Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

giá trị và vị trí của sống mòn trong sự nghiệp viết của nam cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.86 KB, 92 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM



QUẢN THỊ DIỆP



GIÁ TRỊ VÀ VỊ TRÍ CỦA SỐNG MÒN
TRONG SỰ NGHIỆP VIẾT CỦA NAM CAO




LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM






Thái Nguyên - 2013

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM



QUẢN THỊ DIỆP



GIÁ TRỊ VÀ VỊ TRÍ CỦA SỐNG MÒN
TRONG SỰ NGHIỆP VIẾT CỦA NAM CAO

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60220121


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. Phong Lê


Thái Nguyên - 2013

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, tác giả xin chân thành cảm ơn GS. Phong Lê,
người thầy đã tận tâm giúp đỡ, hướng dẫn, động viên tác giả trong suốt quá
trình thực hiện đề tài.

Tác giả luận văn cũng xin chân thành cảm ơn:
Các thầy cô giáo cộng tác và các cấp quản lí, lãnh đạo của Trường trung
học phổ thông chuyên Bắc Kạn.
Khoa Ngữ văn, Khoa Sau Đại học, các quý thầy cô giảng dạy lớp cao
học Văn K19 - trường Đại học sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều
kiện cho tác giả học tập và nghiên cứu.
Toàn thể các anh chị em, bạn bè và gia đình đã quan tâm giúp đỡ.
Xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, 4 năm 2013
Tác giả


Quản Thị Diệp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả,
số liệu nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kì công trình nào khác
Ngƣời viết cam đoan
(Ký và ghi rõ họ tên)


Quản Thị Diệp





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn i
Lời cam đoan ii
Mục lục iii
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: BỐI CẢNH XÃ HỘI 1941 – 1945, ĐỜI SỐNG VĂN HỌC VÀ
SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA NAM CAO 8
1.1 Bối cảnh xã hội Việt Nam thời kì tiền Cách mạng 1941 - 1945 8
1.2 Các khuynh hƣớng văn học 9
1.3 Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao 11
1.3.1. Đôi nét về tiểu sử 11
1.3.2. Sáng tác của Nam Cao trước và sau Cách mạng tháng Tám - 1945 14
1.3.3. Sống mòn trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao 16
Chƣơng 2: GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA SỐNG MÒN 19
2.1. Ngƣời trí thức, một trong hai chủ đề lớn mà Nam Cao theo đuổi . 19
2.1.1. Người nông dân trong quá trình bần cùng hoá và lưu manh hoá 19
2.1.2. Người trí thức tiểu tư sản nghèo trong vật lộn với cuộc mưu sinh và
bế tắc về đời sống tinh thần 23
2.2. Khát vọng sống và cống hiến của ngƣời trí thức kiểu Nam Cao 25
2.2.1. Khát vọng sống cao đẹp của người trí thức kiểu Nam Cao 25
2.2.2. Khát khao cống hiến và thực hiện lí tưởng của người trí thức tiểu tư sản . 28
2.3. Sự thui chột, đổ vỡ dần khát vọng sống của ngƣời trí thức và nguyên
nhân 32
2.3.1. Sự thui chột, đổ vỡ và bế tắc của người trí thức 32

2.3.2. Cắt nghĩa các nguyên nhân dẫn đến sự Sống mòn của người trí thức . 40

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
2.4. Ngƣời trí thức trong mối quan hệ với nhân quần 42
2.4.1. Người trí thức trong quan hệ với đồng nghiệp và tầng lớp dân nghèo
thành thị 42
2.4.2. Người trí thức trong quan hệ với gia đình và làng quê 45
Chƣơng 3: GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA SỐNG MÒN 49
3.1. Nghệ thuật phân tích tâm lí và đúc kết triết lí bậc thầy 49
3.1.1. Nghệ thuật phân tích tâm lí của Nam Cao 49
3.1.2. Nghệ thuật đúc kết triết lí của Nam Cao 54
3.2. Nghệ thuật tổ chức thể loại độc đáo 58
3.2.1. Nam Cao viết tiểu thuyết như tự truyện 58
3.2.2. Giá trị điển hình và tính phổ quát 62
3.3. Không gian, thời gian nghệ thuật 66
3.3.1. Không gian chật chội, tù túng 67
3.3.2. Thời gian ứ đọng, trì trệ và dồn nén 71
3.4. Đặc sắc ngôn ngữ của Nam Cao 75
3.4.1. Ngôn ngữ tác giả kiệm lời, đầy suy ngẫm và triết lí 75
3.4.2. Ngôn ngữ nhân vật sống động phù hợp tính cách và hành động 77
KẾT LUẬN 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO 83

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1.1. Khi còn học phổ thông dù chỉ đọc vẻn vẹn có mấy truyện ngắn Chí
Phèo, Đời thừa, Lão Hạc, Đôi mắt của Nam Cao in trong các sách giáo khoa
nhưng tôi rất say mê. Tôi thường đọc đi đọc lại nhiều lần những tác phẩm đó
mà không biết chán. Đọc văn Nam Cao tôi như bị ám ảnh bởi dư vị đắng cay,
chua xót về những kiếp người đau khổ bế tắc, bất lực như lão Hạc, Chí
Phèo ; hay Thứ, Điền, Hộ
1.2. Khi có điều kiện tiếp xúc với nhiều tác phẩm của Nam Cao, tôi
càng cảm phục tài năng của ông hơn; và thấy vui sướng khi biết được sự
nhìn nhận cảm tính lâu nay của mình là đúng. Bởi các nhà nghiên cứu phê
bình đã nhìn nhận Nam Cao là một "nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc
nhất", một "người kết thúc vẻ vang trào lưu hiện thực" (GS. Phong Lê). Thế
nhưng cuộc đời của Nam Cao lại gặp nhiều trắc trở éo le; khi phải sống
trong những năm tháng đen tối của chế độ thực dân nửa phong kiến, ông
luôn phải chống chọi với cái đói, cái nợ áo cơm mà không sao thoát ra được.
Tài văn của Nam Cao lúc sinh thời không được đánh giá đúng, nhiều tác
phẩm ông viết ra bị nhà xuất bản bấy giờ từ chối, rẻ rúng. Nhưng trong cái
xã hội bóp nghẹt sự sống con người đó, người trí thức "trung thực vô ngần"
(lời Tô Hoài) ấy luôn nghiêm khắc tự đấu tranh bản thân để vươn mình, cố
thoát ra khỏi lối sống tầm thường, nhỏ nhen, khát khao hướng tới "tâm hồn
trong sạch và mơ tới những cảnh sống, những con người thật đẹp" (Nhật kí
Nam Cao, ghi ngày 31- 8 - 1950).
1.3. Nam Cao ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ, ở tuổi ba mươi sáu (1915 –
1951) đang ở độ "chín" về tư tưởng và tài năng; ra đi khi đang ấp ủ viết một
cuốn tiểu thuyết lớn về quê hương mình. Ông chỉ kịp để lại một tiểu thuyết
duy nhất là Sống mòn (viết 1944; in 1956); ngoài Truyện người hàng xóm mới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
chỉ được đăng báo, còn các tiểu thuyết khác như Cái bát, Một đời người thì bị

mất bản thảo. Sống mòn với thân phận, số phận người trí thức nghèo trong
chế độ cũ. Trong bài tổng kết Hội thảo về Nam Cao nhân 40 năm mất, vào
tháng 12 – 1992 Gs. Phong Lê viết về Sống mòn "Một bút pháp tự sự độc đáo;
một chủ nghĩa hiện thực tâm lí nghiêm nhặt; một cảm quan hiện thực nhìn từ
sâu, nhìn từ trong; một khát vọng nhân văn được chiêm nghiệm và đúc kết từ
bản thân và từ những gã, hắn, y; một khả năng khám phá và dự báo; một cách
khái quát hiện thực giàu sức chứa và sức mở đã đem lại cho thiên tiểu thuyết
may mắn còn sống sót lại và cũng có một không hai này những giá trị có thể
nói là ổn định, là trường tồn". Vì vậy, nghiên cứu giá trị và vị trí của tiểu
thuyết Sống mòn trong sự nghiệp viết văn của Nam Cao là việc làm cần thiết
và có ý nghĩa. Đây là một trong những lí do cơ bản để chúng tôi mạnh dạn
khai thác đề tài dưới cái nhìn có tính chiều sâu, hệ thống và tính thời sự sâu
sắc.
2. Lịch sử vấn đề:
2.1. Trong dòng văn học hiện thực thời kì 1930 – 1945, Nam Cao đã
tự khẳng định được mình với tư cách là nhà văn luôn tìm tòi đổi mới cả về
nội dung phản ánh lẫn phương thức thể hiện. Kể từ sau 1945, đúng ra là từ
sau ngày mất – 1951, lịch sử nghiên cứu về Nam Cao mới thực sự được bắt
đầu và từ đây ngày một dày thêm, mỗi ngày lại góp thêm một kiến giải mới
mẻ. Tuyệt đại đa số các ý kiến đều thống nhất khẳng định tầm vóc và những
đóng góp quan trọng của Nam Cao cho văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt
là trong quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Tuy
nhiên, phần lớn các nhận xét, đánh giá ấy chủ yếu tập trung vào khu vực
truyện ngắn. Những nhận xét về Sống mòn mặc dù rất xác đáng, quý giá
nhưng chưa nhiều.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Tác giả Hà Minh Đức trong bài viết Nam Cao phê phán và tự phê

phán, đã có nhận xét thiên về nội dung – tư tưởng: "Trong truyện ngắn và
tiểu thuyết của Nam Cao, những nhân vật trí thức nghèo thường có ý thức
tự phê phán lại là bóng dáng của chính tác giả. Điền trong Giăng sáng, Hộ
trong Đời thừa, Thứ trong Sống mòn đều là những nhân vật cùng một kiểu
tính cách, một loại tâm trạng. Trong bản chất họ là những người tốt, giàu
ước mơ, muốn đóng góp và trở thành người có ích cho đời. Họ coi trọng tri
thức, muốn đem tri thức để cải tạo cuộc sống. Nhưng trớ trêu thay họ lại là
nạn nhân của hoàn cảnh" [16; 204-205].
Tác giả Trần Đăng Suyền trong bài viết Thời gian và không gian trong
thế giới nghệ thuật của Nam Cao lại có những phân tích tìm hiểu trên phương
diện nghệ thuật, tập trung ở không gian và thời gian. Tác giả kết luận: "Cái
thời gian hằng ngày để tìm kiếm miếng ăn đã choán gần hết những giây phút
sáng tạo của Thứ trong Sống mòn. Không gian trong sáng tác của Nam Cao là
không gian hướng nội, không gian nhỏ hẹp, không gian được kiến tạo trong
tầm nhìn của nhân vật" [42; 230].
Như vậy, mặc dầu chỉ là đan xen vào phân tích, tìm hiểu thế giới nghệ
thuật của tác phẩm Nam Cao nói chung nhưng các tác giả đã cho thấy những
đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết Sống mòn. Theo đó, Sống mòn là tác phẩm đã
đề cập đến cái đói và miếng ăn (Nguyễn Đăng Mạnh), là tiếng nói mang dáng
dấp tiếng nói của người trong cuộc. Sống mòn đã vẽ ra một không gian mang
tính hướng nội rõ nét, thời gian thì quẩn quanh xen lẫn những việc làm tẻ
nhạt, buồn chán. Thái độ của Nam Cao trong các tác phẩm, kể cả Sống mòn là
khá rõ ràng, không nước đôi, không lưỡng lự. Nam Cao là nhà văn luôn trung
thực với chính mình, là nhà văn nghiêm nhặt, các nhân vật chính trong tác
phẩm nói về người trí thức đa phần là mẫu hình của Nam Cao, là hiện thân
của một khía cạnh, một phẩm chất, một tính tình của Nam Cao. Bởi thế, hầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4

hết các tác giả nghiên cứu đều đánh giá cao tầm tư tưởng đạo đức của người
trí thức Nam Cao. Đây chính là một trong những lí do quan trọng để công
chúng bạn đọc ở bất kì một giai đoạn lịch sử nào từ sau 1945 đều yêu mến
trang văn của Nam Cao. Dĩ nhiên để chinh phục được bạn đọc với những "con
mắt tinh đời", ngoài yếu tố tư tưởng, nhà văn còn phải biết chuyển hoá tư
tưởng đó vào tác phẩm một cách nghệ thuật. Các thủ pháp, biện pháp nghệ
thuật mà nhà văn sử dụng phải thật sự phù hợp với tư tuởng, đem lại hiệu quả
thẩm mĩ cao. Các tác giả khi nghiên cứu về Nam Cao cũng đã đánh giá cao
nhà văn về phương diện sử dụng các biện pháp nghệ thuật, đặc biệt là lối hành
văn, cách kết cấu tác phẩm, kiến tạo không gian, thời gian…
2.2. Đỗ Đức Hiểu, ở bài viết Hai không gian sống trong "Sống mòn",
nhận xét: "Như vậy, sức năng động của Sống mòn, chính là sự xung đột giữa
không gian xã hội ("xó nhà quê" và ngoại ô Hà Nội nhem nhuốc) và không
gian tinh thần, mơ ước, không gian hồi tưởng, không gian khát vọng; Thứ vào
Sài Gòn, nuôi giấc mộng đi Pháp, đến Mác – xây. Thứ chăm học, lúc nào
cũng đọc sách, đọc để mở rộng tầm mắt ra không gian thế giới để nhìn sâu
vào tâm hồn con người. Thứ "sẽ đi bất cứ đâu" "sẽ ra đi" "sẽ đi liều"; song
hiện tại anh đang ở trên con tàu mang anh về "làng mạc xo ro" và "Hà Nội sẽ
lùi, lùi dần", Hà Nội "vẫn lùi". "Sống tức là đã thay đổi " [42; 178]. Đặc biệt,
khi bàn đến nghệ thuật kiểu tiểu thuyết tự truyện trong Sống mòn, Đỗ Đức
Hiểu nhấn mạnh: "Tiểu thuyết kiểu tự truyện này gợi người đọc nhớ đến
Rutxô, nhà văn Pháp đầu tiên viết tự truyện trong Tự thú, gợi nhớ đến Gide,
nhà văn đa dạng có ảnh hưởng sâu rộng trong văn xuôi Việt Nam 1930 –
1945: "Xê dịch", "bướm trắng", "cái đẹp thuần tuý", "sống là thay đổi", và ở
Sống mòn, sự phá vỡ cái tầm thường, cái sáo mòn, cái đóng kín, cái tù hãm
trong bản thân mỗi người; về một phương diện, tác phẩm Gide là văn chương
của người trí thức đi tìm bản thân mình trên con đường vô tận. Sống mòn gây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


5
xáo trộn, gây tình trạng bất ổn trong tâm tư con người, nó hé mở cuộc sống tự
do, chân chính của người trí thức" [42; 181].
Trong bài Bút pháp tự sự đặc sắc trong "Sống mòn", Nguyễn Ngọc
Thiện đã có một cách nhìn tập trung khá đầy đủ về Sống mòn từ đề tài, cốt
truyện và một số thủ pháp nghệ thuật (lối kể chuyện, người kể chuyện, điểm
nhìn trần thuật, sự vận động tâm lí v.v ). Tác giả khẳng định: "Cái độc đáo
của giọng văn trong Sống mòn không phải là tự làm mình làm mẩy, uốn éo
giả tạo, lên gân, căng mình ra trong cái thói đạo đức giả, mà là hàm chứa
một nỗi đau nội tại, một lời trách cứ thâm trầm, một sự dằn vặt vì tin rằng
cái nhân bản và lương tâm không phải là một điều gì xa lạ, phải cưỡng bức
mới có thể tiếp nhận nổi.
Đọc Nam Cao, nhiều lúc cứ phải thảng thốt giật mình: tác giả ít đề cập
đến những biến cố trọng đại, mà đi sâu vào thế giới vi mô của đời sống bên
trong, những điều nhỏ nhặt trong sinh hoạt gia đình, những cái rất vặt vãnh,
đời thường. Nhưng sự phán xét lại nghiêm cẩn trong những điều nho nhỏ đó,
từ đó có thể rút ra những bài học đạo đức, luân lí sâu xa. Những trang văn của
Nam Cao hiện rõ hình ảnh về con đường, về quá trình tìm tòi căng thẳng, vật
vã đầy ưu tư của con người lương thiện hướng về chân lí, công bằng, cái cao
cả và điều lành, với một tinh thần nhân ái độ lượng".[42; 184].
Nhìn chung nhiều nhà nhiên cứu đã đánh giá cao đóng góp của Nam
Cao nói chung và Sống mòn nói riêng đối với văn học Việt Nam giai đoạn
1930 – 1945 trên các bình diện nội dung và nghệ thuật. Hầu hết các nhận xét
đều tập trung ở việc cho thấy tác phẩm đã vẽ ra một bức tranh quẩn quanh,
không đáng sống, làm mòn mỏi những kiếp người. Các tác giả nghiên cứu đều
chỉ ra rằng, Sống mòn là tác phẩm về đề tài người trí thức, Nam Cao đã thông
qua người trí thức để phản ánh về một xã hội mà ở đó quyền sống của con
người bị chèn ép, miếng cơm manh áo trở thành nỗi ám ảnh ngay cả đối với
người trí thức. Các ý kiến đánh giá về Sống mòn đa phần tập trung phân tích ở


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
nhân vật Thứ - nhân vật trung tâm, điển hình trong tác phẩm. Ở Thứ toát lên
tất cả những sự bần cùng, bức bối, những bức bách mà con người không thể
chịu đựng được nổi. Cuộc sống thì ngưng trệ, mọi hoạt động diễn ra cứ quanh
quẩn, đơn điệu, nhàm chán. Không gian để nhân vật hoạt động thì cũng lặp đi
lặp lại. Hơn nữa, đó còn là không gian thiếu sự sống, một không gian không
hứa hẹn sự tươi sáng trở lại. Thông qua việc phân tích các nhân vật trong tác
phẩm, đặc biệt là nhân vật Thứ, phân tích các bình diện nghệ thuật khác, các
tác giả đã đánh giá cao ngòi bút sắc sảo, tài năng của Nam Cao, đánh giá Nam
Cao là tác giả đem đến một cách tiếp cận mới về hiện thực với tầm tư tưởng
vượt thời đại.
Như vậy, chúng ta nhận thấy, các bài viết đã dành toàn bộ dung lượng
để nói về Sống mòn hay chỉ nói đến Sống mòn trong quá trình phân tích toàn
bộ tác phẩm Nam Cao đều đã chỉ ra được các đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết
trên bình diện nội dung tư tưởng và các biện pháp nghệ thuật đã được sử
dụng Nói chung là gần như các đặc điểm cơ bản của Sống mòn đều được
nhìn nhận, phân tích. Tuy nhiên, chưa có bài viết nào đi thật sâu vào giá trị và
vị trí của tiểu thuyết Sống mòn trong sự nghiệp viết của Nam Cao nói riêng và
văn học hiện thực phê phán nói chung, một cách hoàn chỉnh và sâu sắc. Nhận
thấy khoảng trống đó, chúng tôi mạnh dạn triển khai đề tài với mong muốn
tìm hiểu, tổng hợp và xác lập một cách có hệ thống, đầy đủ các nghiên cứu về
Sống mòn. Đặc biệt bàn về giá trị của Sống mòn ở cả phương diện nội dung và
nghệ thuật. Đồng thời khẳng định vị trí của Sống mòn là một kết thúc vẻ vang
cho sự nghiệp viết của Nam Cao. Do vậy, một số kết luận, kết quả phân tích,
tìm hiểu của chúng tôi, tất yếu sẽ có sự tương đồng nhất định với kết quả
nghiên cứu của những người nghiên cứu trước. Và để triển khai được đề tài
trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sẽ kết hợp tìm hiểu phân tích các tác
phẩm khác của Nam Cao cùng viết về người trí thức như Giăng sáng, Đời

thừa, Mua nhà, Nước mắt, Lão Hạc,Truyện người hàng xóm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Như tên đề tài đã xác định, đối tượng nghiên cứu của đề tài là "Giá trị
và vị trí của tiểu thuyết Sống mòn trong sự nghiệp viết của Nam Cao".
4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
Xác định Sống mòn có giá trị kết thúc vẻ vang sự nghiệp của Nam Cao
và là đỉnh cao cuối cùng kết thúc trào lưu hiện thực xuất sắc của văn học Việt
Nam giai đoạn 1930 – 1945 trên phương diện nội dung và nghệ thuật.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
6. Đóng góp của luận văn
- Nghiên cứu một cách có hệ thống về giá trị và vị trí Sống mòn trong
sự nghiệp của Nam Cao nói riêng và trào lưu văn học hiện thực 1930 –
1945 nói chung.
- Kết quả nghiên cứu đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho những
người quan tâm nghiên cứu Nam Cao, yêu mến tác phẩm Sống mòn, đặc biệt
là giáo viên ở các trường THPT.
7. Cấu trúc luận văn
Tương ứng với nhiệm vụ, mục đích đề ra, ngoài phần Mở đầu, Kết
luận, Tài liệu tham khảo, luận văn của chúng tôi gồm ba chương:
Chương 1. Bối cảnh xã hội 1941 -1945, đời sống văn học và sự nghiệp
sáng tác của Nam Cao.
Chương 2. Giá trị nội dung của Sống mòn.

Chương 3. Giá trị nghệ thuật của Sống mòn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Chƣơng 1
BỐI CẢNH XÃ HỘI 1941 – 1945, ĐỜI SỐNG VĂN HỌC
VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA NAM CAO

1.1 Bối cảnh xã hội Việt Nam thời kì tiền Cách mạng 1941 - 1945
Xã hội Việt Nam thời kì tiền Cách mạng là xã hội phong kiến thực dân
lộn xộn nhốn nháo, tàn bạo đầy bất công, ngang trái không mang lại niềm tin
cho bất cứ ai. Điều này đã được phản ánh rất rõ trong sáng tác của các nhà
văn như Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, và các sáng
tác của Nam Cao. Con người bị đẩy đến tận đáy sâu của sự nghèo đói về vật
chất, sự áp bức tận cùng về mặt tinh thần. Hẳn Nam Cao đã phải chứng kiến
rất nhiều những cái chết, nhất là chết đói, cảnh những người đi ở bị chửi rủa,
bị đánh đập. Tâm trạng bất an của mỗi con người có lẽ càng được tô đậm
thêm bởi những thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỉ.
Một sự kiện có lẽ tác động sâu sắc hơn nữa đến tâm hồn nhạy cảm của
Nam Cao đó là chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ vào tháng 9 – 1939, với
hàng chục triệu người chết, hàng chục triệu người bị thương. Xã hội Việt
Nam lúc này là một địa ngục với sự xuất hiện của người Nhật, dân ta phải
chịu cảnh "một cổ hai tròng", khắp nơi nạn đói hoành hành, bọn đầu trâu mặt
ngựa tác oai tác quái, người chết hàng loạt và khủng khiếp nhất là nạn đói
năm 1945 với hai triệu người chết đói. Và chính bản thân nhà văn cũng đã
trực tiếp chịu hậu quả của nó khi cái trường tư mà ông đang dạy đã phải đóng
cửa để lấy cơ sở làm chỗ nuôi ngựa cho quân đội Nhật. Như vậy thời đại của
Nam Cao không chỉ có vấn đề cái nghèo đói, sự áp bức về mặt vật chất, thể
chất mà rõ ràng đã có sự khủng hoảng đến tận cùng trong đời sống tinh thần

của con người với một không khí tối tăm u ám ngột ngạt, tức nước vỡ bờ dẫn
đến bùng nổ cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám 1945.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Trước tình thế bi đát của lịch sử đất nước, trước thảm trạng thân phận
của con người, là nhà văn vốn vô cùng nhạy cảm và luôn có những khát vọng
tìm tòi cống hiến, Nam Cao đã nhận thức được một cách sâu sắc sự bấp bênh
của kiếp người, và cảm thấy sự bất an không còn là tâm trạng của riêng ông,
riêng tầng lớp ông, mà đã trở thành một tâm trạng chung của cả cộng đồng.
Tất cả những điều đó đều thể hiện trên những trang viết của ông, đặc biệt là
Sống mòn. Đó là những cơn đói vật vã, sự tha hoá của con người, là thứ
không gian làng quê hay đô thị với vẻ u ám tù túng và mỏi mệt, là những cảnh
sống trong âm thầm bóng tối, là những chuyến đi trễ nải mỏi mệt. Trong thế
giới ấy, ta sẽ thấy hiện lên hình ảnh những nhà giáo, nhà văn câm lặng trong
sự thui chột của tài năng và khát vọng, những con người sống phấp phỏng, bất
an trong kiếp sống mòn mỏi
1.2 Các khuynh hƣớng văn học
Trong bối cảnh xã hội như vậy, văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn
này đã có nhiều chuyển biến. Văn học Cách mạng rút vào bí mật nhưng vẫn
phát triển mạnh mẽ. Thơ ca cách mạng trong tù và thơ ca cách mạng ngoài
nhà tù phát triển. Văn học Cách mạng nói nhiều đến tương lai, một tương lai
sáng sủa đang tiến gần. Thơ Tố Hữu là một tiếng nói khác với Thơ mới. Tập
Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh cũng ra đời trong thời kì này. Đến giai
đoạn này thơ tuyên truyền kết hợp với thơ trữ tình cách mạng càng thấm thía,
sâu sắc hơn. Hàng loạt bài chính luận của đồng chí Trường Chinh xuất hiện
trên các báo chí của Đảng vào thời kì này cũng có nhiều giá trị văn học. Có
thể nói văn học Cách mạng trong những năm tiền khởi nghĩa góp phần quan
trọng vào cuộc vận động cách mạng của Đảng, đập tan chế độ thuộc địa,

giành thắng lợi trong những ngày tháng 8 lịch sử 1945.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
Trào lưu văn học lãng mạn bao gồm các nhà thơ mới và chủ yếu là các
cây bút văn xuôi Tự lực văn đoàn, vốn mang nội dung chủ yếu là khát vọng
về một đời sống giải phóng cá nhân dựa trên cơ sở cảm nhận sâu sắc về cái
tôi. Nhưng trong bối cảnh xã hội Việt Nam những năm 1941 – 1945, văn học
lãng mạn đã đi vào bế tắc, cực đoan của đời sống cá nhân, đó là sự nhận thức
về thực tế đáng chán của thực tại và ý thức chối bỏ bằng cách thoát li nó. Đó
là khi Nguyễn Tuân viết Vang bóng một thời mong tìm lại những dấu ấn vàng
son của lịch sử, những giá trị văn hoá cổ truyền của dân tộc. Văn xuôi lãng
mạn vốn luôn có ý thức đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân, nỗ lực chống lại lễ
giáo phong kiến; cho đến lúc này, Tự lực văn đoàn lại viết về những trí thức
mất phương hướng đi vào đời sống truỵ lạc như nhân vật Trương trong Bướm
trắng của Nhất Linh Thơ mới khủng hoảng nghiêm trọng, với đủ các biểu
hiện hỗn loạn: Thơ điên của Hàn Mặc Tử, thơ loạn, thơ say của Vũ Hoàng
Chương. Tất cả đều là những hình thức cùng đường, bi quan và bế tắc của chủ
nghĩa cá nhân.
Bên cạnh đó, văn học hiện thực từ chỗ trực diện phê phán giai cấp
thống trị, bênh vực, cảm thông với những thân phận bị chà đạp như trong
sáng tác của Vũ Trọng Phụng (Số đỏ, Giông tố), Ngô Tất Tố (Tắt đèn). Đến
giai đoạn này Vũ Trọng Phụng đã mất vì bệnh hiểm nghèo, Ngô Tất Tố không
viết tiểu thuyết nữa chuyển sang khảo cứu dịch thuật. Một thế hệ nhà văn hiện
thực mới ra đời: Nam Cao, Mạnh Phú Tứ, Nguyễn Lạp, Bùi Hiển, Kim Lân
Đặc biệt Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc của trào lưu văn học hiện
thực Việt Nam. Sáng tác của ông thực sự là những “bức tranh” chân thực nhất
về hiện thực xã hội đương thời; tác phẩm của ông vừa là lời kết tội đanh thép
với bè lũ tay sai, thống trị, vừa là lời cảm thương, thông cảm cho số phận

người dân sống trong xã hội bất công, đen tối.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
1.3 Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao
1.3.1. Đôi nét về tiểu sử
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ngày 29 – 10 – 1915. Ông sinh
tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, tỉnh Hà Nam - nay là xã
Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam. Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và
huyện làm bút danh: Nam Cao. Xuất thân từ một gia đình bậc trung Công
giáo, cha Nam Cao là ông Trần Hữu Huệ làm thợ mộc, làm thuốc, mẹ là bà
Trần Thị Minh làm nông và dệt vải.
Là anh cả của một gia đình đông anh em (bốn em trai, ba em gái)
nhưng chỉ một mình Nam Cao được ăn học chu đáo. Năm 1922, Nam Cao
học sơ học ở trường làng. Đến cấp tiểu học và bậc trung học, gia đình gửi ông
xuống Nam Định học ở trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung. Nhưng vì
thể chất yếu, chưa kịp thi Thành Chung ông đã phải về nhà chữa bệnh, rồi lập
gia đình năm 18 tuổi, vợ là Trần Thị Sen, sinh năm 1917.
Nam Cao từng làm nhiều nghề, chật vật kiếm sống và đến với văn
chương đầu tiên vì mục đích mưu sinh. Năm 18 tuổi vào Sài Gòn, ông nhận
làm thư ký cho một hiệu may, bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối cùng,
Hai cái xác. Ông gửi in trên Tiểu thuyết thứ bảy, trên báo Ích Hữu các truyện
ngắn Nghèo, Đui mù, Những cánh hoa tàn, Một bà hào hiệp với bút danh
Thúy Rư. Có thể nói, các sáng tác "tìm đường" của Nam Cao thời kỳ đầu còn
chịu ảnh hưởng của trào lưu văn học lãng mạn đương thời.
Năm 1938, Nam cao bị ốm nặng. Do bệnh tim và tê thấp nên ông phải
trở ra Bắc tự học lại để thi lấy bằng Thành chung, sau đó Nam Cao dạy học ở
Trường tư thục Công Thành, Thụy Khuê, Hà Nội. Ông đưa in truyện ngắn
Cái chết của con Mực trên báo Hà Nội tân văn và in thơ cùng trên báo này

với các bút danh Xuân Du, Nguyệt.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Năm 1941, truyện đầu tay Đôi lứa xứng đôi, với bút danh Nam Cao do
NXB Đời mới Hà Nội ấn hành được đón nhận như là một hiện tượng văn học
thời đó. Sau này khi in lại, Nam Cao đã đổi tên là Chí Phèo. Phát xít Nhật vào
Đông Dương, trường bị trưng dụng, Nam Cao thôi dạy học.
Rời Hà Nội, Nam Cao về dạy học ở Trường tư thục Kỳ Giang, tỉnh
Thái Bình, rồi về lại làng quê Đại Hoàng. Thời kỳ này, Nam Cao cho ra đời
nhiều tác phẩm. Ông in truyện dài nhiều kỳ Truyện người hàng xóm trên
Trung Bắc Chủ nhật, viết xong tiểu thuyết Chết mòn, sau đổi là Sống mòn.
Tháng 4 - 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc và là một trong số
những thành viên đầu tiên của tổ chức này.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Nam Cao tham gia
cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân, rồi ông được cử làm Chủ tịch xã của
chính quyền mới ở địa phương. Ông cho in truyện ngắn Mò sâm banh trên
tạp chí Tiên phong.
Năm 1946, Nam Cao ra Hà Nội hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc.
Tiếp đó, ông vào miền Nam với tư cách phóng viên. Tại Nam Bộ, Nam Cao viết
và gửi in truyện ngắn Nỗi truân chuyên của khách má hồng trên tạp chí Tiên
phong, in tập truyện ngắn Cười ở NXB Minh Đức, in lại tập truyện ngắn Chí
Phèo. Ra Bắc, Nam Cao nhận công tác ở Ty Văn hóa Hà Nam, làm báo Giữ
nước và Cờ chiến thắng của tỉnh này. Mùa thu năm 1947, Nam Cao lên Việt
Bắc. Ông là thư ký tòa soạn báo Cứu quốc Việt Bắc, viết Nhật ký ở rừng. Tại
chiến khu, năm 1948 Nam Cao gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam. Năm 1950
Nam Cao chuyển sang Hội Văn nghệ Việt Nam, làm việc trong toà soạn Tạp chí
Văn nghệ. Tháng 6, ông thuyết trình về vấn đề ruộng đất trong hội nghị học tập
của văn nghệ sĩ, sau đó ông được cử làm Ủy viên tiểu ban văn nghệ của Trung

ương Đảng. Trong năm đó, ông tham gia chiến dịch Biên giới.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Tháng 5/1951, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng về dự Hội nghị văn
nghệ Liên khu Ba, sau đó hai nhà văn cùng vào công tác khu Bốn. Nam Cao
trở ra tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp, vào vùng địch hậu khu Ba.
Ông có ý định kết hợp lấy thêm tài liệu cho cuốn tiểu thuyết đang thai nghén.
Nhưng rồi, Nam Cao và đoàn công tác bị địch phục kích. Ngày 30 – 11 –
1951, Nam Cao anh dũng hy sinh ở Mưỡu Giáp, Hoàng Đan, Ninh Bình, hài
cốt của ông được đặt tại nghĩa trang Gia Viễn, Ninh Bình.
Với những đóng góp to lớn của mình, Nam Cao được Đảng và Nhà
nước phong tặng nhiều danh hiệu cao quý.
Nam Cao là nhà văn, liệt sĩ đã được nhà nước phong tặng Giải thưởng
Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt một năm 1996 và nhiều con đường ở
các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng… mang tên ông.
Cũng trong năm 1996, một chương trình mang tên "Tìm lại Nam Cao"
được Hiệp hội Câu lạc bộ UNESCO Việt Nam tổ chức với quy mô chưa từng
có gồm 35 đơn vị tham gia như Bộ Lao động Thương binh - Xã hội, Hội Nhà
văn Việt Nam, Báo Nhân dân Điều đặc biệt là trong đó có sự góp mặt của 7
nhà ngoại cảm mà Liên hiệp khoa học công nghệ tin học ứng dụng (UIA) đã
đứng ra mời họ tham gia chương trình "Tìm lại Nam Cao". Kết quả sau gần
nửa thế kỷ nằm hiu quạnh trong nấm mồ vô danh ở Gia Viễn – Ninh Bình,
cuối cùng Nam Cao đã về yên nghỉ vĩnh hằng nơi quê nhà xã Hoà Hậu, Lý
Nhân, Hà Nam.
Cuộc đời lao động nghệ thuật vì lý tưởng nhân đạo, lý tưởng cách mạng
và sự hy sinh anh dũng của Nam Cao mãi là tấm gương cao đẹp của một nhà
văn - chiến sĩ.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
1.3.2. Sáng tác của Nam Cao trƣớc và sau Cách mạng tháng Tám - 1945
Là nhà văn sinh ra ở làng quê, Nam Cao có tấm lòng đôn hậu chan
chứa yêu thương, đặc biệt là gắn bó ân tình sâu nặng, hiểu biết sâu sắc hoàn
cảnh của người nông dân nghèo khổ ở quê hương. Những trang viết của ông
thấm đẫm tình người, lòng người vì ông là người sống gần gũi và hiểu rõ hơn
ai hết về cuộc sống và nỗi khổ của họ. Bắt đầu là Chí Phèo và tiếp đó là gần
80 truyện ngắn viết về người nông dân như: Một đám cưới, Trương Rự, Nửa
đêm, Lão Hạc, Một bữa no Qua những tác phẩm trên, Nam Cao đã miêu tả
một cách thấm thía và cảm động về số phận tăm tối của những người nông
dân lương thiện, chỉ vì nghèo đói khốn khổ mà bị ức hiếp, bị lăng nhục một
cách tàn nhẫn, độc ác.
Là một trí thức, Nam Cao đã miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của
người trí thức nghèo trong xã hội cũ. Lên án xã hội phi nhân đạo đã tàn phá
con người, thể hiện niềm khao khát một cuộc sống có ích, thật sự có ý nghĩa,
với những tác phẩm chính: Đời thừa, Giăng sáng, Sống mòn Trong các
sáng tác này, Nam Cao đã miêu tả hết sức chân thực hoàn cảnh nghèo khổ
dở sống, dở chết của những nhà văn nghèo, những giáo khổ trường tư thất
nghiệp Nhà văn đặc biệt đi sâu vào những bi kịch tâm hồn của họ, qua đó,
đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội vượt ra khỏi phạm vi của đề tài. Đó là
tấn bi kịch dai dẳng, thầm lặng mà đau đớn của người trí thức, những người
ý thức một cách sâu sắc về giá trị sự sống, của nhân phẩm. Họ luôn ôm ấp
hoài bão lớn về một sự nghiệp tinh thần nhưng buộc phải sống trong cảnh
đời thừa, chết mòn
Sau Cách mạng tháng Tám, Nam Cao đã sớm đến với Cách mạng, tham
gia Hội Văn hoá cứu quốc, tích cực trong mọi công việc của Đoàn thể; và
nhanh chóng có tác phẩm phục vụ cho cách mạng và kháng chiến như: Mò


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
sâm banh, Nỗi truân chuyên của khách má hồng, Nhật kí ở rừng (1948), Đôi
mắt (1948), Chuyện biên giới (1950).
Ngoài viết văn, ông còn làm thơ, viết kịch (Đóng góp, 1951) và biên
soạn sách địa lí cùng với Văn Tân (Địa dư các nước Châu Âu 1948); Địa dư
các nước Châu Á, Châu Phi (1949); Địa dư Việt Nam (1951).
Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Nam Cao, ta thấy ông viết trên
nhiều đề tài phổ biến mà các nhà văn hiện thực cùng thời hoặc trước ông ít lâu
đã từng khai phá, như đề tài nông dân, đề tài những người tiểu tư sản thành
thị Về nông dân, Nam Cao không phải mới so với Ngô Tất Tố, về đề tài thị
dân, ông cũng không mới so với Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng nhưng
ông vẫn có những đóng góp vô cùng quan trọng ở các đề tài này. Đó là khi
viết về thân phận con người, Nam Cao không chỉ dừng lại ở việc phản ánh
những cái bên ngoài, mà cố gắng đi sâu tìm hiểu, khám phá những nét bản
chất nhất của vấn đề. Vì vậy, ở cả hai đề tài trên, Nam Cao có những tác
phẩm, không chỉ viết về cái nghèo mà còn, và quan trọng hơn là viết về cái
đói - một thứ đói khắc khoải tê tái. Chính vì điểm này mà không ít người coi
Nam Cao là nhà văn của cái đói, đặc biệt là cái đói của người trí thức nghèo
trước gánh nặng của cơm áo, gạo, tiền. Cũng như một số nhà văn khác, quan
tâm đến đời sống, số phận trí thức trước hết ở nỗi khốn khó về vật chất, nỗi
khổ nhục của những con người bị cơm áo ghì sát đất. Ông cũng miêu tả
những Thứ, Điền, Hộ với sự nghèo túng triền miên, với những bất hạnh của
những con người bình thường. Song hơn thế, Nam Cao thể hiện cái nhìn
mang tính hiện đại của mình khi nghiền ngẫm về thân phận của người trí thức
ở đời sống tinh thần của họ. Đó là Hộ trong Đời thừa, Điền trong Giăng sáng,
Thứ trong Sống mòn. Ở đây, bằng một trái tim nhân đạo sâu sắc, tác giả đã
thấy được thân phận đời thừa, thân phận nhỏ bé của những con người giàu
khát vọng, nhiều ước mơ trong một xã hội đầy những trầm luân, biến loạn.

Không chỉ vậy, Nam Cao luôn có ý thức theo đuổi, nhìn nhận cuộc sống, con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
người như một cuộc tha hoá triền miên. Ông coi sự tha hoá như là một nét bản
chất, một thuộc tính của sinh tồn. Nhân vật của Nam Cao, vì vậy, từ nông
dân, tiểu thương đến trí thức vẫn thường phải đối mặt với quá trình tha hoá
không thể cưỡng nổi. Sự tha hoá ấy không chỉ ở lòng tham, ở tính lưu manh,
ở những khát vọng, mà là ở quá trình tầm thường hoá có hệ thống, có chiều
sâu. Sự tha hoá ấy đôi khi nằm trong cả cái cảm giác bị thui chột và đổ vỡ dần
khát vọng sống. Chúng tôi sẽ tiếp tục đề cập đến vấn đề này rõ hơn ở phần
sau của luận văn.
Như vậy, Nam Cao là người đưa trào lưu văn học hiện thực Việt Nam
lên một bước phát triển mới trong việc đưa hai đề tài cái đói và người trí thức
vào sáng tác của mình. Nhà văn đã thực sự tìm được cho mình một hướng đi
riêng trong việc tiếp cận và phản ánh hiện thực mang ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Đặc biệt với những giá trị đỉnh cao về mặt nội dung và nghệ thuật của tiểu
thuyết Sống mòn, Nam Cao trở thành người kết thúc vẻ vang trào lưu hiện
thực 1930 – 1945.
1.3.3. Sống mòn trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao
Sống mòn được Nam Cao hoàn thành vào những tháng cuối cùng của
năm 1944 (1 – 10) tại làng quê Đại Hoàng, lúc đó ông chưa đầy 30 tuổi, nghĩa
là sau khi đã viết Chí Phèo, đã từng được biết đến nhưng vẫn chưa phải là cây
bút thực sự tên tuổi. Hình như khát vọng về một sự nghiệp văn chương có thể
được ôm ấp từ lâu vẫn chưa thể thực hiện được, nghĩa là sau bao nhiêu năm
bôn ba kiếm sống bằng nhiều nghề, ở nhiều không gian khác nhau nếm trải đủ
những nhọc nhằn của một viên chức thuộc địa, một giáo khổ tư, và sau cả thời
gian mà trường học cuối cùng của ông dạy học bị đóng cửa, nếm trải sự tủi hổ
của một kẻ thất thế, thất nghiệp. Có lẽ điều này đã chi phối mạnh mẽ đến sáng

tác của ông, và nhất là tác phẩm Sống mòn. Cuối năm 1944, cũng là những
năm đen tối nhất của lịch sử Việt Nam hiện đại, khi phát xít Nhật đã vào Việt
Nam và thậm chí với sự xuất hiện của họ, Nam Cao cũng bị liên luỵ bằng sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
kiện mất việc làm. Cuối năm 1944 cũng là năm mà cuộc chiến tranh thế giới
thứ hai đã đến thời kì quyết liệt để bước vào giai đoạn hạ màn, nghĩa là những
tin tức về chiến sự, về số người chết, số người thương vong đã có thể tác động
một cách sâu sắc vào tâm trí con người, góp phần làm mờ tối thêm đời sống
tinh thần vốn đã u ám của họ, Nam Cao có thể không ngoại lệ. Chúng ta có
thể hình dung Sống mòn phần nào đó là sản phẩm trực tiếp của nhận thức về
tình thế hết sức bi đát của thực tại. Và trong hoàn cảnh ấy, trong tâm thế ấy,
nó đã được viết bằng một sự nếm trải, một sự chiêm nghiệm đầy day dứt, đầy
lo âu trong một thời đại lo âu.
Tuy nhiên, bởi chưa phải là một cây bút nổi tiếng, và có thể bởi cả
những giá trị hiện thực mà Sống mòn chưa được nhà in nào in ấn, phát hành vì
không sinh lợi cho nhà xuất bản (ngay với Chí Phèo, một tác phẩm thuộc
hàng đỉnh cao của tác giả, khi đưa in, chủ bút cũng phải đổi tên thành Đôi lứa
xứng đôi với mục đích câu khách, điều đó phải chăng phần nào phản ánh tâm
lí tiếp nhận chung là không thuận lắm với những tác phẩm ít gay cấn, với một
lối viết nhẹ nhàng trễ nải như Sống mòn).
Mỗi con người sinh ra đều có số phận. Nhưng nói đến số phận phải
chăng có hàm ý rủi ro, bất hạnh? Từ số phận một tài năng đến số phận một
con người. Nhưng ở đây chúng tôi lại muốn bàn đến số phận lịch sử của tiểu
thuyết Sống mòn trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao. Như chúng ta đã biết
mỗi sáng tác văn học bao giờ cũng là đứa con tinh thần của nhà văn, thành
công của tác phẩm ấy là sự kết tinh hội tụ của cảm xúc, nguồn tư tưởng và tài
năng Nói như vậy để thấy rằng tiểu thuyết Sống mòn có một giá trị đặc biệt

và gắn liền với số phận bất hạnh của một nhà văn chiến sĩ Nam Cao. Sống
mòn viết xong năm 1944 nhưng mãi đến năm 1956 mới được in lần đầu,
ngoài những lí do trên cũng có thể vì lí do kiểm duyệt. Tính từ 1960 về trước
chúng ta khó hình dung Nam Cao là một "cây" tiểu thuyết như các cây bút
quen thuộc Ngô Tất Tố, Khái Hưng, Nhất Linh, Nguyên Hồng v.v…Rất may

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
mắn khi bản thảo Chết mòn còn giữ được trong ba lô Tô Hoài, hơn 10 năm
sau mới được ra mắt bạn đọc dưới tên Sống mòn. Đây là điều hạnh phúc lớn
với Nam Cao cũng như những độc giả yêu mến và ngưỡng mộ ông. Tuy nhiên
số phận Sống mòn cũng không được may mắn như số phận của Nam Cao. Tài
năng của Nam Cao chỉ được công nhận khi ông đã hi sinh, cũng như Sống
mòn giàu giá trị tư tưởng, nghệ thuật như vậy, mà mãi 10 năm sau mới được
ra mắt độc giả.
Do đó Sống mòn có một giá trị và vị trí đặc biệt quan trọng trong sự
nghiệp sáng tác của Nam Cao cũng như trong trào lưu văn học hiện thực 1940
– 1945. Chúng tôi xin được trích dẫn ý kiến đánh giá của Giáo sư Phong Lê
trong bài tổng kết Hội thảo về Nam Cao nhân 40 năm mất, vào tháng 12 –
1992, Giáo sư đã dành một đoạn ngắn cho Sống mòn như sau:
"Đây là cuốn tiểu thuyết không có cốt, không có truyện, không có gay
cấn và ly kỳ; bối cảnh truyện chỉ là mấy cảnh sinh hoạt của mấy nhà giáo dạy
tư, nhưng sao lại có sức gắn đến thế với cả cuộc đời rộng lớn; cái tiếng thì
thầm của tác phẩm lại có sức ám ảnh đến thế đối với nhiều lớp người trong
hành trình cuộc đời, giữa bao thăng trầm của lịch sử. Cuốn tiểu thuyết tách ra
một lối riêng giữa bao nhiêu kiểu, dạng giống nhau hoặc khác nhau, từ văn
xuôi lãng mạn sang văn xuôi tả chân – xã hội; và trong khi trung thành đến
từng chi tiết của đời riêng và tràn ngập những chuyện đời tư, trong khi hội
nhập được hai mặt tương phản của sống và chết, của sự sống và cái chết,

trong một định ngữ "mòn" lại nói được bao nhiêu điều vừa tủn mủn vừa lớn
lao của nhân thế".





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
Chƣơng 2
GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA SỐNG MÒN

2.1. Ngƣời trí thức, một trong hai chủ đề lớn mà Nam Cao theo đuổi
2.1.1. Ngƣời nông dân trong quá trình bần cùng hoá và lƣu manh hoá
Nam Cao là nhà văn của nông thôn, mỗi tác phẩm của ông là một lời tố
khổ chân thực và cảm động về cuộc sống tối tăm, thê thảm của người nông
dân. Nhà văn luôn tỏ thái độ trân trọng, xót thương đối với những người nông
dân nghèo bần cùng hoá.
Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, lại ở một vùng quê mà
bọn cường hào chia bè kéo cánh "cá lớn nuốt cá bé", đục khoét bóc lột người
dân, Nam Cao am hiểu thấm thía một cách sâu sắc số phận những người nông
dân nghèo khổ.
Nông thôn trong tác phẩm Nam Cao là nông thôn Việt Nam vốn triền
miên trong bần cùng, giờ đây đang tiến tới thảm hoạ khủng khiếp 1945. Đó là
lúc mà xã hội Việt Nam đang chao đảo, ngột ngạt và bế tắc nhất. Đời sống
của người nông dân bị đe doạ hơn bao giờ hết. Viết về người nông dân trong
thời kì cùng quẫn bế tắc này, Nam Cao cố gắng nhìn sâu vào bản chất của sự
vật, và bày tỏ thái độ đồng cảm, xót thương đối với những tâm hồn lao khổ.
Không giống một số các nhà văn lãng mạn khác, Nam Cao không nhìn người

nông dân với con mắt khinh bỉ, giễu cợt nhưng cũng không thi vị hoá, lý
tưởng hoá họ. Trái tim, giàu lòng yêu thương nhân đạo và sự hiểu biết sâu sắc
về con người, đời sống nông thôn đã giúp Nam Cao vẽ lên được những hình
tượng người nông dân hết sức sinh động. Từ làng quê nghèo đói xơ xác của
mình, nhà văn đã khái quát lên cả một thực trạng nông thôn Việt Nam đang
trong thời kì nhức nhối. Đọc sáng tác của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,
chúng ta từng bắt gặp những con người bị đẩy đến chân tường phải sống cảnh

×