhiều hay ít trong số các nước chư hầu, đánh dấu một giai đoạn quan
trọng trong lịch sử.

Tư tưởng Pháp trị đã phát triển tới đỉnh cao bởi nhà tư tưởng và nhà chính
trị lỗi lạc Hàn Phi. Ông đã tổng hợp ba quan điểm “Thế, Thuật và Pháp” thành
Giảng viên hướng dẫn: Học viên Thực hiện
TS Bùi Văn Mưa Dương Tiến Dũng
8
Ti
Ti


ểu luận Triết Học:
ểu luận Triết Học:
“Tư tưởng Triết học Pháp gia và những giá trị, hạn chế”
một học thuyết có tính hệ thống trên nền tảng học thuyết về Đạo của Lão giáo, tư
tưởng về chính danh, định phận của Nho gia. Hàn phi đã thực hiện được sự tổng
hợp ba học thuyết Nho, Lão, Pháp. Ở đó Nho là một “vật liệu xây dựng xã hội”,
Đạo gia là “kỹ thuật thi công”còn Pháp gia là “bản thiết kế” (xem thêm phụ lục 1
và 2).[5; 72]
1.2 Tư tưởng của Hàn Phi:
Hàn Phi (280-233 TCN) là một vị công tử, vương thất nhà Hàn ở miền tây
tỉnh Hà Nam bây giờ [3; 331]. Tác phẩm tiêu biểu của ông là Hàn Phi Tử biểu hiện
cơ bản về thời thế, lịch sử xã hội, đạo đức và hình pháp – Đỉnh cao của lý luận về
pháp luật của Pháp gia mà các trường phái triết học khác khi xem xét giải thích hiện
thực xã hội không tìm cách lý giải và đưa ra những biện pháp khác nhau để cải biến
xã hội ấy.
1.2.2.1 Ba cơ sở của thuyết Pháp trị Hàn Phi: [5; 72]
- Thừa nhận sự tồn tại của Lý – tính quy luật hay những lực lượng
khách quan trong xã hội;
- Thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội;
- Thừa nhận bản tính con người là ác.
1.2.2.2 Phép trị quốc của Hàn Phi:

Hàn Phi Tử là một học thuyết có nội dung hoàn chỉnh tổng hợp giữa
“pháp”, “thế” và “thuật”. Trong phép trị nước “pháp”, “thế” và “thuật” tương
quan và liên hệ mật thiết với nhau. Pháp là nội dung của chính sách cai trị, “thế” và
“thuật” là công cụ hay phương tiện thực hiện những chính sách đó. Cả ba “pháp”,
“thế” và “thuật” đều là “công cụ của bậc đế vương”.
 Bàn về Pháp:
- Hiểu là quy định, luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong xã
hội phải tuân theo; là tiêu chuẩn khách quan để định rõ danh phận, phân
biệt thị phi, phân rõ tốt xấu, trách nhiệm con người trong xã hội.
- Pháp đã ban bố phải được thi hành một cách nghiêm minh, chuyên nhất,
thủ tín và trọng thưởng nghiêm phạt; “Cho nên minh chủ sai khiến bề
tôi, không đặt ý ngoài pháp; không ban ơn ở trong pháp; không có hành
động nào trái pháp” (Hàn Phi Tử; Hữu độ) [5; 69]
- Làm quan coi như là những bậc thầy về pháp luật trong thiên hạ. Bất cứ
ai muốn hỏi điều gì về luật pháp thì quan lại phải có bổn phận giảng dạy
cho rõ. Nếu hỏi mà quan không đáp hoặc tự ý giảng sai sẽ bị trị tội. Khi
giảng rồi phải chép rõ lời giảng, ngày, tháng, năm và tên người giảng
lên một tờ khoán, không ai có thể gian lận trước pháp lệnh được. Pháp
Giảng viên hướng dẫn: Học viên Thực hiện
TS Bùi Văn Mưa Dương Tiến Dũng
9
Ti
Ti


ểu luận Triết Học:
ểu luận Triết Học:
“Tư tưởng Triết học Pháp gia và những giá trị, hạn chế”
luật phải minh bạch chặt chẽ và khách quan, được ghi vào đồ thư, bày
nơi quan phủ, ban bố rộng rãi trong dân.

- Hàn Phi còn đưa ra chủ trương mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật. Ông cho rằng sự trừng phạt không cần biết đến tước vị của giới quý
tộc vì luật không xu nịnh giới quý tộc. Nội dung thưởng phạt, nhằm mục
đích thực hiện "Pháp" "để cứu loạn cho dân chúng, trừ họa cho thiên
hạ, khiến cho kẻ mạnh không lấn kẻ yếu, đám đông không hiếp đám số
ít, người già được hưởng hết tuổi đời, bọn trẻ mồ côi được nuôi lớn,
biên giới không bị xâm phạm, Vua tôi thân nhau, cha con bảo vệ nhau,
không lo bị giết hay bị cầm tù". Với nội dung và mục đích như trên
"Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận, phải
trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một
mối, đều lấy pháp làm chuẩn. Vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của
thiên hạ.
 Bàn về Thế:
- Muốn thi hành pháp lệnh phải có Thế, thế là địa vị, thế lực, quyền uy
của người cầm đầu chính thể. Địa vị đó của kẻ trị vì là độc tôn, mọi
người phải tuân theo, gọi là “Tôn Quân Quyền”;
- Muốn thi hành pháp luật phải có Thế, theo Hàn Phi quan trọng đến mức
có thể thay thế cho vai trò của bậc hiền nhân. “…chỉ có bậc hiền trí
không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế đủ đóng vai trò bậc hiền vậy…”
(Hàn Phi Tử, Nạn thế) [5; 528] Thế được Hàn Phi ví như nỏ yếu nhờ
gió kích mà tên bay xa; như rồng bay được là nhờ mây… Do vậy mà
Thế và Pháp trong Pháp trị không thể tách rời nhau;
- Trong việc trị dân: địa vị, quyền thế của Vua mới là trọng yếu, còn đức
không quan trọng. Hàn Phi viết: “Kiệt làm Thiên tử, chế ngự được
Thiên hạ không phải vì hiền mà vì có quyền thế. Nghiêu là thất phu,
không trị nổi ba nhà không phải vì hiền, mà vì địa vị thấp” (Hàn Phi
Tử, Công danh)[5; 291]. “Ngựa sở dĩ có thể mang nặng, kéo xe, đi
đường xa là vì sức gân. Chúa vạn thặng, sở dĩ chế ngự được thiên hạ,
chinh phục được chư hầu, là vì uy thế. Uy thế là vì sức gân của bậc
minh chủ.” (Hàn Phi Tử, Nhân chủ) [5; 656].

 Bàn về Thuật:
- Thuật là phương pháp thủ thuật, cách thức, mưu lược điều khiển công
việc và dùng người, khiển người triệt để, tận tâm thực hiện hiến lệnh
của Vua mà không hiểu Vua dùng họ như thế nào “ Vua dùng luật
như trời, dùng thuật như quỷ …”.
Giảng viên hướng dẫn: Học viên Thực hiện
TS Bùi Văn Mưa Dương Tiến Dũng
10
Ti
Ti


ểu luận Triết Học:
ểu luận Triết Học:
“Tư tưởng Triết học Pháp gia và những giá trị, hạn chế”
- Theo ông Thuật để trị dân, Vua phải có một bộ máy quan lại trong từng
lĩnh vực, từng địa phương và Vua phải có cách thức, thủ thuật sử dụng
và điều khiển bộ máy đó, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ trị dân theo pháp
luật và ý muốn của Vua. Vì vậy Vua trị dân thông qua việc trị quan lại.
“Minh chủ trị lại bất trị dân”. Nếu như Pháp được công bố rộng rãi
trong thần dân, thì Thuật là cơ trí ngầm là thủ đoạn, mưu lược của nhà
Vua. “ Vua mà không có Thuật là hư hỏng ở trên, bề tôi mà không có
Pháp là rối loạn ở dưới. Hai cái đó không thể thiếu một và điều là công
cụ của đế vương.”
- Để chọn người đúng tài năng, giao đúng chức vụ và quyền hạn, Vua
cũng nhờ Thuật: “Bề tôi tỏ lời muốn làm việc gì, thì Vua sẽ theo lời
giao việc, cứ theo việc mà trách công: Công xứng việc mà việc xứng lời
thì thưởng. Công không xứng việc, việc không xứng lời thì phạt. (Hàn
Phi Tử, Nhị bính) [5; 74].
- Trong Thuật trị nước ngoài việc thực hiện “chính danh thưởng phạt”,

còn một nguyên tắc quan trọng mà hầu như xuyên suốt trong tác phẩm
Hàn Phi Tử đều nhắc đến là: Vua phải giữ kín tâm ý, sở thích của mình,
không được tin ai. Không cho bề tôi biết mình nghĩ gì, muốn gì, yêu gì
và ghét gì; để bề tôi lợi dụng, dèm pha, xu nịnh, tô vẽ “ biểu lộ cái khác
với bản tính mình” với Vua, dòm ngó để tìm cách hại Vua và chiếm
ngôi Vua (Hàn Phi Tử, Hữu độ, Chủ đạo, Gian hiếp thí thần).
1.2.2.3 Bàn về sự trọng yếu của pháp luật, chính danh, vô vi, tính ác,
thưởng phạt nghiêm minh.
 Về sự trọng yếu của pháp luật:
- Pháp luật ngày càng tỏ ra cần thiết, Pháp gia ngày một phát triển và
bành trướng thế lực; người ta tin tưởng vào pháp luật thực tiễn;
- Pháp luật làm ra, kẻ thống trị cũng như kẻ bị trị phải tuân theo pháp luật
và không thể thay đổi tùy ý muốn;
- “Không có nước nào luôn luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn
luôn yếu. Hễ những người thi hành pháp luật mạnh thì nước mạnh, còn
hễ nước nào thi hành pháp luật yếu thì nước yếu” [5; 62; Thiên hữu độ]
- Pháp luật là mực thước tối cao để xét đoán giá trị của ngôn ngữ, hành vi
của dân chúng trong một nước. Theo Pháp gia tất cả những hành vi
không thích hợp với pháp luật đều bị cấm đoán.
 Về chính danh:
- Đây là tư tưởng mà Khổng Tử đặc biệt chú trọng trong triết học chính trị
của mình. Nhưng nếu ở Khổng Tử xem “chính danh” là yêu cầu mong
Giảng viên hướng dẫn: Học viên Thực hiện
TS Bùi Văn Mưa Dương Tiến Dũng
11
Ti
Ti


ểu luận Triết Học:

ểu luận Triết Học:
“Tư tưởng Triết học Pháp gia và những giá trị, hạn chế”
mỏi mọi người trong xã hội làm tròn bổn phận của mình thì theo Hàn
Phi “chính danh” là phương sách trong thuật lãnh đạo nhà Vua, là mọi
người phải làm vì Vua.
- “Thực” theo Pháp gia là người giữ chức vụ trong chính quyền hay bổn
phận của người công dân trong xã hội. Còn “danh” là những chức vị về
những nhiệm vụ ấy trong xã hội Vua cứ theo danh mà trách thực.
Danh và thực hợp nhau là phải thì chính danh. Danh và thực không hợp
nhau là trái thì không chính danh …” Pháp gia muốn duy trì cho có sự
đồng hành giữa hình và danh và họ tin rằng một cái danh phải có một
vật thực đi đôi với nó; [6; 316]. Vua khi giao công việc cho một người
nào, phải bắt người ấy chịu trách nhiệm về công việc của mình, kết quả
phải phù hợp với danh phận công việc. Một khi hệ thống hình danh đã
thiết định, các quan cố gắng làm tròn phận sự phải kiểm soát xem kết
quả của công việc có đúng theo hệ thống danh xưng hay không. [4; 529]
- Nhưng làm thế nào Vua biết biết được danh và thực có hợp nhau hay
không mà thưởng cho đúng công và phạt cho đúng tội? Hàn Phi viết:
“Một là Vua trực tiếp đi kiểm tra, thẩm định kết quả của bầy tôi đã làm.
Hai là Vua dùng người khác có đủ tài đức hoặc được Vua giao hoặc tự
mình nhận nhiệm vụ, thay mặt Vua thẩm định kết quả công việc. Người
thay mặt Vua đi thẩm định kiểm tra kết quả công việc đã làm cũng phải
tuân theo luật lấy danh trách thực mà Vua đã dùng với mọi người.”
 Về triết lý vô vi:
- “ … Cái quyền không nên lộ ra, bản chất của nó là vô vi …” [5; 77] nhà
cầm quyền dùng cái hoạt động tự do tự nhiên của thần dân; đồng thời
giữ mực cán cân thưởng phạt trong tay để duy trì trật tự.
- Bản chất của nhà lãnh đạo được ví như nhà cầm lái thuyền. Đấy là
Thuật của một người điều khiển và kiểm soát muôn người bằng cách vô
vi, vô sự.

- Đạo gia và Pháp gia là hai đầu cực đoan trong lịch sử Triết học Trung
Quốc. Đạo gia chủ trương nhân loại bản nhiên không có tội lỗi, trong
trắng hồn nhiên chất phác; còn Pháp gia trái lại cho rằng tính bản nhiên
của nhân loại là ác. Đạo gia chủ trương cho sự tự do tuyệt đối của cá
nhân trong khi đó Pháp gia đòi có sự câu thúc tuyệt đối của xã hội
nhưng xét về quan điểm vô vi thì hai trường phái gặp nhau.
- Nguyên lý vô vi là cách dùng thiên hạ mà hữu vi là để cho thiên hạ
dùng. Cái lý đương nhiên của nhà trị vì là thống trị thiên hạ. Do đấy
Giảng viên hướng dẫn: Học viên Thực hiện
TS Bùi Văn Mưa Dương Tiến Dũng
12
Ti
Ti


ểu luận Triết Học:
ểu luận Triết Học:
“Tư tưởng Triết học Pháp gia và những giá trị, hạn chế”
nhiệm vụ cai trị là không tự làm việc gì, mà giao cho người khác làm
thay mình.
 Về tính ác:
- Hàn Phi phát huy thuyết “Tính ác” của thầy mình là Tuân Tử, đưa ra
thuyết luân lý cá nhân vị lợi để khẳng định tính đúng đắn của phép trị
nước bằng pháp luật. Ông cũng đã đóng góp vào nghiên cứu bản tính,
tâm lý con người trong xã hội loạn lạc đương thời.
- Hàn Phi cho rằng con người sinh ra là ích kỷ vị lợi, là thích điều có lợi
và tìm nó; ghét cái hại và tránh nó, đó là bản tính con người. [5; 139] Vì
thế người ta luôn lo mưu lợi cho mình.
- Tuy thế bản tính ích kỷ, vị lợi chưa thể hiện ra rõ tính thiện hay ác. Điều
thiện hay ác, tốt hay xấu của con người chỉ thể hiện qua hành động

nhằm thỏa mãn ham muốn, lợi ích của mình; và điều này theo Hàn Phi
phụ thuộc vào hoàn cảnh đời sống. (Hàn Phi Tử; Ngũ đố) [5; 609]
 Về thưởng phạt nghiêm minh:
- Uy thế của nhà Vua được biểu hiện dưới hình thức thưởng phạt. Thưởng
và Phạt là hai cái cán của nhà Vua (Hàn Phi Tử; Nhị Bính). Hai cái cán
ấy là hình và đức, giết phạt gọi là hình, khen thưởng gọi là đức. [9; 448]
- Ai mà chẳng sợ trừng phạt và thích khen thưởng? cho nên nhà Vua lợi
dụng tâm lý này của con người để thi hành uy thế của mình.
- Bởi tình cảm của con người là có ưa và có ghét nên dùng cách thưởng
phạt tức là thuận theo lòng người mà trị.
Tóm lại, Hàn Phi đại biểu tiêu biểu của trường phái Pháp gia, xuất phát từ
quan điểm duy vật cho rằng, trong thế giới tồn tại đạo và lý. Đạo là nguyên lý căn
bản, là quy luật phổ biên của sự hình thành mọi sự vật, hiện tượng, nó tồn tại vĩnh
viễn không thay đổi. Lý là phạm trù thể hiện mặt chất lượng của quy luật riêng của
các sự vật, hiện tượng; mỗi sự vật, hiện tượng đều có cái lý của nó. Do vậy để đạt
được kết quả trong hành động, con người phải tuân theo đạo và lý, tức con người
phải hành động theo quy luật khách quan của sự vật, đồng thời tuân theo cái lý biến
hóa của nó. Trong tự nhiên không có ý chí tối cao, ý muốn chủ quan của con người
không thể thay đổi được quy luật khách quan. Vận mệnh của con người là do con
người quyết định lấy. Không có gì chứng minh được quỹ thần là có thật. Trong
cuộc sống vì con người ta gặp tai nạn, rủi ro không giải quyết được nên mới tin vào
quỷ thần. Nếu con người không sinh bệnh tật, không bị trừng phạt, ra sức làm nhiều
của cải thì quỷ thần không làm rối loạn được tinh thần của con người. Ông cho rằng
người ta sinh ra vốn có sẳn bản tính tự nhiên là lòng tham dục, tự tư tự lợi. Tất cả
quan hệ xã hội được xây dựng trên cơ sở tính toán lợi ích cá nhân. Vì thế kẻ thống
Giảng viên hướng dẫn: Học viên Thực hiện
TS Bùi Văn Mưa Dương Tiến Dũng
13
Ti
Ti



ểu luận Triết Học:
ểu luận Triết Học:
“Tư tưởng Triết học Pháp gia và những giá trị, hạn chế”
trị phải căn cứ vào tâm lý “tránh hại, cầu lợi”, “cá nhân vị kỷ” của con người mà
đề ra pháp luật thưởng phạt công minh nhằm duy trì trật tự xã hội. [2; 200]
II. NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ :
2.1 Những giá trị của tư tưởng triết học Pháp gia :
- Những khuynh hướng của thời đại luôn luôn thay đổi và chế độ chính trị xã
hội cũng phải tùy thời mà thay đổi, phái Pháp gia đã đem lại những biến đổi
về chính trị; một hệ thống giải thích hợp lý và đã đóng vai trò quan trọng của
thời đại; mở đường cho việc tư tưởng Nhân trị dần nhượng bộ cho tư tưởng
Pháp trị.
- Khuynh hướng chính trị của thời đại Chiến quốc đang có những thay đổi,
Pháp gia đã kiến thiết cho phong trào một nền tảng hợp lý, một ý thức hệ và
dùng hết tài năng học thức của mình để trợ giúp các nhà thống trị trong công
cuộc cải tạo xã hội Trung Hoa cổ đại và công cuộc cải tạo ấy đã thành công
dưới triều đại Tần Thủy Hoàng.
- Quốc gia và xã hội ngày một thay đổi theo chiều hướng ngày càng thêm phức
tạp, những phương thức quản lý của chế độ cũ đã không còn phù hợp; Từ thực
tế khách quan, Hàn Phi và các Pháp gia thời ấy đã xây dựng nên học thuyết
Pháp trị và tin rằng xây dựng pháp luật và thiết lập những nghi thức và mực độ
“Luật thiết độ số” sẽ làm lợi cho dân chúng phổ biến rộng rãi cho đường lối
của họ. [6; 322]
- Kế thừa và phát huy quan điểm duy vật của Lão Tử và Tuân Tử, Hàn Phi Tử
đã giải thích sự phát sinh, phát triển của vạn vật tuân theo quy luật khách
quan. Ông xem “đạo” là nguyên lý căn bản, là quy luật phổ biến của sự hình
thành mọi hiện tượng, “lý” là quy luật riêng biệt vốn có vạn vật, là sự biểu
hiện bản chất của “đạo” trong mỗi vật; Do đó mọi người không những phải

tuân theo quy luật khách quan của sự vật mà hành động, mà còn cho rằng hành
động của con người phải thay đổi tùy theo sự biến hóa của “lý”, chống chủ
nghĩa bảo thủ cố chấp.
- Trên quan điểm duy vật tự nhiên và biện chứng chất phát về “đạo” và “lý”
trong phương pháp trị nước Hàn Phi còn phê phán những tư tưởng thần bí, đề
cao vai trò hoạt động của con người đối với chính đời sống và vận mệnh của
mình; Hàn Phi cho rằng: “sự vận hành của thiên thể không thể quyết định họa
phúc của con người. Không có gì chứng thực là có quỹ thần. người cai trị mê
tín quỹ thần tất sẽ mất nước; đánh giặc, thi hành pháp luật mà cầu khẩn quỷ
thần tất nhiên sẽ bại. Sự sùng bái quỷ thần và thi hành pháp chế là chống đối
lẫn nhau”.
Giảng viên hướng dẫn: Học viên Thực hiện
TS Bùi Văn Mưa Dương Tiến Dũng
14
Ti
Ti


ểu luận Triết Học:
ểu luận Triết Học:
“Tư tưởng Triết học Pháp gia và những giá trị, hạn chế”
- Thừa nhận sự biến đổi của xã hội, Hàn Phi cho rằng lịch sử xã hội loài người
luôn biến đổi, từ trước đến nay không có một chế độ nào vĩnh viễn tồn tại.
Hàn Phi đã phân chia quá trình tiến hóa của lịch sử xã hội ra làm ba giai đoạn,
mỗi giai đoạn có những đặc điểm và tập quán riêng, bao gồm: Đời thượng cổ,
Đời Trung cổ và Cận cổ. Động lực căn bản quyết định sự biến đổi của lịch sử
là do sự thay đổi dân số và của cải xã hội nhiều ít. Do đó, kẻ thống trị phải căn
cứ vào nhu cầu khách quan của xu thế lịch sử xã hội, của thời đại, tùy đặc
điểm thời thế hoàn cảnh mà lập ra chế độ mới và đặt ra phương pháp trị nước
mới cho thích hợp. [5; 609]; Đây được nhận định là tư tưởng biểu hiện rõ

tính chất duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát của Hàn Phi về lịch sử, đã
xem quan hệ lợi ích vật chất như là cơ sở của tất cả các quan hệ xã hội,
hành vi của con người.
- Phương pháp trị nước của Hàn Phi còn đưa ra lý luận “tham nghiệm”, cho
rằng bất cứ sự vật, hiện tượng cũng như quan điểm nào cũng phải trải qua hoạt
động thực tế và thí nghiệm khách quan mới có thể đánh giá một cách chính
xác (Hàn Phi Tử, Hiển học) [5; 634].
- Hàn Phi đã chỉ ra nếu dùng nhân nghĩa để trị nước yên dân thì hạng người
hiền trong thiên hạ nhất là thời Xuân thu Chiến quốc, nếu có cũng rất ít. Còn
hạng người bất thiện thì rất nhiều. Trị nước là trị dân khắp nước, chứ không
phải chỉ trị số ít người hiền bằng giáo hóa đạo đức. Cho nên trị nước không
nên chăm chú vào điều nhân đức, mà phải coi luật pháp, thưởng phạt là công
cụ quan trọng nhất, dân dù đông bao nhiêu cũng trị được. Đó là lợi thế của
Pháp trị so với Nhân trị (Hàn Phi Tử, Hiển học) [5; 643].
2.2 Những hạn chế của tư tưởng triết học Pháp gia :
- Sự khiếm khuyến chính của của trường phái Pháp gia là: về quyền Lập pháp
“Pháp gia không tìm thấy một khởi điểm chính xác, đúng đắn” [6; 332]. Pháp
gia cũng công nhận rằng nhà Vua lập ra pháp luật, cùng thiết lập pháp luật để
tự trị lấy mình, đặt ra kiểu mẫu, mực thước để tự mình noi theo. Rằng nhà cầm
quyền nếu bỏ pháp luật để hành động theo ý muốn thì lúc ấy sẽ hỗn loạn. Suy
cho cùng pháp luật này cũng chỉ để bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị. Nếu
muốn có một quan niệm Pháp trị vững chắc, thì ít nhất người ta cũng phải căn
cứ vào một cái gì khác nữa. Ví dụ ngày nay, pháp luật được xây dựng dựa
trên Hiến Pháp mà hiến pháp được xây dựng từ nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Nhưng Pháp gia thì không chỉ rõ ra được điều này.
- Pháp gia luôn so sánh luật pháp với cái cân, những đồ đo lường. Với pháp
luật, người ta đo con người cũng như vải lụa với cái thước, người ta cân nặng
Giảng viên hướng dẫn: Học viên Thực hiện
TS Bùi Văn Mưa Dương Tiến Dũng
15

Ti
Ti


ểu luận Triết Học:
ểu luận Triết Học:
“Tư tưởng Triết học Pháp gia và những giá trị, hạn chế”
nhẹ với cái cân. Nhưng vải lụa, vật nặng nhẹ là những vật vô tri, vô giác,
không sinh hóa. Còn con người là vật sinh hóa, có tâm hồn, có ý chí tự do,
luôn biến hóa cách tân. Muốn dùng một tiêu chuẩn khách quan để thẩm định
hành vi của con người thì thật là một vấn đề khó có thể giải quyết. Ngày nay,
việc xử lý tội cũng dựa vào pháp luật nhưng phải xét trên hai phương diện
tình và lý cho nên mới có các khái niệm tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm
nhẹ trong pháp luật. Pháp gia đã quá xem trọng luật pháp mà không xét đến
tình người.
- Chưa kể, người ta có thể đo bề dài của đồ vật nhưng lượng độ của lòng người,
đạo đức của con người thì rất khó để đo lường. Người ta phải thử thách rất
nhiều luật pháp mới mong thẩm định được nhưng chưa chắc đã đúng. Cho dù
có nhiều luật pháp đi nữa, kết cục vẫn còn lại nhiều sự vật mà luật pháp không
thể đạt tới được. Sự vật trong vũ trụ cần phải có một tiêu chuẩn để đo lường.
Nhưng đo lường sự vật khác với đo lường con người, người ta không thể đo
lường lòng người với một cái cân cái thước. Hãy nhớ rằng, những đồ vật có
thể cân đo được thì tự nó không hành động được, thay đổi được, còn người
dân bị trị có thể thay đổi được. Nếu chúng ta dùng cái thước để đo tấm vải mà
tấm vải có thể vươn dài ra hay thu ngắn lại thì cái thước của ta cũng vô dụng.
Đấy chính là trường hợp của con người, với tất cả ý thức của họ. Chung quy
lại Pháp gia chưa phân biệt ra nhân tính với vật tính.
- Pháp gia quan niệm kẻ bị trị và kẻ thống trị là hai giai cấp căn bản khác nhau.
Họ cho rằng giai cấp thống trị là những người có tài cao, còn giai cấp bị trị là
những kẻ thấp hèn - theo thuyết tính ác. Vậy suy ra Pháp gia không biết rằng,

một nhà nước hoàn hảo xuất hiện chừng nào trong nhân loại có tài năng hợp
tác với nhau để hỗ tương khuyến khích lẫn nhau và tạo nên sự phát triển
chung. Như vậy kẻ thống trị cũng là người bị trị và ngược lại. Điều này, đi
ngược lại xu thế phát triển của xã hội tiến bộ nói chung.
- Pháp gia đã đi đến sự cấm đoán và độc tài, hết tự do cá nhân, hết tự do tư
tưởng và ngôn luận; Pháp gia muốn đi đến một chế độ chuyên chế độc tài, chỉ
huy toàn thể; Dân không được bàn luận, đóng góp ý kiến về pháp luật. Mà
quên đi một thực tiễn khách quan, mọi sự vật hiện tượng về pháp luật đều đi từ
thực tiễn, từ trong dân. Chính điều này đi ngược với nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa hiện nay của nhà nước ta hiện nay là: “Dân biết, dân bàn và
quản lý xã hội”. Thực vậy, kết quả mỹ nãm nhất của pháp luật là có sự nhất trí
của nhân dân. Hơn nữa ông chỉ thấy con người ở khía cạnh vụ lợi, điều này
không đúng. Con người luôn có những ý tưởng cao đẹp và sẳn sàng quên mình
vì những lý tưởng ấy, dù cho quyền lợi cá nhân có bị vi phạm đến một mức
Giảng viên hướng dẫn: Học viên Thực hiện
TS Bùi Văn Mưa Dương Tiến Dũng
16
Ti
Ti


ểu luận Triết Học:
ểu luận Triết Học:
“Tư tưởng Triết học Pháp gia và những giá trị, hạn chế”
nào đó. Không cần tìm một dẫn chứng nào xa xôi, chính Hàn Phi là một người
như thế.
- Tư tưởng Pháp gia không chỉ ra được sự phân biệt giai cấp, tất cả mọi người
đều bình đẳng trước pháp luật và nhà Vua. Nhưng đáng lẽ tìm cách nâng cao
dân chúng lên một mực nhân cách cao hơn, Pháp gia lại kéo quý tộc xuống
mực thấp hơn đánh đồng tất cả dựa vào pháp luật, hủy bỏ lễ văn và chỉ tin vào

thưởng phạt nhất luật cho mọi người, quân tử cũng như kẻ tiểu nhân. Với cách
nhìn này, Pháp gia có tính cách thực tế duy vật nhưng lại thiển cận so với hoàn
cảnh xã hội lúc bấy giờ. Bởi vậy trong lịch sử Trung Quốc, Khổng Nho luôn
trách Pháp gia là tầm thường, kém cõi. Trong khi đó Pháp gia cho Khổng Nho
là lý thuyết sáo rỗng, không thực tế.
- Do bối cảnh xã hội và tình hình lúc bấy giờ, Học thuyết Pháp gia chỉ phản ánh
hiện thực xã hội và tìm cách cải tạo xã hội thời Chiến quốc, cụ thể là sự thống
nhất Trung Quốc cổ đại dưới triều đại Tần Thủy Hoàng. Học thuyết Pháp gia
chưa vươn ra cải tạo toàn thế giới lúc bấy giờ.
Giảng viên hướng dẫn: Học viên Thực hiện
TS Bùi Văn Mưa Dương Tiến Dũng
17
Ti
Ti


ểu luận Triết Học:
ểu luận Triết Học:
“Tư tưởng Triết học Pháp gia và những giá trị, hạn chế”
Phần kết luận:
Phần kết luận:
Pháp gia là một trong những trường phái Triết học lớn của Trung Quốc cổ đại
chủ trương dùng luật lệ, hình pháp khách quan như đạo tự nhiên làm phép tắc tiêu
chuẩn điều chỉnh hành vi của con người. Những luật lệ, hình pháp đó là công cụ chủ
yếu của nhà nước trong cuộc đấu tranh chống lại các lực lượng xã hội bảo thủ, cũng
cố chế độ chuyên chế phong kiến ở Trung Quốc thời Chiến quốc. Tư tưởng Pháp
Gia là sự kế thừa những tư tưởng về đạo, đức của Lão giáo, tư tưởng chính danh
của Nho gia, là sự tổng hợp giữa pháp, thế, thuật trong phép trị nước. Pháp gia là
tiếng nói đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đã tiến hành đấu tranh quyết liệt chống
lại tàn dư của chế độ truyền thống; đặc biệt chống lại tư tưởng bảo thủ và mê tín tôn

giáo đương thời. Học thuyết Pháp gia và Hàn Phi Tử đã được nhà Tần hết sức ủng
hộ. Nó đã trở thành vũ khí tinh thần để thống nhất Trung Quốc, thiết lập nên chế độ
phong kiến trung ương tập quyền. Cần phải khẳng định rằng trong bối cảnh xã hội
Trung Hoa cuối thời Chiến quốc, tư tưởng chính trị của Pháp gia mà tiêu biểu nhất
là Hàn Phi Tử có nhiều yếu tố tích cực đáp ứng được yêu cầu phát triển của lịch sử.
Tư tưởng Pháp gia vẫn còn nhiều yếu tố có giá trị có thể vận dụng trong xây dựng
nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Thời phong kiến Việt Nam cũng đã có nhiều bộ luật như: luật Hồng Đức, luật
Gia Long… tất cả đều hướng đến việc củng cố địa vị độc tôn sau đó mới phục vụ sự
công bằng trong dân chúng. Ngày nay, qua tư tưởng của trường phái Pháp gia học
viên nhận thấy trong việc xây dựng một nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa
cũng cần chú ý, phát huy và điều chỉnh một số vấn đề sau về chính sách pháp luật,
phương thức điều hành quản lý xã hội của ta hiện nay:
- Điều chỉnh việc dùng pháp luật một cách nghiêm minh đúng đắn, đặc biệt là
vấn đề phổ biến pháp luật của chúng ta hiện nay còn nhiều hạn chế và bất cập;
Dân chưa hiểu nhiều về pháp luật là tình trạng phổ biến;
- Cần xác định hiến pháp và pháp luật và tối thượng nhưng pháp luật của ta là
do nhân dân đề xuất soạn ra phản ánh đúng nguyện vọng của dân chứ không
phải của một nhóm đối tượng nào tạo ra để phục vụ lợi ích cho nhóm đó.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân, còn
thời phong kiến quyền lực thuộc về ông Vua; Pháp luật không sinh ra quyền
con người mà pháp luật chỉ là công cụ để đảm bảo quyền con người.
Giảng viên hướng dẫn: Học viên Thực hiện
TS Bùi Văn Mưa Dương Tiến Dũng
18
Ti
Ti


ểu luận Triết Học:

ểu luận Triết Học:
“Tư tưởng Triết học Pháp gia và những giá trị, hạn chế”
- Cũng cần hiểu rõ công dân cũng phải thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước,
chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật của mình nhất là các quan chức
của nhà nước (Vụ Tiên Lãng, Hải Phòng). Để đảm bảo các yêu cầu trên, nhà
nước pháp quyền nói chung phải có một thể chế thích hợp, để đảm bảo pháp
luật được thực thi và đảm bảo vai trò của các cơ quan hành pháp, lập pháp và
tư pháp. Quyền lực thống nhất phải có sự phân công kiểm soát giữa các cơ
quan; nhà nước phải hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ;
- Không ngừng trao dồi đạo đức của người cán bộ có như vậy mới mong giảm
bớt các hiện tượng quan tham, thoái hóa đạo đức gây mất lòng tin của người
dân vào Đảng cộng sản Việt Nam. Nước chỉ mạnh khi những người thi hành
pháp luật tạo ra một sự công bằng nghiêm túc theo pháp luật, cần phải có trạng
thái pháp luật tốt và cần phải có cán bộ cầm quyền trí tuệ có đạo đức. Nếu nói
có nền pháp trị mà không cần nhà lãnh đạo có đạo đức và trí tuệ là một
sai lầm. Hai yếu tố này kết hợp mới tạo sự thành công của một chế độ.
Trên đây là sự hiểu biết cũng như nhận thức rút ra được từ việc nghiên cứu
những giá trị hạn chế của trường phái Pháp gia mang lại. Bài viết nhằm mục đích
thống kê lại những tư tưởng cơ bản của Pháp gia sự vận dụng vào hiện thực xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì sự hiểu biết còn chưa bao quát, nên không
tránh khỏi các thiếu sót rất mong sự góp ý của thầy hướng dẫn và các bạn học cùng
khóa để đề tài nghiên cứu này được hoàn thiện và mang tính toàn diện bao quát và
sâu sắc hơn.
Trân trọng,
Ngày 24 tháng 02 năm 2012
HỌC VIÊN
Dương Tiến Dũng
Giảng viên hướng dẫn: Học viên Thực hiện
TS Bùi Văn Mưa Dương Tiến Dũng
19

Ti
Ti


ểu luận Triết Học:
ểu luận Triết Học:
“Tư tưởng Triết học Pháp gia và những giá trị, hạn chế”
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bùi Văn Mưa (Chủ biên); Triết Học – Phần I: Đại cương về lịch sử Triết
học, Tài liệu dùng cho Học viên cao học và nghiên cứu sinh, Lưu hành nội
bộ; Năm 2011;
2. Bùi Văn Mưa (Chủ biên); Triết Học – Phần II: Các chuyên đề Triết học
Mac – Lê Nin, Tài liệu dùng cho Học viên cao học và nghiên cứu sinh, Lưu
hành nội bộ; Năm 2011;
3. Doãn Chính (chủ biên); Đại cương Lịch sử Triết học Phương Đông cổ đại;
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia; Năm 1998;
4. Doãn Chính; Từ điển Triết học Trung Quốc; Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia; Năm 2009;
5. Hàn Phi; Hàn Phi Tử; Phan Ngọc (dịch); Nhà xuất bản văn học; Năm 2011;
6. Nguyễn Đăng Thục; Lịch sử Triết học Phương Đông; Nhà xuất bản Từ
Điển Bách Khoa; Năm 2006;
7. Nguyễn Hiến Lê – Giản Chi; Hàn Phi Tử; NXB Văn Hóa; Năm 1994;
8. Nguyễn Thị Kim Bình (Đại học Đà Nẵng); Tư tưởng trị nước của Pháp gia
và vai trò của nó trong lịch sử; Đăng trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ,
Đại học Đà Nẵng, Số 3 (26), Năm 2008;
9. Phùng Hữu Lan; Lịch sử Triết học Trung Quốc – Tập 1: Thời Đại Tử Học;
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội; Năm 2006; 7
10. Võ Thiện Điển; Hàn Phi Tử và sự thống nhất Trung Quốc cổ đại; Nhà xuất
bản Văn hóa Thông tin; Năm 2010; 3

11. Nguyễn Văn Vĩnh nói về học thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử: “Xây dựng
Nhà nước pháp quyền cần phải có trạng thái pháp trị tốt và nhà cầm quyền
trí tuệ”; được đăng tại: 11
Giảng viên hướng dẫn: Học viên Thực hiện
TS Bùi Văn Mưa Dương Tiến Dũng
20
Ti
Ti


ểu luận Triết Học:
ểu luận Triết Học:
“Tư tưởng Triết học Pháp gia và những giá trị, hạn chế”
Phần phụ lục:
Phần phụ lục:
1. Sơ đồ mô tả các nhân vật theo thời gian trong trường phái Pháp gia:
Giảng viên hướng dẫn: Học viên Thực hiện
TS Bùi Văn Mưa Dương Tiến Dũng
21
Ti
Ti


ểu luận Triết Học:
ểu luận Triết Học:
“Tư tưởng Triết học Pháp gia và những giá trị, hạn chế”
2. Sơ đồ mô tả sự hình thành Pháp gia từ Pháp – Thuật – Thế và vai trò
Pháp gia trong xã hội:
Giảng viên hướng dẫn: Học viên Thực hiện
TS Bùi Văn Mưa Dương Tiến Dũng

22

×