S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
i
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHÓ THỊ HỒNG OANH
TRƢỜNG TỪ VỰNG – NGỮ NGHĨA TRONG
TRUYỆN TÂY BẮC CỦA TÔ HOÀI
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
THÁI NGUYÊN - 2013
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
ii
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHÓ THỊ HỒNG OANH
TRƢỜNG TỪ VỰNG – NGỮ NGHĨA TRONG
TRUYỆN TÂY BẮC CỦA TÔ HOÀI
Chuyên nghành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60. 22. 01 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ NHUNG
THÁI NGUYÊN - 2013
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, chưa từng được
công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả
Phó Thị Hồng Oanh
Xác nhận của ngƣời hƣớng dẫn
TS. Nguyễn Thị Nhung
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
ii
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, tôi đã hoàn thành luận văn
thạc sĩ Ngôn ngữ học với đề tài: Trường từ vựng - ngữ nghĩa trong Truyện
Tây Bắc của Tô Hoài.
Để hoàn thành được luận văn này, ngoài sự nỗ lực, cố gắng của bản
thân, tôi luôn nhận được sự quan tâm, dạy bảo, động viên, giúp đỡ của các
thầy giáo, cô giáo, các bạn bè đồng nghiệp và gia đình.
Tôi xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị
Nhung, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Ngữ văn, Khoa Sau
Đại học - Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên cùng các thầy
giáo ở Viện Ngôn ngữ học, Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam đã
tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè, người
thân, các đồng chí đồng nghiệp đã động viên khích lệ tôi để tôi hoàn thành
luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2013
Tác giả luận văn
Phó Thị Hồng Oanh
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
iii
MỤC LỤC
Lời cam đoan …………………………………………………………….
i
Lời cảm ơn………………………………………………………………
ii
Mục lục…………………………………………………………………
iii
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1
2. Lịch sử vấn đề
2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
8
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
8
5. Phương pháp nghiên cứu
9
6. Đóng góp mới của luận văn
9
7. Cấu trúc của luận văn
9
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
11
1.1. Trường nghĩa
11
1.1.1. Khái niệm nghĩa và các loại nghĩa
11
1.1.2. Trường nghĩa
17
1.2. Hiện tượng chuyển nghĩa
23
1.2.1. Khái niệm hiện tượng chuyển nghĩa
23
1.2.2. Các phương thức chuyển nghĩa
24
1.2.2.1. Ẩn dụ
24
1.2.2.2. Hoán dụ
26
1.3. Các đơn vị từ ngữ
27
1.3.1. Khái niệm từ, phân loại từ
27
1.3.2. Khái niệm đoản ngữ, phân loại đoản ngữ
30
1.4. Phân tích từ ngữ trong tác phẩm văn chương
31
1.5. Sơ lược về nhà văn Tô Hoài và tác phẩm Truyện Tây Bắc
32
1.6. Tiểu kết
34
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM TRƢỜNG TỪ VỰNG - NGỮ NGHĨA
36
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
iv
TRONG TRUYỆN TÂY BẮC
2.1. Kết quả thống kê, phân loại các trường nghĩa
36
2.2. Khảo sát, miêu tả các trường nghĩa
37
2.2.1. Trường nghĩa sự vật
37
2.2.1.1.Trường nghĩa chỉ thiên nhiên
38
2.2.1.2. Trường nghĩa chỉ người
42
2.2.1.3. Trường nghĩa sự vật nhân tạo
53
2.2.2. Trường nghĩa hoạt động
56
2.2.2.1. Trường nghĩa biểu thị sự vận động, biến đổi của thiên nhiên
56
2.2.2.2. Trường nghĩa hoạt động của con người
62
2.2.2.3. Trường nghĩa hoạt động của của sự vật nhân tạo
69
2.2.3. Trường nghĩa đặc điểm, tính chất
70
2.2.3.1. TN đặc điểm, tính chất của sự vật tự nhiên
71
2.2.3.2. TN đặc điểm, tính chất của con người
74
2.2.3.3. TN đặc điểm, tính chất của sự vật nhân tạo
79
2.2.4. Tiểu kết
79
CHƢƠNG 3: VAI TRÒ CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÁC TỪ NGỮ
THUỘC CÁC TRƢỜNG NGHĨA KHÁC NHAU TRONG TRUYỆN
TÂY BẮC CỦA TÔ HOÀI
3.1. Các TN với vẻ đẹp và sự giàu có của thiên nhiên Tây Bắc
82
82
3.1.1. Sự đặc biệt của khí hậu Tây Bắc
83
3.1.2. Sự đa dạng của địa hình Tây Bắc
85
3.1.3. Sự phong phú của thế giới động vật ở núi rừng Tây Bắc
87
3.1.4. Vẻ sinh động của thế giới thực vật nơi núi rừng Tây Bắc
89
3.2. Các TN với đặc trưng văn hóa Tây Bắc
91
3.2.1. Tục cưới hỏi
93
3.2.2. Tục lễ Tết
96
3.2.3. Trang phục
99
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
v
3.2.4. Ẩm thực
100
3.3. Các TN với việc phản ánh thời kì lịch sử đau thương mà anh dũng
của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc
102
3.3.1. Những năm tháng gian khổ, đau thương dưới chế độ thực dân
phong kiến
102
3.3.2. Cuộc đấu tranh anh dũng, kiên cường của nhân dân Tây Bắc
108
3.4. Các TN với “cái tôi” nghệ thuật của nhà văn Tô Hoài
114
3.4.1. Ngôn ngữ có tính hình tượng cao nhờ so sánh, liên tưởng độc đáo
115
3.4.2. Lời kể chân thật, tự nhiên, đậm chất miền núi
117
3.5. Tiểu kết
122
KẾT LUẬN
124
TÀI LIỆU THAM KHẢO
127
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trường nghĩa (TN) là một trong những lí thuyết quan trọng của ngôn
ngữ học. Nó đã được các nhà nghiên cứu đề cập đến từ sớm. Nghiên cứu TN
sẽ giúp phát hiện những mối quan hệ ngữ nghĩa của hệ thống từ vựng bởi các
từ ngữ không nằm rời rạc ngẫu nhiên mà nằm trong những mối liên hệ nhất
định như các bộ phận trong một chỉnh thể. Nghiên cứu TN vừa cho thấy vẻ
đẹp phong phú đa dạng của từ ngữ vừa giúp sử dụng từ ngữ một cách linh
hoạt và hiệu quả hơn.
1.2. Nếu như giai điệu, âm thanh là ngôn ngữ của âm nhạc; màu sắc, đường
nét là ngôn ngữ của hội họa; mảng khối là ngôn ngữ của kiến trúc thì ngôn
ngữ là chất liệu của tác phẩm văn chương. Macxim Gorki đã nói: “Ngôn ngữ
là yếu tố thứ nhất của văn học”. Muốn khám phá giá trị của một tác phẩm văn
học, yếu tố đầu tiên và quyết định chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ văn học là
một bức tranh đa màu sắc, chứa nhiều điều bí ẩn mà hấp dẫn luôn thu hút sự
khám phá của người đọc, người nghiên cứu. Ngôn ngữ vừa là chất liệu tạo
nên tác phẩm vừa là phương tiện để qua nó người đọc cảm nhận được cái hay,
vẻ đẹp của tác phẩm đó. Có lẽ đó là một trong những lí do khiến xu hướng
dạy học theo quan điểm tích hợp ngữ - văn đang được đề cao như hiện nay.
Các lí thuyết ngôn ngữ trong đó có lí thuyết về TN càng được quan tâm ứng
dụng vào nghiên cứu tác phẩm, góp phần giải mã tín hiệu ngôn ngữ ở một
dạng đặc biệt – ngôn ngữ nghệ thuật. Nghiên cứu lí thuyết về TN trong quan
hệ với phân tích tác phẩm văn học cũng nằm trong xu hướng chung đó.
1.3. Trong số các tên tuổi hàng đầu của văn xuôi hiện đại Việt Nam, Tô Hoài
là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào, bền bỉ và đa dạng bậc nhất. Hơn 65 năm
miệt mài sáng tạo, ông đã đóng góp cho kho tàng văn học dân tộc hơn 160
đầu sách. Trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài, đề tài đã đem lại nhiều vinh
quang cho nhà văn là đề tài miền núi. Với sự am hiểu sâu sắc và tường tận
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
2
cuộc sống sinh hoạt của người dân miền núi, đặc biệt là tình cảm gắn bó chân
thành, Tô Hoài đã có nhiều sáng tác dành tặng mảnh đất yêu thương này:
Miền Tây, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Họ Giàng ở Phìn Sa, Nhớ Mai
Châu…Trong số đó, Truyện Tây Bắc là tác phẩm đánh dấu một bước ngoặt
quan trọng trong tư tưởng và cảm xúc thẩm mĩ của nhà văn.
1.4. Được ra đời từ kết quả chuyến đi thực tế 8 tháng, Truyện Tây Bắc gồm 3
truyện: Mường Giơn, Cứu đất cứu mường, Vợ chồng A Phủ. Qua tập truyện,
người đọc được đến với cuộc sống của người lao động miền núi Tây Bắc
trong những năm tháng bị áp bức nặng nề bởi chế độ thực dân phong kiến
miền núi. Có thể nói Truyện Tây Bắc là một thành công của Tô Hoài trong
việc nhận thức, khám phá hiện thực cuộc sống và kháng chiến ở một địa bàn
vùng cao phía Tây Bắc của Tổ quốc. Tác phẩm in rõ dấu ấn phong cách nghệ
thuật đặc sắc của Tô Hoài.
Đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu tập Truyện Tây Bắc của Tô
Hoài. Tuy nhiên, hầu hết bài viết, bài nghiên cứu chỉ đề cập tới những vấn đề
thuộc chuyên ngành văn học. Vì thế, chúng tôi lựa chọn: Trƣờng từ vựng -
ngữ nghĩa trong Truyện Tây Bắc của Tô Hoài làm đề tài cho luận văn của
mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Vấn đề nghiên cứu tác phẩm văn học dựa trên lí thuyết về trƣờng
nghĩa
Thực tế có nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu về TN và các ứng
dụng của nó. Ở đây chúng tôi chỉ điểm lại một số công trình, bài viết của
những người đã quan tâm việc ứng dụng lí thuyết về TN vào việc phân tích
tác phẩm văn học.
Trước hết phải kể đến các công trình nghiên cứu của Đỗ Hữu Châu. Song
song với việc giới thiệu, nghiên cứu về TN dưới góc độ lí thuyết, ông đã đề
cập đến hướng ứng dụng lí thuyết về TN và phân tích văn học. Trên tạp chí
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
3
Ngôn ngữ số 3 năm 1974, Đỗ Hữu Châu có bài viết “Trường từ vựng ngữ
nghĩa và việc dùng từ ngữ trong tác phẩm nghệ thuật”. Trong các công trình
Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt (NXB GD, 1999), Từ vựng học tiếng Việt
(NXB ĐHSP, H, 2004), sau khi trình bày lí thuyết về TN, tác giả đều gợi mở
hướng nghiên cứu ngôn ngữ tác phẩm văn học theo TN bằng việc lựa chọn
một số trích đoạn văn chương để phân tích. Đó là những đóng góp quý báu có
ý nghĩa mở đường của Đỗ Hữu Châu cho một hướng nghiên cứu văn học. Tuy
nhiên, các bài viết của ông đều theo hướng mở, lấy một vài dẫn chứng làm ví
dụ chứ chưa thực sự đi vào phân tích một tác phẩm cụ thể nào.
Đỗ Việt Hùng trong bài viết “Một số khía cạnh ứng dụng trường nghĩa
trong hoạt động giao tiếp”(Tạp chí Ngôn ngữ số 3 năm 2010) cũng đề cập đến
việc ứng dụng trường nghĩa trong quá trình tạo lập, sản sinh lời nói và quá
trình lĩnh hội, tiếp nhận lời nói, trong đó quá trình tiếp nhận và phân tích lời
nói nhất là cách diễn đạt chứa hiện tượng ngôn ngữ bất thường đặc biệt được
quan tâm. Tuy nhiên Đỗ Việt Hùng mới chỉ đề cập đến sự ứng dụng của lí
thuyết trường nghĩa trong hoạt động giao tiếp nói chung, đồng thời cũng chỉ
ra rằng: “Quan hệ trường nghĩa giữa các từ ngữ trong từ vựng không chỉ là
một bằng chứng về tính hệ thống của từ vựng mà việc sử dụng tốt các quan
hệ trường nghĩa còn có tính hành dụng cao trong cả hai quá trình giao tiếp
là tạo lập lời nói và lĩnh hội, phân tích các giá trị diễn đạt nhất là các giá
trị diễn đạt văn chưong” [tr.13]
Trong luận văn thạc sĩ Tìm hiểu một số phương pháp phân tích ngôn ngữ
qua tác phẩm văn học (một thử nghiệm so sánh các phương pháp qua việc
phân tích một bài thơ) (1985), tác giả Phạm Minh Diện đã phân tích bài thơ
Từ ấy của Tố Hữu theo những hướng phân tích của các tác giả Hoàng Tuệ,
Đái Xuân Ninh, Nguyễn Thái Hòa và theo trường từ vựng – ngữ nghĩa của Đỗ
Hữu Châu. Tác giả luận văn này cũng đã nhận xét rằng: “phương pháp ngôn
ngữ học thực thụ (như phương pháp ngữ nghĩa học của Đỗ Hữu Châu) bao
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
4
giờ cũng cho phép ta bắt đầu từ các từ ngữ với những ý nghĩa rõ ràng của nó,
trên cơ sở đó mới tuần tự chỉ ra các lớp nghĩa do phối hợp hay do đối lập với
ngữ cảnh. Bởi vậy, những hình ảnh, cảm xúc bao giờ cũng được hiện ra với tư
cách là những “ý nghĩa” thuộc các tầng lớp khác nhau. Và cũng do vậy, chúng
có một cấu trúc cực kì tinh vi phức tạp nhưng lại khá rõ ràng. Đó chính là chỗ
mạnh của phương pháp ngôn ngữ học. ” [tr.46]. Cũng theo tác giả luận văn
trên, tuy phương pháp này không phải không có những hạn chế (tác phẩm bị
chẻ ra thành những yếu tố nhỏ, dễ làm mất đi tính chỉnh thể) nhưng sự phân
tích đạt tới trình độ chính xác, khoa học như vậy là khá tối ưu. Chúng tôi cho
rằng những nhận xét trên là xác đáng.
Phân tích văn học dựa vào TN là một hướng đi đã được khá nhiều nhà
nghiên cứu ngôn ngữ quan tâm, thể hiện trên một số lượng khá phong phú các
công trình liên quan. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu của các tác giả
như: Phạm Thị Lệ Mỹ (Trường nghĩa và việc phân tích tác phẩm văn học
(Qua tác phẩm “Thân phận tình yêu” – Bảo Ninh), LVThs, ĐHSPHN, 2008),
Nguyễn Thị Bạch Dương (Trường từ vựng – ngữ nghĩa động vật trong truyện
Tô Hoài viết cho thiếu nhi), LVThs, ĐHSPHN, 2010), Phạm Thị Liên (Tìm
hiểu trường từ vựng – ngữ nghĩa đồng bằng sông Cửu Long, LVThs,
ĐHSPHN, 2011), Lưu Thị Thu Oanh (Trường nghĩa đất trong một số tác
phẩm của Nguyễn Minh Châu, LVThs, ĐH Hải Phòng, 2011), Lê Thị Hương
(Trường từ vựng – ngữ nghĩa “Đấu tranh cách mạng” trong thơ Tố Hữu),
LVThs, ĐH Hồng Đức, 2012), Trần Hạnh Nguyên (Trường từ vựng – ngữ
nghĩa thực vật trong ca dao Việt Nam), LVThs, ĐHSPHN, 2012), Nguyễn
Thị Dinh (Trường nghĩa lúa và sản phẩm của cây lúa trong kho tàng ca dao
người Việt), LVThs, ĐH Hải Phòng, 2013), Nguyễn Thị Dung (Trường nghĩa
sông nước trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư, LVThs, ĐH Hải Phòng,
2013), Hoàng Thị Thanh Vân (Trường nghĩa chỉ vật nhân tạo trong thơ Tố
Hữu, LVThs, ĐH Hải Phòng, 2013), vv
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
5
Như vậy có thể thấy, rõ ràng phân tích tác phẩm văn học dựa vào TN là
một hướng đi đúng đắn.
Với luận văn này, chúng tôi mong muốn sẽ góp thêm một minh chứng về
phương pháp phân tích văn học dựa vào TN. Trên cơ sở tiếp thu thành tựu của
những người đi trước, chúng tôi tiến hành tìm hiểu các TN trong một tác
phẩm văn xuôi - tác phẩm Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài đồng thời chỉ
ra vai trò của các TN đó đối với việc thể hiện giá trị nội dung của tác phẩm và
cái tôi nghệ thuật của tác giả.
2.2. Vấn đề nghiên cứu tác phẩm Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài
Với hơn 90 tuổi đời, hơn 65 tuổi nghề và hơn 160 đầu sách đã xuất bản,
cho đến nay, Tô Hoài là một trong số ít nhà văn hiện đại nước ta đạt được
nhiều con số kỉ lục trong sự nghiệp sáng tác của mình. Sự nghiệp sáng tác đồ
sộ và đặc sắc của Tô Hoài đã thu hút sự chú ý và hứng thú tìm hiểu, khám phá
của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình.
Ngay sau khi tập Truyện Tây Bắc ra đời (1953) Tô Hoài đã nhận được rất
nhiều sự cổ vũ và đồng tình từ phía bạn đọc. Thời gian dần lùi xa và những
công trình nghiên cứu về giá trị của tác phẩm Truyện Tây Bắc cũng gia tăng
về số lượng và chất lượng. Phong Lê và Vân Thanh (Viện Văn học) là những
người đã rất công phu khi tập hợp và giới thiệu cuốn Tô Hoài về tác gia và
tác phẩm. Trong cuốn sách này hầu hết các tác giả khi nghiên cứu Truyện Tây
Bắc đều dành sự quan tâm nhiều hơn đến truyện vừa Mường Giơn và truyện
ngắn Vợ chồng A Phủ
Tác giả Hoàng Trung Thông trong bài Tô Hoài và Truyện Tây Bắc khi giới
thiệu tác phẩm Mường Giơn đã cảm nhận được tâm hồn giàu chất thơ của nhà
văn Tô Hoài: “Tô Hoài viết Mường Giơn với con mắt của một nhà thơ. Phong
cảnh và con người đẹp đẽ của Tây Bắc được ngòi bút của Tô Hoài vẽ lên với
một sức rung động thơ.” [33, tr.228]
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
6
Năm 1987, trên báo Văn nghệ số 5 – 31/8/1987 nhận xét về những sáng tác
của Tô Hoài, Hoàng Trung Thông một lần nữa khẳng định: “Tô Hoài đi nhiều
và viết nhiều sao anh quan sát hóm hỉnh thế, thông minh thế, tinh vi thế ”
Tác giả Huỳnh Lý lại nhìn nhận Tô Hoài như là một họa sĩ: “Tô Hoài đạt
kết quả mà ông mong muốn: Cảnh và người Tây Bắc hiện ra hài hòa, đường
nét, ấm màu sắc và êm ái âm thanh. Cảnh Tây Bắc đẹp như một bức tranh,
đẹp như ta thấy trong những bức tranh của Hoàng Kiệt ”[33, tr.239].
Đi sâu vào một tác phẩm cụ thể - truyện ngắn Vợ chồng A Phủ – tác giả
Nguyễn Văn Long có những khám phá sâu sắc hơn. Tác giả tập trung phân
tích cốt truyện, chủ đề và nhân vật Mỵ trong tác phẩm. Trên cơ sở đó tác giả
đánh giá những thành công về nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biệt nghệ
thuật miêu tả tâm lí và khắc họa tính cách nhân vật. “Cũng như trong tập
Truyện Tây Bắc, truyện Vợ chồng A Phủ còn lôi cuốn người đọc bởi chất thơ
đậm đà, trong sáng. Phong cảnh và con người đẹp đẽ của Tây Bắc được ngòi
bút của Tô Hoài vẽ nên với một sức rung động thơ.” [33, tr.256]
Tương tự như vậy, tác giả Đỗ Kim Hồi trong bài viết Về Vợ chồng A Phủ
(1997), tác giả Nguyễn Quang Trung trong bài Vợ chồng A Phủ (1999) đều
tập trung đánh giá những thành công về nghệ thuật xây dựng nhân vật: những
tính cách độc đáo, những số phận giàu ấn tượng để rồi các tác giả đi đến kết
luận: “Truyện Tây Bắc là thành quả đẹp trong mùa thu hoạch đầu tiên của Tô
Hoài trên quê hương văn học mới của ông Vợ chồng A Phủ có một gương
mặt riêng độc đáo.”
Như một dòng sông vô tận với bao điều kỳ diệu, những sáng tác của Tô
Hoài và đặc biệt tập Truyện Tây Bắc của ông như những con sóng cảm xúc
nối dài khơi gợi sự quan tâm, tìm hiểu của các nhà nghiên cứu. Nhiều luận
văn Thạc sĩ, Tiến sĩ đã viết về tác phẩm của Tô Hoài. Năm 2005, tác giả Mai
Thị Nhung đã có công trình nghiên cứu rất công phu về phong cách nghệ
thuật Tô Hoài. Vấn đề mà tác giả luận văn đi sâu phân tích là phong cách
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
7
nghệ thuật Tô Hoài với yếu tố hạt nhân chi phối là cảm quan hiện thực đời
thường. Tô Hoài cảm nhận con người trong dạng thức nhân bản đời thường.
Thế giới nhân vật bình dị, đời thường và nhân vật hành động, hướng ngoại.
Ngôn ngữ văn chương Tô Hoài mang vẻ đẹp giản dị, mộc mạc. Từ ngữ được
nhà văn sử dụng ổn định và mang giá trị thẩm mĩ đặc sắc
Từ những khảo sát trên, có thể nhận thấy phần lớn các bài nghiên cứu đều
tập trung đánh giá một cách tổng quát ý nghĩa nội dung, đặc sắc nghệ thuật
của tập Truyện Tây Bắc nói riêng và những sáng tác của Tô Hoài nói chung
để từ đó thấy được tình yêu, sự gắn bó với mảnh đất đã “để thương để nhớ”
trong tâm hồn nhà văn. Về nội dung, tác phẩm Truyện Tây Bắc đã ghi lại một
cách chân thực và sinh động cuộc sống khổ cực, tối tăm của người dân Tây
Bắc trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động đồng thời ca ngợi sức sống
tiềm tàng, tinh thần chiến đấu bất khuất, kiên cường của người dân Tây Bắc
trên con đường đến với ánh sáng cách mạng. Về nghệ thuật, qua Truyện Tây
Bắc, người đọc thấy được khả năng quan sát tinh tế, sắc sảo phù hợp quy luật
phát triển; bút pháp linh hoạt, tài dựng khung cảnh, không gian, màu sắc, âm
thanh mang hương vị miền núi của nhà văn Tô Hoài. Đặc biệt là nghệ thuật
xây dựng nhân vật, miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật một cách tinh tế của một
cây bút khá già dặn, đã có sự chín muồi trong tư tưởng và tình cảm.
Các ý kiến nói trên sẽ là cơ sở cho chúng tôi tìm hiểu tác phẩm này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng khảo sát và nghiên cứu của luận văn là toàn bộ các DT (TN sự
vật), ĐT (TN hoạt động - trạng thái, TT (TN đặc điểm - tính chất) có mặt
trong tác phẩm Truyện Tây Bắc của Tô Hoài.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi tư liệu khảo sát của luận văn là cuốn Truyện Tây Bắc của Tô Hoài
(NXB Văn học, Hà Nội 1969).
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
8
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi nhằm mục đích:
- Xác lập được các TN sự vật, TN hoạt động - trạng thái, TN đặc điểm -tính
chất được sử dụng trong tác phẩm.
- Tìm ra đặc điểm riêng của từng trường và giá trị của chúng trong việc thể
hiện chủ đề tác phẩm và cái tôi nghệ thuật của nhà văn.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, chúng tôi đặt ra các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu tài liệu, các công trình khoa học đã công bố trong và ngoài
nước để xây dựng cho luận văn một cơ sở lí luận thích hợp;
- Thống kê, phân loại, miêu tả các TN sự vật, TN hoạt động - trạng thái,
TN đặc điểm - tính chất trong Truyện Tây Bắc của Tô Hoài;
- Nghiên cứu giá trị của TN sự vật, TN hoạt động - trạng thái, TN đặc điểm
- tính chất trong Truyện Tây Bắc đối với việc thể hiện nội dung tác phẩm và
phong cách tác giả.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng ba phương pháp sau:
5.1. Phƣơng pháp miêu tả
Chúng tôi đã sử dụng các thủ pháp giải thích bên ngoài và các thủ pháp
giải thích bên trong của phương pháp này để miêu tả các TN trong tác phẩm
Truyện Tây Bắc của Tô Hoài.
Chúng tôi sử dụng các thủ pháp giải thích bên ngoài như: thủ pháp trường
nghĩa – áp dụng lí thuyết trường vào việc nghiên cứu nghĩa nhằm xác định hệ
thống ngữ nghĩa của ngôn ngữ; thủ pháp phân tích ngôn cảnh để nghiên cứu
các tình huống và các nhân tố văn hóa có ảnh hưởng đến việc sử dụng từ ngữ;
các thủ pháp phân bố bao gồm thủ pháp phân tích văn cảnh để miêu tả ý
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
9
nghĩa của các từ ngữ trong từng TN và thủ pháp thay thế để phát hiện giá trị
nội dung và nghệ thuật của từng từ ngữ cụ thể mà tác giả đã sử dụng.
Các thủ pháp giải thích bên trong được chúng tôi sử dụng bao gồm các thủ
pháp phân loại và hệ thống hóa, thủ pháp phân tích nghĩa tố và thủ pháp
thống kê toán học. Thủ pháp phân loại được sử dụng để phân chia các TN và
các tiểu trường. Thủ pháp phân tích nghĩa tố là cơ sở để biết các từ chứa đựng
những nghĩa tố giống nhau trong một trường. Thủ pháp thống kê toán học
được sử dụng để tiến hành thống kê ngữ liệu là các TN trong tác phẩm của Tô
Hoài.
5.2. Phƣơng pháp so sánh
Chúng tôi sử dụng thủ pháp giải thích về mặt văn hóa và lịch sử để xác
định mối liên hệ giữa các yếu tố lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ trong tác phẩm.
5.3. Phƣơng pháp đối chiếu
Các thủ pháp được chúng tôi sử dụng là xác định cơ sở đối chiếu và giải
thích tài liệu được đối chiếu để so sánh các đơn vị từ vựng trong TN này với
các TN khác, từ đó thấy được sự khác biệt và dụng ý của tác giả.
6. Đóng góp mới của luận văn
6.1. Về lí luận
Luận văn góp phần khẳng định những vấn đề lí luận cơ bản về TN và vai
trò của nó với việc biểu đạt trong tác phẩm văn chương.
6.2. Về thực tiễn
Những kết quả chúng tôi thu được khi tìm hiểu tác phẩm Truyện Tây Bắc
dựa vào lí thuyết TN có thể là cơ sở cho việc tìm hiểu các giá trị về nội dung
và nghệ thuật nói chung của Truyện Tây Bắc, mở ra hướng nghiên cứu tích
hợp giữa ngôn ngữ và văn học.
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh trong nhà
trường, đặc biệt dưới góc nhìn ngôn ngữ học, khi cần đọc – hiểu tác phẩm văn
chương.
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
10
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết và thực tiễn
Chương 2: Đặc điểm trường từ vựng – ngữ nghĩa trong Truyện Tây Bắc
Chương 3: Vai trò của việc sử dụng các từ ngữ thuộc các trường nghĩa khác
nhau trong Truyện Tây Bắc
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
11
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN
1.1. Trƣờng nghĩa
1.1.1. Khái niệm nghĩa và các loại nghĩa
1.1.1.1. Khái niệm nghĩa
Một trong những khái niệm phức tạp nhất, giành được sự chú ý thảo luận
nhiều nhất trong ngôn ngữ học là khái niệm nghĩa. Nghĩa là gì? Câu hỏi ấy
vẫn chưa tìm được câu trả lời thống nhất. Có quan niệm cho rằng nghĩa là
khái niệm tồn tại gắn với từ ở trạng thái tĩnh, trạng thái hệ thống, nhưng cũng
có quan điểm cho rằng nghĩa bao gồm cả hai trạng thái – tĩnh và động
- Theo Từ điển Tiếng Việt thì nghĩa có hai cách hiểu: "1. Nội dung diễn đạt
của một kí hiệu, đặc biệt của kí hiệu ngôn ngữ: giải nghĩa từ; tìm hiểu nghĩa
của câu ca dao. 2. Cái nội dung làm thành giá trị: điều đó cũng chẳng có
nghĩa gì; trở thành vô nghĩa". [41, tr.673]
Theo chúng tôi, cách hiểu này đã chỉ ra 2 yếu tố làm nên nghĩa là nội dung
diễn đạt và kí hiệu ngôn ngữ. Tuy nhiên, đó là nội dung gì, xuất phát từ đâu
thì chưa được xác định.
- Cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học giải thích về nghĩa như
sau:
" 1. Sự phản ánh đối tượng của hiện thực (các hiện tượng các quan hệ, phẩm
chất, quá trình) vào trong nhận thức trở thành một yếu tố của ngôn ngữ nhờ
tạo nên mối quan hệ thường trực, liên tục với một chuỗi âm thanh nhất định
nhờ đó sự phản ánh hiện thực trong nhận thức được thể hiện thực hóa. Sự
phản ánh hiện thực này tham gia trong mặt nội dung trong quan hệ với mặt
âm thanh như là vỏ vật chất cần thiết không chỉ để biểu hiện nghĩa và thông
báo nó cho người khác, mà cần thiết cho chính sự hình thành, nảy sinh, tồn tại
và phát triển của nó.
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
12
2. Toàn bộ các chức năng của toàn bộ các đơn vị ngôn ngữ; tất cả những
điều được các đơn vị ngôn ngữ này biểu hiện phản ánh là mặt nội dung của
chúng. Ví dụ: Nghĩa chuyển; nghĩa số lượng; nghĩa nguyên nhân.”[54,
tr.143].
Nghĩa của từ không thể là một thực thể độc lập với ngôn ngữ trong đó tồn
tại, mà chỉ là một khái niệm về sự vật khách quan được phản ánh vào trong
ngôn ngữ. Mặt được biểu đạt, tức nghĩa của từ được xác định bởi những mối
quan hệ của chúng với những từ khác trong hệ thống. Nói cách khác, nghĩa
của từ là một tập hợp các nét khu biệt (còn gọi là nét nghĩa, hay nghĩa vị). Đó
là những tiêu chí mà tiếng nói giữ lại để nhận biết một loại đối tượng nào đó
trong những vật thể của hiện thực. Như vậy, nghĩa của từ là một cấu trúc có
thể phân xuất ra những yếu tố cấu tạo nhỏ nhất, giống như các nét khu biệt
trong âm vị học. Ví dụ: Nghĩa của từ anh trong tiếng Việt gồm các nghĩa vị:
“đàn ông”, “sinh trước”, “trong quan hệ gia đình với người cùng thế hệ”….vv
- Trong cuốn 777 khái niện ngôn ngữ học, tác giả Nguyễn Thiện Giáp quan
niệm về nghĩa như sau:
" Nghĩa của từ (cũng như của các đơn vị ngôn ngữ khác) là quan hệ của từ
với cái gì đó nằm ngoài bản thân đó. Hiểu nghĩa của một đơn vị nào đó là
hiểu đơn vị ấy có quan hệ với cái gì, tức là nó hiển thị cái gì” [21,tr.78].
Tác giả Đỗ Hữu Châu khẳng định, trước hết, khi nói đến nghĩa là nói đến
nghĩa của một cái gì đó đã biết, đã tiếp nhận. Dùng thuật ngữ của F.de.
Saussure thì, nói đến nghĩa là nói đến nghĩa của cái biểu đạt. Nhưng rộng hơn
cách hiểu của F.de.Saussure và rộng hơn cách hiểu thông thường, cái biểu đạt
không chỉ là những vật cảm tính như vỏ ngữ âm của một từ, một câu, một
hình vẽ, màu sắc mà còn có thể là những hiện tượng trong cuộc sống, những
hiện tượng vật chất, những hiện tượng tinh thần, một hành động, một việc
làm, kể cả một cách thức nói năng, thậm chí còn có thể là một ý nghĩa của
một câu đã biết (nội dung câu hỏi, nội dung lời thanh minh…). Theo tác giả
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
13
Đỗ Hữu Châu, có thể dùng thuật ngữ “ngoại biểu” thay cho thuật ngữ “cái
biểu đạt” của F.de. Saussure.
Theo chúng tôi, ở ngôn ngữ, nói đến nghĩa là nói đến cái được biểu đạt mà
người ta có thể học thuộc, ghi nhớ vì nó có tính ổn định, gắn chặt với hình
thức của tín hiệu, của biểu thức ngôn ngữ. Có thể hiểu về nghĩa theo quan
niệm rộng là toàn bộ nội dung, thông tin mà người nói/ viết muốn truyền đạt
thông qua một đơn vị ngôn ngữ nào đó và bằng một cách thức nhất định.
Quá trình hình thành nghĩa của từ như sau: Sự vật, hiện tượng trong thực tế
khách quan phản ánh vào trong tư duy của con người thành khái niệm (về sự
vật, hiện tượng). Các khái niệm đó đi vào hệ thống ngôn ngữ, được ngôn ngữ
hóa, trở thành nghĩa của từ.
1.1.1.2. Các loại nghĩa
Nghĩa tồn tại, hiện diện trong các mặt, các cấp độ lớn nhỏ của ngôn ngữ.
Nó là cái được biểu hiện của hình vị, từ, câu và đơn vị trên câu. Các đơn vị
mang nghĩa trên có nhiều dạng, thể tồn tại nên nghĩa của nó sẽ có nhiều sắc
thái phong phú.
Nói đến nghĩa của từ là đề cập đến các bộ phận: nghĩa từ vựng, nghĩa ngữ
pháp và ngoài ra là nghĩa liên hội của từ.
Nghĩa từ vựng là sản phẩm hoạt động tư duy của con người, hình thành
trong quá trình hoạt động tích cực của người nói, viết. Đó là nghĩa riêng, vốn
có của từ, ngữ. Nghĩa từ vựng mang tính khái quát hóa, là sự khái quát từ
những sự vật hiện tượng trong đời sống hàng ngày và rộng hơn khái niệm
(của triết học) bởi nó thường bao gồm cả thành tố nghĩa đánh giá và các thành
tố khác. Cấu trúc của nghĩa từ vựng bao gồm các thành phần: nghĩa biểu vật
(nghĩa sở chỉ), nghĩa biểu niệm (nghĩa sở biểu), nghĩa biểu thái.
- Nghĩa biểu vật:
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
14
Theo Đỗ Hữu Châu thì: “Ý nghĩa BV là sự phản ánh sự vật hiện tượng…
trong thực tế vào ngôn ngữ. Đó là những mẩu, những mảnh, những đoạn cắt
của ngôn ngữ nhưng không hoàn toàn trùng với thực tế”.
Nguyễn Thiện Giáp gọi thứ nghĩa này là nghĩa sở chỉ. Ông phát biểu
“Những sự vật, quá trình, tính chất hiện tượng được từ biểu thị gọi là các sở
chỉ . Mối quan hệ của từ với cái sở chỉ là nghĩa sở chỉ”.
Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học đã cùng quan điểm với Nguyễn Thiện
Giáp khi khẳng định nghĩa biểu vật là mối liên hệ giữa từ với sự vật, sự phản
ánh của các sự vật, hiện tượng cụ thể trong thực tế bằng ngôn ngữ, còn gọi là
sở chỉ. Chúng tôi thống nhất với khái niệm này.
- Nghĩa biểu niệm:
Trong Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Nghĩa biểu
niệm của từ là hợp thể những hiểu biết được đưa vào hệ thống ngôn ngữ của
một ngôn ngữ về nghĩa biểu niệm của từ đó" [tr.197]. Trong Từ vựng – ngữ
nghĩa tiếng Việt , ông lại viết: “ý nghĩa biểu niệm của từ là tập hợp của một số
nét nghĩa chung và riêng, khái quát và cụ thể theo một tổ chức, một trật tự
nhất định. Tập hợp này ứng với một số ý nghĩa biểu vật của từ. Chính vì ý
nghĩa biểu niệm là một tập hợp có tổ chức, có quan hệ, cho nên còn có thể gọi
nó là cấu trúc biểu niệm”.
Nguyễn Thiện Giáp gọi thứ nghĩa này là nghĩa sở biểu, là quan hệ của từ
với biểu tượng, khái niệm mà từ biểu thị. Khái niệm hoặc biểu tượng có quan
hệ với từ được gọi là cái sở biểu.
Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học tập hợp một số điểm ở khái niệm của cả
hai ông mà đưa ra quan niệm: “Nghĩa biểu niệm là mối quan hệ giữa từ với
khái niệm và biểu tượng của sự vật, tức với những đặc trưng bản chất nhất
của sự vật; tập hợp một số nét nghĩa chung và riêng, khái quát và cụ thể theo
một trật tự nhất định và có tổ chức. Nghĩa biểu niệm được coi như bất biến
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
15
thể trong sự đối lập với nghĩa biểu vật; còn gọi là nghĩa biểu ý, nghĩa sở
biểu”. Chúng tôi theo quan điểm này.
- Nghĩa biểu thái:
Trong Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt, Đỗ Hữu Châu cho nghĩa biểu thái
là “những nhân tố đánh giá như to, nhỏ, mạnh, yếu…, nhân tố cảm xúc như
dễ chịu, khó chịu, sợ hãi…, nhân tố thái độ như trọng, khinh, yêu, ghét,… mà
từ gợi ra cho người nói, người nghe”.
Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học gọi thứ nghĩa này là nghĩa biểu cảm, và
cho là: “Nghĩa phụ của từ hoặc ngữ, sắc thái nghĩa hoặc sắc thái phong cách
lồng vào nghĩa cơ bản để biểu thị nét cảm xúc, biểu cảm, có thể tạo cho phát
ngôn có tính trang trọng, thân mật, kiểu cách,…”.
Nguyễn Thiện Giáp gọi đây là nghĩa sở dụng: là quan hệ của từ với người
sử dụng (người nói, người viết, người nghe, người đọc). Người sử dụng (tập
thể chứ không phải cá nhân) có thể bộc lộ thái độ chủ quan của mình đối với
từ ngữ và qua đó tới cái sở biểu và sở chỉ của từ ngữ. Chẳng hạn, các từ chết,
từ trần, ngoẻo cùng một cái sở biểu nhưng khác nhau về quan hệ chủ quan tồn
tại giữa người sử dụng với những từ này. Với tư cách là yếu tố gợi cảm - cảm
xúc khách quan của từ với tập thể người sử dụng, không phải là từ nào cũng
có. Đại bộ phận các từ trong ngôn ngữ không có yếu tố gợi cảm. Nó chủ yếu
xuất hiện trong các từ thuộc vào một lớp tu từ học nhất định, những nhóm
đồng nghĩa, những biến thể ngữ âm và hình thái học của cùng một từ.
Thái độ của người nói tương quan với ba nhân tố: với chính mình, với
người đối thoại và với sự vật đối tượng. Nghĩa biểu thái cũng bao gồm: nghĩa
bộc lộ trạng thái tâm lí, sự ưa thích, thói quen riêng của người nói; nghĩa thể
hiện thái độ đối với người nghe, nghĩa thể hiện thái độ, tình cảm của người
nói với sự vật đang được nói tới.
Nghĩa từ vựng thường được đặt trong thế đối lập với nghĩa ngữ pháp.
Trong cuốn Giáo trình ngôn ngữ học, Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: “Ý nghĩa
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
16
ngữ pháp (gramatical meaning) loại ý nghĩa chung bao trùm lên một loạt đơn
vị ngôn ngữ. Đó có thể là nghĩa chung của cả loạt dạng thức của từ, của cả
hàng loạt từ, hàng loạt câu”.
Nghĩa ngữ pháp của từ bao gồm các kiểu nghĩa từ vựng - ngữ pháp (nghĩa
của thực từ, hư từ, tình thái từ) và các kiểu nghĩa phạm trù ngữ pháp (như
giống, số, cách,…).
Nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp của từ cùng có tính chất tương đối cố
định, vững bền, là những sự kiện thuộc cấu trúc ngữ nghĩa của ngôn ngữ.
Chúng là những nghĩa ngôn ngữ, cùng đối lập với một thứ nghĩa chưa cố
định, dễ biến động, mang tính chất xã hội - lịch sử - cá nhân cụ thể, đó là
nghĩa liên hội của từ.
1.1.2. Trƣờng nghĩa
1.1.2.1. Khái niệm
Lí thuyết TN ra đời dựa trên cơ sở những luận điểm về ngôn ngữ học đã
được hình thành từ rất sớm. Trước hết phải kể đến giả thuyết về “tính tương
đối ngôn ngữ” do Sapir (1921) và Whorf (1956) khởi xướng. Dựa trên nhận
định của W. Humboldt: “Ngôn ngữ của một dân tộc chính là linh hồn của dân
tộc đó, linh hồn của dân tộc chính là ngôn ngữ của dân tộc đó”, Sapri và
Whorf đã làm sáng tỏ quan niệm coi ngôn ngữ là cái phản ánh tinh thần của
một dân tộc nào đó. Mỗi ngôn ngữ có một hệ thống từ vựng riêng. Hệ thống
từ vựng này phản ánh cách chia thực tế khách quan và phạm trù hóa hiện thực
riêng của từng dân tộc ngay trong bản thân ý nghĩa các từ. Tiếp theo đó là
hàng loạt các nhà nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu về ngữ nghĩa của ngôn ngữ,
tiêu biểu là Talmy (1981), Langacker (1987) và Lakoff (1987).
Năm 1896, M.Pokrovxkij viết: “Từ và ý nghĩa của chúng không tồn tại
tách rời nhau mà liên kết với nhau trong tư tưởng chúng ta và độc lập với ý
thức chúng ta thành những nhóm nhất định. Cơ sở để tập hợp những nhóm
như vậy là sự đồng nhất hay sự trái ngược trực tiếp với chúng về nghĩa.
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
17
Chúng ta đã biết một cách tiên nghiệm rằng các từ như vậy hoặc giống nhau
hoặc song hành với nhau trong sự biến đổi ý nghĩa và trong lịch sử của chúng,
chúng ảnh hưởng lẫn nhau. Chúng ta đã biết rằng những từ này được dùng
trong những tổ hợp cú pháp giống nhau” [11, tr.243]. Như vậy có thể thấy
M.Pokrovxkij lần đầu tiên đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu từ vựng một cách hệ
thống. Ông chia các trường trên cơ sở sử dụng đồng thời ba tiêu chí:
1) Nội dung (các từ có quan hệ với cùng “một phạm vi biểu tượng” theo
lời của Pokrovxkij)
2) Sự đồng nhất
3) Quan hệ hình thái học.
M.Pokrovxkij từ những năm 90 của thế kỉ XIX đã có những sự phân chia
trường dựa trên ba tiêu chí như trên. Nhưng khái niệm trường và lí thuyết
trường ngữ nghĩa chỉ thực sự được nghiên cứu từ những năm 20 của thế kỉ
XX, bắt nguồn từ những lí thuyết ngôn ngữ học của W. Humboldt và F. de
Saussure. Các nhà nghiên cứu như G. Ipsen (1924), A. Jolles (1934), W.
Porzig (1934)… Và đặc biệt là J. Trier (1934) được coi như đã mở ra một giai
đoạn mới trong lịch sử ngữ nghĩa học.
J. Trier là nhà nghiên cứu đầu tiên đưa ra thuật ngữ “trường” trong ngôn
ngữ học. Ông không dùng khái niệm trường ngữ nghĩa mà chỉ nói tới trường
khái niệm và trường từ vựng. Trường khái niệm là một hệ thống rộng gồm
những khái niệm có quan hệ với nhau, được tổ chức lại xung quanh một khái
niệm trung tâm. Trường từ vựng là tập hợp các từ phủ lên trên một trường
khái niệm. Theo đánh giá của GS. Đỗ Hữu Châu thì những giá trị lí thuyết
“trường” của Trier cũng chỉ dừng ở mức là những gợi ý. Có nhiều lí do, trong
đó sự không phân biệt ý nghĩa với khái niệm, các lớp ý nghĩa, từ với khái
niệm và quan niệm quá dứt khoát về ranh giới giữa các trường khái niệm và
các “vùng” khái niệm của từ với nhau đặc biệt là cách sử dụng thiếu thận
trọng tư liệu cổ để đối chiếu hai trạng thái khác nhau của cùng một trường
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
18
khiến cho những kết luận của Trier dễ bị phản bác và phương pháp của ông
không được vận dụng một cách có hiệu quả. Tuy nhiên cần phải thấy rằng qua
điểm của Trier về trường là những gợi ý ban đầu cho việc nghiên cứu ngôn
ngữ nói chung và trường từ vựng nói riêng. Với những nghiên cứu của mình,
J. Trier đã “mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử ngữ nghĩa học”.
Sau J. Trier, một số nhà nghiên cứu khác như Weisgerber, J. Lyons,…
cũng đã có những quan niệm bổ sung cho lí thuyết trường. J. Lyons trong
cuốn “Nhập môn ngôn ngữ học lí thuyết” đã đưa ra được một định nghĩa về ý
nghĩa của từ (sense) có phần khoa học hơn: “Cái mà ta cho là ý nghĩa của một
đơn vị từ vựng là toàn bộ tập hợp các quan hệ ý nghĩa giữa nó với các đơn vị
khác trong từ vựng.”[11, tr.244]. Trên cơ sở quan niệm này, Lyons đã miêu
tả cấu trúc ngữ nghĩa của các từ trong các hệ thống từ vựng bằng các quan hệ
đồng nghĩa, đồng âm, trái nghĩa, đa nghĩa,…
Một số nhà ngôn ngữ học sau này đã chia hệ thống từ vựng của một ngôn
ngữ thành TN ở nhiều cấp độ lớn nhỏ khác nhau dựa vào nét nghĩa phạm trù
chung nhất đến các nét nghĩa phạm trù nhỏ hơn rồi các nét nghĩa loại, hạng và
nét nghĩa riêng biệt.
Nhìn chung những quan niệm về TN của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ mà
chúng ta vừa xem xét đều dựa vào quan hệ dọc của ngôn ngữ. W. Porig – nhà
ngôn ngữ học người Đức lại dựa trên quan hệ ngang giữa các tín hiệu ngôn
ngữ để đề xuất lí thuyết về TN. Theo ông, khái niệm TN dựa trên cơ sở các
mối quan hệ về nghĩa giữa các cặp từ có quan hệ ngữ đoạn với nhau (quan hệ
ngang). Với Porzig, ý nghĩa của từ có thể được chỉ ra một cách độc lập trong
những trường hợp sử dụng cú pháp khác biệt. Khả năng kết hợp về mặt cú
pháp của một từ, tức khả năng cùng một số từ khác kết hợp thành một cấu
trúc cú pháp có nghĩa là bằng chứng cho ý nghĩa độc lập của từ. Porzig đã lấy
sự liên tưởng làm nguyên tắc phân chia TN. Theo cơ chế liên tưởng, một từ
nào đó xuất hiện thế nào cũng gợi lên những từ khác trong hệ thống ngôn