Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tư tưởng triết học Nho gia và những giá trị, hạn chế của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.71 KB, 14 trang )

Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
LỜI MỞ ĐẦU
Đạo đức là một vấn đề luôn luôn được chú trọng trong bất kỳ một xã hội nào.
Một trong những trường phái triết học đề cao vấn đề đạo đức là Nho gia. Nho gia là
một trường phái triết học lớn được hoàn thiện liên tục và có ảnh hưởng sâu rộng, lâu
dài đến nền văn hóa tinh thần của Trung Quốc nói riêng, của nhiều quốc gia phương
Đông nói chung và đặc biệt là Việt Nam. Học triết học Nho gia giúp chúng ta hiểu
rõ hơn về giá trị của đạo đức, hiểu đúng và đầy đủ về đạo đức là nền tảng để xây
dựng xã hội.
Với những ý nghĩa đó, em thực hiện đề tài: “Tư tưởng triết học Nho gia và
những giá trị, hạn chế của nó”. Nhiệm vụ đặt ra trong bài tiểu luận này là phải tìm
hiểu rõ tư tưởng của các triết gia tiêu biểu thuộc các trường phái của Nho gia. Đồng
thời nêu lên được những giá trị sâu sắc của triết học Nho gia và những hạn chế của
triết học Nho gia.
Khi thực hiện bài tiểu luận này em đã sử dụng nhiều tài liệu nhưng tài liệu
chính là giáo trình Triết học phần I: Đại cương về lịch sử triết học, của tiểu ban triết
học thuộc khoa lý luận chính trị, trường Đại Học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh
biên soạn.
Trong quá trình thực hiện bài tiểu luận, do kiến thức còn hạn chế nên không
tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự giúp đỡ của thầy để em hoàn
thành bài tiểu luận này được tốt hơn.
HVTH: Nguyễn Hoàng Thái Châu 1
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ,
HẠN CHẾ CỦA NÓ.
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC NHO GIA
1.1 Quá trình hình thành và phát triển của triết học Nho gia
- Nho gia là một trường phái triết học lớn và được hình thành rất sớm ở Trung
Quốc. Trãi qua quá trình hình thành và hoàn thiện lâu dài, Nho gia có ảnh hưởng lớn
đến văn hóa tinh thần của Trung Quốc và các quốc gia phương Đông.
- Nho gia do Khổng Tử sáng lập vào cuối thời Xuân Thu. Khổng Tử rất xem


trọng các vấn đề về đạo đức, chính trị, xã hội. Ông xem trọng đạo đức, coi đạo đức
là nền tảng của xã hội, là công cụ để giữ gìn trật tự xã hội và hoàn thiện nhân cách
cá nhân cho con người. [1,52]
- Khổng Tử (còn gọi là Khổng Phu Tử, 551 – 479 TCN). Người ta còn gọi ông
là Khổng Khâu, tên tự là Trọng Ni, sinh ngày 27 tháng 8 năm 551 trước Công
nguyên, tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn
Đông, Trung Quốc). Ông là một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội nổi tiếng người
Trung Quốc, các bài giảng và triết lý của ông có ảnh hưởng rộng lớn đến cuộc sống
và tư tưởng Đông Á. Triết học của ông nhấn mạnh vai trò cá nhân và việc cai trị
bằng đạo đức; sự chính xác của những mối quan hệ xã hội; sự công bằng và sự ngay
thẳng. Các tư tưởng của Khổng Tử đã được phát triển thành một hệ thống triết học
được gọi là Khổng giáo. Ông mất tháng 4 năm 479 trước Công nguyên, thọ 73 tuổi.
[5,1]
- Lý luận của ông là một hệ thống triết lý sâu sắc về đạo đức, chính trị, xã hội,
được học trò chép lại thành sách Luận ngữ. Lý luận về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng
…tạo nên nội dung quan điểm về đạo đức của ông.[1,53]
- Kinh điển của Nho gia gồm hai bộ là Bộ Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân
Thu) và Bộ Tứ Thư (Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh Tử).
HVTH: Nguyễn Hoàng Thái Châu 2
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
1.2 Các trường phái của triết học Nho gia và những tư tưởng nổi bật của những
trường phái này
1.2.1 Nho gia nguyên thủy
1.2.1.1 Các triết gia tiêu biểu của Nho gia nguyên thủy
- Khổng Tử là người sáng lập ra Nho gia vào cuối thời Xuân Thu.
- Đến thời Chiến Quốc do mâu thuẫn giữa các triết gia mà Nho gia chia thành
8 phái. Trong đó phái của Tuân Tử và phái của Mạnh Tử là mạnh nhất. Mạnh Tử đã
có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của Nho gia nguyên thủy, khép lại một
giai đoạn quan trọng là giai đoạn hình thành Nho gia. Vì vậy, Nho gia Khổng -
Mạnh còn được gọi là Nho gia nguyên thủy hay Nho gia tiên Tần.

+ Tuân Tử (315-230 TCN) phát triển Nho gia theo xu hướng duy vật. .[1,53]
+ Mạnh Tử (372-298 TCN, người Sơn Đông, học trò của Khổng Cấp là cháu
nội của Khổng Tử) phát triển Nho gia theo xu hướng duy tâm. Mạnh Tử tin tưởng
sâu sắc vào sự tồn tại của thiên mệnh. Ông lý giải bản tính thiện của con người
thông qua lý luận về nhân, lễ, nghĩa và trí, trong đó nhân, nghĩa là quan trọng nhất.
[1,53]
1.2.1.2 Một số tư tưởng triết học cơ bản của Nho giáo nguyên thủy
- Nho giáo nguyên thủy là triết lý của Khổng Tử và Mạnh Tử về đạo làm người
quân tử và cách thức trở thành người quân tử, cách cai trị đất nước.
a) Tư tưởng của triết học Nho gia về đạo đức xã hội
- Nho gia nguyên thủy cho rằng, nền tảng của gia đình - xã hội là những quan
hệ đạo đức - chính trị, đặc biệt là ba quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ. Các
quan hệ này được Nho gia gọi là đạo. Khi các quan hệ này chính danh thì xã hội ổn
định, gia đình yên vui. Xã hội thời Xuân thu loạn lạc, kỷ cương lỏng lẻo. Vì vậy,
Khổng Tử cho rằng, muốn cải loạn thành trị, muốn thực hiện xã hội đại đồng thì
phải chấn chỉnh lại ba mối quan hệ đó, Nho gia nguyên thủy lấy giáo dục đạo đức
làm tư tưởng chủ đạo.
HVTH: Nguyễn Hoàng Thái Châu 3
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
- Quan niệm về lễ: Theo Khổng Tử để đạt được nhân, để lập lại trật tự, khôi
phục kỷ cương cho xã hội Khổng Tử chủ trương phải dùng lễ, đặc biệt là lễ của nhà
Chu. Vì lễ có thể: xác định được vị trí, vai trò của từng người; phân định trật tự, kỷ
cương trong gia đình và ngoài xã hội; loại trừ những tật xấu và tạo ra những phẩm
chất cá nhân mà xã hội đòi hỏi. Khổng Tử cho rằng: lễ trước hết là lễ giáo phong
kiến như phong tục tập quán, những quy tắc, quy định về trật tự xã hội; sau đó là
luân lý đạo đức như ý thức, thái độ, hành vi ứng xử.
b) Tư tưởng của triết học Nho gia về con người
- Dựa trên thuyết thiên mệnh, Khổng Tử cho rằng: “Thiên mệnh chi vị tính,
xuất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo và tính tương cận, tập tương viễn” [1,57].
Điều này có nghĩa là: Con người có tính người, tính người do trời phú, sự phú cái

tính ấy về cơ bản là đồng đều ở mọi con người. Theo Khổng Tử, do điều kiện sống,
hoàn cảnh, môi trường khác nhau, do những tập quán khác nhau mà người này khác
người kia. Vậy, tập là điều kiện, hoàn cảnh, là nguyên nhân làm thay đổi tính tình ở
mỗi con người, làm cho con người không giữ được tính do trời phú cho, làm cho con
người trở nên vô đạo. Vì vậy, muốn giữ được tính cho con người phải lập đạo; nghĩa
là phải làm giáo dục cho cả nước, cả thiên hạ hữu đạo. Hữu đạo là thể hiện được mối
quan hệ giữa người và người, giữa người và trời đất - vạn vật một cách đúng đắn,
nghĩa là phù hợp với thiên mệnh, mà thực chất là làm theo các nguyên tắc, phương
châm cơ bản của Nho gia. Khổng Tử cho rằng, nếu lập đạo của trời, nói về âm và
dương; lập đạo của đất, nói về cương và nhu; thì lập đạo của người, phải nói về nhân
và nghĩa.
- Quan niệm về nhân và nghĩa: là quan niệm trung tâm của đạo đức Nho gia
nguyên thủy, chúng hợp với các quan niệm khác tạo thành hệ thống phạm trù đạo
đức của phái này: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng…
+ Quan niệm về nhân: Nhân được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản quy định
bản tính con người, chi phối mọi quan hệ giữa người với người trong xã hội. Khổng
Tử cho rằng, nhân là lòng thương người (ái nhân); còn Mạnh Tử thì cho rằng, nhân
HVTH: Nguyễn Hoàng Thái Châu 4
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
là lòng trắc ẩn. Nói chung, nhân là cách đối xử của con người với con người, tức
muốn thực hiện đức nhân cần phải: Điều gì mà mình không muốn thì cũng đừng
đem áp dụng cho người khác; mình muốn lập thân thì cũng giúp người khác lập
thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt; khống chế mình theo
đúng lễ…Người có đức nhân thì bên ngoài xã hội luôn cung, khoan, tín, mẫn, huệ
(cung kính, khoan hòa, tín nhiệm, nhạy bén, rộng rãi)…, bên trong gia đình luôn
hiếu, đễ (hiếu thảo, nhường nhịn)…
+ Quan niệm về nghĩa: Theo Nho gia, nếu nhân là lòng thương người, đức
nhân dùng để đối xử với người và tạo ra người, thì nghĩa là dạ thủy chung, đức
nghĩa dùng để đối xử với chính mình và tạo ra ta. Đức nhân thể hiện trong quan hệ
với người khác; còn đức nghĩa thể hiện trong quan hệ với mình. Khi nói một điều gì

đó hay khi làm một việc gì đó mà ta cảm thấy thoải mái, thảnh thơi, hứng thú trong
lương tâm thì đó là ta nói điều nghĩa, ta làm việc nghĩa.
+ Quan niệm về trí: Trí là sự sáng suốt nhận thức thấu đáo mọi vấn đề, hiểu
thấu đạo trời, đạo người, hiểu cả thiên hạ, biết sống hợp với nhân. Khổng Tử coi trí
là điều kiện để có nhân. Muốn có trí thì phải học.
+ Quan niệm về tín: Tín là lòng dạ ngay thẳng, lời nói và việc làm nhất trí với
nhau. Tín là đức trong mối quan hệ bạn bè và rất quan trọng với mọi người. Sách
Đại học chỉ rõ rằng “ Giao kết với người, cốt ở chữ tín”. Tín củng cố sự tin cậy giữa
người với người, củng cố lòng tin với đạo lý thánh hiền, tin vào sự tốt đẹp.
+ Quan niệm về dũng: Dũng là sức mạnh tinh thần, lòng can đảm, biết xấu hổ
vì cái sai, cái xấu để vứt bỏ chúng mà làm theo nhân nghĩa…Là đức nói lên tinh
thần hăng hái, quyết tâm khắc phục khó khăn, dũng cảm biểu hiện sức mạnh và ý
chí thực hiện mục đích của mình. Khổng Tử rất quan tâm tới chữ dũng, nhưng ông
vừa cổ vũ vừa dè dặt. Ông cổ vũ tinh thần quả cảm, khí phách anh hùng của những
nhân dân đối với vua chúa phong kiến. Mặt khác, ông lại dè dặt đối với dũng vì
người dũng là người không sợ sệt. Ông thường hay gắn dũng với nghĩa để kết luận
HVTH: Nguyễn Hoàng Thái Châu 5
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
người quân tử coi trọng điều nghĩa, gắn dũng với lễ cho thấy rằng quân tử ghét
những kẻ có dũng mà không có lễ…
- Theo Nho gia, ngũ luân là năm mối quan hệ mà con người phải xác định và
làm tròn trách nhiệm của mình trong các quan hệ ấy, trong đó có ba quan hệ chính –
tam cương là vua tôi, cha con, chồng vợ. Trong tam cương có hai quan hệ mấu chốt
là vua - tôi, biểu hiện bằng đức trung, cha - con biểu hiện bằng đức hiếu. Giữa trung
và hiếu, thì trung đứng đầu. Những đức tính con người thường xuyên phải trau dồi
là ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Đứng đầu ngũ thường là nhân, nghĩa, trong
đó nhân là chủ. Vì vậy gọi đạo của Khổng Tử là đạo nhân. Nho gia đặt con người
trong năm mối quan hệ với những lập luận khá chặt chẽ, làm cơ sở cho mục tiêu
phấn đấu và nội dung tu dưỡng của con người là có tính hợp lý hơn. Nó thực sự góp
phần củng cố trật tự xã hội, nó là sản phẩm của xã hội và cũng là nguyên nhân trì trệ

xã hội đó.
c) Tư tưởng của triết học Nho gia về giáo dục đạo đức
- Các nguyên tắc đạo đức cơ bản của Nho giáo là đạo đức hướng đến xây dựng
mẫu người quân tử. Khổng Tử cho rằng, người quân tử là người có đủ tam đức (trí,
nhân, dũng); do có trí nên người quân tử không nhầm lẫn, do có nhân nên người
quân tử không buồn phiền, do có dũng nên người quân tử không có gì phải kinh sợ.
Khổng Tử chú trọng đến tam đức. Đến thời Chiến quốc, Mạnh Tử bỏ dũng thay vào
đó là lễ và nghĩa thành tứ đức (nhân, lễ, nghĩa, trí).
- Khổng Tử và Mạnh Tử đều nhất trí coi chuẩn mực đạo đức là tiêu chuẩn của
người quân tử, và muốn trở thành người quân tử cần phải tu thân. Để tu thân cần
phải đạt đạo (con đường phải theo, quan hệ mà con người phải biết giữ để ứng xử
trong cuộc sống) mà trước hết là đạo quân - thần, phụ - tử, phu - phụ và cần phải đạt
đức (phẩm chất tốt đẹp của con người cần phải thể hiện trong cuộc sống), đồng thời
phải biết thi, thư, lễ, nhạc.
1.2.2 Trường phái của Đổng Trọng Thư thời Tây Hán
HVTH: Nguyễn Hoàng Thái Châu 6
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
- Thời Tây Hán, Đổng Trọng Thư (179-104 TCN) dựa trên lợi ích giai cấp
phong kiến, khai thác lý luận Âm dương - Ngũ hành, đưa ra thuyết trời sinh vạn vật
và thiên nhân cảm ứng để hoàn chỉnh thêm Nho gia trong việc giải thích vạn vật,
con người và xã hội. Ông đã hệ thống hóa kinh điển Nho gia thành Tứ thư và Ngũ
kinh, đồng thời đưa ra quan niệm tam cương (quân - thần, phụ - tử, phu - phụ), ngũ
thường (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín), tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phụ, phu
tử tòng tử), tứ đức (công, dung, ngôn, hạnh)… đối với phụ nữ.
→ Những quan niệm này đã nhanh chóng trở thành tiêu chuẩn đạo đức và nền
tản tư tưởng xã hội, trở thành hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến thống trị Trung
Quốc. Nho gia với tư cách là một trường phái triết học vươn lên thành một hệ tư
tưởng xã hội và được mở rộng thành một hệ thống niềm tin, tín ngưỡng và nghi thức
được phổ biến trong toàn xã hội.
1.2.3 Trường phái của Chu Đôn Di và Thiệu Ung thời nhà Tống

- Khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc và Đạo giáo ra đời, Nho giáo hấp thụ
một số tư tưởng của hai học thuyết này để phát triển tiếp tục. Sang thời nhà Tống,
Nho giáo mới thật sự phát triển mạnh. Chu Đôn Di (1017-1073) và Thiệu Ung
(1011- 1077) là những người đã khởi xướng lý học trong Nho giáo. Theo thuyết thái
cực đồ, Chu Đôn Di cho rằng: Nguồn gốc của Vũ trụ là thái cực; Thái cực có thể
động và thể tĩnh; Động sinh ra dương, động cực rồi lại tĩnh, và ngược lại. Âm dương
tác động sinh ra Ngũ hành, rồi sinh ra vạn vật. Thời này còn có hai anh họ Trình là
Trình Hạo (1032-1085), Trình Di (1033-1107), và Chu Hy (1130-1200)… là những
nhà lý học xuất sắc. Họ đã nêu thuyết cách vật tri trí (cách vật, trí tri, thành ý, chính
tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ)…[1,54]
1.2.4 Nho giáo thời Minh - Thanh
- Nho giáo tiếp tục chi phối đời sống tư tưởng xã hội Trung Quốc qua các triều
đại tiếp theo. Đến thời Minh - Thanh thì Nho giáo không có phát triển mới nổi bật
mà ngày càng khắc khe và bảo thủ. Sang thế kỷ XIX, Nho giáo trở nên già cỗi và
không còn hợp với thời đại nữa.
HVTH: Nguyễn Hoàng Thái Châu 7
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ VÀ NHỮNG HẠN CHẾ CỦA TRIẾT HỌC NHO GIA
2.1 Những giá trị của triết học Nho gia
2.1.1 Nho gia đã đưa ra những tiêu chuẩn đạo đức nhằm hoàn thiện nhân cách
cho con người
- Chúng ta nhận thấy, với tư cách là hệ tư tưởng chỉ đạo đường lối trị nước ở
Trung Quốc trên 2000 năm, Nho giáo đã đóng góp lớn vào sự nghiệp tổ chức và
quản lý xã hội, vào sự nghiệp phát triển văn hóa và giáo dục, quá trình rèn luyện đạo
đức cá nhân, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
- Dựa trên thuyết thiên mệnh, Mạnh Tử cho rằng nhân chi sơ tính bản thiện;
bởi vì, khi sinh ra mỗi con người đều có đủ nhân, lễ, nghĩa, trí. Nhân, lễ, nghĩa, trí là
xuất phát từ tâm. Là người ai cũng có cái tâm. Tâm là cội nguồn của tính thiện trong
con người. Vì vậy, con người cần phải trường kỳ tâm dưỡng kỳ tính, tức là giữ gìn
cái tâm thiện ấy. Để vãn hồi tính thiện cho con người thì phải lập lại trật tự kỷ cương

cho xã hội trên cơ sở thực hành đường lối nhân nghĩa. Ý nghĩa tích cực “thuyết thiên
mệnh” của Mạnh Tử là ở chỗ phát huy bốn đầu mối, làm cho phần tốt trong con
người ngày càng phát triển, còn phần xấu ngày càng thu hẹp lại.
2.1.2 Nho giáo đã đưa ra những quan điểm về quản lý xã hội
- Thực hiện thuyết chính danh: Nho giáo chủ trương làm cho xã hội có trật tự,
ổn định. Mỗi người làm đúng danh của mình thì xã hội sẽ có trật tự, kỉ cương, gia
đình yên ấm. Nho giáo đề cao công bằng xã hội.
- Nho giáo lấy gia đình để hình dung thế giới: Coi xã hội như một gia đình thu
nhỏ. Gia đình có hòa thuận, êm ấm thì xã hội mới phát triển. Cộng đồng được xem
như một gia đình và các quan hệ cha con, vợ chồng, anh em phải có trên có dưới.
Cách cư xử đúng vai trò như vậy làm cho gia đình hòa thuận, êm ấm. Theo Nho giáo
áp dụng mối quan hệ như vậy trong xã hội sẽ làm cho xã hội ổn định. Một xã hội
muốn ổn định thì cần phải có những gia đình hòa thuận, để làm được điều đó Nho
giáo đòi hỏi mỗi con người trong gia đình phải biết tuân theo lễ.
HVTH: Nguyễn Hoàng Thái Châu 8
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
- Nho gia nguyên thủy khao khát cải biến xã hội thời Xuân thu - Chiến quốc từ
loạn thành trị là một mong muốn của cả xã hội lúc bấy giờ. Nó thể hiện tính nhân
bản sâu sắc. Đồng thời Nho gia nguyên thủy Khổng - Mạnh cũng chứa đựng nhiều
giá trị nhân bản và toát lên tinh thần biện chứng sâu sắc.
2.1.3 Giá trị về mặt giáo dục
- Khổng Tử cho rằng giáo dục không chỉ mở mang nhân cách, tri thức, giải
thích vũ trụ mà ông còn chú trọng đến việc hình thành nhân cách con người, lấy giáo
dục để mở mang cả trí, nhân, dũng, để dạy con người ta thành con người đạo lý.
Như vậy, tư tưởng giáo dục của Nho gia đã góp phần đưa ra những tiêu chuẩn để
giáo dục một con người hoàn thiện cả về nhân cách và đạo đức.
- Nho gia rất xem trọng các quan niệm ngũ luân, tam cương, trung và hiếu.
Nho gia còn cho rằng những đức con người thường xuyên phải trao dồi là ngũ
thường (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín). Đứng đầu ngũ thường là nhân, nghĩa, trong đó nhân
là chủ. Vì vậy gọi đạo của Khổng Tử là đạo nhân. Nho gia đặt con người trong năm

mối quan hệ với những lập luận khá chặt chẽ, làm cơ sở cho mục tiêu phấn đấu và
nội dung tu dưỡng của con người là có tính hợp lý hơn. Nó thực sự góp phần tạo ra
mục tiêu phấn đấu cho mỗi con người.
- Mục đích của giáo dục là học để ứng dụng cho có ích với đời, với xã hội, chứ
không phải là để làm quan hưởng bổng lộc, học để hoàn thiện nhân cách. Học để tìm
tòi đạo lý. Quan điểm giáo dục của Nho gia với mục đích cao cả thực sự là một quan
điểm mang tính nhân văn sâu sắc.
- Khổng Tử coi giáo dục cho dân đạo lý làm người là quan trọng, thể hiện tư
tưởng giáo dục của Nho giáo, tư tưởng của Khổng Tử là nhằm đào tạo lớp người lấy
đức trị là chính.
2.1.4 Những giá trị về mặt chính trị
- Khổng Tử mong muốn có một xã hội mà ở đó có trên dưới phân minh phổ
biến đó là trật tự về danh vị. Thuyết chính danh của Nho gia nhằm đưa xã hội loạn
trở thành trị. Khổng Tử cho rằng xã hội cần phải có chính danh. Chính danh có
HVTH: Nguyễn Hoàng Thái Châu 9
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
nghĩa là một người cần phải có vị trí phù hợp với cái danh của họ. Theo Nho gia,
trong xã hội, mỗi người làm đúng theo danh của mình thì xã hội sẽ yên ổn và có trật
tự. Như vậy, thuyết chính danh của Nho gia đã góp phần tạo nên cơ sở để xác định
đúng danh vị và quan hệ trong xã hội, là cơ sở để ổn định chính trị của quốc gia.
- Nho gia chủ trương theo thuyết lễ trị. Những quan niệm về lễ của Nho gia
bao gồm: nghi thức, quy chế, kỷ cương, trật tự, tôn ti của cuộc sống chung trong xã
hội cũng là cơ sở tốt để quản lý xã hội. Như vậy, thuyết lễ trị của Nho gia đã góp
phần làm tiền đề cho việc xây dựng cơ sở để quản lý xã hội.
2.2 Những hạn chế của triết học Nho gia
2.2.1 Những hạn chế về mặt văn hóa
- Cuối thời đại phong kiến, do tính phục cổ, bảo thủ mà Nho giáo đã tạo ra tình
trạng trì trệ kéo dài của xã hội Trung Quốc, làm cho Trung Quốc không bắt kịp vào
trào lưu văn minh của thế giới.
- Quan niệm về nhân của Khổng Tử có nội dung giai cấp rõ ràng, ông cho rằng

chỉ có người quân tử, tức kẻ cai trị, mới có được đức nhân, còn người tiểu nhân tức
nhân dân lao động, không thể có được đức nhân. Đạo nhân chỉ là đạo của người
quân tử, của giai cấp thống trị. Đây là quan niệm cổ hủ, mang tính phân biệt giai
cấp, bất bình đẳng xã hội.
- Nho giáo nhấn mạnh tư tưởng thiên mệnh: Theo Khổng Tử thì trời có ý chí,
ý trời là thiên mệnh không thể thay đổi được, không thể cải thiện được mệnh trời,
ông xem trời đất là một. Quan điểm này được thể hiện một cách đầy đủ và rõ ràng.
Đối với thần ông có tư tưởng thiếu nhất quán. Đến các thế hệ học trò của ông tư
tưởng thiên mệnh được củng cố và khẳng định và là tư tưởng cơ bản của Nho giáo
chi phối các tư tưởng khác. Quan niệm này của Nho giáo mang tính duy tâm chủ
quan, thiếu tính khách quan khoa học.
- Khổng Tử ít quan tâm đến các vấn đề nguồn gốc của vũ trụ nên quan điểm
của ông về trời - đất, quỷ - thần không rõ ràng. Tuy nhiên để tìm chỗ dựa vững chắc
cho lý luận của mình, Khổng Tử và Mạnh Tử đều xây dựng thuyết thiên mệnh. Từ
HVTH: Nguyễn Hoàng Thái Châu 10
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
quan niệm về vũ trụ của kinh Dịch, Khổng Tử cho rằng, vạn vật không ngừng biến
hóa theo một trật tự không gì cưỡng lại được, mà nền tảng là thiên mệnh. Sự hiểu
biết về thiên mệnh là điều kiện tiên quyết để trở thành con ngưởi hoàn thiện.Từ quan
điểm về thiên mệnh, Khổng Tử và Mạnh Tử tìm kiếm sự thống nhất giữa trời, đất,
người và vạn vật, đặc biệt là về vấn đề đạo đức - chính trị - xã hội, mà không để ý
đến khía cạnh sinh học - tự nhiên của con người.
2.2.2 Những hạn chế về mặt tư tưởng giáo dục
- Nho giáo ở vị trí độc tôn thời phong kiến, mang nặng tính giáo điều nguyên
tắc nên hạn chế khả năng sáng tạo của con người: Nho giáo gắn với chính quyền tập
trung quan liêu. Vì vậy, để bảo vệ chính quyền phong kiến giai cấp phong kiến đã sử
dụng Nho giáo như một công cụ để bảo vệ mình. Các học sĩ, quan lại đều lấy tư
tưởng Nho giáo làm thước đo cho mọi suy nghĩ và hành động của họ. Khi đã chiếm
được vị trí cao trên vũ đài tư tưởng, Nho giáo không tiếp tục đi sâu vào khám phá
những vấn đề bản chất của đời sống và của vũ trụ. Nho giáo chỉ chú trọng đến

những quan hệ chính trị và đạo đức thực tế cho nên khi xã hội phong kiến rối loạn,
vấn đề số phận và yêu cầu giải phóng con người được đặt ra thì Nho giáo lại không
có cách giải quyết.
2.2.3 Những hạn chế về mặt kinh tế
- Các nhà Nho chỉ chăm lo vào học hành, thi cử mà không chăm lo phát triển
kinh tế, xa rời thực tế dẫn đến nền sản xuất kém phát triển. Chính sách kinh tế của
nhà nước là trọng nông, nhiều chính sách xã hội và văn hóa cũng cản trở cải cách.
Nho giáo cũng coi thường những người chạy theo lợi nhuận, không coi trọng thương
nghiệp.[6,16]
2.2.4 Những hạn chế về mặt chính trị, xã hội
- Đòi hỏi của Nho giáo nguyên thủy về người cai trị - người quân tử không thể
là dân võ biền mà phải là người có một vốn văn hóa toàn diện là một đòi hỏi chính
đáng. Nhưng chủ trương xây dựng một xã hội đại đồng của Nho giáo hoàn toàn
không dựa trên các quan hệ kinh tế - xã hội, không xuất phát từ việc xây dựng nền
HVTH: Nguyễn Hoàng Thái Châu 11
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
sản xuất vật chất, không dựa vào quần chúng nhân dân bị trị mà chỉ dựa vào các
quan hệ đạo đức - chính trị - xã hội, xuất phát từ việc giáo dục, rèn luyện nhân cách
cá nhân cho tầng lớp thống trị là một chủ trương duy tâm, ảo tưởng, xa rời thực tế
cuộc sống bấy giờ. Do không phù hợp với ước vọng của quần chúng nhân dân, nó
mãi mãi chỉ là một lý tưởng.
- Do không hiểu nguyên nhân sâu xa của các sự biến lịch sử và bị những quyền
lợi giai cấp quy định nên những kế sách chính trị của Khổng Tử chỉ dừng lại ở tính
chất cải lương và duy tâm, chứ không phải bằng cách mạng hiện thực.[3,53]
- Phong kiến dựa vào Nho giáo để cai trị với những thủ tục hà khắc trong quan
hệ tam cương ngũ thường: Theo Nho giáo mọi người trong xã hội đều bị ràng buộc
bởi các mối quan hệ tự nhiên đó là quan hệ cha con, vua tôi, vợ chồng, anh em, bạn
bè. Các mối quan hệ này phản ánh quan hệ gia đình và quan hệ xã hội trong cuộc
sống. Trong xã hội phong kiến mỗi gia đình được củng cố bằng chế độ tông pháp và
chế độ gia trưởng, còn các quan hệ xã hội thì được củng cố bằng chế độ chính trị

đẳng cấp. Song song đó là những yêu cầu giao tiếp bắt buộc mỗi thành viên trong xã
hội phải thực hiện. Tương ứng với những mối quan hệ đó Nho giáo đặt ra những yêu
cầu mang tính quy phạm đạo đức. Chính vì thế mà có những mối quan hệ đã trở nên
quá cứng nhắc, khô khan, khuôn mẫu.
HVTH: Nguyễn Hoàng Thái Châu 12
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
KẾT LUẬN
Chúng ta có thể nhận thấy rằng, Nho giáo đã tồn tại từ rất lâu và ảnh hưởng
của Nho giáo không chỉ ở quá khứ mà còn ảnh hưởng đến hiện tại và tương lai nữa.
Nho giáo có những tư tưởng tích cực về mặt văn hóa, đạo đức, giáo dục và xã hội
mà đến ngày nay chúng ta vẫn có thể áp dụng được. Đặc biệt những tư tưởng về
giáo dục đạo đức và nhân cách cho con người có những điểm chứa đựng những giá
trị rất tốt mà xã hội ngày nay có thể học tập.
Trong cuộc cách mạng dân tộc, với ảnh hưởng của Nho gia, từ một hệ tư tưởng
duy tâm theo ý chí con người chuyển sang chủ nghĩa duy vật với phương pháp khoa
học, tư tưởng dân tộc sang tư tưởng cách mạng đòi hỏi một quá trình xem xét và vận
dụng một cách linh hoạt.
Thực tế những tư tưởng nhân đạo và khát vọng hòa bình của Nho gia cũng là
khát vọng của chúng ta hiện nay. Tuy có những hạn chế về mặt tư tưởng nhưng
những biện pháp mà Nho gia đề ra vẫn có giá trị đến ngày nay. Những mong muốn
của Nho gia trong việc xây dựng xã hội cũng có một số điểm tốt mà chúng ta cần
học tập.
HVTH: Nguyễn Hoàng Thái Châu 13
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] TS. Bùi Văn Mưa (Chủ biên), TS Trần Nguyên Ký, PGS TS Lê Thanh Sinh, TS
Nguyễn Ngọc Thu, TS Bùi Bá Linh, TS Bùi Thanh Xuân, Triết học phần I: Đại
cương về lịch sử triết học, Tiểu ban triết học trường đại học Kinh Tế Thành Phố Hồ
Chí Minh, 2011.
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao học và

nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), Nhà xuất bản Lý luận chính
trị, Hà Nội, 2006.
[3] GS,TS Nguyễn Hữu Vui và GS,TS Nguyễn Ngọc Long (đồng chủ biên), Giáo
trình Triết học Mác – Lênin (dùng trong các trường đại học và cao đẳng), Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
[4] TS Bùi Văn Mưa, Bài giảng Triết học phần I, Trường đại học Kinh Tế Thành
Phố Hồ Chí Minh, 2011.
[5] />[6] />c_thuyet_nho_giao_vaanh_huong_cua_noo_viet_nam_hien_nay.html
HVTH: Nguyễn Hoàng Thái Châu 14

×