ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐÀO THỊ HỒNG HẢI
RÈN LUYỆN CHO HỌC SINH LỚP 8
KỸ NĂNG SỬ DỤNG YẾU TỐ BIỂU CẢM KHI
TẠO LẬP VĂN BẢN NGHỊ LUẬN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Thái Nguyên - 2013
Soá hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐÀO THỊ HỒNG HẢI
RÈN LUYỆN CHO HỌC SINH LỚP 8
KỸ NĂNG SỬ DỤNG YẾU TỐ BIỂU CẢM KHI
TẠO LẬP VĂN BẢN NGHỊ LUẬN
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VĂN - TIẾNG VIỆT
MÃ SỐ: 60.14.01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. LÊ A
Thái Nguyên - 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tôi. Các nội dung
nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được cơng bố trong bất
cứ một cơng trình nào khác./.
Thái Ngun, ngày 08 tháng 08 năm 2013
Tác giả luận văn
Đào Thị Hồng Hải
XÁC NHẬN CỦA
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
XÁC NHẬN CỦA
CHỦ NHIỆM KHOA NGỮ VĂN
GS.TS LÊ A
i
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên em xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến Thầy
giáo, GS. TS. LÊ A - người Thầy hướng dẫn luận văn của em. Thầy đã tạo
mọi điều kiện động viên và giúp đỡ em trong suốt q trình thực hiện và hồn
thành luận văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn Khoa Ngữ văn; Khoa Sau Đại học Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện cho em có một môi
trường học tập và nghiên cứu thuận lợi để em hồn thành tốt luận văn của mình.
Em xin chân thành cảm ơn các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ đã tham
gia giảng dạy tận tình lớp Cao học Lý luận và Phương pháp dạy học Văn Tiếng Việt K19 - ĐHSP Thái Nguyên.
Xin chân thành cảm ơn các bạn đồng nghiệp, các em học sinh lớp thực
nghiệm và tất cả các bạn bè, người thân đã ủng hộ và tạo điều kiện giúp đỡ tơi
trong q trình thực hiện luận văn. Trong điều kiện hạn hẹp về thời gian và
khả năng có hạn, luận văn này khơng tránh khỏi những thiếu sót nhất định.
Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của Q thầy, cơ và các bạn
đồng nghiệp.
Trân trọng cảm ơn !
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 8 năm 2013
Tác giả luận văn
Đào Thị Hồng Hải
ii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn .......................................................................................................i
Lời cam đoan ..................................................................................................ii
Mục lục ..........................................................................................................iii
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt.................................................................iv
MỞ ĐẦU........................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề.......................................................................................... 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................... 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 8
5. Giả thuyết khoa học ................................................................................. 8
6. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 8
7. Đóng góp của luận văn............................................................................. 9
8. Cấu trúc của luận văn............................................................................. 10
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIẢI
QUYẾT NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU......................................................... 11
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN .............................................................................. 11
1.1.1. Phương thức biểu đạt và các kiểu loại văn bản ................................. 11
1.1.2. Kĩ năng và kĩ năng sử dụng kết hợp yếu tố biểu cảm trong bài văn
nghị luận .................................................................................................... 17
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN........................................................................... 22
1.2.1. Thực trạng tài liệu ( Sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo) ... 22
1.2.2. Thực trạng dạy học thực hành kĩ năng sử dụng yếu tố biểu cảm
trong bài văn nghị luận............................................................................... 23
CHƯƠNG 2. BÀI TẬP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SỬ DỤNG YẾU TỐ
BIỂU CẢM TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH LỚP 8 29
2.1. Giới thiệu khái qt các bài tập ........................................................... 29
iii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
2.2. Miêu tả các bài tập .............................................................................. 30
2.2.1. Bài tập loại 1: Nhận diện và phân tích tác dụng của yếu tố biểu
cảm trong văn bản nghị luận ...................................................................... 30
2.2.2. Bài tập loại 2: Tạo lập văn bản nghị luận có sử dụng yếu tố biểu cảm. .... 49
2.2.3. Bài tập loại 3: Bài tập chữa lỗi sử dụng yếu tố biểu cảm trong văn
bản nghị luận.............................................................................................. 60
2.3.1. Rèn luyện kĩ năng sử dụng yếu tố biểu cảm ở phần Tập làm văn... 67
2.3.2. Rèn luyện kĩ năng sử dụng yếu tố biểu cảm ở các phân môn liên quan..... 70
CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ............................................... 72
3.1. Mục đích và nhiệm vụ thực nghiệm .................................................... 72
3.1.1. Mục đích thực nghiệm...................................................................... 72
3.1.2. Nhiệm vụ thực nghiệm ..................................................................... 72
3.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm ...................................................... 73
3.2.1. Đối tượng thực nghiệm .................................................................... 73
3.2.2. Địa bàn thực nghiệm ........................................................................ 73
3.3. Nội dung và cách thức tiến hành thực nghiệm..................................... 73
3.3.1. Nội dung thực nghiệm..................................................................... 73
3.3.2. Cách thức tiến hành thực nghiệm ..................................................... 74
3.4. Phân tích và đánh giá kết quả thực nghiệm.......................................... 94
3.4.1. Đánh giá riêng về khả năng sử dụng yếu tố biểu cảm trong bài
nghị luận của học sinh qua các phiếu bài tập .............................................. 94
3.4.2. Đánh giá chất lượng bài viết............................................................. 95
3.5. Kết luận chung về dạy học thực nghiệm.............................................. 97
KẾT LUẬN.................................................................................................. 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................... 100
PHỤ LỤC
iv
Soá hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
THCS
: Trung học cơ sở
SGK
:
Sách giáo khoa
SGV
:
Sách giáo viên
HS
:
Học sinh
GV
:
Giáo viên
NL
:
Nghị luận
PTBĐ
:
Phương thức biểu đạt
Nxb
:
Nhà xuất bản
G.S
: Giáo Sư
T.S
: Tiến sĩ
iv
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Sử dụng yếu tố biểu cảm hợp lí làm bài nghị luận sinh động và giàu
tính thuyết phục
Khi tạo lập văn bản, người viết (nói) đều sử dụng những phương thức
biểu đạt nhất định. Phương thức biểu đạt được hiểu như là cách thức phán ánh
và tái hiện đời sống phù hợp với một mục đích, một ý đồ nhất định của người
viết, người nói. Chẳng hạn, phương thức miêu tả là phương thức dùng cách
thức miêu tả để phản ánh và tái hiện đời sống, còn phương thức biểu cảm lại
trực tiếp thể hiện và bày tình cảm, cảm xúc của mình đối với đối tượng được
nói tới. Căn cứ vào phương thức biểu đạt chính, người ta chia văn bản thành:
văn bản tự sự ứng với phương thức tự sự, văn bản miêu tả ứng với phương
thức miêu tả, văn bản nghị luận ứng với phương thức lập luận, ... Văn nghị
luận lấy lập luận làm phương thức biểu đạt chính. Mỗi bài văn nghị luận là
một hệ thống lập luận bao gồm các luận điểm và luận cứ hùng hồn có logic
lập luận chặt chẽ, sắc bén nhằm làm sáng tỏ luận đề, thuyết phục người đọc.
Tuy nhiên để người đọc (người nghe) được thuyết phục cả về lí trí lẫn tình
cảm, người viết văn nghị luận cần phải biết kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố
biểu cảm. Yếu tố biểu cảm sẽ làm cho tâm hồn, trái tim người đọc (người
nghe) bị lay động, người đọc (người nghe) sẽ cùng u với tình u, cùng
căm ghét với lịng căm ghét của người viết. Có thể nói, biểu cảm có vai trị
quan trọng khơng thể thiếu, góp phần cho bài văn nghị luận hay và giàu sức
thuyết phục. Đúng như bài học sâu sắc về cách viết của nhà nghiên cứu
Nguyễn Hiến Lê: “Ý mới mẻ, xác đáng, văn bóng bẩy, rực rỡ mà thiếu tình thì
vẫn lạnh lẽo, khơng cảm được người đọc; và tác giả có thể được kính phục,
mà khơng bao giờ trở thành bạn thân của ta. Ta chỉ yêu những cây bút gợi
được niềm vui, nỗi buồn của ta.” [19] .
Nhưng, để bài văn nghị luận có sức biểu cảm cao, trước tiên người làm
văn phải thật sự có cảm xúc trước những điều mình viết (mình nói ), và phải
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
biết diễn tả cảm xúc đó bằng những từ ngữ, những câu văn có sức truyền cảm.
Đặc biệt, sự diễn tả cảm xúc cần phải chân thực và không phá vỡ mạch lạc
của bài văn; kết hợp yếu tố biểu cảm đúng lúc, đúng chỗ, đúng liều lượng sẽ làm
cho những điều lý trí đã nêu tăng thêm sức lay động và cảm hố lịng người.
1.2. Sử dụng yếu tố biểu cảm trong bài văn nghị luận đúng vị trí và liều lượng
không dễ, cần phải được nghiên cứu
Muốn phát huy hết tác dụng của yếu tố biểu cảm trong bài văn nghị
luận, trước hết người viết không chỉ cần suy nghĩ đúng, nghĩ sâu về các vấn
đề bàn luận mà còn phải thật sự xúc động trước những điều mình đang viết,
đang nói, đang bàn luận. Đó là cảm xúc chân thành, tự nhiên và sâu sắc, xuất
phát từ đáy lòng, trái tim người viết. Nhưng những cảm xúc chân thành và sâu
sắc ấy phải được biểu hiện trong bài văn nghị luận sao cho phù hợp, không
phá vỡ mạch lập luận. Biểu cảm trong văn nghị luận không hoàn toàn giống
trong văn tự sự, miêu tả hay biểu cảm đơn thuần. Biểu cảm trong nghị luận là
để nghị luận. Nó phải hịa vào luận cứ, luận chứng, làm nổi bật và khắc sâu
luận điểm trong lòng người nghe. Nó diễn tả luận điểm, luận chứng bằng hình
ảnh, bằng câu cảm, bằng từ ngữ gợi cảm nhưng vẫn không quên nhiệm vụ
làm sáng tỏ hệ thống luận điểm.
Cho nên không phải càng dùng nhiều từ ngữ biểu cảm, nhiều câu cảm
thì giá trị biểu cảm trong bài văn nghị luận càng tăng. Ngược lại nếu dùng quá
nhiều mà không phù hợp sẽ biến bài văn nghị luận thành lý luận dông dài,
không đáng tin cậy, hoặc làm giảm bớt sự chặt chẽ trong mạch lập luận, thậm
chí phá vỡ lơgic luận chứng. Cuối cùng có thể làm bài nghị luận xa rời thể
loại, lạc sang biểu cảm đơn thuần.Vấn đề ở đây là mức độ, là cách biểu hiện.
Biểu cảm chỉ là yếu tố phụ trợ, biểu cảm nhưng không được làm giảm
hoặc làm mất đi đặc trưng nghị luận cả về nội dung cũng như hình thức.Thế
nên, khi làm văn nghị luận phải biết và rèn luyện cách biểu cảm. Bởi sử dụng
kết hợp yếu tố biểu cảm đúng vị trí và liều lượng khơng dễ, mức độ đưa
những yếu tố này vào văn bản nghị luận đến đâu? Sử dụng như thế nào? Sử
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
dụng vào chỗ nào một cách có hiệu quả mà không làm tổn hại đến mạch nghị
luận chung, hoặc không làm loãng hay biến chất bài văn nghị luận là vấn đề
không đơn giản. Và những thành tựu nghiên cứu trả lời vấn đề này chưa nhiều
nên cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu.
1.3. Đề tài nghiên cứu góp phần tháo gỡ khó khăn, lúng túng cho giáo viên và
học sinh trong dạy học sử dụng yếu tố biểu cảm trong bài văn nghị luận
Qua thực tế giảng dạy và thực nghiệm điều tra ở một số trường THCS,
có thể thấy rằng cả giáo viên và học sinh đều rất lúng túng khi sử dụng kết
hợp các yếu tố biểu đạt trong khi dạy và học làm văn nghị luận. Giáo viên
trong quá trình dạy học thì bị hạn chế bởi năng lực, thời gian, phương pháp
dạy học và tài liệu tham khảo,… chưa gây được hứng thú cho các em trong
giờ luyện tập. Học sinh thì rất ngại học và làm bài văn nghị luận, tạo lập văn
bản nghị luận trên cơ sở cảm tính, hiểu thế nào thì viết thế ấy, chưa có kĩ
thuật, kĩ năng cụ thể. Phải chăng hiện nay chúng ta dạy tập làm văn vẫn cịn
theo lối áp đặt, khn mẫu, mà chưa chú trọng cho các em luyện tập và rèn kĩ
năng làm bài ? Bởi làm văn là môn học thực hành, cho nên cần quan tâm đến
việc luyện tập rèn kĩ năng cho học sinh. Mà sự hình thành kĩ năng khơng thể
nào thực hiện được nếu khơng có sự lặp đi lặp lại nhiều lần của việc giải các
bài tập. Do vậy, xây dựng một hệ thống bài tập rèn luyện kĩ năng sử dụng
yếu tố biểu cảm khi tạo lập văn bản nghị luận vừa tương ứng với các vấn đề
lý thuyết văn nghị luận vừa phù hợp với điều kiện giảng dạy trong nhà
trường là một vấn đề hết sức cần thiết không chỉ đối với giáo viên mà còn với
cả học sinh. Hệ thống bài tập thích hợp sẽ vừa giúp cho giáo viên có thêm tài
liệu giảng dạy, vừa giúp học sinh có phương tiện để vận dụng lý thuyết để
hình thành những kĩ năng cần có trong khi tạo lập văn bản nghị luận.
Từ nhận thức trên luận văn “Rèn luyện cho học sinh lớp 8 kỹ năng sử
dụng yếu tố biểu cảm khi tạo lập văn bản nghị luận” mong muốn giúp cho
học sinh lớp 8 có thêm kĩ năng làm văn nghị luận bên cạnh nhiều kĩ năng
khác trong việc tổ chức bài nghị luận vốn là rất khó đối với các em.
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận
Từ trước đến nay đã có nhiều nhà nghiên cứu khẳng định tác dụng to
lớn của yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận. Trước tiên là cuốn “Văn nghị
luận chọn lọc” đã nhấn mạnh một bài văn nghị luận hay là một bài văn phải
đạt lý, thấu tình “ Một bài văn nghị luận hay vừa chinh phục khối óc, vừa
chinh phục trái tim người đọc. Muốn vậy, bài văn nghị luận ấy phải vừa đạt
lý lại vừa thấu tình, vừa có nội dung tư tưởng cao đẹp lại vừa có tác dụng
truyền cảm thấm thía.” [45] .Tác giả “Làm văn từ lí thuyết đến thực hành”
cho rằng một trong những yếu tố góp phần quan trọng vào kết quả bài viết
văn nghị luận ngồi khả năng vận dụng tư duy logic thì văn nghị luận vẫn cần
màu sắc chủ quan (tình cảm). “ Những bài văn nghị luận hay, không chỉ
thuyết phục người nghe bằng lí, bằng ý mà cịn lơi cuốn người đọc bằng tình
cảm chân thực, xúc động. [39]. Đồng quan điểm trên, các tác giả Muốn viết
được một bài văn hay cũng cho rằng : “ phải nói lí lẽ gắn với tình cảm, cảm
xúc gắn với tình cảm vì đó là quy luật nhận thức thẩm mĩ, phải nói nội dung
gắn với hình thức, nói chi tiết hay bộ phận gắn với tổng thể, chỉnh thể nghệ
thuật vì đó là đặc điểm của tác phẩm văn học.” [20].
Tác giả Kỹ năng làm văn nghị luận phổ thơng trình bày cụ thể hơn về
tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận: “khơi dậy tình cảm của con
người, làm cho khí thế của bài văn thêm mạnh mẽ, biểu hiện được giai điệu
cảm xúc hùng tráng, khiến cho văn nghị luận có tình có lí, tình lí kết hợp với
nhau làm tăng sức kêu gọi”[34]. Trong cuốn “Làm văn” (Lê A, 2001), ngoài
chương 1 là những vấn đề chung về làm văn, còn các chương còn lại, tác giả
trình bày những bài văn thuộc văn bản nghệ thuật; văn bản nghị luận; văn bản
hành chính cơng vụ; văn bản thuyết minh. Trong văn nghị luận, tác giả khái
quát về văn nghị luận và phương pháp làm văn nghị luận. Văn nghị luận dùng
tư duy logic để thuyết phục người khác. Cũng nhấn mạnh yêu cầu này, tác giả
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
Làm văn một lần nữa nhấn mạnh:“Văn bản muốn đi vào lịng người cần
thuyết phục về tình cảm bên cạnh lí trí. Muốn làm cho người đọc rung động
thì trước hết người cầm bút cũng phải rung động [4].
Không những khẳng định vai trò của yếu tố biểu cảm, các nhà nghiên
cứu bước đầu cũng lưu ý cách lồng các yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận
như thế nào. Đầu tiên là các lưu ý của các tác giả Làm văn [11;80,81,82]
trong mục Đặc trưng của phong cách văn tác giả cho rằng: tỉ lệ giữa lập luận
và yếu tố biểu cảm tùy thuộc vào hai yếu tố sau:
1. Do đề tài, nội dung và thể loại văn bản nghị luận
2. Do phong cách, sở trường của người viết quy định
Các tác giả cuốn Muốn viết được một bài văn hay [20] cụ thể thêm các
biện pháp đưa yếu tố nghị luận vào bài văn nghị luận. Đó là:
- Diễn tả trực tiếp những ấn tượng và cảm xúc chân thành của mình
- Dùng từ độc đáo, giàu cảm xúc
- Dùng câu cảm thán để trực tiếp bộc lộ cảm xúc
Sách giáo viên Ngữ văn 8 nêu một cách khái quát mà đầy đủ:
- Yếu tố biểu cảm chỉ đóng vai trị phụ trong cơng việc nghị luận
- Người viết (nói) phải thực sự có tình cảm với những điều mình viết (nói)
- Những cảm xúc phải được biểu lộ bằng các phương tiện ngôn ngữ
giàu cảm xúc
Người viết (nói) phải chú ý làm cho cả cảm xúc và sự diễn tả cảm xúc
của mình đều chân thực.
2.2. Tình hình nghiên cứu việc hình thành kĩ năng sử dụng yếu tố biểu
cảm trong văn bản nghị luận
Với nhu cầu đổi mới việc dạy và học văn trên tất cả các bình diện, mơn
làm văn cũng có nhiều điểm chuyển biến. Các nhà nghiên cứu đã đi tìm và
xác lập những cơ sở lý luận và hình thành kĩ năng làm văn nghị luận cho học
sinh. Song do đề tài nghiên cứu, các cơng trình nghiên cứu về làm văn nói
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
chung ít quan tâm đến vấn đề hình thành kĩ năng sử dụng yếu tố biểu cảm khi
tạo lập văn bản nghị luận cho các em. Tuy nhiên cũng có thể kể ra đây một số
tài liệu ít nhiều đề cập đến vấn đề này. Đầu tiên phải kể đến sự đóng góp của
Ngữ văn 8 (Sách học sinh và sách giáo viên). Bộ sách này đã giới thiệu cho
học sinh và giáo viên vai trò của yếu tố biểu cảm và cách đưa các yếu tố này
vào bài văn nghị luận. Đáng lưu ý nhất là các bài tập trong phần luyện tập ở
tiết lí thuyết và tiết thực hành luyện tập.
Ngồi ra có thể kể đến các bài tập bổ sung trong các sách tham khảo
cho giáo viên và học sinh như: Bài tập Ngữ văn 8, Nguyễn Khắc Phi (chủ
biên) Nguyễn Hoành Khung, Lê Xuân Thái, Lê A, Trần Đình Sử, nhà xuất
bản Giáo dục, Hà Nội năm 2006; Để học tốt Ngữ văn 8, Lê A, nguyễn Thị
Ngân Hoa, Lê Hải Anh, nhà xuất bản giáo dục 2010; Hướng dẫn dạy học Ngữ
văn 8,Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), Lê A,Nguyễn văn Long, Lê Xuân Thái,
nhà xuất bản Giáo dục 2001 ; Thiết kế dạy học Ngữ văn 8 Hoàng Hữu Bội,nhà
xuất bản Giáo dục 2008; Hướng dẫn tập làm văn 8 Vũ Nho (chủ biên)
Nguyễn Thuý Hồng, Trần Thị Nga, Trần Thị Thành, nhà xuất bản Giáo dục
2008; Các dạng bài tập làm văn và cảm thụ thơ văn Cao Bích Xuân, nhà xuất
bản Giáo dục 2010.
Rõ ràng, kĩ năng sử dụng yếu tố biểu cảm trong văn bản nghị luận đã
được đề cập ở rất nhiều tài liệu dạy học trong nhà trường. Tuy vậy, vẫn chưa
có tài liệu nào bàn bạc riêng về kĩ năng sử dụng kết hợp yếu tố biểu cảm, và
hệ thống bài tập rèn luyện kĩ năng sử dụng yếu tố biểu cảm trong văn bản
nghị luận một cách trọn vẹn. Cho nên có thể khẳng định rằng :
- Kĩ năng sử dụng yếu tố biểu cảm là kĩ năng cần thiết và là một yêu
cầu nâng cao đối với học sinh. Vì vậy kĩ năng này đã được đề cập đến rất sớm
và được nhiều tác giả chú ý tới.
- Song, kĩ năng này hầu hết ở các tài liệu chưa có một hệ thống bài tập
rèn luyện hồn chỉnh, chi tiết ở cấp vi mơ để hình thành kĩ năng cho các em.
6
Số hóa bởi Trung tâm Học lieäu –ĐHTN
/>
- Kĩ năng sử dụng yếu tố biểu cảm khi tạo lập văn bản có liên quan
nhiều đến vấn đề của lý thuyết làm văn nghị luận, nhưng vấn đề lí thuyết ấy
cũng chưa được giải quyết trọn vẹn và khai thác đầy đủ từ cơ sở của yếu tố
biểu cảm, cách đưa yếu tố biểu cảm, mức độ đưa yếu tố biểu cảm, mối quan
hệ giữa kĩ năng sử dụng yếu tố biểu cảm với các kĩ năng khác.
- Kĩ năng làm văn nghị luận đòi hỏi các kiến thức tổng hợp liên ngành
nhưng phần lớn chỉ chú ý tới phương diện nội dung chứ chưa chú ý nhiều đến
kĩ năng, và kĩ năng sử dụng yếu tố biểu cảm không thể tiến hành đơn
phương mà phải được phối hợp với các kĩ năng cần thiết khác nữa. Cho nên
phải đưa ra các biện pháp rèn luyện kĩ năng này một cách tồn diện, đồng bộ
và có kế hoạch.
Tóm lại, kĩ năng sử dụng yếu tố biểu cảm khi tạo lập văn bản nghị luận
khơng cịn là vấn đề mới mẻ nữa, nhưng nếu đi sâu nghiên cứu về lý thuyết và
hệ thống bài tập chi tiết rèn luyện kĩ năng này thì vẫn cịn là một khoảng
trống. “Rèn luyện cho học sinh lớp 8 kĩ năng sử dụng yếu tố biểu cảm khi tạo
lập văn bản nghị luận” là một việc làm có ý nghĩa, phần nào tháo gỡ những
rào cản, khó khăn cho cả giáo viên và học sinh trong khi dạy và học văn nghị
luận. Mặc dù tài liệu viết về vấn đề này cịn ít nhưng những chỉ dẫn trên là cơ sở
và gợi ý quan trọng để chúng tôi tiếp tục triển khai đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu hệ thống bài tập trong sách giáo khoa, sách hướng
dẫn, sách tham khảo và thực tế sử dụng chúng trong quá trình dạy học luyện tập
đưa yếu tố biểu cảm vào văn bản nghị luận cho học sinh lớp 8, có thể khẳng định
rằng: Sử dụng hệ thống bài tập như một phương tiện để luyện tập cho các em kĩ
năng sử dụng yếu tố biểu cảm khi tạo lập văn bản nghị luận là cần thiết.
Hệ thống bài tập rèn luyện kĩ năng khi sử dụng một cách linh hoạt, sáng tạo
sẽ giúp cho các em có thêm kĩ năng viết được một bài văn nghị luận thành thạo và
kết hợp yếu tố biểu cảm hợp lý để bài văn thuyết phục, cảm hóa lịng người.
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc rèn luyện cho học sinh
lớp 8 kỹ năng sử dụng biểu cảm vào bài làm văn nghị luận thông qua hệ thống
bài tập .
- Đề xuất hệ thống bài tập rèn luyện luyện cho học sinh lớp 8 kỹ năng
sử dụng yếu tố biểu cảm khi tạo lập văn bản nghị luận và cách thức thực hiện
hệ thống bài tập đó trong thực tiễn dạy học làm văn ở lớp 8.
- Tiến hành thực nghiệm dạy học nhằm kiểm tra tính khả thi và hiệu quả
của các giải pháp được đề xuất.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình tổ chức dạy và học làm văn nghị luận ở lớp 8.
Đặc biệt là việc nghiên cứu kỹ năng sử dụng yếu tố biểu cảm trong bài văn
nghị luận cho học sinh lớp 8.
Phạm vi nghiên cứu tập trung vào quá trình tổ chức rèn luyện cho học
sinh lớp 8 kỹ năng sử dụng yếu tố biểu cảm trong khi tạo lập văn bản nghị
luận theo chương trình và sách giáo khoa hiện hành.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu biết tổ chức tốt cho học sinh rèn luyện kỹ năng sử dụng yếu tố biểu
cảm dựa trên cơ sở lý thuyết và thực tiễn tin cậy với hệ thống bài tập đa dạng
phong phú, phù hợp với học sinh thì chắc chắn sẽ góp phần vào việc nâng cao
chất lượng bài văn nghị luận nói chung, chất lượng bài văn nghị luận lớp 8
nói riêng.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết trên cơ sở tìm hiểu phân
tích nhằm xem xét, lí giải các vấn đề có tính lí luận và thực tiễn. Phương pháp
này chủ yếu được sử dụng trong việc phân tích những cơ sở lí luận và thực
tiễn của việc rèn kỹ năng cho học sinh lớp 8 sử dụng yếu tố biểu cảm trong
bài làm văn nghị luận mà luận văn đưa ra.
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
6.2. Phương pháp điều tra, khảo sát
Khảo sát thực tế dạy và học sử dụng yếu tố biểu cảm trong bài làm văn
nghị luận ở trường THCS. Khảo sát hệ thống bài tập rèn luyện kĩ năng sử
dụng yếu tố biểu cảm của sách giáo khoa lớp 8. Để nắm được bắt được tình
hình dạy học làm văn nghị luận trong nhà trường THCS đặc biệt là vấn đề sử
dụng yếu tố biểu cảm trong làm văn nghị luận. Từ đó có cơ sở để nghiên cứu
đề tài một cách tích cực.
6.3. Phương pháp thống kê
Sử dụng để cần tổng hợp, sử lí số liệu trong q trình khảo sát thực tế
và tiến hành thực nghiệm.
6.4. Phương pháp thực nghiệm dạy học
Phương pháp này được thực hiện trên những phương diện đó là:
- Thiết kế nội dung dạy học theo hướng nghiên cứu của đề tài và tổ
chức dạy học ở nhà trường THCS cho học sinh lớp 8 trên địa bàn huyện
Quang Bình, tỉnh Hà Giang.
- Rút ra nhận xét, kết luận về kết quả quá trình thực nghiệm nói riêng
cũng như q trình nghiên cứu nói chung. Kết quả thực nghiệm là căn cứ để
khẳng định mức độ thành công của đề tài.
- Nêu ý kiến đề xuất của bản thân.
Phương pháp thực nghiệm mang tính khách quan khoa học, sẽ giúp mọi
người thấy vững tin hơn khi áp dụng đề tài vào thực tiễn giảng dạy.
7. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần thực hiện nhiệm vụ của mơn học: hình thành và
rèn luyện năng lực tạo lập văn bản, năng lực giao tiếp cho học sinh.
- Trên cơ sở phân tích cơ sở lí thuyết và thực tiễn, luận văn góp phần hồn
thiện hệ thống bài tập luyện tập sử dụng yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận.
- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo bổ ích cho giáo viên và học sinh
khi dạy và học bài về sử dụng yếu tố biểu cảm trong văn bản nghị luận.
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
8. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 3 phần: Mở đầu, Nội dung và Kết luận
Phần nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc giải quyết nhiệm vụ
nghiên cứu
Chương 2: Hệ thống bài tập luyện cho học sinh lớp 8 kĩ năng sử dụng
yếu tố biểu cảm khi tạo lập văn bản nghị luận.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
10
Soá hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT
NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Phương thức biểu đạt và các kiểu loại văn bản
1.1.1.1. Phương thức biểu đạt
Phương thức biểu đạt được hiểu là “cách thức phản ánh và tái hiện lại
đời sống (thiên nhiên, xã hội, con người) của người nói và người viết. Mỗi
phương thức biểu đạt phù hợp với một mục đích, ý đồ phản ánh, tái hiện nhất
định và được thực hiện bởi một thao tác chính nào đó”. [38;18]
Căn cứ vào mục đích giao tiếp, phương thức biểu đạt được phân chia
thành các phương thức biểu đạt cơ bản: phương thức miêu tả, phương thức tự
sự, phương thức biểu cảm, phương thức lập luận, phương thức thuyết minh và
phương thức điều hành.
Có thể hiểu rằng khi muốn giúp người đọc hình dung ra được đặc điểm,
tính chất nổi bật của một sự việc sự vật, phong cảnh, con người… Làm cho
đối tượng nói tới như hiện lên trước mắt người đọc… Thì người viết phải
dùng động tác miêu tả. Như thế phương thức miêu tả chính là phương thức
dùng hành động miêu tả để phản ánh và tái hiện lại đời sống.
Tương tự như vậy, khi muốn biểu hiện tư tưởng tình cảm, cảm xúc, thái
độ và sự đánh giá của mình đối với đối tượng được nói tới thì người viết trực
tiếp thể hiện, bày tỏ tình cảm tư tưởng, đó là phương thức biểu cảm.
Khi muốn làm sáng tỏ một vấn đề nhằm thuyết phục người đọc, người
nghe về một tư tưởng, quan điểm nào đó thì người viết cần dùng lý lẽ, dẫn
chứng để giải thích chứng minh, phân tích, bình luận… Người ta gọi đó là
phương thức lập luận.
Khi muốn tái hiện một câu chuyện xảy ra nhằm giải thích sự việc, tìm
hiểu con người, nêu vấn đề bày tỏ thái độ khen chê thì người viết phải trình
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
bày một chuỗi sự việc liên quan đến nhau, sự việc này dẫn đến sự việc kia,
cuối cùng có một kết thúc. Đó chính là phương thức tự sự.
Khi muốn làm rõ đặc điểm cơ bản của đối tượng, cung cấp tri thức về
các hiện tượng và sự vật trong tự nhiên và xã hội thì người nói và viết phải
trình bày, giới thiệu, giải thích… Một cách khách quan về đối tượng đó.
Người ta gọi đây là phương thức thuyết minh.
Cuối cùng, phương thức điều hành là phương thức dùng các động tác
hướng dẫn, chỉ đạo, sai khiến, ra lệnh, điều khiển, đề đạt, kiến nghị… Nhằm
truyền đạt những nội dung và yêu cầu nào đó từ cấp trên xuống hoặc bày tỏ
những ý kiến, nguyện vọng của cá nhân hay tập thể tới các cơ quan và người
có quyền hạn để giải quyết. Trong chương trình và SGK gọi là văn bản hành
chính - cơng vụ.
1.1.1.2. Các kiểu loại văn bản dựa theo phương thức biểu đạt chính
Lâu nay, người ta chia các kiểu loại văn bản dựa vào các tiêu chí sau :
a) Dựa vào cách thức phản ánh hiện thực bằng có hay khơng xây xựng
hình tượng nghệ thuật, người ta thường chia vặn bản thành hai loại: văn bản
nghệ thuật và văn bản phi nghệ thuật.
b) Dựa vào phong cách chức năng và mục đích giao tiếp: văn bản hành
chính - cơng vụ, văn bản báo chí, văn bản chính luận,văn bản khoa học và văn
bản nghệ thuật
c) Dựa vào các phương thức biểu đạt cơ bản, người ta chia văn bản
thành sáu kiểu văn bản :
+ Văn bản Tự sự
+ Văn bản Miêu tả
+ Văn bản Biểu cảm
+ Văn bản Thuyết minh
+ Văn bản Nghị luận
+ Văn bản Hành chính - cơng vụ
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
Như vậy, khi đặt tên cho một kiểu văn bản là căn cứ vào hành động
ngôn ngữ chủ yếu được dùng trong văn bản đó. Ví dụ văn bản tự sự chủ yếu
dùng hành động để kể việc, thuật việc, còn văn bản miêu tả chủ yếu dùng
hành động miêu tả.
Tuy nhiên, trong thực tế, ít có một văn bản nào lại chỉ dùng một hành
động ngôn ngữ duy nhất mà thường đan xen như: trong văn bản nghị luận có
yếu tố miêu tả, biểu cảm, tự sự, hay trong văn bản tự sự có sử dụng yếu tố
miêu tả, thuyết minh… Cho nên, một văn bản có thể kết hợp hai hay nhiều
phương thức biểu đạt. Song tùy thuộc vào kiểu văn bản mà sử dụng một
phương thức biểu đạt chính cịn các phương thức khác chỉ là yếu tố biểu đạt
phụ trợ. Chẳng hạn văn bản nghị luận có phương thức biểu đạt chính là lập
luận, các phương thức biểu đạt phụ trợ là miêu tả, tự sự, biểu cảm và thuyết
minh. Dưới đây chúng tôi chỉ bàn đến việc sử dụng yếu tố biểu cảm trong văn
bản nghị luận.
1.1.1.3. Sử dụng yếu tố biểu cảm trong văn bản nghị luận
(a) Yếu tố biểu cảm
Biểu cảm có nghĩa là “Biểu hiện tình cảm, cảm xúc” [24; 66]. Đó là
một nhu cầu tất yếu của con người trong cuộc sống. Là sự phơ diễn những
cung bậc tình cảm, cảm xúc, là niềm vui nỗi buồn, tình u thương, lịng căm
ghét, vv… Biểu cảm chính là một phương thức biểu đạt, được người viết(nói)
thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp những cảm xúc suy nghĩ của mình thơng qua
ngơn ngữ. Phương thức biểu cảm được thể hiện bằng các yếu tố biểu cảm.
Nếu như phương thức biểu cảm là phương thức biểu đạt chính trong
văn biểu cảm thì yếu tố biểu cảm lại là yếu tố chỉ được sử dụng xen kẽ trong
các kiểu văn bản (không kể văn bản biểu cảm) bên cạnh phương thức biểu đạt
chủ yếu của từng văn bản. Việc sử dụng yếu tố biểu cảm trong các kiểu văn bản
đều nhằm tới những mục đích nhất định và phải chịu sự chi phối của phương
thức biểu đạt chính trong văn bản đó. Chúng ta hãy xem xét ví dụ sau đây:
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
“Phải bán con, chị Dậu như đứt từng khúc ruột. Gia cảnh đã đến bước
đường cùng buộc chị phải làm cái việc đau lịng ấy. Xót chồng đau ốm mà bị
đánh đập, cùm kẹp, chị đã lấy thân mình che chở cho chồng.Thậm chí chị cịn
sẵn sàng chống trả lại tên cai lệ và người nhà Lý trưởng để bảo vệ anh Dậu,
Đến khi bị giải lên huyện, ngồi trong quán cơm mà nhịn đói, chị vẫn chỉ nghĩ
đến chồng, đến cái Tỉu, thằng Dần, cái Tý ”
(Một số kiến thức - kĩ năng và bài tập nâng cao Ngữ văn 8)
Đoạn trích này thuộc kiểu văn bản nghị luận. Luận điểm là: Chị Dậu là
hình ảnh người phụ nữ thương chồng, thương con, giàu lòng vị tha và đức hi
sinh.Trong đoạn trích chúng ta bắt gặp hàng loạt những yếu tố biểu cảm: đau
lịng, xót chồng, đứt từng khúc ruột, che chở cho chồng, nghĩ đến chồng...
Chính những yếu tố biểu cảm này đã làm cho luận điểm trở nên sáng rõ hơn,
tác động mạnh mẽ đến người đọc, thuyết phục người đọc cả lí trí và đồng
thương cảm với gia cảnh nhà chị Dậu.Yếu tố biểu cảm chỉ đóng vai trị bổ trợ
khơng được tách biệt khỏi q trình nghị luận và khơng làm mờ nhạt vai trị
của nghị luận.
(b). Mục đích của việc sử dụng yếu tố biểu cảm trong bài văn nghị luận.
Nói đến văn nghị luận, khơng có nghĩa là trình bày vấn đề một cách
khô khan, trừu tượng, từ chối mọi cảm xúc và hình ảnh. Văn nghị luận cũng
rất cần phải hấp dẫn lơi cuốn bằng những từ ngữ có tính hình tượng và sức
biểu cảm cao.Văn nghị luận được làm nên bằng sức mạnh chủ yếu là lí trí của
người làm văn, với mục đích tác động vào lí trí của người được thuyết phục.
Còn biểu cảm là một hoạt động nhằm bộc lộ tình cảm của người viết (người
nói) và nhằm tác động vào tình cảm người đọc (người nghe). Tình cảm và lí
trí hịa hợp với nhau, bổ trợ cho nhau, tình cảm có thể giúp cho những điều
được lí trí nêu ra có thêm sức lay động, cảm hóa lòng người. Những yếu tố
biểu cảm ấy tác động mạnh mẽ vào trái tim người đọc, người nghe, và chinh
phục trái tim người đọc, người nghe. Trên thực tế những bài văn nghị luận bất
14
Số hóa bởi Trung tâm Học lieäu –ĐHTN
/>
hủ luôn luôn là những bài văn được viết ra không chỉ bằng sự sáng suốt, mạch
lạc, chặt chẽ của trí tuệ mà cịn bằng tất cả nhiệt tình, tha thiết của trái tim.
Minh chứng cho điều đó có thể xem xét văn bản Hịch tướng sĩ của Trần
Quốc Tuấn. Là một áng thiên cổ hùng văn viết dưới dạng văn nghị luận, Trần
Quốc Tuấn khơng chỉ dùng những lí lẽ sắc bén, lập luận chặt chẽ, phân tích
rạch rịi điều hơn lẽ thiệt để thuyết phục tì tướng, mà bao nhiêu tâm huyết của
Trần Quốc Tuấn dường như dồn cả vào ngọn bút: “...Ta thường đến bữa quên
ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa
được xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này
phơi ngồi nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Mỗi
chữ, mỗi lời như máu chảy từ trái tim đầy nhiệt huyết của tác giả hiện lên
trang giấy. Quên ăn, mất ngủ, đau buồn, căm tức, quyết giết giặc, quyết hi
sinh,…cảm xúc nào cũng mạnh mẽ, cao độ. Trần Quốc Tuấn bày tỏ hết tâm
trạng đau xót của mình để làm vơi bớt nỗi khổ tâm phải âm thầm chịu nhục
những ngày qua, để truyền cho tướng lĩnh ngọn lửa nhiệt tình yêu nước.
Trước tình cảm chân thành bộc bạch từ chủ soái, hỏi người nghe nỡ nào tách
mình ra khỏi dịng cảm xúc thiêng liêng ấy? Bài văn chính luận đã khắc họa
sinh động hình tượng người anh hùng yêu nước: đau xót đến quặn lịng trước
tình cảnh đất nước, căm thù giặc đến bầm gan tím ruột mong rửa nhục đến
quên ăn, quên ngủ, vì nghĩa lớn mà coi thường xương tan, thịt nát. Cảm xúc
của Trần Quốc Tuấn thiết tha, sôi nổi, sâu sắc và mãnh liệt, lời lẽ tâm huyết,
vừa nghiêm khắc vừa chân tình có tác dụng đập mạnh, xốy sâu vào lý trí và
tâm hồn người nghe, làm rung động trái tim người nghe.
(c). Các hình thức và phương tiện biểu cảm
Trong văn nghị luận việc đưa yếu tố biểu cảm có thể tiến hành một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Biểu cảm trực tiếp là cách thức bộc lộ những
cảm xúc, suy nghĩ bằng những từ ngữ trực tiếp gợi lên những cảm xúc ấy,
những câu văn cảm thán hay cả trong giọng điệu chứa chan tình cảm.
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
Biểu cảm gián tiếp là cách biểu hiện tình cảm thơng qua những hình
ảnh miêu tả, những câu chuyện gợi ra những suy nghĩ liên tưởng…Thường thì
yếu tố biểu cảm trong một bài văn thể hiện rõ nhất nhờ biểu cảm trực tiếp, tức
là ở những từ ngữ chỉ cảm xúc, ở những câu cảm thán, ở giọng văn.
(d). Các trường hợp sử dụng yếu tố biểu cảm
Nếu thiếu yếu tố biểu cảm, sức thuyết phục của nghị luận nhất định sẽ
giảm đi. Tuy nhiên, không phải cứ sử dụng bất kỳ yếu tố biểu cảm nào cũng
làm cho sức thuyết phục của bài văn nghị luận tăng lên.Vì thế yêu cầu sử
dụng biểu cảm chỉ với vai trò phục vụ cho công việc nghị luận. Yếu tố biểu
cảm trong một bài nghị luận sẽ khơng được xem có giá trị khi nó làm vỡ
mạch nghị luận chung, và người nghị luận sẽ khơng thể biểu cảm nếu khơng
có cảm xúc chân thành. Cho nên người làm bài nghị luận phải thực sự có tình
cảm, cảm xúc đối với những điều mình nói ra, và truyền đến người đọc bằng
ngơn ngữ sao cho thành thạo và truyền cảm nếu không sẽ khơng thể trinh
phục được tình cảm của người đọc (người nghe).
Yếu tố biểu cảm làm cho bài văn nghị luận trở lên có hồn, có sức sống
hơn, có sức thuyết phục và lay động lòng người mạnh mẽ hơn. Nhưng việc
đưa biểu cảm vào bài văn nghị luận cũng không được tùy tiện bởi không phải
bất cứ khi nào sử dụng yếu tố biểu cảm cũng đều làm tăng giá trị cho bài nghị
luận. Yếu tố biểu cảm chỉ cần thiết và chỉ có giá trị khi nó giúp cho sự nghị
luận đạt được hiệu quả thuyết phục cao hơn. Và dù thế nào đi chăng nữa, đã là
văn nghị luận thì vai trị của lập luận bao giờ cũng là chính yếu, yếu tố biểu
cảm chỉ là thứ yếu, là yếu tố phù trợ. Khi làm văn nghị luận nhất thiết không
được để cho yếu tố biểu cảm tách rời khỏi quá trình nghị luận, cản trở mạch
lạc nghị luận hay lấn át vai trị nghị luận. Đó là vị trí hợp lý của yếu tố biểu
cảm khi góp mặt trong văn bản nghị luận.
Như thế, yếu tố biểu cảm đóng vai trị phù trợ làm cho lý lẽ thêm sức
thuyết phục, tác động mạnh vào tình cảm tâm hồn người đọc, làm cho bài văn
nghị luận trở nên thấm thía và hay hơn hẳn. Song việc đưa yếu tố tình cảm,
16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>
cảm xúc vào bài văn nghị luận không được phá vỡ mạch lập luận, làm lu mờ
luận điểm, luận cứ mà chỉ góp phần làm nổi bật và khắc sâu luận điểm, diễn
tả luận điểm bằng hình ảnh, bằng câu, từ gợi cảm nhưng vẫn không quên làm
sáng tỏ hệ thống luận điểm.
1.1.2. Kĩ năng và kĩ năng sử dụng kết hợp yếu tố biểu cảm trong bài văn
nghị luận
1.1.2.1. Quan niệm về kĩ năng
Vấn đề kỹ năng được rất nhiều các nhà nghiên cứu quan tâm, và đưa ra
nhiều ý kiến khác nhau :
Theo A.V Côvaliôv: Kĩ năng là phương thức thực hiện hành động thích
hợp với mục đích và những điều kiện hành động. Ơng cũng khơng đề cập đến
kết quả hành động. Theo ông kết quả hành động phụ thuộc chủ yếu vào năng
lực con người chứ không chỉ là nắm vững cách thức hành động là có kết quả
tương ứng. [47].
Theo quan niệm tri thức và kĩ xảo là tiền đề hình thành kỹ năng, tri thức
và kĩ xảo có trước, kĩ năng hình thành sau. Các tác giả V.V.Tse-bu-se-va viết
“Kĩ năng với tư cách khả năng thực hiện một hành động nào đó dựa trên
những tri thức và kĩ xảo được hoàn thiện lên cùng với chúng [46], có thể hiểu
là kĩ năng là khả năng thực hiện một hành động nào đó, kĩ năng xuất hiện khi
tri thức và kĩ xảo được hoàn thiện. A.V.Pe-trơv- xki giải thích rõ hơn : “kĩ
năng là cách thức hành động dựa trên cơ sở tổ hợp dựa trên tri thức và kĩ
xảo. Kĩ năng được hình thành bằng con đường luyện tập tạo khả năng cho
con người thực hiện hành động không chỉ trong điều kiện quen thuộc mà cả
trong điều kiện thay đổi [47]. Ông chỉ rõ hơn rằng: Con đường hình thành kĩ
năng là con đường luyện tập và tác dụng của kỹ năng là tạo điều kiện cho con
người hành động trong điều kiện quen thuộc và không quen thuộc.
Trong từ điển Tâm lý học, nêu “Kĩ năng được quan niệm là: Năng lực
vận dụng có kết quả những tri thức về phương thức hành động đã được chủ
thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng”.[13;131]
17
Số hóa bởi Trung tâm Học lieäu –ĐHTN
/>
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Kĩ năng được định nghĩa là khả năng vận
dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực
tế”.[24;501]
Giáo trình Làm văn định nghĩa kĩ năng là “Từ những kiến thức được
trang bị, người học cần có khả năng vận dụng chúng vào thực tế. Khả năng
vận dụng đó gọi là kĩ năng” [38; 303]
Như vậy, có thể nhận định rằng kĩ năng là khả năng của con người thực
hiện một cách có hiệu quả một hành động nào đó để đạt được mục đích đã xác
định bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách thức hành động phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh, phương tiện nhất định. Kĩ năng biểu hiện trình độ các
thao tác tư duy, năng lực hành động và phương tiện kĩ thuật của hành động.
1.1.2.2. Kĩ năng sử dụng kết hợp yếu tố biểu cảm khi tạo lập văn bản
nghị luận
Trên thực tế khơng có một văn bản nào chỉ đơn thuần sử dụng duy nhất
một phương thức biểu đạt. Muốn có một văn bản hay, thuyết phục người đọc,
thể hiện được hết mọi sắc thái cung bậc tình cảm, suy nghĩ của người viết cần
phải biết kết hợp các phương thức biểu đạt trong đó. Song thế nào gọi là biết
kết hợp các phương thức biểu đạt? Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng :
“Một văn bản được cho là biết kết hợp các phương thức biểu đạt khi nó có thể
trả lời các câu hỏi sau: Kết hợp khi nào? Kết hợp với cái gì? Kết hợp để làm
gì? Kết hợp như thế nào?
Khi nào thì kết hợp? Điều này có nghĩa là việc kết hợp các phương
thức biểu đạt trong một văn bản không phải là một việc làm tùy tiện, muốn kết
hợp ở câu nào, đoạn nào trong văn bản cũng được. Sự tùy tiện chỉ làm cho
văn bản đó trở thành một mớ hỗn tạp các con chữ mà thơi.
Kết hợp với cái gì? Chúng ta có sáu phương thức biểu đạt khác nhau:
tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh, hành chính - cơng vụ (ứng
dụng). Mỗi phương thức ấy lại có khả năng kết hợp với các phương thức khác
theo một tỉ lệ khác nhau tùy thuộc vào đề tài văn bản, tùy thuộc vào tài năng
của người viết.
18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –ĐHTN
/>