Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.8 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI NHÓM 6:
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP
CỔ ĐẠI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

SVTH : NGUYỄN NGỌC HIẾU
STT : 56 - Lớp: Cao học Đêm 5 - K21
GVHD :TS BÙI VĂN MƯA
Tp HCM, ngày 24 tháng 2 năm 2012
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN
HY LẠP CỔ ĐẠI 2
6. Quan niệm về chính trị – xã hội được áp dụng nhiều nơi trên thế giới: 12
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: BÙI VĂN MƯA
MỞ ĐẦU
Triết học Hy Lạp cổ đại là khúc dạo đầu cho một bản nhạc hợp xướng của
triết học phương Tây. Một giai đoạn lịch sử, khởi nguyên của triết học nhân loại,
làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống triết học phương Tây sau này. Những đôi tay
vàng trong bản hợp xướng đầu tiên đó được phản ánh qua những triết gia dệt nên
những trang bất hủ bởi thời gian. Một trong những đôi tay đẹp hơn tất cả đôi tay
ở Hy Lạp cổ đại đó là Platông. Ông đã để lại cho hậu thế những tư tưởng bất hủ
về tư tưởng chủ nghĩa duy tâm khách quan của mình; góp phần đưa nền triết học
thế giới từ giai đoạn cổ điển phát triển thành chủ nghĩa duy vật khoa học hiện
đại.
Thông qua việc tiến hành tìm hiểu, tham khảo những quyển sách như: 1)
Bùi Văn Mưa chủ biên, Triết học – Phần 1 – Đại cương về lịch sử triết học (tài
liệu dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành
triết học của trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh), 2011; 2) Norman


F.Cantor, Nền văn minh thế giới cổ đại, Kiến Văn và Khắc Vinh biên dịch,
NXB Lao Động Xã Hội, 2008; 3) Tô Mộng Vi, Tìm lại nền văn minh Hy Lạp cổ
đại, Nguyễn Kim Dân biên dịch, NXB Lao động, 2010; 4) Vũ Dương Minh chủ
biên, Lịch sử văn minh thế giới cổ đại, NXB Giáo Dục Việt Nam, 2011; 5) Will
Durant, Câu chuyện triết học, Trí Hải và Bửu Đích biên dịch, NXB Văn hóa
thông tin, 2008; cùng một số trang web, tài liệu khác chúng ta sẽ nghiên cứu về
“chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại và những giá trị hạn chế của nó”
mà tiêu biểu là nhà triết học Platông.
Qua đây, tôi cũng chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy - TS Bùi Văn
Mưa đã hướng dẫn tôi cũng như các bạn trong nhóm triết 6 hoàn thành tiểu luận
nghiên cứu này.
SVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU 1
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: BÙI VĂN MƯA
CHƯƠNG I
NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY
TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI:
Văn minh Hy Lạp cổ đại phát triển rất rực rỡ, nó phong phú trong nhiều
lãnh vực như: kinh tế, xã hội, khoa học, văn học, nghệ thuật, và đặc biệt là về
triết học. Điều đó có thể giải thích bằng tính chất điển hình của chế độ chiếm hữu
nô lệ. Như Ăng-ghen nói: “nếu không có chế độ nô lệ, thì cũng không có nhà
nước Hy Lạp, không có khoa học và nghệ thuật Hy Lạp”.
Do sự phát triển của sản xuất, thế giới quan cũ có tính chất tôn giáo, thần
thoại dần nhường chỗ cho những hiểu biết khoa học về con người, vũ trụ. Trên
cơ sở đó, triết học với tư cách là khoa học bao quát mọi tri thức ra đời.
Trường phái triết học duy tâm khách quan được xây dựng bởi Xôcrát và
Platông. Nó thể hiện lập trường chính trị của tầng lớp chủ nô bảo thủ chống lại
nền dân chủ Athen và hệ thống triết học duy vật của trường phái nguyên tử luận.
Platông là đại biểu lớn nhất của chủ nghĩa duy tâm thời Hy Lạp cổ đại. Ông
trở thành kiệt xuất nhất bởi quan niệm triết học duy tâm khách quan của mình.

Ông xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là: “thuyết ý
niệm” (giới tự nhiên bắt nguồn từ ý niệm), với giá trị bên trong là phép biện
chứng của khái niệm và nhiều tư tưởng sâu sắc khác về tư tưởng, đạo đức, chính
trị, xã hội.
II. NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN:
1. Xôcrát:
Xôcrát xuất thân trong một gia đình khá giả ở Aten. Ông hướng về chính
thể chủ nô quý tộc chống lại chủ nô dân chủ. Năm 399 BC, ông bị chủ nô dân
chủ kết án tử hình về tội “coi thường luật pháp, chống lại chế độ bầu cử dân
chủ”. Ông không viết một tác phẩm nào, chúng ta chỉ biết về ông chủ yếu qua
các tác phẩm của Platông và Arixtốt [Aristotle (384 – 322 TCN)]. Ông là nhà
SVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU 2
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: BÙI VĂN MƯA
triết học “đối thoại” vì đối với ông, chỉ có văn nói mới sống động, còn những gì
người ta viết ra thì đã bị khô cứng.
Triết học của ông khác với các nhà triết học trước đó. Các nhà triết học
trước nghiên cứu về giới tự nhiên nhưng ông dành phần lớn vào việc nghiên cứu
về con người, về đạo đức, về nhân sinh quan. Triết học không gì khác hơn là sự
nhận thức của con người về chính mình. Vì vậy, quan điểm triết học của ông bàn
đến vấn đề con người trong đời sống xã hội mà trước hết là hành vi đạo đức.
Xôcrát tìm cách khám phá ra các chân lý chung cho con người trong các
cuộc đàm thoại, theo ông để có cuộc đàm thoại được, những người tham gia cuộc
đàm thoại phải có “ngôn ngữ chung” nhất định, ngôn ngữ đó mang tính khách
quan, nhờ đó con người mới khám phá ra chân lý một cách đích thực mà ai cũng
phải thừa nhận. Theo ông ý thức của con người trong cuộc đàm thoại, ngoài yếu
tố chủ quan, còn có một nội dung khách quan, có tri thức phổ biến mang tính
tổng quát. Đó là những tri thức chung mà mỗi con người chúng ta có được bằng
nỗ lực của mình. Xôcrát cho rằng tri thức chung đó là chân lý khách quan thu
được trong các cuộc đàm thoại mà ai cũng phải thừa nhận. Nên ý kiến chủ quan
của mỗi người không phải là tiêu chuẩn của chân lý. Theo ông khám phá ra chân

lý đích thực về bản chất sự vật tức là phải hiểu nó có khái niệm. Nếu không có
khái niệm xem như không có tri thức. Một vấn đề được lý luận rõ ràng, có lôgíc
dễ thuyết phục.
Nhận thức luận của ông chủ yếu là thể hiện qua đạo đức của con người.
Đạo đức học của ông mang tính chất duy lý, ông thừa nhận đạo đức và tri thức
thống nhất là một, mỗi hành vi vô đạo đức đều là kết quả của sự dốt nát. Ông cho
rằng cái thiện phổ biến là cơ sở của đạo đức, là tiêu chuẩn của đức hạnh, muốn
tuân thủ theo cái thiện thì phải nắm bắt được nó, hiểu nó, để phát hiện được cái
phổ biến, phải có phương pháp tìm ra chân lý thông qua các cuộc tranh luận.
Theo Xôcrát có 4 phương pháp:
SVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU 3
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: BÙI VĂN MƯA
+ Một là “mỉa mai” đây là một thủ pháp phản biện bằng cách nêu lên
những câu hỏi mẹo, hỏi vặn, hỏi châm biếm nhằm làm cho đối
phương sa vào mâu thuẫn với ý kiến của mình.
+ Hai là “đỡ đẻ” đây là thủ pháp đi liền với thủ pháp thứ nhất, tức là
giúp đối phương thấy được con đường để tự mình khám phá ra đến
chân lý, đạt tới tri thức đúng trừ bỏ quan điểm sai.
+ Ba là “quy nạp” mục đích của yếu tố này là từ những cái riêng lẻ
khái quát lên thành cái chung, có ý nghĩa phổ biến; nghĩa là từ những
hành vi đạo đức cụ thể, riêng lẻ phải phân tích, so sánh để tìm ra cái
thiện phổ biến của mọi hành vi đạo đức.
+ Bốn là “xác định” chủ yếu chỉ ra những hành vi đạo đức thuộc loại
nào, chúng có phụ thuộc và quan hệ với nhau như thế nào. [1, trang
106].
Bốn bước này quan hệ chặt chẽ với nhau trên bước đường tìm kiếm tri thức
chân thật giúp con người sống đúng với tư cách và phận sự của mình trong đời
sống xã hội.
Về chính trị Xôcrát chủ trương việc trị nước không nên do nhiều người mà
phải do những nhà thông thái có tài năng và đạo đức, nói một cách khác là do

một số quý tộc. Chủ trương đó trái với nguyên tắc cơ bản của chế độ dân chủ của
Aten bấy giờ.
Chủ nghĩa duy tâm Xôcrát thể hiện trước hết việc tách các khái niệm ra
khỏi chủ thể nhận thức. Khái niệm trong cách hiểu của ông chỉ là kết quả của
những nỗ lực tinh thần, không đơn giản là hiện tượng chủ quan, mà là một hiện
thể khách quan siêu thoát nào đó của lý tính. Khái niệm tồn tại tự thân và không
lệ thuộc vào tồn tại của sự vật, con người. Ông đã phác thảo nên những nét đầu
tiên của chủ nghĩa duy tâm khách quan để Platông về sau đẩy nó lên trình độ một
hệ thống.
2. Platông:
SVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU 4
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: BÙI VĂN MƯA
Platông sinh trưởng trong một gia đình chủ nô quý tộc ÔNG viết nhiều tác
phẩm như “Biện hộ cho Xôcrát”, “Đối thoại”, “Bữa tiệc”, “Chế độ cộng hòa”…
Platông chịu ảnh hưởng bởi ba nguồn gốc tư tưởng: tư tưởng của Xôcrát về
cái phổ biến, cái chung làm cơ sở cho đạo đức; học thuyết của Pácmênít
[Parmenide (500 – 449 TCN)], trường phái Êlê, về sự tồn tại duy nhất, bất biến;
tư tưởng của Pytago [Pythagore (571 – 497 TCN)] về những con số được xem là
bản chất chân thật của sự vật. Dựa vào ba nguồn gốc trên, chủ yếu vẫn là tư
tưởng của Xôcrát, Platông đã xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan lần đầu
tiên trong lịch sử triết học Hy Lạp đạt đến sự hoàn chỉnh, nhất quán và triệt để.
Thuyết ý niệm: Platông chia thế giới ra thành thế giới ý niệm và thế giới sự
vật. Thế giới ý niệm là lý tính, tồn tại trên trời, mang tính phổ biến, chân thực,
tuyệt đối, bất biến, vĩnh hằng và duy nhất. Thế giới sự vật là cảm tính, tồn tại
dưới đất, mang tính cá biệt, ảo giả, tương đối, khả biến, thoáng qua và đa tạp.
Ông coi ý niệm là cái sản sinh, có trước, là nguyên nhân, bản chất và khuôn mẫu
của sự vật; coi sự vật là cái được sản sinh, có sau và là cái bóng được mô phỏng,
sao chép lại từ ý niệm; đồng thời, bất cứ sự vật nào cũng xuất hiện từ ý niệm và
có quan hệ ràng buộc với ý niệm [1, trang 106].
Bằng thuyết ý niệm, Platông đã lý giải sự sinh thành thế giới sự vật, con

người và hoạt động của linh hồn. Theo ông, sự sinh thành thế giới sự vật xảy ra
gắn liền với bốn yếu tố cơ bản là tồn tại (ý niệm), không tồn tại (vật chất), con số
(tỷ lệ) và sự vật cảm tính. Chính sự tồn tại của ý niệm thông qua quan hệ tỷ lệ
của các con số tác động vào sự không tồn tại của vật chất sinh ra sự vật cảm tính
[1, trang 107].
Quan niệm về con người và linh hồn: Platông cho rằng con người là sự kết
hợp của thể xác khả tử (được cấu thành từ đất, nước, lửa, không khí và là nơi trú
ngụ tạm thời của linh hồn) với linh hồn bất tử. Linh hồn của con người là sản
phẩm của linh hồn vũ trụ được Thượng đế tạo ra từ lâu. Chúng ngự trị trên các vì
sao trời, sau đó dùng cánh bay xuống nhập vào thể xác của con người, lúc ấy nó
quên hết quá khứ. Linh hồn của con người bao gồm ba bộ phận: cảm tính, ý chí
SVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU 5
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: BÙI VĂN MƯA
và lý trí; trú ngụ tạm thời ở ba chỗ trong cơ thể (từ rốn trở xuống, trong lồng
ngực, trong đầu óc), hoạt động theo ba khía cạnh (dục vọng, tình cảm, nhận
thức), thể hiện ba phẩm hạnh (điều độ, can đảm, khôn ngoan), trong đó chỉ có lý
trí là bất tử. Hoạt động cở bản của linh hồn là nhận thức. Nhận thức chân lý (ý
niệm) là cơ sở để con người có được hành vi đạo đức và hành vi đạo đức của con
người là chỗ dựa cho các hoạt động chính trị - xã hội [1, trang 107].
Quan niệm về nhận thức: Nhận thức, theo Platông, là sự hồi tưởng lại (trực
giác thần bí) của linh hồn bất tử (lý trí) về những gì nó đã từng chiêm ngưỡng
được trong thế giới ý niệm nhưng lãng quên. Linh hồn nhận thức bằng cách đàm
thoại trực tiếp với nhau để làm thức tỉnh lại các ý niệm trong bản thân mình.
Tranh luận, va chạm giữa các ý kiến riêng khác hay thậm chí trái ngược nhau để
tiến đến sự thừa nhận những ý kiến chung; chúng là biện pháp khám phá ra các ý
niệm phổ biến, vĩnh hằng, chân thực và là công cụ để nhận thức chân lý. Nhận
thức chân lý là khám phá ra ý niệm tồn tại sẵn trong linh hồn con người. Đó là
nhiệm vụ dành riêng cho tư duy lý luận thuần túy. Nhận thức chân lý hoàn toàn
diễn ra bên ngoài hoạt động cảm tính của con người vì hoạt động cảm tính chỉ
mang lại kiến giải sai lầm về thế giới sự vật [1, trang 108].

Quan niệm về mỹ học: Cũng dựa trên thuyết ý niệm, Platông cho rằng cái
đẹp chân thực là cái đẹp của ý niệm, nó đối lập tuyệt đối với cái đẹp của sự vật
cảm tính. Cái đẹp của sự vật không tuyệt vời, khả biến và tương đối. Còn cái đẹp
của ý niệm là cái đẹp tuyệt vời, vĩnh viễn, tồn tại ngoài không gian và phi thời
gian, nó là bất biến.
Theo Platông, chỉ có thể cảm nhận cái đẹp của ý niệm bằng lý tính. Ông phê
phán quan niệm cho rằng cái đẹp chỉ có trong thực tế và bác bỏ quan niệm cho
rằng cái đẹp là cái có lợi ích hoặc là cái có khoái cảm do thị giác và thính giác
mang lại. Chủ thể nhận thức cái đẹp là linh hồn bất tử, phương pháp nhận thức là
sự hồi tưởng.
Platông cho rằng nghệ thuật là sự bắt chước nhưng không phải bắt chước sự
vật, mà là bắt chước ý niệm. Chỉ có nghệ thuật xuất phát từ nguồn cảm hứng do
SVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU 6
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: BÙI VĂN MƯA
thần thánh tạo ra mới là nghệ thuật cao quý vì nó không phải là sự bắt chước sự
vật cảm tính. Đây là một thứ chủ nghĩa thần bí về nghệ thuật.
Quan niệm về đạo đức: Xuất phát từ đạo đức học duy lý, Platông cho rằng
sống hạnh phúc là sống có đạo đức. Hành vi hướng thiện là hành vi không dựa
trên khoái lạc, lợi thú chủ quan mà là hướng đến những ý tưởng tuyệt đối khách
quan thuộc về thế giới ý niệm ở trên trời. Con người chỉ nhận thức được những ý
tưởng này bằng lý trí.
Platông cho rằng con người muốn sống hạnh phúc thì phải dùng lý trí để
chiêm nghiệm những ý tưởng và khắc phục những dục vọng vật chất thấp hèn,
giúp linh hồn thoát khỏi gông cùm của nhà tù thể xác. Dục vọng phải phục tùng
trái tim, trái tim phải làm theo khối óc là điều kiện tiên quyết để sống hạnh phúc.
Như vậy, theo Platông, con người không thể tìm thấy hạnh phúc cho riêng mình
ở xung quanh mình, dưới trần gian và con người chỉ có thể đạt được hạnh phúc
trong thế giới ý niệm, ở trên trời, sau khi chết. Quan niệm về đạo đức đầy tính
chất duy tâm thần bí của Platông là cơ sở cho nền đạo đức Thiên chúa giao sau
này [1, trang 108].

Quan niệm về chính trị - xã hội: Platông rất căm ghét chế độ dân chủ. Ông
cho rằng ở Aten, "bình dân được tự do quá trớn", thậm chí chó ngựa lừa cũng
muốn làm gì thì làm không theo sự chỉ huy của chủ. ở Aten, dân tự do và nô lệ,
công dân và ngoại kiều, thầy giáo và học trò, người nhiều tuổi và ít tuổi đều
không phân biệt. Hơn nữa lúc bấy giờ, đạo đức tốt đẹp không được đề cao, chủ
nghĩa lợi kỷ thịnh hành và sự phân hóa giàu nghèo càng trầm trọng. Vì vậy,
Platông nêu ra một mẫu hình nhà nước lý tưởng để làm thay đổi tình hình ấy.
Trong tác phẩm "Chế độ cộng hòa", ông nêu ra rằng nhà nước lý tưởng do
ba tầng lớp họp thành. Thứ nhất, các nhà hiền triết là tầng lớp cầm quyền lãnh
đạo. Tầng lớp này không nên có tài sản riêng, cũng không nên có gia đình vì dễ
nảy sinh lòng tham lam vị kỷ. Những nhà hiền triết cầm quyền nên sống tập thể,
như vậy có thể tránh được sự lo lắng về cuộc sống. Tầng lớp thứ hai là các chiến
sĩ. Tầng lớp này có nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Họ cũng không nên có gia đình và
SVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU 7
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: BÙI VĂN MƯA
tài sản. Tầng lớp thứ ba là số công dân, còn lại tức là nông dân, thợ thủ công, lái
buôn Tầng lớp này có nhiệm vụ cung cấp của cải cho nhà nước và cung phụng
hai tầng lớp trên. Họ có thể có gia đình và tài sản riêng, nhưng các nghề nghiệp
đều do nhà nước quản lý.
Con cái của mọi người cũng thuộc về nhà nước. Cha mẹ không biết con cái,
con cái cũng không biết cha mẹ. Những đứa trẻ sơ sinh nếu yếu đuối thì giết đi,
còn những đứa trẻ khỏe mạnh thì đem đến nhà nuôi trẻ để nuôi nấng. Còn nô lệ
thì không được coi là một tầng lớp, nhưng trong nhà nước của Platông vẫn có nô
lệ, hơn nữa Platông hết sức nhấn mạnh sự phân biệt giữa chủ và nô lệ, ông nói:
"Cần phải biết rằng nô lệ vĩnh viễn không thể trở thành bạn của chủ, vì những
người vô tích sự không thể thàn bạn của những người đứng đắn, dẫu rằng họ
cũng giữ một chức vụ đáng kính như nhau". Về sau Platông còn viết tác phẩm
“Luật pháp”, tuy lời lẽ có mềm dẻo hơn nhưng tư tưởng tập quyền và chế độ
công hữu thì không thay đổi.
SVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU 8

CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: BÙI VĂN MƯA
CHƯƠNG II
NHỮNG GIÁ TRỊ - HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY
TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI
I. NHỮNG GIÁ TRỊ:
1. Thực hiện đơn đặt hàng của lịch sử:
Trường phái duy tâm Hy Lạp cổ đại lúc đầu xuất hiện dưới hình thức ngụy
biện và lập thành một trường phái gọi là phái ngụy biện. Tính chất duy tâm chủ
yếu của phái ngụy biện là cho rằng không có chân lý khách quan mà chỉ có nhận
thức chủ quan hoặc chủ nghĩa tương đối mà thôi.
Đại biểu đầu tiên của trường phái ngụy biện là Prôtagôrát [Protagoras (485
– 410 TCN)]. Ông cho rằng mọi nhận thức đều có tính chủ quan, "con người là
thước đo của mọi sự vật". Như thế có nghĩa là chủ trương mỗi cá nhân đều có thể
căn cứ vào trực giác của mình để giải thích thế giới. Một đại biểu khác là
Giorơgiát (487-380 TCN), cho rằng "tồn tại không tồn tại". Nếu có cái gì thực sự
tồn tại chăng nữa thì cũng không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả được, vì ngôn ngữ
không đủ để diễn tả tư tưởng. Từ đó ông kết luận chân lý là không có [6, trang
244].
Và dĩ nhiên là thuyết tương đối, thái độ hoài nghi và chủ nghĩa cá nhân của
trường phái ngụy biện đã làm dấy lên 1 làn sóng phản đối đương thời. Một số
người Hy Lạp bảo thủ còn cho rằng điều đó dường như dẫn đến tình trạng vô
chính phủ và vô thần. Nếu chân lý và những điều tốt hay công lý chỉ mang tính
tương đối với ý nghĩ chợt nảy ra trong tâm trí của một con người thì tôn giáo,
những nền tảng đạo đức, nhà nước hay xã hội đều không thể duy trì được lâu dài.
Kết quả của sự thú nhận đó là sự ra đời và phát triển của phong trào triết học mới
mà những người đứng đầu là Xôcrát, Platông [3, trang 161]. Chủ nghĩa duy tâm
khách quan của hai ông cho rằng chân lý và ý niệm tuyệt đối là thực sự tồn tại,
đồng thời nâng sự lý giải vấn đề đạo đức – chính trị lên trình độ khái niệm,
SVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU 9
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: BÙI VĂN MƯA

chứng minh tính chất khách quan của đức hạnh, chính trị, pháp quyền để đối lập
với chủ nghĩa tương đối của trường phái ngụy biện.
2. Đạo đức lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại được đề cập và đặt nền
tảng vững chắc:
Bắt đầu từ Xôcrát, đề tài con người trở thành một trong những vấn đề trọng
tâm nghiên cứu của triết học Hy Lạp. Luận điểm nổi tiếng “hãy nhận thức chính
mình” có ý nghĩa xây dựng nên những khái niệm về chuẩn mực đạo đức chung
của con người. Đạo đức đòi hỏi biết ý thức về cái thiện và đức hạnh nói chung.
Nó phải trở thành khoa học về sự hoàn thiện phẩm chất con người.
Xuất phát từ việc thừa nhận tri thức khách quan, Xôcrát đi đến khẳng định
tính khách quan của các chuẩn mực đạo đức. Khác với các nhà ngụy biện, ông
coi cái thiện và cái ác là hoàn toàn khác biệt nhau, cũng như không đồng nhất
hạnh phúc với cái lợi, mà coi hạnh phúc là đức hạnh. Chỉ có người nào biết đức
hạnh là gì mới thực sự được hạnh phúc. Cái ác và bất hạnh là kết quả của sự
không hiểu biết cái thiện. Con đường đi đến tri thức cũng chính là con đường
hoàn thiện nhân cách đạo đức của con người, con đường hướng con người tới cái
thiện và hạnh phúc.
Như vậy, nhận thức chân lý, tri thức là nên tảng đạo đức học của ông. Công
lao của ông là đã bước đầu nhận thấy mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong
hoạt động đạo đức của con người. Sự đóng góp của Xôcrát đã làm nên một bước
chuyển mới: nền triết học Hy Lạp cổ đại thay đổi từ nguyên lý vũ trụ sang
nguyên lý nhân minh. Để tôn vinh những giá trị của tư tưởng Xôcrát đối với sự
phát triển trong lịch sử, triết học Hy Lạp cũng đã lấy ông làm tiêu chí để phân kỳ.
3. Tạo nền tảng triết lý cho những người Thiên Chúa và một số người Do
Thái giáo:
Quan niệm về con người và linh hồn của Platông được những người Thiên
Chúa và một số người Do Thái giáo rất ngưỡng mộ. Platông cho rằng bản chất
con người như hai nhánh rẽ vào linh hồn và thể xác. Hai thực thể này nhập chung
SVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU 10
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: BÙI VĂN MƯA

vào nhau khi con người được sinh ra đời. Khi chết, linh hồn tách ra khỏi thể xác
và bay trở về với Thượng đế. Khoảng nửa thế kỷ sau cái chết của chúa Jesus
(năm 37 sau Thiên chúa), những lời thuyết giảng của Chúa Jesus được viết lại
theo hình thức triết lý của Platông và chi phối toàn bộ thần học Cơ Đốc đến thế
kỷ thứ 13 và ngày nay phần nào vẫn còn phổ biến [4, trang 36].
Ý niệm về thiên đàng và địa ngục cùng những huyền thoại mà Platông đề ra
cũng đã được giáo hội Thiên chúa giáo áp dụng nhằm thực hiện nền đạo đức và
các thủ đoạn chính trị của mình. Cả nghìn năm dân chúng châu Âu đã được cai
trị mà không cần dùng đến vũ lực, họ sẵn sàng chấp nhận sự cai trị ấy và không
bao giờ đòi hỏi tham gia trực tiếp vào bộ máy chính quyền.
4. Phép biện chứng sơ khai lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử triết học
của nhân loại:
Một đóng góp quan trọng của Xôcrát cho tư tưởng phương Tây là phương
pháp truy vấn biện chứng, được biết đến dưới tên gọi là “phương pháp Xôcrát”
hay “phương pháp bác bỏ bằng lôgíc” (elenchus). Ông đã áp dụng phương pháp
này chủ yếu cho việc kiểm nghiệm các khái niệm quan trọng về mặt đạo đức như
tốt đẹp – công bằng, cái thiện – cái ác, cái tốt – cái xấu,…Để giải quyết một vấn
đề, ông dẫn dắt người đối thoại đến với chân lý bằng tư duy lôgíc và khả năng
biện luận thuyết phục, có cơ sở, có chứng cứ. Đó là phép biện chứng của khái
niệm hay biện chứng chủ quan.
Thuyết ý niệm và các quan niệm triết học của Platông cũng chứa đựng
nhiều yếu tố biện chứng. Thông qua các khái niệm đối lập và phương pháp đối
chiếu những mặt đối lập, ông giải quyết thấu đoá mối quan hệ giữa vận động –
đứng im, hữu hạn – vô hạn, liên tục – gián đoạn, tồn tại – hư vô,…
Các triết gia của triết học cổ điển Đức (cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX)
cũng đã tiếp thu những tư tưởng biện chứng quý báu trong di sản triết học Hy
Lạp, phát triển thêm và xây dựng được phép biện chứng mới như một học thuyết
triết học về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển xảy ra trong thế giới [1, trang
SVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU 11
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: BÙI VĂN MƯA

176]. Đó là phép biện chứng tư duy – một cống hiến vĩ đại cho kho tàng tư tưởng
của nhân loại và là một cội nguồn của triết học Mác [1, trang 208].
5. Tạo động lực thúc đẩy khoa học của nhân loại phát triển:
Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại đã có ảnh hưởng vô cùng sâu
sắc đến nền triết học nói riêng và sự phát triển tổng thể văn hóa Châu Âu nói
chung. Đặc biệt là nhận thức luận, triết học toán học và tư tưởng giáo dục toán
học của ông, dưới điều kiện xã hội Hy lạp đương thời, đã có một tác dụng thúc
đẩy mạnh mẽ đối với sự hình thành của khoa học và sự phát triển của toán học.
Tư tưởng triết học toán học của Platon là sự đồng nhất đối với nhận thức luận của
ông, đặc biệt là sự không thể tách rời đối với quan niệm lý tính do ông đề xướng.
Theo ông, đối tượng nghiên cứu của toán học phải là những quan hệ vĩnh hằng
bất biến trong thế giới quan niệm lý tính có thể nhận biết được, chứ không phải là
những biến động vô thường trong thế giới vật chất không thể cảm thụ. Vì vậy,
đối tượng nghiên cứu của toán học phải là những con số trừu tượng và những
hình vẽ lý tưởng.
Vào thế kỷ III TCN, Platông đã thành lập học phái của mình ở Aten.
Platông rất coi trọng toán học. Ông chủ trương bồi dưỡng khả năng tư duy lôgíc
thông qua môn hình học, bởi vì hình học mang lại cho con người ấn tượng trực
quan, thể hiện sự trừu tượng của quy luật lôgíc trong các hình cụ thể. Những học
trò của Platông cũng góp phần không kém vào việc phát triển sơ khai nền toán
học. Chẳng hạn như Eudoxus, người đã sáng tạo ra “Phép so sánh”, và Arixtốt,
người đặt nền móng về lôgíc hình thức. Tư tưởng lôgíc của Arixtốt đã mở ra con
đường cho hệ thống lôgíc chặt chẽ trong bộ môn hình học sau này.
6. Quan niệm về chính trị – xã hội được áp dụng nhiều nơi trên thế giới:
Trong suốt 1000 năm, Âu châu bị đặt dưới quyền cai trị của một giai cấp
không khác gì giai cấp cầm quyền lý tưởng mà Platông đã mô tả. Trong thời kỳ
trung cổ, người ta thường phân chia dân chúng thành ba giai cấp: cần lao, quân
nhân và giáo sĩ. Giao cấp giáo sĩ, mặc dù chỉ là thiểu số, đã nắm trong tay tất cả
SVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU 12
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: BÙI VĂN MƯA

quyền hành và đã cai trị một cách gần như tuyệt đối một phần nửa lãnh thổ Âu
châu. Giai cấp giáo sĩ này cũng không bị ràng buộc vì nếp sống gia đình và trong
nhiều trường hợp, họ được hưởng nhiều tự do trong vấn đề luyến ái mà Platông
chủ trương nên dành cho giai cấp lãnh đạo.
Sau cách mạng tháng 10 năm 1917, những nhà lãnh đạo cộng sản ở Nga Xô
cũng đã sống cuộc đời mà Platông đã mô tả. Họ là một thiểu số, cấu kết với nhau
với nhau bằng một niềm tin mãnh liệt. Họ sợ sự khai trừ khỏi đảng hơn là sợ cái
chết, hoàn toàn hiến thân cho đảng, chết vì đảng không khác gì các thánh tử đạo.
Họ sống một cuộc đời giản dị đơn sơ trong khi cầm quyền cai trị một nửa diện
tích Âu châu. Nói tóm lại, khi đề ra quan niệm về chính trị - xã hội của mình,
Platông không coi đó là một quan niệm hão huyền và xa rời thực tế.
II. NHỮNG HẠN CHẾ:
1. Mang đầy màu sắc duy tâm và thần bí:
Theo Arixtốt, về mặt bản thể luận, việc Platông chia thế giới ra thành thế
giới ý niệm và thế giới sự vật là thiếu cơ sở và đầy mâu thuẫn. Bởi vì ý niệm là
cái tồn tại bên ngoài và độc lập với sự vật thì không thể làm bản chất cho sự vật
được. Hơn nữa, ý niệm là cái trừu tượng, phi cảm tính thì không thể làm khuôn
mẫu cho sự vật cảm tính được. Còn về mặt nhận thức luận, việc Platông coi ý
niệm là cái có trước và độc lập so với sự vật thì ý niệm (khái niệm) cũng không
thể được dùng để nhận thức sự vật được. Arixtốt cho rằng bản chất phải nằm
ngay trong bản thân sự vật và phải được nhận thức của con người khái quát thành
cái chung dưới dạng khái niệm, quy luật, phạm trù. Khái niệm, quy luật, phạm
trù không phải là cái có trước, sinh ra và quyết định sự tồn tại của sự vật [1 trang
110].
Tóm lại, chủ nghĩa duy tâm khách quan mang tính “duy tâm” là vì cho rằng
“ý niệm”, “tinh thần thế giới” là cái có trước, sản sinh ra thế giới tự nhiên và
mang tính “thần bí” là vì không thể giải thích được “ý niệm” đã sản sinh ra thế
giới tự nhiên bằng cách nào.
SVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU 13
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: BÙI VĂN MƯA

2. Quan niệm về đạo đức chỉ mang tính chất duy lý:
Khi phủ nhận quan điểm của Platông coi hạnh phúc của con người gắn liền
với thế giới ý niệm, Arixtốt cho rằng phẩm hạnh của con người nếu có được nhờ
vào việc hiểu thấu và làm theo chân lý (hành động dựa theo cái tất yếu – phổ
biến, do thông qua giáo dục và đạo tạo) thì là phẩm hạnh lý tính; còn phẩm hạnh
của con người có được nhờ vào thói quen làm theo lẽ phải đời thường (hành
động dựa theo cái trung dung, tức là không thái quá, thông qua tập quán lâu đời
của cộng đồng) thì đó là phẩm hạnh luân lý [1, trang 114]. Theo Arixtốt: thứ
nhất, các thái độ ích kỷ hay hi sinh cực độ đều không có tác dụng đối với hầu hết
mọi người mà hãy tìm một biện pháp trung dung. Thứ hai, hành vi tốt không phải
là kết quả của cảm hứng đột ngột hoặc kìm chế khắc nghiệt, nó là một thói quen,
được điều kiện hoá chậm rãi và đều đặn. “Một con én không làm nên mùa xuân”
tức là chỉ một việc làm tốt thì không tạo ra tư cách đạo đức.
Arixtốt cho rằng hạnh phúc thật sự của con người phải gắn liền với cuộc
sống trần gian, gắn liền với bản tính tự nhiên của mình. Hạnh phúc của con người
không chỉ bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan như sự khôn ngoan của lý trí, đức
hạnh trong hành vi, sự khoái lạc trong trạng thái…mà còn bị chi phối bởi các
điều kiện khách quan như tiền bạc, sức khỏe, tình bạn, xã hội công bằng…Như
vậy, theo Arixtốt, đời sống đạo đức, hạnh phúc của con người không nằm trong
thế giới ý niệm trên trời, mà nằm trong thế giới hiện thực, dưới đất, nơi trần gian;
đồng thời, chúng cũng phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, nhu cầu của từng
người trong cộng đồng xã hội [1, trang 114].
3. Quan niệm về chính trị - xã hội chứa đầy tính bảo thủ và mâu thuẫn:
Thứ nhất, người ta cho rằng Platông đã phân loại con người thành những
giai cấp không khác gì nhà côn trùng học phân loại các côn trùng. Ngoài ra, ông
coi nô lệ không phải là con người mà chỉ là động vật biết nói. Rõ ràng, thuật
chính trị của Pla tông thiếu sự tế nhị mềm dẻo, nó đề cao trật tự nhưng lại không
đề cao sự tự do.
SVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU 14
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: BÙI VĂN MƯA

Thứ hai, nhiều luận điểm khác cũng chỉ trích Platông dựa trên yếu tố kinh
tế. Trong chính thể Platông, giai cấp lãnh đạo có quyền chính trị và quyền điều
khiển nhưng họ không có quyền lực kinh tế. Do đó, một số người thắc mắc là
làm sao giai cấp lãnh đạo có thể giữ vững được quyền hành nếu không kiểm soát
được những lực lượng kinh tế? Thực tế đã cho thấy giáo hội Thiên chúa giáo La
Mã đã có một thời oanh liệt một phần là do lãnh thổ ở trạng thái nông nghiệp,
những nhà nông thường dễ mê tín vì nghề nghiệp của họ lệ thuộc rất nhiều vào
thiên nhiên. Nhưng khi các điều kiện kinh tế thay đổi, nền kinh tế kỹ nghệ bắt
đầu thay thế nền cho nền kinh tế nông nghiệp thì quyền lực của giáo hội bắt đầu
sút giảm. Quyền lực chính trị phải luôn luôn được điều chỉnh để ăn khớp với tình
trạng kinh tế. Giai cấp cầm quyền của Platông dù nắm trong tay tất cả quân lực
thì cũng không thoát khỏi sự lệ thuộc vào giai cấp sản xuất đã nuôi dưỡng họ.
Cuối cùng, với quan niệm cần phải xóa bỏ sở hữu tư nhân, phải xây dựng
chế độ sở hữu công xã với tài sản chung, cha mẹ con cái chung,…tuy với một lý
tưởng tốt nhưng thật sự, Platông đã cũng ngấm ngầm phá vỡ nền móng xã hội lý
tưởng mà ông sắp xây cất. Platông khinh thường sức mạnh của tập tục đã được
xây dựng lâu đời như phong tục độc thê và không tiên liệu được tánh ghen tuông
tự nhiên của đàn ông, tình mẫu tử của đàn bà. Khi ông muốn phá vỡ đời sống gia
đình, ông đã phá vỡ những điều kiện cho một nếp sống đạo đức. Ngoài ra, chế độ
cộng sản sẽ làm cho tinh thần trách nhiệm bị lu mờ, khi tất cả của cải đều thuộc
quyền sở hữu của tất cả mọi người thì sẽ không còn ai lo giữ gìn của cải ấy. Nó
buộc dân chúng sống cuộc đời tập thể nghĩa là giết chết sự độc đáo cá nhân và sự
tự do của đời tư. Mặc khác, chế độ cộng sản này lại mâu thuẫn với chính chế độ
đẳng cấp và sự bất bình đẳng trong xã hội như đã nêu ở trên. Ông vừa kêu gọi
phải xây dựng cho bằng được nhà nước cộng hòa lý tưởng nhưng lại vừa ra sức
bảo vệ cho bằng được lợi ích và địa vị của tầng lớp chủ nô quý tộc, chống lại nhà
nước dân chủ Aten [1, trang 109].
SVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU 15
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: BÙI VĂN MƯA
KẾT LUẬN

Platông là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại Hy Lạp,
dưới hình thức duy tâm ông phát triển, xây dựng những nền tảng khách quan của
ý thức con người. Ông có công lớn trong việc nghiên cứu các vấn đề ý thức xã
hội, khẳng định vai trò to lớn của nó trong việc hình thành nhân cách và ý thức
cá nhân con người. Đồng thời bước đầu ông đã xây dựng nền tảng của các khái
niệm, phạm trù và tư duy lý luận nói chung.
Tuy nhiên tư tưởng triết học của ông mang đầy màu sắc duy tâm thần bí mà
giáo hội Thiên chúa giáo đã áp dụng những huyền thoại mà ông đã đề ra để cai
trị dân chúng Châu Âu hơn một ngàn năm mà không cần dùng đến vũ lực. Bên
cạnh đó người ta cũng trách Platông quá chú trọng đến sự phân chia giai cấp mà
sự thật thì nguyên do của sự phân chia này là những mâu thuẫn kinh tế trong xã
hội.
Với nội dung của bài tiểu luận này, chúng tôi đã khái quát lại những tư
tưởng cũng như những giá trị và hạn chế của chủ nghĩa duy tâm khách quan mà
tiêu biểu nhất là Platông, tuy nhiên trong quá trình lĩnh hội kiến thức bộ môn triết
học cùng với lượng tài liệu tham khảo ít ỏi, tiểu luận này chắc chắn không thể
trình bày một cách đầy đủ và chi tiết như đọc giả mong đợi. Rất mong quý đọc
giả thông cảm và tham khảo tài liệu này cho những nghiên cứu, khảo sát tỉ mỉ về
sau. Xin chân thành cảm ơn!
SVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU 16
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: BÙI VĂN MƯA
CHÚ THÍCH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] : Bùi Văn Mưa chủ biên, Triết học – Phần 1 – Đại cương về lịch sử triết học
(tài liệu dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên
ngành triết học của trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh), 2011.
[2] : Đinh Ngọc Thạch, Lịch sử triết học phương Tây (dùng cho học viên cao
học không thuộc chuyên ngành triết học của trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn – Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh), 2010.
[3] : Edward McNall Burns, Văn minh phương Tây - Lịch sử và văn hóa, NXB
Từ điển bách khoa, 2010.

[4] : Norman F.Cantor, Nền văn minh thế giới cổ đại, Kiến Văn và Khắc Vinh
biên dịch, NXB Lao Động Xã Hội, 2008.
[5] : Tô Mộng Vi, Tìm lại nền văn minh Hy Lạp cổ đại, Nguyễn Kim Dân biên
dịch, NXB Lao động, 2010.
[6] : Vũ Dương Minh chủ biên, Lịch sử văn minh thế giới cổ đại, NXB Giáo
Dục Việt Nam, 2011.
[7] : Will Durant, Câu chuyện triết học, Trí Hải và Bửu Đích biên dịch, NXB
Văn hóa thông tin, 2008.
[8] : Wikipedia, />[9] : Phan Thị Cam, Cuộc đời và nội dung triết học của Platon,
/>dhoi-va-noi-dung-triet-hoc-cua-platon.
SVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU 1

×