Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHẤT PHÁC HY LẠP CỔ ĐẠI & NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.4 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
o0o
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
TÊN ĐỀ TÀI:
CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHẤT PHÁC HY LẠP CỔ ĐẠI
& NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ.
Người thực hiện : NGUYỄN MINH HẢI
Lớp : Cao học QTKD –K21- Đêm 5
Số thứ tự: 46 – nhóm 5
Giảng viên HD : TS BÙI VĂN MƯA
TP. HCM năm 2012
PHẦN MỞ ĐẦU
Ngày nay, Triết học được hiểu là một hình thái ý thức xã hội, là học
thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức, là thái độ
của con người đối với thế giới, là khoa học về những qui luật chung nhất của
tự nhiên, xã hội và tư duy.
1
Nhiệm vụ đầu tiên mà học viên cao học phải
luyện tập là cách làm việc theo phương pháp nghiên cứu khoa học. Điều này
đồng nghĩa với việc mỗi chúng ta phải xây dựng cho mình thế giới quan tiến
bộ và nắm vững phương pháp luận khoa học, từ đó kết hợp với các kiến thức,
kỹ năng, phương tiện hỗ trợ khác để thực hiện tốt mục tiêu nghiên cứu của
mình. Chính vì vậy nghiên cứu triết học được xem là một trong những cách
tốt nhất giúp cho chúng ta có được kiến thức chung nhất về những qui luật
của tự nhiên, xã hội và tư duy, từ đó thể vận dụng vào thực tiễn những
phương cách khám phá vấn đề, lựa chọn phương pháp luận, phương pháp tư
duy phù hợp để giải quyết các vấn đề mà ta quan tâm.
Trong xu thế tất yếu của lịch sử
2
tư tưởng của nhân loại, ở nước ta triết


học Mác xít với chủ nghĩa duy vật biện chứng được chọn là nền tảng tư tưởng
trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế -chính trị -văn hóa xã hội. Có câu “Khoa
học không đến từ chân không”, không ngoại lệ, chủ nghĩa duy vật biện chứng
cũng có nguồn gốc khởi đầu là chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại, và để trở
thành hệ tư tưởng tiến bộ, kể từ khi hình thành, chủ nghĩa duy vật đã trãi qua
nhiều giai đoạn đấu tranh thăng trầm với chủ nghĩa duy tâm, đức tin tôn giáo.
Vì vậy, để có thể vận dụng được phép biện chứng duy vật một cách đúng đắn
và tránh được các sai lầm trong thực tiễn, thiết nghĩ trước tiên ta cần nghiên
cứu về chủ nghĩa duy vật cổ đại mà tiêu biểu là chủ nghĩa duy vật chất phác
Hy Lạp cổ đại. Với những nhận thức và suy nghĩ như trên, người viết chuyên
đề này sẽ tập trung nghiên cứu về chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại,
1
. Nguyễn Ngọc Thu & Bùi Văn Mưa: Giáo trình đại cương lịch sử triết học, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2003, tr5.
2
2. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh: Giáo trình Triết học Mác-Lê Nin, NXB Chính trị Quốc gia (tái bản), 2005, tr136 .
2
từ đó tìm hiểu những giá trị, hạn chế của nó và có những nhận định đánh giá,
rút ra bài học cho bản thân.
Chương I
TƯ TƯỞNG CƠ BẢN
CỦA TRIẾT HỌC DUY VẬT CHẤT PHÁC HY LẠP CỔ ĐẠI
I. Hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại
Hy Lạp cổ đại là một quốc gia rộng lớn bao gồm phần đất liền và vô số
hòn đảo lớn nhỏ trên biển Egie, vùng duyên hải Ban-Căng và Tiểu Á. Với địa thế
thuận lợi trong việc giao thương với các nước khu vực Tiểu Á, Bắc Phi và các
nước Phương Đông đã giúp cho kinh tế Hy Lạp cổ đại phát triển, giàu mạnh,
đồng thời hình thành một nền văn minh rực rỡ của nhân loại thời bấy giờ và được
đánh giá là cơ sở hình thành nên nền văn minh phương Tây hiện đại
3

. Đặc biệt về
tư tưởng, kể từ khi xuất hiện phân chia giai cấp trong xã hội Hy Lạp, giai cấp chủ
nô đã tìm cách xây dựng cho mình một hệ thống triết lý giải thích thế giới và vai
trò của con người nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình. C.Mác viết: “Các
nhà triết học không phải những cây nấm mọc trên đất. Họ là sản phẩm của thời
đại mình, dân tộc mình mà những tinh lực tinh tế nhất, quý giá nhất và khó nhìn
thấy nhất đã được suy tư trong các khái niệm triết học”
4
. Chính sự đặt hàng của
lịch sử đã thúc đẩy hình thành tầng lớp trí thức, những người trực tiếp khám phá
hoặc dựa trên các kết quả khám phá về khoa học tự nhiên, thiên văn, y học để
xây dựng các phương pháp tư duy lý luận, hình thành các hệ tư tưởng triết học
được coi là đỉnh cao của nền văn minh cổ đại với nhiều triết gia mà triết lý uyên
bác của họ trở nên bất hủ như Hêraclít (530-470 TCN), Đêmôcrít (460-370 TCN),
Platông (427-347 TCN), Arixtốt (384-322 TCN)
Trong bối cảnh nêu trên, các trường phái triết học theo chủ nghĩa duy vật chất
phác ra đời và là một bộ phận không thể tách rời của triết học Hy lạp cổ đại, gắn
liền với lịch sử Hy Lạp cổ đại nói chung và lịch sử triết học Hy Lạp nói riêng.
Trước hết ta cần làm rõ khái niệm chủ nghĩa duy vật chất phác. Chủ nghĩa duy
3
. Nguyễn Ngọc Thu & Bùi Văn Mưa: Giáo trình đại cương lịch sử triết học, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2003, tr64.
4
. />3
vật là khái niệm dùng để chỉ các hệ tư tưởng triết học thừa nhận vật chất có trước ý
thức và vật chất quyết định ý thức khi giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản
của mọi triết học là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại
5
. Thời cổ đại, do trình
độ tư duy phát triển chưa cao, khoa học chưa phát triển, nên các nhà triết học
chỉ dựa trên những quan sát trực tiếp, mang tính trực quan, cảm tính để khái

quát bức tranh chung của thế giới
6
mà hình thành phép biện chứng chất phác.
Phép biện chứng thể hiện ở phương pháp nhận thức đối tượng nghiên cứu trong
các mối liên hệ, ảnh hưởng ràng buộc nhau và luôn trong tình trạng vận động
biến đổi, phát triển không ngừng. Tính chất phác (ngây thơ) thể hiện ở việc họ
xây dựng lý luận dựa vào quan sát những hiện tượng cụ thể, trực kiến mà thiếu
những căn cứ chứng minh của nghiên cứu, thực nghiệm khoa học. Như vậy có
thể nói chủ nghĩa duy vật chất phác chính là những hệ tư tưởng triết học theo chủ
nghĩa duy vật, sử dụng phép biện chứng chất phác trong lý luận mà ở phạm vi bài
viết này đề cập là triết học duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại.
Các trường phái triết học theo chủ nghĩa duy vật của Hi lạp cổ đại có thể kể
ra như sau:
+ Trường phái nhất nguyên gồm:
* Trường phái Milê
* Trường phái Hêraclít.
+ Trường phái đa nguyên.
+ Trường phái nguyên tử luận, là đỉnh cao của triết học duy vật Hy lạp cổ đại.
II. Tư tưởng cơ bản của Triết học duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại.
1. Trường phái Milê
Milê là một đô thị sầm uất và là trung tâm thương mại lớn nằm ven biển
vùng Cận Đông của Hy Lạp cổ đại. Trường phái triết học Milê do ba nhà triết
học duy vật là Talét, Anaximăngđrơ, Anaximen xây dựng, nhằm làm sáng rõ bản
nguyên vật chất của thế giới
7
. Các nhà tư tưởng của trường phái Milê coi bản
nguyên vật chất của thế giới có nguồn gốc từ yếu tố đơn nhất (nhất nguyên) đầu
5
. Bộ giáo dục đào tạo: Giáo trình triết học Mác-Lê Nin, NXB Chính trị Quốc gia, (tái bản lần 2) 2005, tr14 .
6

. />7
. Nguyễn Ngọc Thu & Bùi Văn Mưa: Giáo trình đại cương lịch sử triết học, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2003, tr66.
4
tiên và do có sự vận động biến đổi trên nền tảng của nhất nguyên mà thành vạn
vật trong thế giới. Với quan điểm đó mỗi người trong họ lại có cách lý giải khác
nhau ở yếu tố bản nguyên của thế giới.
Talét (624-547 TCN) cho rằng “nước” là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của
vạn vật. Do Ông nhận thấy mọi sinh vật, sự vật từ hạt giống, thức ăn, thực vật đến
cơ thể sống đều ẩm ướt, và kể cả các châu lục cũng nổi trên đại dương, mà ẩm ướt
chính là dấu hiệu của nước. Cho nên theo Ông, nước tồn tại vĩnh viễn, vạn vật bắt
đầu từ nước sinh ra, biến đổi không ngừng, mất đi và quay trở về với nước như
một vòng tuần hoàn không ngừng nghỉ, nếu không có nước thì không có gì cả.
Talét đã thể hiện sự tiến bộ ở tư tưởng vô thần khi khẳng định bản chất vật chất
của thế giới và sự tồn tại, biến đổi của vạn vật là khách quan, không hề có thế lực
siêu nhiên nào tạo nên thế giới.
Cũng theo quan niệm nhất nguyên, nhưng Anaximăngđrơ (611-547 TCN) cho
rằng yếu tố hình thành nên thế giới là apeiron, là cái vô định hình
8
, bên trong chứa
đựng những lực lượng đối lập đấu tranh không ngừng như khô và ướt, nóng và
lạnh rồi kết hợp với nhau phức tạp sinh ra mọi vật có hình thể, tính chất khác
nhau như đất, nước, không khí, lửa và vạn vật. Ông cũng cho rằng vũ trụ không
ngừng phát triển, không ngừng hình thành, sản sinh ra những vật mới và sau đó,
các vật đối lập nhau sẽ hủy diệt nhau để trở về với apeiron
Trong khi đó, Anaximen (585-525 TCN) với câu nói nổi tiếng “Không khí là
bản nguyên của mọi sự vật hiện tồn”
9
, về mặt bản thể luận Ông xem không khí là
yếu tố khởi nguồn của thế giới, các hiện tượng sự vật như nước, đất, đá,… hay lửa
được không khí biến thành là nhờ vào năng lực tụ và tán. Ví như nhờ tụ mà đất đá

do nặng rơi xuống tạo thành tâm vũ trụ, trái lại do tán mà lửa nhẹ bay lên tạo thành
bầu trời.
Tóm lại, quan điểm nhất nguyên duy vật của trường phái Milê thể hiện sự tiến
bộ trong nhận thức nhân loại, không tin vào thần thoại truyền thống và tìm cách
8
. Nguyễn Ngọc Thu & Bùi Văn Mưa: Giáo trình đại cương lịch sử triết học, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2003, tr67.
9
. />5
giải thích thế giới một cách hợp lí từ bản thân thế giới tự nhiên chứ không phải là
từ bên ngoài nó
10
, phương pháp biện chứng còn mộc mạc, ngây thơ.
2. Trường phái Hêraclít
Hêraclít (530-470 TCN) là nhà triết học có quan điểm nhất nguyên luận rất nổi
tiếng ở Hy Lạp cổ đại với những tư tưởng biện chứng chứa đựng những ẩn dụ sâu
sắc: “mọi vật đều tồn tại nhưng đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi,
mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều luôn ở trong quá trình xuất hiện
và biến đi”
11
, “không ai tắm được hai lần trong cùng một dòng sông.”
Theo Ăng-ghen, người đầu tiên diễn đạt rõ ràng quan niệm chất phác về thế
giới là Hêraclít, người coi bản nguyên sinh ra tất cả mọi sự vật của thế giới là lửa-
cái đơn nhất tồn tại vĩnh hằng theo lôgốt (quy luật, trật tự) nội tại của chính nó, đó
là quá trình không ngừng bùng cháy và tàn lụi, tàn lụi và bùng cháy. Tất cả đều
được trao đổi với lửa và lửa trao đổi với tất cả như vàng thành hàng hóa và hàng
hóa thành vàng
12
. Sự chuyển hóa của vạn vật không phải do Thượng đế hay một
lực lượng siêu nhiên nào tạo ra mà luôn luôn là lửa và tuỳ theo độ của lửa tạo nên
sự biến hóa: lửa sống nhờ đất chết, không khí sống nhờ lửa chết, nước sống nhờ

không khí chết, đất sống nhờ nước chết
13
. Đây là quan niệm duy vật nhấn mạnh
tính vận động vĩnh viễn và bất diệt của thế giới khách quan.
Hêraclít đã có những phỏng đoán thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập. Lô-gốt chính là sự thống nhất của các mặt đối lập, thế giới vật
chất vừa đa dạng vừa thống nhất, bao gồm các sự vật, hiện tượng chứa đựng trong
mình các mặt đối lập
14
, sự đấu tranh liên tục của các mặt (lực lượng) đối lập trên
cơ sở sự hài hòa nhất định của lô-gốt chính là cha đẻ của tất cả vạn vật trong vũ
trụ. Ông cho rằng mọi đối lập tạo nên một chỉnh thể thống nhất và các điều đối
lập nối tiếp nhau, tạo ra tính chu kỳ và tính lặp lại nhất định. Các mặt đối lập giả
10
.
11
. />12
. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh: Giáo trình Triết học Mác-Lê Nin, NXB Chính trị Quốc gia (tái bản), 2005, tr76 .
13
. />14
. Nguyễn Ngọc Thu & Bùi Văn Mưa: Giáo trình đại cương lịch sử triết học, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2003, tr68.
6
định lẫn nhau nhưng và không thể có được nếu thiếu nhau chứ không phải là sự
trùng hợp nhau tuyệt đối:chẳng hạn, không thể quí sức khỏe nếu không biết mặt
đối lập của nó là bệnh
15
.
Bên cạnh đó, Hêraclít còn đưa ra quan niệm đúng đắn về nhận thức luận. Ông
đánh giá cao vai trò của giác quan trong nhận thức qua câu nói “Tôi thích cái gì

mà có thể nhìn thấy được và nghe thấy được”
16
. Tuy nhận thức cảm tính là quan
trọng nhưng không được tuyệt đối hóa cảm tính mà phải có đầu óc sáng suốt để tư
duy, lý tính để hiểu được chân lý tối cao của thế giới đó là lô-gốt, tức là hiểu được
cái quy luật, trật tự của vũ trụ, phát hiện ra tính hài hòa và xung đột của những
mặt đối lập tồn tại trong các sự vật, hiện tượng đa dạng trong thế giới.
17
Hêraclít
chống lại chủ nghĩa duy tâm khi đưa ra luận điểm linh hồn con người cũng chỉ là
biểu hiện của lửa nhưng do trong con người còn có cả những chổ ẩm ướt tồn tại
như mặt đối lập của lửa. Sự đấu tranh của hai mặt đối lập sinh ra người tốt - kẻ
xấu, người khôn – kẻ ngu…tùy theo sự thắng thế của lửa hoặc cái ẩm ướt. Ông
cũng chỉ ra rằng con người cần nhận thức được lôgốt để suy nghĩ, nói và hành
động tuân theo những quy luật vận động khách quan của thế giới tự nhiên.
Tóm lại, dù chưa trình bày các quan niệm biện chứng thành một hệ thống,
nhưng trên cơ sở bản thể luận duy vật đơn nguyên, Hêraclít đã có những đóng góp
to lớn cho nhân loại khi nâng tầm chủ nghĩa duy vật chất phác lên một bước phát
triển rõ nét, hầu hết các luận điểm cốt lõi của phép biện chứng đều đã được Ông
đề cập đến dưới dạng danh ngôn, tỷ dụ, hay những phát biểu mang tính chất triết
lý sâu sắc
18
đặc biệt là lý luận sơ khai về quy luật thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập.
3. Trường phái đa nguyên
Trường phái đa nguyên do Empêđốc khởi xướng trên quan niệm thế giới vật
chất không phải chỉ do một yếu tố duy nhất tạo thành mà có bốn yếu tố khởi
nguyên và Anaxago khái quát hóa các yếu tố cụ thể thành các hạt giống chứa đựng
tính chất của sự vật.
15

. />16
. />17
&18. Ng Ngọc Thu & Bùi V Mưa:Giáo trình đại cương lịch sử triết học, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2003, tr68-69.
18
7
Empêđốc (~490-430 TCN) xuất phát từ việc thừa nhận sự tồn tại của bốn
khởi nguyên của vạn vật là: đất, nước, không khí, lửa. Mỗi yếu tố có đặc điểm độc
lập, bất biến. Ông đã gán cho các yếu tố trên những thuộc tính của con người khi
giải thích sự kết hợp của chúng là do sự tác động của hai loại lực là tình yêu và hận
thù. Dưới tác dụng của các lực tình yêu và hận thù, đồng thời tùy theo liều lượng
các yếu tố đất, nước, không khí, lửa mà vạn vật được tạo ra hay mất đi hết sức đa
dạng và phong phú. Với quan điểm này, Empêđốc giải thích sự vận động của thế
giới như là một chu trình liên tục khi tình yêu chiến thắng và ngự ở tâm vũ trụ,
hận thù bị thất bại và bị đẩy ra ngoài biên, vũ trụ như một quả cầu duy nhất, đồng
nhất, thống nhất, không phân chia.
19
Khi hận thù lớn mạnh nó sẽ tiến vào độc
chiếm tâm vũ trụ đẩy tình yêu ra ngoài biên và thế giới bị phân hóa thành yếu tố
căn nguyên ban đầu, chỉ đến khi tình yêu lớn mạnh quay về chiếm tâm vụ trụ thì
bốn yếu tố đất, nước, không khí, lửa lại kết hợp với nhau tạo nên sự vật mới.
Anaxago (~500-428 TCN) cho rằng vạn vật sinh ra từ vô số hạt giống không
đồng nhất và có thể được phân chia đến vô cùng. Tuy nhiên, dù trong mỗi cái
chứa mọi cái
20
nhưng đặc tính của mỗi sự vật lại chỉ do hạt giống của chính nó, với
liều lượng chiếm ưu thế trong sự vật, qui định như là mầm nào sẽ sinh ra giống
nấy.
21
Thế giới vật chất biến đổi là do động lực Nus (trí tuệ thuần khiết hay linh
hồn thế giới) đưa thế giới thoát khỏi sự hỗn độn, làm cho các hạt giống trong sự

vật sinh sôi, nẩy nở thay thế phần lớn các hạt giống trong sự vật, kết quả làm cho
sự vật biến đổi về chất. Nus cũng là quá trình nhận thức bản thân thế giới.
Tóm lại, Empêđốc và Anaxago đã thể hiện quan điểm duy vật, đa nguyên của
họ về nguồn gốc thế giới tuy còn ở mức độ sơ khai hạn chế. Những hạn chế này
được khắc phục trong thuyết nguyên tử luận.
4. Trường phái nguyên tử luận
Thuyết nguyên tử do Lơxíp đặt nền móng, Đêmôcrít là người phát triển thành
một hệ thống lý luận chặt chẽ và Êpicua, vào thời La Mã thôn tín Hy Lạp, là người
củng cố và bảo vệ thuyết nguyên tử .
19
,20&21.Ng Ngọc Thu & Bùi V Mưa:Giáo trình đại cương lịch sử triết học, NXB Tổng hợp TP.HCM,
2003, tr69-70.
20
21
8
Lơxíp (~500-440 TCN) cho rằng thế giới vật chất được tạo thành từ những
phần tử rất nhỏ bé được gọi là nguyên tử. Ngoài nguyên tử còn có môi trường chân
không, cả nguyên tử và chân không cùng tồn tại và là khởi nguyên của thế giới. Sự
vận động biến đổi của thế giới vật chất được Ông giải thích là do có những cơn lốc
xoáy của các nguyên tử xảy ra trong chân không vũ trụ làm cho các nguyên tử
cùng kích thước tụ lại với nhau theo từng loại để tạo nên đất, nước, lửa, không
khí
22
. Ông quan niệm vạn vật sinh ra và mất đi theo luật nhân quả “Không có
sự vật nào phát sinh một cách vô cớ, mà tất cả đều phát sinh trên một căn cứ nào
đấy và do tính tất nhiên”.
23
Đêmôcrít (460-370 TCN) đã hệ thống hóa và phát triển thuyết nguyên tử tạo
thành một hệ thống lý luận chặt chẽ bao gồm các nội dung về bản chất của thế
giới, khả năng nhận thức thế giới của con người và quan niệm về vấn đề đạo đức-

xã hội được đánh giá là đạt đến đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thời Hi Lạp cổ đại.
Lý luận về bản chất của thế giới, Ông mô tả nguyên tử là những hạt vật chất
cực nhỏ, giống nhau về chất nhưng khác nhau về kích thước, hình dạng, nằm ở
nhiều tư thế khác nhau mắt thường không nhìn thấy được. Nguyên tử tồn tại vĩnh
viễn, không phân chia được, không biến đổi và luôn vận động. Thống nhất với
quan điểm của Lơxíp, Đêmôcrít khẳng định sự tồn tại của môi trường chân không
vô tận được hiểu dưới khái niệm mới là “không gian”, nơi mà các nguyên tử vận
động biến đổi không ngừng tuân theo luật nhân quả và tính quy luật của các hiện
tượng tự nhiên
24
. Các nguyên tử khi vận động sẽ va chạm nhau, hình thành các lốc
xoáy gây nên hiện tượng tụ vào hoặc tách ra theo xu hướng nguyên tử to nặng sẽ
tiến vào tâm, nguyên tử nhỏ, nhẹ sẽ hướng ra ngoài, tạo ra những cấu trúc vật chất
đa dạng theo các lớp nguyên tử cùng loại làm cho sự vật bao gồm cả vũ trụ và sự
sống con người xuất hiện hoặc mất đi, tức là không do thần thánh hay ai đó sáng
tạo ra. Đối với nguồn gốc của loài người, Đêmôcrít cũng đưa ra các luận điểm sơ
khai nhưng đúng đắn để giải thích sự xuất hiện tiến hóa của sự sống mà sau này đã
22
&25. Ng Ngọc Thu & Bùi V Mưa:Giáo trình đại cương lịch sử triết học, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2003,
tr71,73.
23
. />24
. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh: Giáo trình Triết học Mác-Lê Nin, NXB Chính trị Quốc gia (tái bản), 2005, tr78 .
9
được Thuyết tiến hóa của Đác-Uyn minh chứng.
Để trả lời câu hỏi về khả năng nhận thức thế giới của con người, Đêmôcrít
chia nhận thức của con người thành nhận thức cảm tính thông qua các giác quan,
là tiền đề của nhận thức lý tính (nhận thức sáng suốt
25

) do quá trình tư duy đem lại
giúp cho con người phát hiện ra chân lý. Đêmôcrít đề cao nhận thức lý tính và
được xem là người đầu tiên phát biểu về nội dung lôgích học với các phương pháp
nhận thức lô-gích như quy nạp, so sánh, giả thuyết, định nghĩa.
26

Lý giải về các vấn đề đạo đức, xã hội, Đêmôcrít đứng trên quan điểm của tầng
lớp chủ nô dân chủ đề xuất ra các chuẩn mực của một xã hội hạnh phúc, vinh
quang, tự do, dân chủ, đề cao những hành động vị nghĩa cao thượng của con
người, chống lại sự giàu có quá đáng, sự trục lợi bất lương. Xã hội đó có đặc điểm
dựa trên nền sản xuất thủ công và phát triễn thương mại; quản lý nhà nước phải
theo pháp luật và có nghệ thuật gắn liền với tình thân ái, với tính ôn hòa và lợi ích
chung của công dân tự do.
27
. Tuy nhiên Ông vẫn bị ảnh hưởng của giai cấp khi
cho rằng đạo đức trong xã hội là nô lệ phải tuân theo mệnh lệnh của ông chủ.
Êpicua (341-270 TCN) cơ bản thống nhất với Đêmôcrít về thuyết nguyên tử
và Ông bổ sung thêm rằng nguyên tử có trọng lượng và sự vận động của thế giới
vật chất vừa mang tính tất nhiên vừa mang tính ngẫu nhiên. Trên quan điểm vô
thần, Ông đặc biệt quan tâm đến tâm lý học về nhân cách con người và những
vấn đề đạo đức. Ông nói: “Lời nói của nhà triết học là vô ích nếu nó không chữa
khỏi được cái khổ của tâm hồn”
28
. C.Mác đặc biệt đánh giá cao ý tưởng của
Êpicua muốn vươn tới sự tự do và độc lập về tinh thần, muốn thoát khỏi những
xiềng xích ràng buộc của tôn giáo và mê tín
29
khi phủ nhận sự can thiệp của thần
thánh, và khuyên con người nên dừng ở mức vừa phải, không thái quá và biết giữ
gìn sức khỏe để có thể vượt qua mọi nỗi bất hạnh

30
.
Tóm lại, trường phái nguyên tử luận đứng trên quan điểm duy vật, vô thần đã
xây dựng và cũng cố được hệ thống lý luận khá chặt chẽ nhằm giải quyết hai mặt
25
26
,27&30. Nguyễn Ngọc Thu & Bùi V Mưa:Giáo trình đại cương lịch sử triết học, NXB Tổng hợp TP.HCM,
2003, tr73-74.
27
28
.Nguyễn Quang Điển: Đề cương bài giảng Triết học />29
. />30
10
của vấn đề cơ bản của triết học với sự đột phá thoát ra khỏi sự ảnh hưởng của đức
tin, tôn giáo và chống lại lập luận của chủ nghĩa duy tâm, cho dù phép biện chứng
còn chất phác nhưng đã thể hiện tầm nhìn đi trước thời đại, thể hiện nhân sinh
quan tiến bộ, đưa triết học duy vật đạt đến đỉnh cao của thời đại, cống hiến nhiều
học thuyết giá trị cho kho tàng tri thức nhân loại.
Chương II
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ
I. Giá trị
- Chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại đã thể hiện được sự tiến bộ của tư tưởng
loài người bằng thế giới quan duy vật không dựa vào cái siêu nhiên hay lòng
tin
31
, dũng cảm thoát ra khỏi sự ảnh hưởng của quan điểm đức tin tôn giáo, xây
dựng được hệ thống lý luận ngày càng chặt chẽ, đủ sức đương đầu với chủ nghĩa
duy tâm thời bấy giờ.
- Khẳng định sự tồn tại khách quan, vĩnh viễn và vô tận của thế giới vật
chất. Với phép biện chứng ngây thơ các nhà triết học duy vật Hy lạp cổ đại đã

thấy được mối liên hệ và tính thống nhất của vật chất trong thế giới tự nhiên mặc
dù họ lý giải nguồn gốc hình thành thế giới từ một hay một số các yếu tố cụ thể.
- Tư tưởng triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đã khẳng định khả năng nhận
thức thế giới của con người. Thời kỳ đỉnh cao họ đã khẳng định đối tượng của
nhận thức là vật chất, là thế giới xung quanh con người và nhờ sự tác động của
đối tượng nhận thức vào con người nên con người mới có nhận thức cảm tính
thông qua các giác quan, là tiền để cho nhận thức lý tính do khả năng tư duy của
con người đem lại. Đây là hình thức sơ khai về lý luận mà ngày nay chủ nghĩa
duy vật biện chứng gọi là quá trình nhận thức từ trực quan sinh động
32
đến tư
duy trừu tượng.
- Các nhà Triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đã thấy được sự tồn tại thống
nhất và đấu tranh chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập làm cho sự vật vận
động biến đổi theo quá trình liên tục tuân theo các qui luật, yếu tố khách quan mà
31
. Bùi Văn Mưa, Lê Thanh Sinh:Triết học phần II, Tài liệu tham khảo dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không
thuộc chuyên ngành triết học (lưu hành nội bộ). Đại học Kinh tế TP.HCM, 2008, tr10.
32
. Bộ giáo dục đào tạo: Giáo trình triết học Mác-Lê Nin, NXB Chính trị Quốc gia, (tái bản lần 2) 2005, tr301 .
11
sau này được chủ nghĩa duy vật biện chứng phát triển thành qui luật thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập.
- Quan niệm “Trong mỗi cái chứa mọi cái” là một ý tưởng biện chứng khá
độc đáo mà khoa học hiện đại đang khai thác,
33
đồng thời ẩn chứa mầm mống lý
luận về cặp phạm trù cái riêng- cái chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Ở thời kỳ đỉnh cao, chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại xây dựng quan niệm
về tính tất nhiên và tính ngẫu nhiên trong quá trình chi phối sự vận động của vật

chất, là cơ sở vừa chống lại các quan điểm phủ nhận tính quy luật tất yếu, vừa
chống lại thuyết định mệnh và cũng là quan niệm sơ khai về cặp phạm trù tất
nhiên- ngẫu nhiên của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Họ cũng đưa ra những luận
điểm về luật nhân quả là cơ sở của cặp phạm trù nguyên nhân-kết quả. Ngoài ra, ý
tưởng sơ khai của “qui luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những
thay đổi về chất, và ngược lại” được thể hiện trong lý luận về hạt giống, theo đó sự
vật biến hóa về chất là do kết quả thay thế phần lớn các hạt giống trong chúng
34
.
- Mặc dù chịu sự chi phối về mặt lợi ích của giai cấp thống trị, nhưng các
nhà tư tưởng duy vật Hy Lạp cổ đại đã thể hiện sự tiến bộ về mặt đạo đức xã hội
khi đề đạt mô hình nhà nước pháp trị, dân chủ với mục đích đem lại hạnh phúc, tự
do cho con người, phê phán những bất công, trục lợi bất lương; đề ra chuẩn mực
về hạnh phúc của con người là sống đúng mực, ôn hòa, không gây hại cho mình và
cho người, con người nên sống trong sự hưởng lạc vừa phải trong sự thanh thản
của tâm hồn tự do
35
.
- Triết học duy vật Hy Lạp cổ đại vừa chứa đựng vừa bổ sung nhiều nội
dung cơ bản các ngành khoa học của Hy Lạp như thiên văn, toán học, y học như:
các khái niệm về nguyên tử và môi trường chân không, các phương pháp nhận
thức về lô-gích, giải thích sự sống là kết quả của quá trình biến đổi dần dần từ
thấp đến cao của tự nhiên, nhu cầu vật chất là động lực phát triển xã hội loài
người. Đặc biệt là nhiều câu nói triết lý mang giá trị vượt thời gian: "Người ta
33
. Nguyễn Ngọc Thu & Bùi V Mưa:Giáo trình đại cương lịch sử triết học, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2003, tr70.
34
&35 Nguyễn Ngọc Thu & Bùi V Mưa:Giáo trình đại cương lịch sử triết học, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2003,
tr70,74.
35

12
không thể tắm hai lần trên một dòng sông.", "Mặt trời luôn luôn luôn đổi mới và
vĩnh viễn đổi mới.", "Cái tồn tại tồn tại, cái không tồn tại cũng tồn tại."
- Không chỉ đóng góp những lý luận giải quyết những vấn đề cho xã hội
đương thời mà các nhà triết học duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại đã đặt ra những
vấn đề mà triết học và khoa học đời sau phải giải đáp
36
.
II. Hạn chế
- Triết học trong giai đoạn cổ đại bị hạn chế nhất định về trình độ khoa
học nên thế giới quan duy vật chất phác thường đồng nhất vật chất với vật thể cụ
thể
37
là sự kết hợp của trực quan và phỏng đoán mà thiếu những chứng cứ dựa
trên kết quả nghiên cứu khoa học do đó phải chịu nhiều thăng trầm trong quá
trình đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm và đức tin, tôn giáo.
- Lý luận duy vật còn chưa triệt để nên đôi khi còn những khái niệm mang
ảnh hưởng của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo như “linh hồn”, “tình yêu”, “hận
thù”. Điều này cũng thể hiện các trào lưu tư tưởng nhân loại không chỉ loại bỏ
lẫn nhau mà còn đan xen, thâm nhập và kế thừa lẫn nhau trong quá trình đấu
tranh tồn tại.
- Phép biện chứng còn chất phác, sơ khai dựa trên những yếu tố đơn lẻ, rời
rạc mà chưa thành hệ thống phạm trù quy luật, chưa thấy được hết khả năng của
con người trong việc cải tạo biến đổi thế giới.
- Chưa lý giải được nguồn gốc vận động của thế giới vật chất. Trong lý
luận về sự vận động mới chỉ thấy được vòng biến đổi lặp lại mà không thấy được
sự phát triển theo đường xoắn ốc của thế giới. Chưa giải thích được các hiện
tượng tinh thần cũng như mối quan hệ giữa cái tinh thần và cái vật chất
38
.

- Các nhà tư tưởng duy vật chất phác còn chịu ảnh hưởng phần nào bởi
thế giới quan, ý thức hệ của giai cấp chủ nô thống trị, vì bảo vệ quyền lợi giai cấp
chủ nô nên không thoát hẳn được vòng luẩn quẩn của sợi dây lợi ích, do đó chưa
36
. Bùi Văn Mưa, Lê Thanh Sinh:Triết học phần II, Tài liệu tham khảo dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không
thuộc chuyên ngành triết học (lưu hành nội bộ). Đại học Kinh tế TP.HCM, 2008, tr10.
37
&38. Bùi Văn Mưa, Lê Thanh Sinh:Triết học phần II, Tài liệu tham khảo dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh
không thuộc chuyên ngành triết học (lưu hành nội bộ). Đại học Kinh tế TP.HCM, 2008, tr10.
38
13
thấy được tính tất yếu của việc giải phóng con người hoàn toàn tự do khỏi chế độ
nô lệ là phải thực hiện triệt để cách mạng dân chủ.
- Chính phép biện chứng còn ngây thơ chất phác nên sau giai đoạn phát
triển rực rở đã không đứng vững và bị phép siêu hình xuất hiện từ nửa cuối thế kỉ
XV thay thế.
14
KẾT LUẬN
Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại tồn tại và đấu tranh không
ngừng với chủ nghĩa duy tâm như một tất yếu của qui luật thống nhất và đấu
tranh của hai mặt đối lập trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Trong quá trình đó,
chủ nghĩa duy vật chất phác đã thể hiện được thế giới quan đúng đắn về nguồn
gốc vật chất của thế giới và khả năng nhận thức thế giới của con người. Các nhà
tư tưởng duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại chẳng những đã góp phần to lớn trong
việc xây dựng, phát triển xã hội đương thời mà còn đóng góp cho kho tàng tri
thức nhân loại nhiều học thuyết và triết lý hết sức có giá trị; nhiều lý luận là cơ
sở cho triết học duy vật biện chứng ngày nay và không ít vấn đề còn đang được
khoa học ngày nay nghiên cứu.
Bản thân người viết chuyên đề này cho rằng việc nắm bắt được tư tưởng cơ
bản của triết học duy vật chất phác là tiền đề để có thể hiểu được lý luận cơ bản

của Triết học Mác-Lê Nin- nền tảng cho hệ tư tưởng chính trị xã hội ở nước ta.
Đây là khởi đầu quá trình rèn luyện hình thế giới quan và phương pháp luận khoa
học giúp cho quá trình học tập, nghiên cứu khoa học của người viết có nhiều
thuận lợi. Hiểu được nguồn gốc cũng như những giá trị, hạn chế của chủ nghĩa
duy vật chất phác, chúng ta tránh được quan niệm phủ nhận sạch trơn cho rằng
phép biện chứng chất phác là không còn phù hợp. Trái lại trong nghiên cứu khoa
học cụ thể chúng ta rất cần nguyên tắc đơn giản, nghĩa là một lý thuyết càng đơn
giản càng tốt
39
, điều này rất phù hợp nếu biết vận dụng khéo léo phương pháp
luận duy vật chất phác nhằm diễn giải các vấn đề được rõ ràng, trực quan hơn,
nhất là khi áp dụng khoa học vào cuộc sống rất cần diễn đạt và viện dẫn kiến
thức khoa học bằng các hình tượng, sự kiện đời thường nhằm giúp cho tri thức có
thể đến được với nhiều tầng lớp trong xã hội.
Tóm lại những giá trị và hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ
đại vẫn mãi mãi là bài học lớn cho chúng ta và nhiều thế hệ tiếp tục nghiên cứu
và vận dụng.
39
. Nguyễn Đình Thọ: Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh-Thiết kế và thực hiện. NXB Lao động xã hội,
2011, tr46.
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
. Bộ giáo dục đào tạo: Giáo trình triết học Mác-Lê Nin, NXB Chính trị Quốc gia,
(tái bản lần 2), 2005.
2. Bùi Văn Mưa, Lê Thanh Sinh:Triết học phần II, Tài liệu tham khảo dùng cho
học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học (lưu
hành nội bộ). Đại học Kinh tế TP.HCM, 2008.
3. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa
học Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình Triết học Mác-Lê Nin,
NXB Chính trị Quốc gia (tái bản), 2005.

4. Nguyễn Đình Thọ: Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh-Thiết
kế và thực hiện. NXB Lao động xã hội, 2011.
5. Nguyễn Ngọc Thu & Bùi Văn Mưa: Giáo trình đại cương lịch sử triết học,
NXB Tổng hợp TP.HCM, 2003.
6. Nguyễn Quang Điển: Đề cương bài giảng Triết học />act=Attach&type=post&id=1978.
7. />8. />9. />633342634903866250/150-Nha-thong-thai/Anaximen.htm.
10.
11. />12. />13. />4. />79.
5. />co_id=30681&cn_id=232461
Mục lục
16
Phần mở đầu

1
Chương I Tư tưởng cơ bản của Triết học duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại

2
I. Hoàn cảnh ra đời của Triết học duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại

2
II. Tư tưởng cơ bản của Triết học duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại

3
Chương II Những giá trị và hạn chế

10
I. Giá trị

10
II. Hạn chế


12
Kết luận

13
Tài liệu tham khảo


14
Biên bản họp nhóm 5
17

18

×