Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Bài giảng môn Đa Giảng Sinh Học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (854.31 KB, 99 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TPHCM PHÂN HIỆU GIA LAI
BÀI GIẢNG
ĐA DẠNG SINH HỌC
(Lưu hành nội bộ)
GIA LAI - 2013
1
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC
1.1. KHÁI NIỆM VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC
1.1.1. Đa dạng của sự sống
Sinh vật có mặt ở khắp mọi nơi trên Trái đất, từ biển sâu cho tới núi cao, với các chủng loại khác
nhau mà hình thể, kích thước, màu sắc cũng vô cùng đa dạng. Sự đa dạng đó thể hiện rất rõ ở bên
ngoài như kích thước, tuổi thọ, khả năng thích nghi với các môi trường sống khác nhau, số lượng loài
trong chi và họ, số lượng cá thể trong mỗi loài, các dạng sinh sản và đặc biệt là ở các dạng biến dị mà
nhiều khi phải nhờ đến các công cụ phân tích di truyền mới có thể phát hiện ra.
Về kích thước khác nhau, phải kể đến các loài khủng long và virus. Khủng long đã là một phần và
chúa tể của thế giới sinh vật, đã từng tồn tại trong giai đoạn từ trước đây 210 triệu năm (đầu kỷ
Jurasic) đến 65 triệu năm trước (cuối kỷ Phấn trắng). Người ta đã tìm thấy nhiều bộ xương của các loài
khủng long và từ đó ước lượng ra kích thước cũng như trọng lượng của chúng. Những con khủng long
Brachiosaurus ở châu Phi, Bắc Mỹ và châu Âu cân nặng tới 60 - 80 tấn và các con khủng long
Supersaurus và Ultrasuarus ở Bắc Mỹ còn có cân nặng lớn hơn. Nhóm khủng long có tên là
Seismosaurus có chiều cao khoảng 5,5 m (18 bộ), dài 30 m (100 bộ) và nặng 80 tấn.
Trong thế giới thực vật cũng có những khác biệt lớn về kích thước. Trong số các loài lá kim thì
cây Cù tùng (Sequoia gigantea) ở vùng núi Sierra Nevada (California, Hoa Kỳ) thuộc vào loài có kích
thước lớn nhất, đạt chiều cao tới 142 m. Cây Thiết sam (Pseudosuga menziesii) cũng có kích thước
khổng lồ tương tự. Nhưng cây cao nhất thế giới lại thuộc về loài lá rộng, đó là cây Bạch đàn khổng lồ
(Eucalyptus regnans) thuộc chi Bạch đàn (Eucalyptus L’Herit) họ Sim (Myrtaceae) ở Australia, có
chiều cao trên 100 m, cây cao nhất đạt 155 m.
Một số loài cây cỏ vùng sa mạc là cây có tuổi thọ cực thấp. Do khô hạn kéo dài, lượng mưa thấp,
mưa chỉ tập trung ngắn ngủi trong một thời gian cực ngắn nên các loài cây cỏ đó phải hoàn thành chu
kỳ sống trong vài ba chục ngày: nảy mầm, cây lớn, ra hoa, phát tán hạt rồi chết.


Trong khi đó truyền thuyết Trung Hoa có kể lại rằng cây Hoàng đàn (Cupressus funebris) thuộc họ
Trắc bách (Cupressaceae) sống bên lăng Hoàng đế (ở huyện Hoàng Lăng, Thiểm Tây, Trung Quốc) đã
được Hoàng đế Hiên Viên tự tay trồng. Cây nay có tuổi khoảng 5000 năm và có chu vi gốc đạt tới 10
m. Trên núi A Lý (Đài Loan) có cây Hồng khoái (Sabina chinensis) được coi là cây thần, tương truyền
đã có tuổi thọ 3000 năm. Cây khoái trong khu miếu thờ Khổng Tử ở Khúc Phụ (Sơn Đông) được
truyền lại là do Khổng Tử trồng cách đây hơn 2500 năm. Cây Cù tùng (Sequoia) có tên “Cụ già thế
giới” ở California (Mỹ) đã trên 3000 năm tuổi, cây Máu rồng (long huyết, Pleomele draco) ở đảo
Canary (châu Phi) đạt 6000 năm tuổi, còn cây Tuyết tùng (Cedrus deodara) trên đảo Ryukyu (Nhật
Bản) qua máy đo thấy đã 7200 năm tuổi.
Hai dạng sinh sản chính của thế giới thực vật là sinh sản hữu tính và sinh sản vô tính. Đối với sinh
sản hữu tính, có hai dạng hoa cơ bản:
Hoa lưỡng tính, với nhiều kiểu cấu trúc (vòi nhuỵ dài, vòi nhuỵ ngắn) để ngăn cản lai gần hoặc tự
thụ phấn ở thực vật như trường hợp các loài Hoa báo xuân (Primula).
• Hoa đơn tính:
 Đơn tính cùng gốc: hoa đực và hoa cái riêng biệt trên cùng một cây. Các
loài mang đặc tính này là cây Dẻ Castanea, Sồi Quercus, Bulô Betula, Tống quá sủ Alnus,
Sau sau Liquidambar và các hoa này phân bố đều trên cây. Trên cây Thiết sam
(Pseudotsuga menziesii), Thông (Pinus), Vân sam (Picea), Bách tán (Araucaria) các hoa
cái chủ yếu thấy ở phần ngọn cây, còn hoa đực chủ yếu ở phía dưới. Đây cũng là cách tốt
để ngăn cản sự tự thụ phấn.
 Đơn tính khác gốc: hoa đực và hoa cái trên các cây riêng biệt và đây là cơ
chế rất có hiệu quả để giảm tối đa sự tự thụ phấn. Các loài đó là Dương, Liễu, Bách tròn
(Juniperus), Thông đỏ (Taxus), Nhựa ruồi (Ilex), Tần bì (Fraxinus), Thích (Acer) và nhiều
loài cây khác.
Một số dạng sinh sản vô tính (sinh dưỡng) chính là:
 Thân ngầm, thân rễ: Tre trúc (Bambusa, Dendrocalamus, Phyllostachys,
Sinocalamus), Iris v.v.
 Củ: Khoai tây (Solanum tuberosum), Khoai lang (Ipomoea batatas),
 Củ hành: Hành (Allium fistulosum), Tỏi (Allium sativum),
 Thân ngầm dạng hành: hoa Lay-ơn

 Thân bò: Dâu tây (Fragaria vesca),
 Cành, thân: Mía (Saccharum officinarum), Sắn (Manihot esculenta), Râm
bụt (Hibiscus rosa) v.v.
Biến dị là sự biến đổi của sinh vật do những nguyên nhân khác nhau, sự sai khác của con cái so
với bố mẹ, sự đa dạng về các tính trạng và tính chất của các cá thể trong một nhóm sinh vật (Thuật ngữ
lâm nghiệp, 1996). Biến dị là thể hiện rõ nhất của sự đa dạng trong đó biến dị di truyền là cơ sở của
tiến hoá. Biến dị tự nhiên là kết quả của các tương hỗ phức tạp giữa các yếu tố khác nhau như đột biến,
phản ứng với sự đa dạng của môi trường sống, kích thước quần thể, sự cách ly, phương thức sinh sản,
mức độ lai chéo v.v. Ba nguyên nhân chủ yếu của quá trình phát sinh biến dị là:
• Biến đổi của các yếu tố di truyền: Biến đổi của các genôtíp dưới tác dụng của đột biến, đa bội
hoá và tái tổ hợp. Những biến dị này có khả năng di truyền và được gọi là các biến dị di
truyền.
• Biến đổi của các yếu tố môi trường: Biến đổi gây nên bởi thay đổi về hoàn cảnh sống của sinh
vật như nhiệt độ, lượng mưa, ánh sáng, độ cao so với mặt biển, vĩ độ, các yếu tố có liên quan
đến đất và lập địa v.v.
• Biến đổi dưới tác động của tương tác giữa sinh vật và môi trường sống: Bao gồm các biến đổi
theo thời gian (tuổi cây) và không gian (cây ở các độ cao khác nhau) v.v., tác động tương hỗ
giữa sinh vật và hoàn cảnh.
1.1.2. Định nghĩa Đa dạng sinh học
Trên cơ sở nhận thấy sự đa dạng và sự biến dị của các thực vật, động vật, vi sinh vật và các hệ sinh
thái mà chúng sống trong đó, các nhà khoa học đã đưa ra khái niệm đa dạng sinh học - với ý nghĩa là
toàn bộ các dạng sống trên Trái đất - vào đầu những năm 1980 (Lovejoy 1980a, b; Norse and
McManus 1980; Wilson 1985; Norse et al. 1986; Wilson and Peters 1988; Reid and Miller 1989;
McNeely et al. 1990; Chauvet and Olivier 1993).
Thuật ngữ đa dạng sinh học (Biological Diversity) được định nghĩa lần đầu tiên bởi Norse and
McManus (1980) bằng cách gộp hai khái niệm gần gũi là đa dạng di truyền (lượng biến dị di truyền
trong loài) và đa dạng sinh thái (số loài trong một quần xã sinh vật) vào với nhau. Thuật ngữ đa dạng
sinh học rút ngắn (Biodiversity) gắn liền với tên tuổi của Walter G. Rosen vào năm 1985 khi lập kế
hoạch cho hội nghị “Diễn đàn quốc gia về Đa dạng sinh học (National Forum on Biodiversity)” được
tổ chức tại thủ đô Washington, Hoa Kỳ vào năm 1986 mà cuốn kỷ yếu của hội nghị này (Wilson and

Peters 1988) đã được giới thiệu rộng rãi trong giới khoa học.
Người ta đã ghi lại được hàng chục định nghĩa về đa dạng sinh học trong đó có khoảng 10 định
nghĩa được sử dụng nhiều nhất. Thông thường người ta nhắc đến hai định nghĩa đã chính thức được
3
đưa vào các văn bản quốc tế, đó là Công ước Đa dạng Sinh học (UNEP 1992) và Chiến lược Đa dạng
Sinh học toàn cầu (WRI, IUCN and UNEP 1992).
Theo Công ước Đa dạng Sinh học (UNEP 1992) thì đa dạng sinh học là “The variability among
living organisms from all sources including, inter alia, terrestrial, marine and other aquatic ecosystems
and the ecological complexes of which they are part; this includes diversity within species, between
species and of ecosystems”, được dịch là “Toàn bộ biến dị (tính đa dạng) của sinh vật từ mọi
nguồn, bao gồm các hệ sinh thái tiếp giáp, trên cạn, biển và các hệ sinh thái thuỷ vực khác và các
tập hợp sinh thái mà chúng là một phần; nó bao gồm sự đa dạng ở bên trong loài, giữa các loài
và của các hệ sinh thái”.
Chiến lược Đa dạng Sinh học toàn cầu (WRI, IUCN and UNEP 1992) định nghĩa ngắn gọn đa
dạng sinh học là “Toàn bộ các gen, loài và các hệ sinh thái trong một khu vực”.
Quĩ Quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (WWF) năm 1989 đã đưa ra định nghĩa: “Đa dạng sinh học là
thuật ngữ chỉ tính phong phú của sự sống trên Trái đất, là hàng triệu loài thực vật, động vật và vi sinh
vật, là các gen chứa đựng trong các loài và những hệ sinh thái vô cùng phức tạp cùng tồn tại trong môi
trường ".
Hầu hết các định nghĩa đều chỉ rõ ba thành phần chính của đa dạng sinh học là các gen, loài và hệ
sinh thái, trong đó đa dạng trong loài là đa dạng di truyền, giữa các loài là đa dạng loài và đa dạng của
các hệ sinh thái là đa dạng sinh thái hoặc nơi cư trú. Mặc dù vậy tác dụng tương hỗ giữa các mức đa
dạng hầu như chưa được đề cập tới. Do vậy di Castri (1995) đã định nghĩa đa dạng sinh học là “toàn
bộ và các tương tác của đa dạng di truyền, đa dạng loài và đa dạng sinh thái, tại một địa điểm nhất
định và ở một thời gian nhất định”.
Bảng 1.1. Thành phần và các mức của đa dạng sinh học (UNEP 1995)
ĐA DẠNG HỆ SINH THÁI ĐA DẠNG DI TRUYỀN ĐA DẠNG CƠ THỂ SỐNG
Biome - quần xã sinh vật
Biota - vùng sinh học
Landscape - cảnh quan

Ecosystem - hệ sinh thái
Habitat - nơi cư trú
Niche - ổ sinh thái
Population - quần thể
ĐA DẠNG VĂN HOÁ
Community - quần xã
Population - quần thể
Organism - cá thể
Cell - tế bào
Molecule - phân tử
Kingdom - giới
Phylum - ngành
Family - họ
Genus - chi
Species - loài
Subspecies - loài phụ
Population - quần thể
Individuals - cá thể
Bảng 1.2. Hình mẫu và phạm vi của đa dạng sinh học (di Castri and Younes, 1996)
ĐA DẠNG DI TRUYỀN ĐA DẠNG PHÂN LOẠI ĐA DẠNG SINH THÁI
Community - quần xã
Population - quần thể
Organism - cá thể
Cell - tế bào
Molecule - phân tử
Kingdom - giới
Phylum - ngành
Class - lớp
Order - bộ
Family - họ

Genus - chi
Species - loài
Subspecies - loài phụ
Biosphere - sinh quyển
Biome - Quần xã sinh vật
Landscape - cảnh quan
Ecosystem - hệ sinh thái
Patch - mảnh
Habitat-niche - nơi cư trú, ổ
Khái niệm về đa dạng sinh học chỉ số lượng, tính muôn màu muôn vẻ và thường xuyên biến đổi
của thế giới động vật, thế giới thực vật và vi sinh vật. Loài người đã, đang và sẽ còn phụ thuộc vào các
loài sinh vật khác để duy trì sinh quyển và cung cấp những yếu tố cơ bản cần thiết, đặc biệt là thức ăn
cho chính bản thân mình. Một phần lớn của đa dạng sinh học được coi là rất có giá trị và nó được mô
tả như là nguồn dự trữ chủ yếu và cơ bản của thế giới.
Đa dạng sinh học trên thế giới hiện được thể hiện trên ba mức độ: Đa dạng di truyền, đa dạng loài
và đa dạng hệ sinh thái.
1.1.3. Đa dạng di truyền
Khái niệm
Đa dạng di truyền (Genetic Diversity) được Từ điển Đa dạng sinh học và Phát triển bền vững (Bộ
Khoa học Công nghệ và Môi trường, 2001) định nghĩa là biến dị trong cấu trúc di truyền của các cá
thể bên trong hoặc giữa các loài; những biến dị di truyền bên trong hoặc giữa các quần thể.
Vai trò của Đa dạng di truyền.
Chúng ta đã biết sự tồn tại của một loài có được là nhờ quá trình sản xuất và sự sao chép lại các
tính trạng và tính chất của cơ thể từ thế hệ này sang thế hệ khác qua quá trình di truyền. Cơ sở vật chất
di truyền của các loài sinh vật là các axit nucleic và gồm có hai loại: ADN (axit đêzôxiribônuclêic) và
ARN (axit ribônuclêic).
ADN là nơi tích luỹ và bảo quản các thông tin di truyền. Mỗi loài sinh vật và thậm chí trong một
cá thể của loài đều có những phân tử ADN đặc trưng cho loài. Tính đặc trưng này được thể hiện qua số
lượng và trình tự sắp xếp các nucleotit trong ADN, qua hàm luợng ADN trong nhân tế bào và tỷ lệ
giữa các cặp bazơ A+T/G+X. Trật tự các cặp nucleotit trong các gen có liên quan đến việc quy định

các tính trạng và đặc tính của cơ thể.
Trong quá trình tiến hoá của sinh vật từ thấp lên cao, hàm lượng ADN trong các tế bào cũng được
tăng lên. Đó là một biểu hiện của sự đa dạng gen.
Bảng 1.3. Số lượng tương đối các nucleotit trong tế bào đơn bội của một số loài
NHÓM PHÂN LOẠI LOÀI SỐ NUCLEOTIT
Virus Virus MS2 (ARN) 3,6 x 10
3
FX174 (sợi ADN đơn) 5,4 x 10
3
Lamda phage 1,1 x 10
5
T2 phage 4,2 x 10
5
Vi khuẩn E. coli 8,0 x 10
6
Nấm S. cerevisiae 4,8 x 10
7
Neurospora crassa 8,6 x 10
7
Tảo Chlamydomonas reinhardii 1,2 x 10
8
Thực vật hạt trần Picea glauca 6,0 x 10
10
Thực vật hạt kín Arabidopsis thaliana 1,6 x 10
9
Vicia faba 4,4 x 10
10
Zea mays 1,5 x 10
10
Trillium luteum 1,3 x 10

11
Đơn bào đa nhân Paramecium aurelium 3,2 x 10
11
Da gai Paracentrotus lividus 1,4 x 10
9
Côn trùng Drosophila melanogaster 1,7 x 10
8
Cryllus domesticus 1,1 x 10
10
Cá Esox lucius 1,7 x 10
9
Lưỡng cư Bufo bufo 1,2 x 10
10
Chim Gallus domesticus 2,3 x 10
9
Thú Mus musculus 5,0 x 10
9
5
Bos taurus 6,0 x 10
9
Homo sapiens 6,0 x 10
9
Vật liệu di truyền của vi sinh vật, của thực vật và động vật chứa đựng nhiều thông tin xác định
đặc điểm tính chất của loài và các cá thể. Chính vậy, sự đa dạng các vật di truyền đã tạo nên sự đa
dạng của thế giới sinh vật. Ngay cả trong các cá thể của loài, những tính trạng của các cá thể cũng có
thể thay đổi do những biến dị di truyền (đột biến gen và thể nhiễm sắc) xảy ra trong quá trình tái tổ
hợp. Những biến đổi này cũng có thể có lợi hoặc có thể có hại. Thường những biến đổi có lợi được
lựa chọn trong quá trình chọn lọc tự nhiên và đấu tranh sinh tồn, các cá thể mang những biến dị di
truyền có lợi đó tiếp tục tồn tại và truyền lại cho đời sau. Khả năng sống sót khác nhau giữa các cá
thể của một quần thể dẫn đến sự thay đổi tần suất xuất hiện các gen trong tập hợp các biến dị di

truyền và quá trình này được gọi là quá trình tiến hoá (Falconer, 1981). Hay nói một cách khác, đa
dạng di truyền đã có ảnh hưởng quyết định đến một cá thể động vật hay thực vật có thể hay không
thể tồn tại trong một môi trường nhất định. Chẳng hạn, một số loài thực vật có thể mọc và sinh
trưởng tốt trong môi trường nước mặn (rong biển, tảo biển), một số loài động vật (thú, bò sát, cá)
sống được trong môi trường biển (Cá voi, rắn đẻn, rùa biển, đồi mồi, cá biển ). Các cá thể có được
những thích nghi này là nhờ kết quả của biến đổi di truyền.
Các yếu tố ảnh hưởng đến đa dạng di truyền
Biến đổi di truyền tồn tại trong tất cả các loài sinh vật, trong các quần thể có sự ngăn cách địa lý
và ở các cá thể trong một quần thể nhưng có thể ở các mức độ khác nhau. Mặt khác, tính di truyền của
một loài có lúc không ổn định mà biến đổi phụ thuộc các yếu tố bên trong và bên ngoài cơ thể. Sự
khác nhau giữa các cá thể là do kiểu gen, môi trường và tương tác kiểu gen - môi trường tạo ra:
Kiểu gen A + Môi trường A > Kiểu hình C
Kiểu gen A + Môi trường B > Kiểu hình D
Kiểu gen B + Môi trường A > Kiểu hình E
Các yếu tố làm tăng đa dạng di truyền là:
• Đột biến (Mutation)
• Sự di trú (Migration).
Các yếu tố làm giảm đa dạng di truyền bao gồm:
• Lạc dòng gen hay quá trình tự động di truyền (Genetic Drift): các vấn đề cần được quan tâm
đặc biệt ở đây là: lai gần, hệ số lai gần, kích thước quần thể hữu hiệu
• Chọn lọc tự nhiên và nhân tạo (Natural and artificial selection).
* Đột biến cho dù là tự nhiên hay tự phát đều gây nên những biến đổi có khả năng di truyền ở một
số tính trạng của sinh vật. Đột biến có thể xảy ra ở dạng các đột biến thể nhiễm sắc (ở genom) được
nhắc đến ở phần đa bội và cũng còn được nhắc đến ở dạng các sai hình thể nhiễm sắc (Chromosome
Abberations) tức là các biến đổi trong một thể nhiễm sắc chứ không phải trong cả genom. Dạng thứ ba
nữa là các biến đổi xảy ra trong các gen gọi là đột biến gen. Các đột biến gen chính là nguồn tạo ra các
gen mới và là cơ sở của biến dị di truyền.
* Sự di trú muốn nói đến khả năng mà tần số gen trong một quần thể lớn có thể bị thay đổi bởi sự
có mặt của các gen từ một quần thể mới xâm nhập vào. Độ lớn của sự thay đổi phụ thuộc vào mức độ
của sự di trú và sự sai khác về tần số gen giữa các cá thể mới và các cá thể cũ.

* Quá trình tự động di truyền (phiêu bạt gen) gây nên biến đổi về tần số gen trong các quần
thể nhỏ. Quần thể nhỏ thường có số cá thể ít, giao phối ngẫu nhiên và tần số gen sau giao phối đôi
khi bị lệch vì các alen ở quần thể ban đầu có tần số khác với các quần thể lớn.
* Lai gần (Inbreeding). Để hiểu xem vì sao một quần thể nhỏ lại mang trong nó nguy cơ của sự
thoái hoá chính là phải xem xét quá trình mà người ta gọi là lai gần hay lai giống cận huyết
(Inbreeding). Đây là quá trình lai giống giữa các cá thể thân thuộc mà trường hợp cực đoan là tự thụ
phấn (ở thực vật) hoặc tự phối ở động vật. Lai gần làm giảm tỷ lệ dị hợp tử (heterozigosity) và tăng tỷ
lệ các đồng hợp tử (homozygote) có chứa các gen lặn. Sức sống giảm sút, lượng hạt giống giảm sút
thường là hậu quả của lai gần. Các quần thể thực vật hoang dại thường mang trong chúng nhiều dị hợp
tử cho nhiều gen lặn có hại, ngược lại lai gần tạo điều kiện để tăng tần số của các đồng hợp tử và gây
nên hậu quả nghiêm trọng. Franklin (1968, 1969) đã tự thụ phấn cho 132 cây thông Pinus taeda, thu
hạt tự thụ phấn và hạt thụ phấn tự do đem gieo ươm. Có tới 128 cây mẹ cho sản lượng hạt thấp (một số
cây hầu như không cho hạt) và sinh trưởng của hậu thế cũng kém hơn. Đôi khi, cây con tự thụ phấn
sinh trưởng kém hơn 50% so với cây con bình thường.
Bảng 1.4. Thoái hoá cận huyết ở chuột sau 30 thế hệ lai giống cận huyết
từ 1887 đến 1892 (Lerner, 1954)
NĂM TỶ LỆ GIAO PHỐI KHÔNG KẾT QUẢ SỐ LỨA ĐẺ TỶ LỆ CHẾT SAU 4 TUẦN
1887
1888
1889
1890
1891
1892
0
2,6
5,6
17,4
50,0
41,2
7,50

7,14
7,71
6,58
4,58
3,20
3,9
4,4
5,0
8,7
36,4
45,5
Bảng 1.5. Phần trăm biến dị di truyền còn lại sau 1, 5, 10 và 100 thế hệ
(Frankel and Soule, 1981)
Kích thước quần thể N 1 5 10 100 thế hệ
2 75 24 6 <<1
6 91,7 65 42 <<1
10 95 77 60 < 1
20 97,5 88 78 8
50 99 95 90 36
100 99,5 97,5 95 60
Biến dị di truyền bị giảm đi trong các thế hệ tiếp sau có cùng kích thước quần thể như đã được chỉ
rõ cho ruồi dấm (Drosophila) mà kích thước quần thể càng nhỏ thì mức độ giảm càng lớn (Frankel and
Soule, 1981).
7
* Kích thước quần thể hữu hiệu (Effective Population Size). Tại đây chúng ta cần tìm hiểu đến
một khái niệm mới, đó là kích thước quần thể hữu hiệu được Wright (1931) đưa ra lần đầu. Kích thước
quần thể hữu hiệu được định nghĩa là kích thước của quần thể lý tưởng có cùng đặc điểm với quần thể
hiện tại mà ta đang nghiên cứu. Mặc dù vậy quần thể lý tưởng có những yêu cầu sau:
• Sinh vật nhị bội,
• Sinh sản hữu tính,

• Các thế hệ không gối lên nhau,
• Nhiều quần thể độc lập, mỗi quần thể có kích thước ổn định là N,
• Giao phối ngẫu nhiên,
• Không đột biến, không di trú, không chọn lọc.
Để dễ hiểu, có thể thấy rằng nếu một quần thể chim quý hiếm nào đó chỉ còn toàn con đực, thì
kích thước hữu hiệu của nó bằng 0 vì chúng không còn khả năng sinh sản và tồn tại. Một trường hợp
khác là một quần thể gồm hàng nghìn cá thể già không thể sinh sản, cộng với 5 con cái và 5 con đực,
thì kích thước hiện tại của loài là 1010 cá thể còn kích thước hữu hiệu của nó chỉ là 10. Để bảo tồn,
không phải là cần duy trì toàn bộ quần thể với toàn bộ các cá thể của nó, mà chỉ cần duy trì kích thước
quần thể hữu hiệu là đủ và kích thước này thường thấp hơn so với kích thước thực tế. Những hiểu biết
cả về lý luận và thực tiễn về lĩnh vực này sẽ góp phần tích cực vào việc xây dựng chiến lược bảo tồn.
Các nhà sinh học (di truyền học) bảo tồn đã thử tìm xem kích thước hữu hiệu của quần thể nên là
bao nhiêu để một quần thể tránh được nguy cơ tuyệt chủng bởi tác dụng của suy thoái lai gần
(Inbreeding Depression). Người ta đưa ra nguyên lý 50 - 500 cho sự hợp lý của quần thể. Nguyên lý đó
nói rằng nếu quần thể có kích thước hữu hiệu giảm xuống dưới 50 cá thể và có gen hại trong quần thể,
suy thoái lai gần sẽ đủ lớn để làm giảm sức sinh trưởng của quần thể. Các nhà lai giống động vật
thường không cảm thấy bị đe dọa khi họ có một quần thể trên 50 con vật, song họ cảm thấy có vấn đề
khi số lượng giảm xuống dưới 50 con. Khi quần thể có kích thước hữu hiệu giảm xuống dưới 500 cá
thể, quá trình tự động di truyền đủ mạnh để loại bỏ một số gen và giảm biến dị của quần thể, trong khi
đó đột biến không đủ để bù vào mất mát đó. Thông qua các thế hệ kế tiếp nhau, suy thoái lai gần làm
giảm tuổi thọ của loài và giảm đa dạng di truyền, do vậy cần phải tránh khi làm công tác bảo tồn (chọn
quần thụ, xây dựng khu bảo tồn). Nói tóm lại, quần thể với 50 cá thể chỉ đủ tồn tại cho thời gian ngắn,
còn quần thể với 500 cá thể là tạm đủ để duy trì loài sống và mạnh khoẻ lâu dài.
* Chọn lọc tự nhiên: Biến dị di truyền là cơ sở vật chất của tiến hoá và công tác cải thiện giống.
Thông thường loài có phân bố rộng có lượng biến dị lớn và ngược lại, loài có phân bố hẹp có ít biến dị
hơn (Ledig, 1988) song nguyên tắc này không hoàn toàn đúng cho tất cả các loài. Biến đổi các vật liệu
di truyền trong một loài không những làm cho nó có thể tiến hoá qua chọn lọc tự nhiên, mà còn hữu
ích cả trong quá trình chọn lọc nhân tạo. Đa dạng di truyền là quan trọng và cần thiết đối với bất kỳ
một loài sinh vật nào để duy trì khả năng sinh sản hữu thụ, tính bền vững trước mọi yếu tố đe dọa. Đa
dạng di truyền cũng có vai trò quan trọng đến khả năng thích nghi của các cá thể trong loài với các

điều kiện sống luôn biến đổi.
1.1.4. Đa dạng loài
Định nghĩa loài, đa dạng loài và một số khái niệm khác
Loài (Species) theo định nghĩa của Mayr (1942, dẫn từ sách Ecology của Peter Stiling, 1998) là
“Groups of populations that can actually or potentially exchange genes with one another and that are
reproductively isolated from other such groups”, được dịch là “Nhóm các quần thể mà có thể trao
đổi trực tiếp hoặc tiềm năng di truyền cho nhau và cách ly sinh sản với các nhóm tương tự
khác”.
Đa dạng loài (Species Diversity) được Từ điển Đa dạng sinh học và Phát triển bền vững (Bộ Khoa
học Công nghệ và Môi trường, 2001) định nghĩa là số lượng và sự đa dạng của các loài được tìm thấy
trong một khu vực cụ thể trong một vùng.
Một thuật ngữ nữa cũng cần được quan tâm ở đây đó là độ giàu có loài (Species Richness) được
định nghĩa như là số lượng các loài có trong một vùng. Thuật ngữ này thường được dùng để đo độ đa
dạng loài. Khi có nhiều loài trong một vùng, tức là độ giàu có loài là lớn thì độ đa dạng loài cũng cao,
song lưu ý là một loài khác biệt hẳn với mọi loài khác sẽ đóng góp nhiều vào sự đa dạng hơn là một
loài có nhiều loài thân thuộc.
Loài là những nhóm cá thể khác biệt với các nhóm khác về mặt sinh học và sinh thái. Các cá thể
trong loài có vật chất di truyền giống nhau và có khả năng trao đổi thông tin di truyền (giao phối, giao
phấn) với nhau và cho các thế hệ con cái hữu thụ (có khả năng sinh sản tiếp tục). Như vậy, các cá thể
trong loài chứa toàn bộ thông tin di truyền của loài.
Phân loại học là khoa học nghiên cứu và sắp xếp các cơ thể sống. Mục đích của phân loại học hiện
đại là thiết lập một hệ thống về phân loại mà nó phản ánh sự tiến hoá của các nhóm loài từ tổ tiên của
nó. Bằng cách xác định mối quan hệ họ hàng giữa các loài, các nhà phân loại học giúp các nhà bảo tồn
sinh học xác định loài hoặc nhóm loài có thể tiến hoá theo một con đường duy nhất hoặc theo một cách
đặc biệt của những nỗ lực bảo tồn.
Trong phân loại học hiện đại, các Loài (Species) giống nhau được xếp vào Chi (Genus), các chi
có quan hệ họ hàng được xếp vào Họ (Family), các họ gần nhau được xếp vào Bộ (Order), các bộ có
giống nhau được xếp vào Lớp (Class), các lớp giống nhau được xếp vào Ngành (Phyllum), các
ngành giống nhau được xếp vào Giới (Kingdom).
Tên của loài được đặt theo hệ thống tên kép (Binomial nomenclature) gồm 2 từ, từ trước chỉ chi

(viết hoa chữ cái đầu), từ sau chỉ loài (viết thường). Trong nghiên cứu, tên một loài đầy đủ, ngoài tên
chi, loài, phải ghi kèm theo sau tên tác giả đặt tên cho loài đó và đôi khi cả năm định tên. Ví dụ loài
Khỉ cộc (Khỉ mặt đỏ) được ghi đầy đủ như sau: Macaca arctoides (Geoffroy, 1825) hoặc Lát hoa
Chukrasia tabularis Juss. Thang bậc phân loại cụ thể cho loài Khỉ cộc như sau:
Tên loài Khỉ cộc Macaca arctoides (Geoffroy, 1831)
Đơn vị phân loại Tên Việt Nam Tên khoa học
Giới (Kingdom) Động vật Animalia
Ngành (Phyllum) Động vật có xương sống Chordata
Lớp (Class) Thú Mammalia
Bộ (Order) Linh trưởng Primates
Họ (Family) Khỉ voọc Cercopithecidae
Chi (Genus) Khỉ Macaca
Loài (Species) Khỉ cộc Arctoides
Chúng ta cũng thấy một số loài có tên gồm 3 từ, ở đây từ thứ 3 chỉ một dạng biến đổi (về địa lý,
sinh thái ) của loài và được gọi là phân loài (hoặc loài phụ). Ví dụ loài Hổ Đông Dương được viết là
Panthera tigris corbetti Mazak, 1968.
Phương pháp phân loại thực vật cho đến nay vẫn chưa hoàn chỉnh và thống nhất. Nhìn chung,
người ta vẫn dựa chủ yếu vào cấu tạo hình dáng cơ thể và trình độ hoàn thiện của cấu tạo mà đơn giản
chia thế giới thực vật thành hai loại lớn là: thực vật bậc thấp và thực vật bậc cao.
Thực vật bậc thấp bao gồm các cá thể đơn bào hoặc đa bào hình lá mà không có sự phân hoá thành
thân, rễ, lá riêng biệt và chủ yếu sống trong nước. Thực vật bậc thấp thường được chia thành 3 nhóm là
nhóm tảo (rong), nấm và địa y (cộng sinh tảo và nấm). Chúng còn được phân thành 12 ngành là:
9
Ngành Tảo lục : Chlorophyta,
Ngành Tảo trần : Euglenophyta,
Ngành Tảo vàng : Charophyta,
Ngành Tảo vàng : Chrysophyta,
Ngành Tảo vỏ : Pyrrophyta,
Ngành Tảo nâu : Phaeophyta,
Ngành Tảo đỏ : Rhodophyta,

Ngành Tảo lam : Cyanophyta,
Ngành Nấm sợi : Bacteromycetes,
Ngành Nấm nhầy : Myxomycetes,
Ngành Nấm thật : Eumycetes,
Ngành Địa y : Lichenes.
Thực vật bậc cao có cấu trúc phức tạp hơn: đã phân hoá thành các cơ quan dinh dưỡng (thân, lá,
rễ) và cơ quan sinh sản. Chúng được chia thành 3 ngành lớn là:
Ngành Rêu : Bryophyta,
Ngành Dương xỉ : Pteridophyta,
Ngành Cây có hạt : Spermatophyta.
Dưới ngành còn chia thành nhiều đơn vị phân loại như sau:
Ngành (Phyllum): Cây có hạt (Spermatophyta),
Ngành phụ: Cây hạt kín (Angiospermae),
Ngành phụ: Cây hạt trần (Gymnospermae),
Lớp (Class): Hai lá mầm (Dicotyledones),
Lớp (Class): Một lá mầm (Monocotyledones),
Bộ (Order): Hoa hồng (Rosales),
Họ (Family): Hoa hồng (Rosaceae),
Chi (Genus): Hoa hồng (Rosa),
Loài (Species): Hoa hồng hương (Rosa chinensis).
Tiến hoá và sự hình thành loài
Sự đa dạng về loài trên thế giới được biểu hiện bằng tổng số loài có trên toàn cầu trong các nhóm
đơn vị phân loại. Hoá sinh học và cổ sinh học đã chứng minh được rằng sự sống trên Trái đất xuất hiện
cách đây khoảng trên dưới 4 tỷ năm với các tế bào nhân giả (Prokariotes) và 2,5 tỷ năm với các tế bào
nhân thực (Eukariotes) và từ một loài gốc. Trải qua chặng đường thời gian đó, thế giới sinh vật đã hình
thành hàng triệu loài như ngày nay.
Mới đây, chúng ta biết được thêm nhiều loài có phân bố cách xa nhau, không rõ cách ly sinh sản
của chúng là do khoảng cách hay do cơ chế cách ly (Donoghue, 1985). Do vậy, loài được phân biệt
không phải do cách ly sinh sản như Mayr (1942) định nghĩa mà chủ yếu do các tiêu chuẩn hình thái và
khái niệm này được gọi là khái niệm loài sinh học (Biological Species Concept - BSC) mà theo nó

hiện có khoảng từ 5 đến 30 triệu loài đang tồn tại trên Trái đất (Wilson, 1988). Một khái niệm khác là
khái niệm loài theo phát sinh chủng loại (Phylogenetic Species Concept - PSC). Như vậy, loài phụ
thuộc vào sự tách nhánh, mối quan hệ giữa các loài hay các taxon cao hơn.
Mayr là một nhà điểu học và định nghĩa của ông thích hợp cho các loài chim vì chúng sinh sản
khác biệt nhau. Song đối với các loài thực vật, các cây lai khác loài đôi khi cũng có khả năng tồn tại và
như vậy nó gây phiền toái cho định nghĩa loài. Thí dụ như các loài sồi, chúng có thể tạo nên cây lai,
cây lai có khả năng tồn tại và lại tạo ra cây lai với các loài khác, vậy có thể gọi các loài bố mẹ là loài
hay không?
Hiện có hai cách giải thích cho sự hình thành loài: sự hình thành loài khác vùng phân bố và hình
thành loài cùng vùng phân bố:
A. Sự hình thành loài khác vùng phân bố (Allopatric speciation)
Phần lớn các nhà bảo tồn coi sự hình thành loài khác vùng phân bố là cơ chế chủ yếu cho sự tiến
hoá của loài (Mayr 1942, 1963). Quá trình này gồm sự chia tách của các quần thể bởi các ngăn cách
địa lý. Thí dụ như các quần thể không biết bơi bị chia tách bởi một con sông sẽ dần dần khác nhau bởi
không có sự trao đổi gen giữa chúng. Các quần thể còn bị chia tách bởi các ngọn núi và từ đó các loài
hình thành. Trong một vùng có diện tích 20 x 5 dặm ở Hawaii, có đến 26 loài phụ của loài ốc sên
Achatinella mustelina đã được ghi nhận, mỗi loài phụ chiếm cứ một thung lũng bị chia tách bởi các
vách núi. Thí dụ hay nhất có lẽ là sự chia tách các loài trên các đảo khỏi đất liền và chúng được phân
biệt bởi các đặc điểm ngoại hình, sinh thái và hành vi. Trên quần đảo Galapagos, có thể thấy các con
chim hoàng tước của Đác-uyn đã hình thành các loài khác nhau mạnh mẽ như thế nào.
B. Sự hình thành loài cùng vùng phân bố (Sympatric speciation)
Đây là sự xuất hiện của một loài mới trên cùng vùng địa lý với các thành viên khác của loài cũ.
Những biến đổi nhỏ về hình thái hay hành vi trong một nhóm đều có thể được chuyển cho các nhóm
khác. Nếu có một đột biến hay biến đổi thể nhiễm sắc về cách ly sinh sản thì cá thể mang nó sẽ bị cách
ly với các cá thể khác về sinh sản. Trên một cá thể khác giới tính cũng xảy ra điều tương tự và hai cá
thể đó gặp nhau thì đó là cơ sở để tạo nên loài mới. Lai gần cũng góp phần vào hiện tượng này và do
vậy hình thành loài cùng vùng phân bố đã được đề xuất cho một số nhóm côn trùng. Côn trùng ước
tính bao gồm khoảng 30 triệu loài (Erwin 1982) nên đôi khi khó tưởng tượng rằng chúng đều đã được
hình thành khác vùng địa lý. Đối với côn trùng, nhiều loài thân cận có các cây chủ khác biệt và điều đó
chứng tỏ chúng được hình thành bằng cơ chế này. Lưu ý phần lớn các mô hình của hình thành loài

cùng vùng phân bố còn đang trong tranh cãi.
Thực tế nhiều quần thể bị cách ly hàng nghìn thế hệ ở thời băng hà Pleistocence đã không hình
thành nên loài mới. Cây Sung dâu (Plantanus sp.) ở châu Mỹ và Á - Âu đã cách ly nhau suốt ít nhất 20
triệu năm mà vẫn tạo nên cây lai hữu thụ (Stebbins 1950), chứng tỏ các áp lực chọn lọc ở hai châu lục
này chưa đủ để tạo ra cách ly sinh sản. Nhưng một số chi thú như gấu Bắc Cực (Thalarctos) và chuột
(Microtus), lại như được bắt nguồn mới đây ở Pleistocene (Stanley 1979). Nhiều loài ruồi giấm Hawaii
(Drosophila) đã chỉ xuất hiện trong khoảng mấy nghìn năm mặc dù tuổi thế hệ của chúng ngắn hơn
nhiều so với các loài thú. Hồ Nabugalo ở châu Phi cách ly khỏi Hồ Victoria dưới 4000 nghìn năm mà
có chứa 5 loài cá đặc hữu (Fryer and Iles 1972). Hồ Victoria chỉ 500.000 đến 700.000 tuổi mà có đến
170 loài cá cichlid. Cũng vậy ở Hawaii, có ít nhất 5 loài Hedylepta sống trên chuối mà chúng chỉ được
đưa đến đây theo những người Pôlinêdi khoảng vài nghìn năm trước.
Đa dạng di truyền hiện nay chưa định lượng được song đa dạng loài đã được xác định tuy chưa
hoàn toàn cụ thể. Hiện nay có khoảng trên 1,4 triệu loài sinh vật đã được mô tả (Bảng 6). Các nhà
phân loại học dự đoán có thể có từ 5 triệu đến 30 triệu loài sinh vật trên Trái đất trong đó phần lớn là
vi sinh vật và côn trùng (Wilson, 1988). Nhiều loài vi sinh vật và côn trùng chưa được mô tả tỉ mỉ.
Chỉ mới có các loài thực vật, động vật kích thước lớn, có giá trị kinh tế cao hoặc có sức hấp dẫn về
vẻ đẹp là đã được mô tả chi tiết. Những việc làm như vậy tuy cần thiết nhưng nó đã đánh giá thấp
tầm quan trọng của các vi sinh vật vì nhiều loài vi sinh vật như tảo, vi khuẩn, nấm và virus có ý
nghĩa thực sự đối với sự sống trên Trái đất.
11
Bảng 1.6. Số loài sinh vật đã được mô tả trên thế giới (Wilson, 1988) (Có bổ sung)
Nhóm Số loài đã mô tả Nhóm Số loài đã mô tả
Virus 1.000 Đ.v. đơn bào 30.800
Thực vật đơn bào 4.760 Côn trùng 751.000
Nấm 70.000 Đ.v.k.x.s. khác * 238.761
Tảo 26.900 Đ.v.c.x.s. thấp ** 1.273
Địa y 18.000 Cá 19.056
Rêu 22.000 Ếch nhái 4.184
Dương xỉ 12.000 Bò sát 6.300
Hạt trần 750 Chim 9.040

Hạt kín 250.000 Thú 4.629
405.410 1.065.043
1.470.453
* Đ.v.k.x.s: động vật không xương sống
** Đ.v.c.x.s: động vật có xương sống.
Qua bảng 1.6 thì cho đến nay mới chỉ có khoảng 3-5% các loài vi sinh vật đã được mô tả. Người ta
cũng nhận biết một thực tế rằng sự tồn tại của nhiều sinh vật lớn phụ thuộc vào các vi sinh vật. San hô
không thể tồn tại nếu không có tảo. Nhiều loài nấm và vi sinh vật đất là nhân tố quan trọng đối với
việc duy trì cấu trúc và thành phần của đất qua phân huỷ các phức hợp hữu cơ từ xác động thực vật.
Trong nghiên cứu đa dạng sinh học, việc mô tả qui mô của đa dạng loài là rất quan trọng. Robert
Whittaker (1972) đã sử dụng một hệ thống 3 bậc đơn giản mô tả quy mô của đa dạng loài, cụ thể là:
Đa dạng alpha (α): Đa dạng alpha là tính đa dạng xuất hiện trong một sinh cảnh hoặc trong một
quần xã. Ví dụ: Sự đa dạng của các loài chim trong một kiểu rừng đặc trưng hoặc sự đa dạng của các
loài cá trong một cái hồ riêng biệt.
Đa dạng beta (β): Đa dạng beta là sự đa dạng tồn tại trong vùng giáp ranh giữa các sinh cảnh
hoặc quần xã. Ví dụ: Sự đa dạng của các loài chim trong hai rừng gần kề khác kiểu.
Đa dạng gamma (γ): Đa dạng gamma là sự đa dạng tồn tại trong một quy mô địa lý. Ví dụ: Các
loài chim xuất hiện trong một vài khu rừng cách xa nhau nhiều ki lô mét (km).
Nghiên cứu đa dạng α, β và γ có ý nghĩa quan trọng đối với việc xem xét quy mô khi thiết lập
những ưu tiên cho bảo tồn và ra các quyết định quản lý.
Sự đa dạng về loài đã tạo cho các quần xã sinh vật khả năng phản ứng và thích nghi tốt hơn đối với
những thay đổi của điều kiện ngoại cảnh. Chức năng sinh thái của một loài có ảnh hưởng trực tiếp đến
cấu trúc của quần xã sinh vật và bao trùm hơn là lên cả hệ sinh thái. Sự có mặt của một loài cây gỗ
(Sung, Si, Dẻ ) không chỉ tăng thêm tính đa dạng của quần xã sinh vật mà còn góp phần làm tăng tính
ổn định của chúng vì có nhiều loài sinh vật khác phụ thuộc vào những loài cây này, đó là nguồn thức
ăn cho chúng (Khỉ vượn, sóc, Cầy vòi mốc, Cầy vòi hương, Cu rốc, Hồng hoàng ) hoặc các loài cây
này phát triển hay mở rộng vùng phân bố được nhờ các loài khác (thụ phấn, phát tán hạt ).
1.1.5. Đa dạng hệ sinh thái
Quần xã sinh học được xác định bởi các loài sinh vật trong một sinh cảnh nhất định cùng các
mối quan hệ qua lại giữa các cá thể trong loài, và giữa các loài với nhau. Quần xã sinh học cũng

quan hệ với môi trường vật lý tạo thành một hệ sinh thái. Hệ sinh thái là một đơn vị cấu trúc và
chức năng của sinh quyển, gồm: các quần xã thực vật, các quần xã động vật, các quần xã vi sinh
vật, thổ nhưỡng (đất) và các yếu tố khí hậu. Các thành phần này liên hệ với nhau thông qua các
chu trình vật chất và năng lượng (Chu trình sinh địa hoá).
Sự phong phú về môi trường trên cạn và dưới nước của Trái đất đã tạo nên một số lượng lớn các
hệ sinh thái. Sự đa dạng các hệ sinh thái được phản ánh bởi sự đa dạng về sinh cảnh qua mối quan hệ
giữa các quần xã sinh vật và các quá trình sinh thái trong sinh quyển (chu trình vật chất, các quan hệ về
cách sống ). Mối quan hệ chức năng trong bản thân mỗi quần xã sinh vật, quan hệ giữa các quần xã
với nhau và với môi trường vô cơ là rất phức tạp và đó chính là cơ chế của những quá trình sinh thái
chủ yếu như chu trình tuần hoàn nước, chu trình phốt pho, quá trình hình thành đất, chu trình năng
lượng
Việc phân chia hệ sinh thái hay sinh cảnh trên thực tế là rất khó khăn vì ranh giới của chúng không
rõ ràng. Những sinh cảnh rộng lớn trên quả đất bao gồm rừng nhiệt đới, những cánh đồng cỏ, đất ngập
nước, rừng ngập mặn Những hệ sinh thái nhỏ cũng có thể xác định như là một hồ nước và thậm chí
là một gốc cây.
Theo Miklos Udvardy (xem Walters and Hamilton, 1993) thì trên thế giới bao gồm nhiều chính
thể sinh vật. Sự phân chia đó tuỳ thuộc vào điều kiện khí hậu và các sinh vật sống trên đó. Một
chính thể bao gồm nhiều hệ sinh thái khác nhau và gồm:
1. Rừng mưa nhiệt đới 8. Đầm rêu (Tundra) và sa mạc
2. Rừng mưa á nhiệt đới-ôn đới 9. Sa mạc, bán sa mạc lạnh
3. Rừng lá kim ôn đới 10. Trảng cỏ và đồng cỏ nhiệt đới
4. Rừng khô nhiệt đới 11. Đồng cỏ ôn đới
5. Rừng lá rộng ôn đới 12. Thảm thực vật vùng núi
6. Thảm thực vật Địa Trung Hải 13. Thảm thực vật vùng đảo
7. Sa mạc và bán sa mạc ẩm 14. Thảm thực vật vùng hồ
Các quần xã sinh học chính của Trái đất
Môi trường vật lý có ảnh hưởng đến cấu trúc và tính chất của quần xã sinh học, ngược lại quần
xã sinh học cũng có những ảnh hưởng đến tính chất vật lý của hệ sinh thái. Ví dụ ở các hệ sinh thái
trên cạn, tốc độ gió, độ ẩm, nhiệt độ ở một địa điểm nhất định có thể bị chi phối bởi thảm thực vật,
hệ động vật có mặt ở đó. Trong hệ sinh thái thủy vực, những đặc điểm của nước như độ trong, độ

đục, độ muối và các loại hoá chất khác, độ nông sâu đã chi phối đến tổ thành các loài sinh vật và cấu
trúc quần xã sinh học. Nhưng ngược lại, các quần xã sinh học như quần xã Tảo bẹ, rạn San Hô cũng
ảnh hưởng đến môi trường vật lý.
Trong một quần xã sinh vật, mỗi loài cần và tạo cho mình một tập hợp nhất định các loài sinh vật
khác quanh nó, ta gọi đó là ổ sinh thái (niche) của loài. Ổ sinh thái của một loài thực vật có thể bao
gồm một dạng đất cùng với các điều kiện sống khác như: năng lượng ánh sáng nhận được, độ ẩm cần
thiết, hệ thống giao phấn và cơ chế phát tán hạt giống. Ổ sinh thái của một loài động vật có thể bao
gồm khoảng không gian chiếm cứ, các loài thức ăn được sử dụng trong năm, nước uống và nhu cầu
hang, hốc trú ẩn. Ổ sinh thái của một loài là khoảng không gian, nơi mà loài tồn tại trong tự nhiên và
không bị cạnh tranh gay gắt bởi các loài khác. Ổ sinh thái của một loài thường bao gồm cả một giai
đoạn diễn thế mà loài chiếm cứ (Diễn thế là một quá trình thay đổi dần dần về thành phần loài, cấu trúc
quần xã và tính chất vật lý được xuất hiện tiếp sau đó do những biến đổi tự nhiên hoặc nhân tạo đối với
quần xã). Như vậy, số lượng loài của một hệ sinh thái nào đó cũng thường xuyên biến đổi theo thời
gian. Nghiên cứu đa dạng sinh học cũng được tiến hành ở các mức độ khác nhau, từ một hệ sinh thái
đến toàn bộ một khu vực chứa đựng nhiều hệ sinh thái. Các khu vực chứa đựng nhiều hệ sinh thái khác
nhau thường giàu có về đa dạng sinh học nhưng không giàu về loài đặc hữu. Ngược lại, những hệ sinh
thái riêng biệt có thể có tính đa dạng sinh học thấp nhưng thường chứa đựng nhiều loài đặc hữu.
13
Trong những quần xã sinh học, có một số loài có vai trò quyết định khả năng tồn tại phát triển của
một số lớn các loài khác, người ta gọi đó là những loài chủ yếu. Những loài chủ yếu này có ảnh hưởng
quan trọng đến cấu trúc quần xã nhiều hơn so với tổng số cá thể của các loài hay sinh khối của chúng
(Terborgh, 1976). Bảo tồn những loài chủ yếu phải là giải pháp ưu tiên hàng đầu cho mọi nỗ lực bảo
tồn thiên nhiên vì nếu như loài chủ yếu bị mất đi sẽ kéo theo hàng loạt các loài lệ thuộc khác cũng bị
mất theo. Các loài thú săn mồi thuộc các bậc dinh dưỡng cuối cùng trong chuỗi và lưới thức ăn thường
là những loài chủ yếu vì chúng có vai trò quan trọng trong việc kiểm soát số lượng quần thể của những
loài thức ăn đứng trước nó, đặc biệt là động vật ăn cỏ (Redforf, 1992). Sự suy giảm, dù chỉ là một ít số
lượng các loài thú ăn thịt ở các bậc cuối của lưới thức ăn có thể sẽ gây ra những biến đổi lớn của các
bậc tháp dinh dưỡng trong lưới thức ăn đó do thiếu lực lượng kiểm soát sự bùng phát số lượng. Ví dụ,
số lượng chim ăn côn trùng trong một vườn quả bị giảm, lượng côn trùng sẽ có cơ hội bùng phát số
lượng và hậu quả là vườn quả bị bọn côn trùng này phá hoại.

1.2. NHỮNG VÙNG GIÀU TÍNH ĐA DẠNG SINH HỌC
Giàu tính đa dạng sinh học nhất là vùng nhiệt đới và tập chung chủ yếu là ở rừng nhiệt đới, rạn san
hô nhiệt đới và biển sâu nhiệt đới. Rừng nhiệt đới tuy chỉ chiếm 7% diện tích bề mặt Trái đất nhưng
chúng chứa ít nhất là 50% thậm chí đến 90% tổng số loài động thực vật của Trái đất (McNeely et al,
1990).
Về thực vật, đến nay đã biết có 90.000 loài có mặt ở vùng nhiệt đới, trong lúc toàn bộ Bắc Mỹ và
Âu Á chỉ có 50.000 loài. Vùng nhiệt đới Nam Mỹ là nơi giàu loài nhất, chiếm 1/3 tổng số loài toàn thế
giới. Brazin có 55.000 loài cây có hoa, Colombia 35.000 và Venezuela 15-25.000 loài. Sự đa dạng loài
ở châu Phi thấp hơn Nam Mỹ có thể là do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu trong quá khứ. Vùng giàu
loài nhất của châu Phi là Tandania: 10.000 loài, Cameroon: 8.000 loài.
Bảng 1.7. Đa dạng loài thú ở một số nước thuộc các vùng địa lý khác nhau
Nước nhiệt đới Diện tích km
2
Số loài Nước ôn đới Diện tích km
2
Số loài
Mexico 1.958.200 439 Achentina 2.800.000 255
Kenya 582.600 308 Australia 7.700.000 299
Zaire 2.345.000 409 Canada 10.000.000 163
Nigeria 923.800 274 Pháp 551.600 113
Thái Lan 514.000 263 Nhật Bản 372.200 186
Malaysia 333.000 292 Anh 244.100 77
Việt Nam 330.541 224 Mỹ 9.373.000 367
Trung bình 3,16 loài/km
2
Trung bình 0,47 loài/km
2
Đông Nam Á là vùng trung gian giữa Châu Phi và Nam Mỹ; Vùng Malêsia có ít nhất là 40.000
loài thực vật, trong đó có 15-20.000 loài ở New Guinea, Indonesia có 20.000 loài, Malaysia và Thái
Lan mỗi nước có khoảng 18.000 loài và Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia) có tới 15.000 loài.

Mặt khác, trên lục địa, sự giàu có về loài có xu hướng tập trung ở vùng đất có độ cao so với mặt
biển không lớn (vùng đất thấp) và có nhiều mưa. Vùng địa lý cổ và nơi có địa hình phức tạp cũng là
nơi tập trung nhiều loài.
Các quốc gia có sự đa dạng lớn - Megadiverse countries
Mười hai (12) quốc gia được xếp vào các nước có sự đa dạng lớn đó là: Brazin, Colombia,
Ecuador, Mexico, Pêru, Zaire (Cônggô), Madagascar, India, Trung Quốc, Malaysia, Indonesia,
Australia. Các quốc gia này chiếm tới 60 - 70% tổng số loài sinh vật sống trên Trái đất. Hai tiêu chí để
chọn các quốc gia có sự đa dạng lớn này là:
(i) Bản thân quốc gia đó có số lượng loài lớn,
(ii) Có mức độ đặc hữu cao về loài và các taxon cao hơn.
Bảng 1.8. Sự giàu có về loài và mức độ đặc hữu ở Mexico (Sarukhan et al., 1996)
Taxon Toàn thế giới Mexico % so với thế giới Tỷ lệ đặc hữu %
Thực vật có hoa 250.000 22.000 10 52
Động vật lưỡng cư 4.000 284 7 60
Bò sát 6.550 717 11 51
Chim 9.672 961 10 9
Thú 4.327 439 10 31
Cá nước ngọt 8.411 347 4 23
Bảng 1.9. Sự giàu có về loài và mức độ đặc hữu ở Australia
(Burgman and Lindenmayer, 1998)
Taxon Toàn thế giới Australia % so với thế giới Tỷ lệ đặc hữu %
Thực vật có mạch 250.000 25.000 10 85
Động vật lưỡng cư 4.000 174 4 93
Bò sát 6.550 700 11 89
Chim 9.672 850 9 45
Thú có túi 140 52 90
Thú 4.327 276 6 84
Cá 3.600 Hầu hết
Nguyên nhân nào dẫn đến phân bố khác nhau về tính đa dạng loài theo vùng địa lý và tại sao ở
vùng nhiệt đới lại nhiều loài hiện vẫn còn là vấn đề tranh luận. Một số thuyết thống nhất giải thích như

sau:
- Trong suốt thời gian biến đổi địa chất, vùng nhiệt đới có khí hậu tương đối ổn định hơn các vùng
ôn đới. Tại vùng nhiệt đới, nhiều loài có thể đảm bảo cuộc sống tại chỗ, trong khi đó ở các vùng ôn đới
phải di tản từ Bắc xuống Nam để tránh rét sau đó lại trở về qua các thời kỳ băng giá. Chỉ có những loài
có khả năng di cư và cạnh tranh được trong cộng đồng các quần xã sinh vật thì mới tồn tại;
- Các quần xã sinh vật nhiệt đới được hình thành từ lâu hơn các quần xã sinh vật ôn đới. Chính
nhờ có thời gian lâu hơn đó, nên các loài có sự tiến hoá thích nghi cao, loài mới hình thành thích nghi
với điều kiện sống tại chỗ. Thời kỳ tiến hoá dài cho phép loài thích nghi và chuyên hoá cao với vùng
nhiệt đới;
- Nhiệt độ, ẩm độ cao ở các vùng nhiệt đới đã tạo điều kiện thuận lợi cho những loài mà chúng
không thể tồn tại ở vùng ôn đới di chuyển và định cư tại vùng nhiệt đới. Những loài sống ở vùng ôn
đới phải có những cơ chế sinh lý để chịu đựng được băng tuyết lạnh. Những loài này có thể có những
tập tính chuyên hoá như ngủ đông, trú đông, di cư để tồn tại qua mùa đông;
- Ở vùng nhiệt đới có thể có nhiều áp lực của bệnh tật, ký sinh, song không có mùa đông lạnh làm
giảm kích thước quần thể. Có thể những quần thể sinh vật hiện tại bị bọn gây hại cản trở nhưng chúng
15
vẫn có cơ hội để cùng tồn tại trong một tổ hợp có nhiều quần thể sinh vật, tuy mật độ của chúng thấp.
Chính vì vậy, ở vùng nhiệt đới có tính đa dạng cao nhưng mật độ quần thể thấp. Ngược lại, ở vùng ôn
đới áp lực của bọn gây hại thường giảm về mùa đông đã cho phép các loài ưu thế phát triển mạnh về
số lượng.
- Trong các loài thực vật, tỷ lệ giao phấn của các loài thực vật nhiệt đới thường cao hơn các loài
thực vật vùng ôn đới (Bawa, 1992). Tỷ lệ giao phấn cao có thể làm tăng tính đa dạng di truyền, tăng
mức độ thích nghi và chuyên hoá.
- Vùng nhiệt đới tiếp nhận nhiều năng lượng mặt trời trong năm hơn vùng ôn đới. Kết quả là nhiều
quần xã sinh vật nhiệt đới có sức sản xuất sinh khối cao hơn các quần xã sinh vật vùng ôn đới. Chính
sức sản xuất sinh khối cao đã cung cấp yêu cầu cần thiết cho sự phân bố của các loài.
1.3. VAI TRÒ CỦA THẾ GIỚI SINH VẬT
1.3.1. Thực vật - cơ sở của sự sống
Thực vật có mặt ở khắp mọi nơi trên Trái đất làm cho con người đôi khi không nhận ra rằng nếu
thiếu thực vật thì thế giới sẽ không thể nào tồn tại được bởi vì thực vật là cơ sở của sự sống. Thực vật

tạo nên mọi thứ vật chất cần thiết cho cuộc sống của con người và các sinh vật khác, từ cái ăn, cái mặc,
đồ dùng, nguyên nhiên vật liệu đến bổ sung nguồn ô-xy liên tục, đó là chưa kể đến vai trò làm đẹp
cảnh quan, môi trường mà càng ngày chúng ta càng thấy nó quan trọng nhiều thêm.
Thực vật và quang hợp tạo vật chất hữu cơ. Từ năng lượng Mặt trời thông qua quá trình quang
hợp, thực vật lấy nước (H
2
O), khoáng chất và khí các-bô-níc (CO
2
) để tạo ra vật chất hữu cơ và khí ô-
xy là nguồn sống cơ bản của mọi sinh vật trên Trái đất. Nguồn thức ăn dành cho động vật trong các hệ
sinh thái chính là năng lượng mà cây xanh tạo nên từ quang hợp, trừ đi năng lượng mà bản thân cây
xanh sử dụng cho chính sự sống của chúng. Dưới con mắt của các nhà sinh thái học, đó được gọi là
tổng sản xuất nguyên thuỷ (NPP - Net Primary Production) đạt khoảng 225 tỷ tấn vật chất hữu cơ mỗi
năm, trong đó có 60% được tạo ra trên lục địa. Qua việc sử dụng trực tiếp như ăn, uống, chăn nuôi gia
súc, sử dụng gỗ củi v.v. nhân loại hiện dùng khoảng 3% NPP toàn cầu hoặc 4% NPP trên lục địa. Đây
có lẽ được coi là mức ảnh hưởng tối thiểu của con người lên các hệ sinh thái lục địa.
Con người còn sử dụng NPP theo con đường gián tiếp, đó là lượng sinh khối mất đi khi đốt phá
rừng, phần của các cây trồng không được tiêu thụ, phần đồng cỏ không được dùng cho chăn nuôi v.v.
Từ đó người ta ước tính là nhân loại đã góp phần tiêu thụ 30% NPP trên lục địa. Ngoài ra, nếu tính đến
việc con người làm giảm dần sức sản xuất của đất khi biến rừng thành đất trồng trọt hoặc đồng cỏ, biến
đồng cỏ thành hoang mạc v.v. thì con người đã làm giảm 13% NPP tiềm năng trên lục địa và như vậy
mức tiêu thụ của nhân loại là 40% NPP tiềm năng. Đánh giá này quả thật không thể tưởng tượng được
khi chỉ một loài duy nhất là con người đã tham gia vào lựa chọn và quyết định 2 phần 5 lượng thức ăn
hàng năm của Trái đất. Sang thế kỷ tới, dân số Trái đất tăng gấp đôi, lượng tiêu thụ trực tiếp và gián
tiếp của con người sẽ tiến tới 80% NPP lục địa, chắc chắn sẽ là một hiểm hoạ khó lường về mặt sinh
thái (Ehrlich, 1988).
Ưu thế tuyệt vời mà thế giới thực vật có được đó chính là khả năng tổng hợp năng lượng dưới ánh
sáng Mặt trời tạo ra vật chất hữu cơ làm nguồn sống duy nhất cho toàn bộ sinh giới, trong đó có cả con
người. Đôi khi chúng ta nói rằng con người không thể sống bằng không khí và nước lã, song nếu xét
về khía cạnh khoa học thì lại hoàn toàn có thể, bởi vì toàn bộ sinh khối mà thế giới thực vật tạo ra lại

bắt nguồn từ lượng khí CO
2
hiện chỉ chiếm có một phần nhỏ thể tích khí quyển. Nếu xét về khả năng
hấp thụ CO
2
của các hệ sinh thái rừng khác nhau thì có thể thấy là rừng mưa nhiệt đới cố định được
9,90 tấn C/ha/năm; tiếp đến là rừng nhiệt đới theo mùa (7,20 tấn), rừng thường xanh ôn đới ấm (5,85
tấn), rừng rụng lá ôn đới lạnh (5,40 tấn) và cuối cùng là rừng bắc cực chỉ đạt 3,60 tấn C/ha/năm.
Bảng 1. 10. Một số loài cây và dược chất quan trọng được chiết xuất
Loài cây Dược chất Công dụng
Artemisia annua Artemisin Chống sốt rét
Catharanthus roseus Vinblastine, Vincristine Chống ung thư
Cinchona ledgeriana Quinine Chống sốt rét
Colchicum autumnale Colchicine Chống ung thư
Crotalaria sessiliflora Monocrotaline Chống ung thư
Digitalis purpurea Digitoxin Kích thích tim
Heliotropium indicum Indicine N-oxide Chống ung thư (máu trắng)
Berberis vulgaris Berberine Kháng khuẩn
Daphne genkwa Yuanhuacine Phá thai
Vinca minor Vincamine Kích thích não
Papaver somniferum Morphine, Codaine Giảm đau
Rauvolfia serpentina Reserpine Giảm cao huyết áp
Strychnos nux-vomica Strychnine Kích thích thần kinh trung ương
Taxus brevifolia Taxol Chống ung thư
Thực vật và quang hợp giải phóng ô-xy. Bầu khí quyển của Trái đất có chứa khoảng 21% khí ô-
xy, một thứ khí không thể thiếu được đối với động vật và con người. Trước đây trên 2 tỷ năm, bầu khí
quyển chưa có khí ô-xy, cho tới 2 tỷ năm trước, lần đầu tiên xuất hiện các sinh vật có khả năng quang
hợp thải ra khí ô-xy. Khoảng 600 triệu năm trước đây, nồng độ ô-xy đạt khoảng 1%, tăng lên 10% vào
giai đoạn cách đây 400 triệu năm và lên 21% cách đây 300 triệu năm và cứ thế ổn định cho đến ngày
nay. Có như vậy các động vật bậc cao, thú và cả con người mới dần dần xuất hiện. Động vật và vi

khuẩn hút khí ô-xy và thở ra khí các-bô-níc, do vậy trên Trái đất tồn tại sự cân bằng tương đối.
Với phần đông của nhân loại, con người có thể nhịn ăn, nhịn uống trong một vài ngày, song không
thể sống thiếu thở, thiếu khí ô-xy quá 10 phút. Ô-xy là nhu cầu số một của hoạt động sống của tất cả
chúng ta. Một người trưởng thành bình thường mỗi ngày hít thở trên 20.000 lần, hít vào 700 g ô-xy và
thở ra 900 g các-bô-níc. Thực vật chính là những nhà máy sản xuất khí ô-xy tự nhiên. Có người đã tính
rằng mỗi ha rừng lá rộng trong mùa sinh trưởng có thể tạo ra 750 kg ô-xy và thu nạp 1000 kg các-bô-
níc. Nếu vì một lý do nào đó mà thế giới thực vật bị biến mất, lượng ô-xy trên Trái đất chỉ đủ dùng
trong khoảng 500 năm là cạn sạch.
1.3.2. Dây chuyền thức ăn và quá trình tiến hoá
Mỗi một môi trường sống đều có một tổ hợp thực vật và động vật cùng chung sống. Chúng gắn
với nhau trong một dây chuyền thức ăn mà mất một loài này sẽ làm tăng con số của một loài thay thế
khác. Mất nhiều loài sẽ làm cho toàn bộ hệ sinh thái biến đổi, suy giảm và tàn kiệt. Sức sản xuất của hệ
sinh thái giảm, thảm thực vật bị tiêu diệt dần, kéo theo nó là sự biến mất của các loài động vật. Phải
mất một thời gian khá dài để cho một số loài mới chiếm dần vị trí thay thế trong môi trường thoái hoá,
xuất hiện một tổ hợp mới của các loài mới: một hệ thực vật và hệ động vật mới. Nhưng điều kiện quan
trọng của quá trình này là: thời gian và sự có mặt của các loài sinh vật (kể cả thực vật và động vật) đủ
17
để phục hồi lại thế giới đã mất. Như vậy, đa dạng sinh học là chìa khoá của thành công, chìa khoá của
sự duy trì toàn bộ thế giới. Khi một vùng nhỏ bị thiên tai phá huỷ, sự sống lại mau chóng quay trở lại
vì sự đa dạng vẫn còn tồn tại đủ ở xung quanh. Sự sống đã tiến hoá như vậy suốt hàng tỷ năm qua để
tạo ra thế giới và tạo ra chính con người.
Sự sống trên Trái đất chỉ sử dụng 10% năng lượng Mặt trời đến được bề mặt Trái đất, đó là phần
được thực vật dùng vào quá trình quang hợp. Lượng năng lượng này được chuyển qua dây chuyền
thức ăn: trước hết vào các loại sâu và côn trùng ăn thực vật, vi sinh vật, sau đó một phần nhỏ năng
lượng được chuyển vào các động vật ăn thịt cho đến bậc thang tận cùng của dây chuyền thức ăn là diều
hâu, hổ, cá voi trắng v.v. có số lượng ít và trọng lượng lớn hơn. Đây là các loài chỉ được hưởng một
phần rất nhỏ năng lượng sẵn có của Trái đất và luôn luôn đứng trước đe dọa tuyệt chủng, bởi vì khi hệ
sinh thái bị đe dọa thì chúng là những con vật bị đe dọa đầu tiên.
Xét về mặt năng lượng, dây chuyền thức ăn thường được biểu hiện bằng một kim tự tháp mà đáy
của nó do thế giới thực vật tạo nên và đỉnh chính là các loài ăn thịt. Xét về mặt sinh khối, thực vật

cũng chiếm phần lớn nhất của thế giới sinh vật. Phần lớn thứ hai là phần phân huỷ trong quá trình
sống, từ vi sinh vật đến nấm, đến mối. Chúng góp phần tiêu huỷ nốt sản phẩm thừa trong dây chuyền
thức ăn và cung cấp dinh dưỡng cho thực vật. Cuối cùng là các loài ăn thịt, chúng đứng ở đỉnh của kim
tự tháp. Chúng thường rất hiếm và đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng lớn nhất.
Ngày 8/4/1998, IUCN đã lên tiếng cảnh báo rằng có ít nhất 1/8 loài thực vật trên Trái đất có nguy
cơ tuyệt chủng. Sau 20 năm nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã đưa ra danh sách gồm gần 40.000 loài
của tổng số trên 250.000 loài thực vật được biết đến trên thế giới có nguy cơ tuyệt chủng. Một loài tồn
tại và phát triển đã phải trải qua một quá trình tiến hoá hàng tỷ năm, song nó dễ dàng bị huỷ diệt trong
giây lát và không thể có thần dược nào có thể cứu vãn nổi. Điều quan trọng hơn nữa là cây xanh tạo
nên nguồn thức ăn nuôi sống các loài động vật khác trong đó có con người, nhiều gấp 10 đến 30 lần
bản thân nó, do vậy sự mất đi của một loài thực vật thường làm mất theo 10 đến 30 loài sinh vật khác.
1.4. GIÁ TRỊ CỦA ĐA DẠNG SINH HỌC
Tất cả các loài sinh vật đều có một chức năng nhất định trên trái đất, chính vậy đa dạng sinh học
có những giá trị không thể thay thế được.
1.4.1. Giá trị kinh tế trực tiếp
Giá trị kinh tế trực tiếp là những giá trị của các sản phẩm từ hoặc có nguồn gốc từ sinh vật mà con
người thu lượm và sử dụng. Những giá trị này thường được tính toán dựa trên số liệu điều tra ở các
điểm khai thác và đối chiếu với số liệu thống kê xuất nhập khẩu của các nước. Những giá trị kinh tế
trực tiếp có thể được chia thành 2 nhóm: Giá trị tiêu thụ và giá trị sản xuất.
1.4.1.1. Giá trị tiêu thụ
Sự tồn tại của con người không thể tách rời các loài sinh vật. Các loại thức ăn khác nhau mà thế
giới sinh vật mang lại cho con người là không thể thiếu được. Nhiều sản phẩm khác của giới sinh vật
mà con người đã, đang và sẽ phải sử dụng được coi là giá trị tiêu thụ. Nó bao gồm các loại nhiên liệu
như gỗ, củi, các nguyên liệu dược liệu Thật không khó khăn gì khi đưa ra vài ví dụ về giá trị tiêu thụ
của đa dạng sinh học như: Một chén thuốc bắc chữa bệnh, các loại rau và thực phẩm được dùng cho
một bữa ăn.
Một trong những yêu cầu lớn nhất hiện nay của con người đối với tài nguyên sinh vật là nguồn
đạm. Đạm động vật, ngoài các gia súc gia cầm chăn nuôi được, thì thịt các loài động vật hoang dã, cá ở
các sông hồ khe suối và biển đóng một vai trò quan trọng. Dân cư nhiều vùng miền núi hàng năm đã
thu được một lượng thịt động vật hoang dã không nhỏ. Thịt động vật hoang dã thường có chất dinh

dưỡng cao hơn thịt các loài động vật nuôi. Ở nhiều vùng Châu Phi, thịt động vật hoang dã chiếm một tỉ
lệ lớn trong bữa ăn hàng ngày, ví dụ ở Botswana khoảng 40%, Nigeria 20%, Zaire 75% (Sale, 1981;
Myers, 1988b). Ở Zaire, khoảng 1 triệu tấn thịt chuột được tiêu thụ hàng năm, ở Botswana khoảng 3
tấn thịt thỏ xuân bị bắn hàng năm. Cá tự nhiên cũng là nguồn đạm quan trọng, hàng năm trên thế giới
tiêu thụ khoảng 10 triệu tấn cá (FAO, 1988). Số liệu ước tính chi tiết ở Sarawak và miền đông
Malaysia, lượng thịt lợn rừng tiêu thụ hàng năm tương đương 40 triệu đô la Mỹ (Nampus N. Sanogho,
1991). Trên toàn thế giới, khoảng 100 triệu tấn cá đánh bắt hàng năm cũng là nguồn thực phẩm quí
cho con người.
Ở Việt Nam, nguồn thịt động vật hoang dã thu được hàng năm cũng không phải là nhỏ. Việt Nam
có khoảng 200 loài động vật hoang dã có giá trị săn bắt. Trong những thập niên 60 và 70, riêng các
tỉnh miền Bắc săn bắt được khoảng 1.000.000 con thú lớn nhỏ tương đương khoảng 5.000 tấn thịt (Đào
Văn Tiến, 1976). Cá biển cũng là nguồn thực phẩm quan trọng. Hàng năm nước ta khai thác khoảng
1,2 đến 1,3 triệu tấn (Phạm Thược, 1993).
Đa dạng sinh học còn là nguồn thuốc chữa bệnh. Khoảng 80% dân số thế giới chủ yếu dựa vào
thuốc có nguồn gốc động thực vật (Tarnsworth, 1988). Trên 5.000 loài thực vật được dùng làm thuốc ở
Trung Quốc, khoảng 2.000 loài cây dược liệu được sử dụng ở vùng rừng Amazon (WRI/IUCN/UNEP,
1992). Điều tra sơ bộ ở Việt Nam có khoảng trên 3.000 loài thực vật và 64 loài động vật đã được con
người sử dụng trong chữa bệnh. Theo Đào Văn Tiến (1976) trong những năm của thập kỷ 60, hàng
năm các địa phương miền Bắc đã thu mua được khoảng 400.000 tấn xương thú rừng để nấu cao.
Thống kê số liệu thu mua của các cửa hàng dược liệu tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh trong những năm của
thập kỷ 70 hàng năm đã thu mua được 10 tấn xương thú rừng để nấu cao (Phạm Nhật - Đỗ Tước,
1989). Ngoài ra người Việt Nam còn sử dụng khoảng 2300 loài cây làm thức ăn cho gia súc, lấy gỗ,
chiết xuất tinh dầu và cho nhiều mục đích khác nhau.
Vincristine đã được Gordon H. Svoboda chiết xuất từ cây dừa cạn Catharanthus roseus (L.)
G.Don. Khi được biết chất này có khả năng chống ung thư, nó đã được bán trên thị trường nước Mỹ
vào năm 1963, tức là ngay sau khi phát hiện 5 năm. Vào năm 1985, doanh thu bán trong nước và quốc
tế của Vincristine (với tên thương mại là Oncovin) và Vinblastine (tên thương mại là Velban) đã đạt
khoảng 100 triệu đô-la Mỹ, mà có tới 88% là lợi nhuận của công ty. Hiện nay, thu nhập từ hai loại
thuốc trên đạt trên 180 triệu đôla mỗi năm.
Giá trị mà đa dạng sinh học mang lại cho con người là khắp mọi nơi. Theo Mayer (1988b) thì 1 ha

rừng nhiệt đới nếu được quản lý tốt thì hàng năm có thể cung cấp cho con người một lượng sản phẩm
sinh vật hoang dã là 200 đô la Mỹ.
1.4.1.2. Giá trị sản xuất
Giá trị sản xuất là giá trị có được thông qua việc bán các sản phẩm thu lượm được từ thiên nhiên
trên thị trường trong và ngoài nước. Giá trị sản xuất của các tài nguyên thiên nhiên là rất lớn. Tại Mỹ,
người ta tính rằng bằng cách này hay cách khác, hàng năm ít nhất có 4,5% giá trị GDP (tổng giá trị
quốc nội) tương đương 87 tỉ đô la thu được từ các loài hoang dã. Gỗ là lâm sản đã đem lại một lợi
nhuận không nhỏ cho nhiều nước trên thế giới. Vào những năm cuối của thập kỷ 80, gỗ mang lại cho
con người khoảng 75 tỉ đô la và đã tăng lên khoảng 100 tỷ đô la trong năm 1995 (WB, 1995).
Giá trị sản xuất lớn nhất mà các loài hoang dã cung cấp cho con người là việc cung cấp nguyên vật
liệu cho các ngành công nghiệp, các ngành chế biến nông lâm sản. Có được điều này là nhờ khả năng
chống chịu của chính bản thân các loài hoang dã. Vì vậy, hiện nay số loài hoang dã đang được phát
triển nuôi trồng rộng rãi trong tự nhiên. Hoặc các loài hoang dã đang được khai thác mạnh mẽ thông
qua việc lai tạo gen để tăng khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh bất lợi.
19
Thực vật hoang dại là một nguồn tài sản vô cùng quan trọng và quý giá của Trái đất và còn chưa
được biết đến. Sự tồn tại của chúng ta chỉ mới phụ thuộc vào 1% số các loài sinh vật. Theo Myers
(1984) thì nhân loại mới chỉ sử dụng 7000 loại thực vật làm thức ăn, chủ yếu là lúa mì, lúa nước, ngô
và một chục loài cây trồng khác, trong khi có tới ít nhất 75.000 loài thực vật có thể sử dụng làm thức
ăn hiện đang tồn tại. Đó là chưa kể đến vô số các loài khác có thể dùng làm dược liệu, sợi, chất thay
thế dầu nhớt v.v. hoặc các loài côn trùng giúp thụ phấn cho cây trồng hoặc đem lại các nguồn lợi
Các giống hoang dại của các loài cây trồng đã cung cấp vật liệu di truyền để tăng năng suất đáng
giá hàng tỷ đô-la. Tại châu Á vào giữa những năm 1970, cải thiện di truyền đã tăng sản xuất lúa mì lên
2 tỷ đô-la và sản xuất lúa nước lên 1,5 tỷ đô-la mỗi năm nhờ đưa được các gen lùn vào giống mới. Một
cây lúa mì hoang dại “vô dụng” tìm thấy ở Thổ-nhĩ-kỳ đã được dùng để tạo ra tính kháng bệnh cho các
giống lúa mì thương mại đáng giá tới 50 triệu đô-la hàng năm chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Một gen trong một
cây ở Ethiopia nay góp phần bảo vệ một số giống lúa mạch khỏi vi-rút gây bệnh.
Các loài hoang dã còn được sử dụng trong phòng trừ sinh vật có hại bằng biện pháp sinh học. Đó
là việc sử dụng các thiên địch để tiêu diệt côn trùng. Biện pháp khống chế sinh học không những đã
tiết kiệm chi tiêu tài chính, mà còn bảo vệ môi trường sống cho con người do không phải sử dụng

các loại thuốc hoá học phòng trừ sâu bệnh.
1.4.2. Giá trị kinh tế gián tiếp
1.4.2.1. Giá trị sinh thái
Các hệ sinh thái của quả đất là cơ sở sinh tồn của sự sống trên trái đất trong đó có loài người và
chính đó là giá trị sinh thái của đa dạng sinh học. Đa dạng sinh học duy trì các quá trình sinh thái cơ
bản như quang hợp của thực vật, điều hoà nguồn nước, điều hoà khí hậu, bảo vệ và làm tăng độ phì
của đất, chúng hạn chế sự xói mòn đất bờ biển. Rừng trên các sườn dốc điều tiết dòng chảy, rừng
ngập mặn và các rạn san hô là những băng cản hữu hiệu trước những trận cuồng phong của thuỷ
triều. Như vậy, đa dạng sinh học là một nhân tố quan trọng để tạo ra và giữ vững cân bằng sinh thái
tự nhiên, tạo môi trường sống ổn định và bền vững cho con người.
Theo đánh giá của các nhà khoa học Hoa Kỳ thì giá trị dịch vụ hệ sinh thái trên toàn thế giới
ước vào khoảng 33 nghìn tỷ đôla mỗi năm, nghĩa là gần gấp đôi con số 18 nghìn tỷ đôla là giá trị
của toàn bộ hàng hoá và dịch vụ do con người tạo nên. Người ta đã tính rằng nguồn nước Catskill
cung cấp nước sạch cho cả thành phố New York mà nếu phải thay thế nó, người ta sẽ phải chi mất
6-8 tỷ đôla và thêm 300 triệu đôla cho công việc vận hành hàng năm. Để thấy đóng góp to lớn và
gián tiếp của dịch vụ hệ sinh thái so với giá trị trực tiếp, có thể xem bảng dưới đây.
Bảng 11: Giá trị ước lượng cho sản phẩm và dịch vụ hệ sinh thái ở Hoa Kỳ
Sản phẩm và dịch vụ hệ sinh thái Giá trị ước lượng (đôla Mỹ)
Dịch vụ vi sinh vật đất 33 tỷ /năm
Thụ phấn nhờ côn trùng cho 40 loài cây trồng ở Hoa Kỳ 30 tỷ /năm
Hoạt động phục vụ 350 triệu du khách thăm các Vườn quốc gia ở
Hoa Kỳ
28 tỷ /năm và 400.000 việc làm
Dược phẩm bán ở Hoa Kỳ năm 1990 có chứa chất lấy từ thực vật
hoang dại
> 15 tỷ /năm
Các tính trạng di truyền chuyển từ cây hoang dại vào cây trồng ở
Hoa Kỳ
8 tỷ /năm
Đánh bắt cá biển hàng năm cho kinh tế Hoa Kỳ 2,5 tỷ /năm

Lâm sản bao gồm cả gỗ, gỗ củi, quả, mật ong, nấm v.v. 3 - 8 tỷ /năm
1.4.2.2. Giá trị văn hoá và dân tộc học
Ngoài giá trị kinh tế và sinh thái, đa dạng sinh học còn có nhiều giá trị về văn hoá và dân tộc học
mà nó được chứng minh trên nền tảng kinh tế. Hệ thống giá trị của hầu hết tôn giáo, triết học đã cung
cấp và biện hộ cho sự hiểu biết của con người về bảo tồn loài. Những tranh luận tập trung về giá trị
dân tộc học trước hết là vấn đề đạo đức. Các loài sinh vật trên quả đất có quyền được tồn tại dựa vào
bản chất nội tại của chúng mà không quan hệ với sự cần thiết của con người. Con người không được tự
cho mình quyền tiêu diệt bất kỳ một loài nào và phải có những hành động chống lại sự tuyệt chủng của
loài.
Loài có quan hệ phức tạp với quần xã sinh vật. Sự biến mất của một loài có thể mang lại những
hậu quả nghiêm trọng cho một số loài khác như suy giảm số lượng hoặc cũng có thể bị tiêu diệt theo.
Đa dạng sinh học giúp con người sống và hiểu nhau hơn. Các cảnh quan thiên nhiên không ngừng
cung cấp và làm giàu tri thức cho các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, các nhà tư tưởng và nhà tôn giáo học.
Đa dạng sinh học cũng gắn liền với đa dạng văn hoá mà trước hết là tri thức bản địa gắn với việc
gây trồng và sử dụng các loài cây địa phương. Gây trồng các giống cây truyền thống, trồng và sử dụng
cây thuốc cũng như nghề thuốc là minh chứng sinh động cho mối gắn kết này. Như vậy, nếu đa dạng
sinh học bị mất đi thì rõ ràng tri thức bản địa cũng sẽ mai một và biến mất theo.
1.4.2.3. Giá trị nghiên cứu khoa học
Những lợi ích phi vật chất khác của đa dạng sinh học cũng rất lớn. Đó là giá trị nghiên cứu khoa
học, tiềm năng du lịch hoang dã. Những hoạt động này đã góp phần làm phong phú thêm tri thức của
con người.
Chúng ta còn thiếu nhiều hiểu biết và không chắc chắn khi quyết định một vấn đề trọng đại liên
quan đến đa dạng sinh học và cả khi đánh giá giá trị của chúng. Chẳng hạn chúng ta đi dọc theo một
sườn đồi ở Mexico và gặp một đám cỏ chưa định danh, chắc chắn chúng ta không thể ước tính được
đám cỏ đó có thể có giá trị tới 6,82 tỷ mỗi năm, chỉ khi ta biết được rằng đó là một loài ngô hoang
dại có họ hàng thân thuộc với loài ngô hiện đang được gây trồng rộng rãi trên thế giới, là loài sống
lâu năm, có khả năng lai với loài ngô trồng để tạo nên các giống ngô trồng lâu năm và còn có vô số
các tiềm năng khác. Tổng hợp các giá trị đó của cây ngô hoang dại, các nhà khoa học đã đánh giá giá
trị của nó như vậy (Hanemann and Fisher, 1985).
Ngành công nghiệp dược Hoa Kỳ đã đầu tư một con số kỷ lục là 4,1 tỷ đô-la Mỹ cho nghiên cứu

và phát triển trong năm 1985, tăng 11,6% so với năm 1984 (Farnsworth, 1988). Khoảng 25% các đơn
thuốc từ các hiệu thuốc công cộng ở Hoa Kỳ có chứa các chất cơ bản được chiết xuất từ thực vật bậc
cao và tỷ lệ này đã chỉ thay đổi không quá 1% trong vòng 25 năm qua. Vô số các công ty dược ở Hoa
Kỳ đã đầu tư vào nghiên cứu để tìm ra các loại thuốc mới từ thực vật.
Vào tháng 12 năm 1962, Gs. Ugent và Iltis đã thực hiện chuyến khảo sát để tìm ra một số loài cà
chua hoang dại tại Peru và họ đã phát hiện ra hai loài đó là Lycopersicon chmielewskii và L.
parviflorum. Sau khi nhận được hạt của các loài hoang dại trên, tiến sĩ Rick đã thử lai với loài cà chua
đang được trồng hiện tại là L. esculentum. Trong khi hàm lượng đường tan trong nước của các giống
hiện tại chỉ đạt từ 4,5% đến 6,2%, thì các cà chua dòng lai mới với loài hoang dại có hàm lượng đường
đạt tới 6,6% đến 8,6%. Hàm lượng đường trong các giống cà chua có giá trị rất cao trong sản xuất
công nghiệp mà một số năm trước đó, có nhà nghiên cứu đã công bố rằng tăng 0,5% lượng đường đã
đem lại giá trị hàng triệu đôla. Để cho chúng ta dễ nhận thấy hơn giá trị của gen quan trọng đó, với giá
cả năm 1987 ở Hoa Kỳ, gen đó đem lại hàng năm 8 triệu đôla cho công nghiệp và 80 triệu đôla cho
một thập niên. Đó là mới nói tới một gen liên quan đến hàm lượng đường mà chưa hề nói tới các gen
khác như tính kháng sâu, bệnh hại. Với giá cả năm 1962, chuyến đi khảo sát 3 năm của 2 nhà khoa học
trên đã chỉ tốn 21.000 đôla mà họ đã thu được 1000 mẫu vật trong đó có các mẫu vật của 2 loài cà
21
chua hoang dại nêu trên. Đầu tư cho các nghiên cứu bảo tồn và phát triển như vậy quả là đã đem lại lợi
ích và hiệu quả lớn lao chưa từng thấy (Iltis, 1988).
1.5. TÌM KIẾM CÁC LOÀI CÓ GIÁ TRỊ MỚI
Nhiều nước trên thế giới quan tâm và đầu tư mạnh vào nghiên cứu tìm các hợp chất mới từ thực
vật như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Đức, India v.v. Trong thực tế các nghiên cứu như vậy đã chỉ được
bắt đầu từ đầu thế kỷ 19 và công nghệ cũng phát triển mạnh từ đó. Cây cà độc dược thuộc họ Cà
(Solanaceae) có hoa khi ăn phải sẽ bị say. Ngay từ 1700 năm trước ở Trung Quốc đã có bài thuốc gây
mê từ hoa cà độc dược. Tương truyền thầy thuốc Hoa Đà nổi tiếng ngày xưa đã dùng hoa cà độc dược
trong thuốc để gây mê khi phẫu thuật mổ bụng cho người bệnh. Ngày nay, chất gây mê trong hoa cà
độc dược chính là scopolamin, có hoạt tính sinh lý cao và tác dụng lên hệ thần kinh, khi nào chất đó bị
phân giải hoặc thải ra ngoài thì con người mới khôi phục lại được tri giác và ý thức.
Theo ước đoán có khoảng 250.000 loài thực vật bậc cao trên Trái đất, nhưng con số các loài được
nghiên cứu còn rất thấp. Trung tâm Ung thư Quốc gia của Hoa Kỳ đã kiểm tra 35.000 loài thực vật bậc

cao để tìm chất chống ung thư. Nhiều loài đã chứng tỏ có hoạt tính chống ung thư, một số hoạt chất đã
được chiết xuất và nghiên cứu về cấu trúc, song thử nghiệm để đưa vào dùng chữa trị cho con người
còn thấp vì chưa đủ an toàn và hữu hiệu. Vào đầu những năm 1970, các nhà khoa học đã phát hiện ra
rằng vỏ cây Thông đỏ Thái Bình dương (Taxus brevifolia) có thể cung cấp taxol dùng để chữa trị một
số loại ung thư như ung thư buồng trứng và ung thư vú. Sau này các nhà nghiên cứu còn phát hiện ra
rằng lá Thông đỏ cũng có thể dùng để chiết xuất taxol và các chất taxane phục vụ cho công tác chữa trị
ung thư.
Theo Farnsworth (1988), 119 hợp chất lấy từ thực vật đang được sử dụng trên khắp thế giới đã
được chiết xuất từ 90 loài cây. Với con số khổng lồ 250.000 loài thực vật, chắc chắn sẽ có vô số loại
chất có thể có lợi cho trị bệnh và tăng sức khoẻ cho con người.
Cây Bạch quả (còn gọi là cây Lá quạt, cây Ngân hạnh) ở Trung Quốc, có tên khoa học là Ginkgo
biloba, loài sống sót duy nhất của họ thực vật cổ Ginkgoaceae, có nguồn gốc cổ xưa, cùng thời với
Khủng long, có thể có một số bí quyết để giúp cho sự trường sinh. Quả, lá và rễ của loài cây này đã
được các thầy lang Trung Quốc cổ sử dụng trong các bài thuốc từ 4.000 năm trước. Cây Bạch quả có
chứa các chất xúc tác hoá học gọi là gingkolide. Một trong các chất đó có tên là gingkolide B có khả
năng chống các bệnh về tim mạch và đột quỵ, vì nó chế ngự nhân tố gây vón cục máu. Gingkolide B
đặc biệt có hiệu quả trong việc cải thiện tuần hoàn máu lên não, do vậy làm cho cơ thể tỉnh táo và giảm
các chứng đau đầu hay chóng mặt. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu dược thảo còn cho rằng cây Bạch quả
có chứa một hợp chất có tác dụng hỗ trợ quá trình tổng hợp dopamine, chất truyền tín hiệu thần kinh
quan trọng trong việc duy trì chức năng nhận thức của não như khả năng học hành và trí nhớ. Việc sử
dụng thường xuyên các vị thuốc từ cây Bạch quả có thể chống được quá trình lão suy. Hiện nay các
loại dược phẩm có chứa các chất chiết xuất từ cây Bạch quả đang được bán rộng rãi trên thị trường
(Khoa học Kỹ thuật Kinh tế Thế giới, số 12 (804), 19/3/1998). Khoảng 2.000 tấn G. biloba được bán
ra hàng năm và trong đó 1/3 là ở Đức. Việc buôn bán này tăng 25% mỗi năm.
Một thí dụ khác là việc Guzman tìm ra một loài ngô hoang dại (Zea diploperennis) (teosinte) ở
vùng Jalisco, Mexico vào năm 1977 (Iltis et al., 1979; Vietmeyer, 1979). Điều đáng được lưu ý ở đây
là loài ngô trồng (Zea mays) hiện là một trong những loài cây trồng quan trọng nhất, với giá trị toàn
cầu năm 1986 là trên 50 tỷ đôla. Đây là loài ngô hoang dại, hiếm, sống lâu năm (trong khi ngô trồng là
loài cây sống một năm) và có khả năng kháng virút và 7 loại bệnh mà ngô trồng thường gặp. Loài
hoang dại này chỉ tìm thấy trên một diện tích 6 ha ở đây mà không hề tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác

trên thế giới. Theo các tính toán của Hanemann and Fisher (1985), việc tìm ra một loài cỏ dại sống lâu
năm, có họ hàng với cây ngô trồng (Zea mays), có thể cho giá trị đạt tới 6,82 tỷ đôla mỗi năm và giá trị
này được tính toán trên cơ sở khả năng sử dụng chúng vào lai giống với cây ngô trồng để tạo ra các
giống ngô lai sống lâu năm, có khả năng kháng bệnh.
23
Chương II
ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VIỆT NAM
Việt Nam là một trong 16 nước có tính đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới (WCMC,1992) và
là một trong những nước quan trọng nhất trên thế giới đối với việc bảo tồn một số nhóm động, thực vật
nhất định. Ví dụ; Việt Nam được xếp hàng thứ tư trên thế giới về bảo tồn các loài linh trưởng vì là nơi
cư trú của 5 trong số 25 loài linh trưởng bị nguy cấp nhất thế giới (CI, MMBF, IUCN/SSC và IPS,
2002). Việt Nam được công nhận là một trung tâm đặc hữu về loài, chứa đựng một phần hoặc toàn bộ
trong số 5 vùng chim đặc hữu (EBA) do Birdlife International xác định (Stattersfield, A. J., Crosby, M.
J., Long, A. J. và Wege, D. C, 1998), 3 vùng sinh thái trong hơn 200 vùng sinh thái toàn cầu do WWF
xác định (Olson, D. M. và nnk., 2000) và 6 trung tâm đa dạng về thực vật do IUCN xác định (Davis, S.
D., Heywood, V. H. và Hamilton, A. C. Bs, 1995). Toàn bộ đất nước Việt Nam nằm trong điểm nóng
Inđô-Bơ Ma do tổ chức Bảo tồn Quốc tế xác định, là một trong những vùng sinh học bị đe dọa nhất và
giàu có nhất trên thế giới (Mittermeier Russel A và nnk., 2004).
2.1. MỘT SỐ YẾU TỐ TẠO NÊN TÍNH ĐA DẠNG SINH HỌC VIỆT NAM
2.1.1. Vị trí địa lý
Vùng nhiệt đới, đặc biệt là rừng nhiệt đới và biển nhiệt đới là nơi có tính đa dạng sinh học cao
(McNeely et al, 1990). Trong khi đó Việt Nam lại thuộc vùng nhiệt đới với 3/4 diện tích lục địa (diện
tích lục địa là 330.541 km
2
) là đồi núi với nhiều hệ sinh thái rừng khác nhau và vùng biển gấp nhiều
lần lục địa.
Việt Nam thuộc mỏm chóp Đông Nam của lục địa Âu Á, là nơi “dừng chân” của nhiều loài sinh
vật di cư từ phía Tây, phía Bắc xuống. Do đó, hệ động -thực vật Việt Nam có nhiều yếu tố địa lý sinh
vật, ví dụ như: Việt Nam- Nam Trung Hoa, Việt Nam- Hymalaya, Việt Nam- India, Việt Nam-
Malêzi,

2.1.2. Địa hình đa dạng, hệ thống sông ngòi dày đặc
Việt Nam có địa hình đa dạng với những đồng bằng châu thổ rộng lớn (đồng bằng sông Cửu Long,
đồng bằng sông Hồng), nhiều núi cao (dãy Hoàng Liên Sơn, Tam Đảo, Ngọc Linh) và nhiều cao
nguyên (cao nguyên Đồng Văn, Sơn La, Mộc Châu, Plâycu, Đắc Lắc, Di Linh ). Các loài sinh vật
luôn tồn tại và thích nghi với hình dạng bề mặt trái đất. Địa hình của Việt Nam đa dạng là cơ sở tạo
nên tính đa dạng sinh học, đặc biệt đa dạng về hệ sinh thái.
Hệ thống sông ngòi của Việt Nam phong phú và hầu hết đều đổ ra biển. Trừ một vài con sông ở
phía Bắc đổ về Trung Quốc (sông Na Rì, Kỳ Cùng) và một số sông ở cao nguyên miền Trung đổ sang
phía Tây vào lưu vực sông Mê Kông. Do đó dễ dàng cho sự phát tán của sinh vật giữa vùng cao và
vùng thấp, đặc biệt các khu vực cửa sông- nơi giao nhau giữa vùng nước ngọt và nước mặn thường có
tính đa dạng loài rất cao.
2.1.3. Vĩ độ và đai cao
Đất nước kéo dài gần 16 vĩ tuyến (8
0
30' - 23
0
22' độ vĩ Bắc) và trải rộng trên 7 kinh tuyến (102
0
10' -
109
0
21' độ kinh Đông). 30% tổng diện tích có độ cao trên 500m, đỉnh cao nhất là Phansipan (3.143m).
Trong khi đó khí hậu thay đổi theo độ cao và theo vĩ độ. Ví dụ; nhiệt độ trung bình ở miền Nam - Việt
Nam là 27
0
C trong khi đó ở miền Bắc là 21
0
C. Cứ lên cao 100m thì nhiệt độ lại giảm 0,5
0
C.

Các loài sinh vật luôn tồn tại và thích nghi với môi trường sống. Khí hậu không đồng nhất trong
toàn quốc là cơ sở tạo nên tính đa dạng sinh học của Việt Nam, đặc biệt đa dạng về hệ sinh thái.
2.1.4. Địa mạo và hệ thống hoàn lưu
Hệ thống gió mùa (hoàn lưu khí quyển) ở Việt Nam rất phong phú, cùng với đặc điểm địa mạo đã
hình thành nên chế độ thời tiết ở Việt Nam.
Thứ nhất là gió mùa Đông Bắc từ lục địa Trung Quốc đi vào Việt Nam trong thời gian từ tháng 11
đến tháng 3 năm sau, có đặc điểm: khô và lạnh. Và vùng chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ loại gió này là
vùng Đông Bắc, lý do ngoài việc gần phía Đông Nam Trung Quốc thì vùng này có hệ thống núi hình
nan quạt mở rộng ở phần phía Bắc. Đặc điểm địa mạo này đã tạo thuận lợi cho sự xâm nhập của gió
mùa Đông Bắc. Chính vì vậy, mùa lạnh ở vùng này kéo dài, vành đai á nhiệt đới hạ xuống thấp
(khoảng 600m, trong khi đó toàn miền Bắc là 700 m).
Thứ hai cũng là gió mùa Đông Bắc, nhưng thổi từ tháng 12 đến tháng 1 năm sau và ảnh hưởng
trực tiếp đến vùng Bắc Trung Bộ. Đặc điểm loại gió này là lạnh và ẩm do thổi qua Vịnh Bắc Bộ; thời
tiết lạnh, kèm theo mưa phùn sẽ biểu hiện khi loại gió này ảnh hưởng trực tiếp đến vùng Bắc Trung
Bộ.
Thứ ba là gió mùa Đông Nam và Tây Nam thổi từ biển vào trong thời gian từ tháng 4 đến tháng
10. Loại gió này mang theo nhiều hơi nước, gây mưa cục bộ trên nhiều vùng lãnh thổ Việt Nam. Riêng
vùng Bắc Trung Bộ, do có dãy Trường Sơn ở phía Tây đón gió mà vùng này có lượng mưa cao hơn
nhiều vùng khác. Lượng mưa bình quân năm ở hầu hết nhiều vùng trong cả nước khoảng 2.000mm,
một vài địa phương vùng Bắc Trung Bộ nhận được lượng mưa cao hơn, khoảng 3.000mm.
Thứ tư là gió Tây khô nóng thổi từ Vịnh Ban Can qua lục địa đến Việt Nam từ tháng 5 đến tháng 7
hàng năm. Đến Việt Nam đặc biệt vùng Bắc Trung Bộ, do dãy Trường Sơn ngăn lại hơi nước mà thời
tiết biểu hiện rõ ở vùng trong giai đoạn này là khô nóng.
Các loài sinh vật luôn tồn tại và thích nghi với môi trường sống. Chế độ thời tiết của Việt Nam
phong phú là cơ sở tạo nên tính đa dạng sinh học của Việt Nam, đặc biệt đa dạng về các vùng địa lý
sinh học.
2.2. ĐA DẠNG VỀ THÀNH PHẦN LOÀI THỰC VẬT VÀ ĐỘNG VẬT
2.2.1. Đa dạng loài thực vật
Mặc dù chịu những tổn thất rất lớn về diện tích rừng trong một thời kỳ chiến tranh ác liệt kéo dài
nhiều thế kỷ nhưng hệ thực vật rừng Việt Nam vẫn còn rất phong phú. Tuy đến nay chưa có một tài

liệu nào thống kê mô tả một cách chi tiết thành phần loài thực vật nhưng theo số liệu của PGS. TS.
Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) thì hệ thực vật Việt Nam hiện đã thống kê được 11.373 loài thuộc 2.524
chi, 378 họ của 7 ngành (bảng 12). Tính trung bình mỗi họ có 6,67 chi và 30,0 loài và mỗi chi trung
bình có 4,5 loài. Các nhà phân loại học thực vật dự đoán rằng, nếu điều tra tỉ mỉ thì thành phần loài
thực vật Việt Nam có thể lên tới 15.000 loài (Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997).
Bảng 2.1. Thành phần loài trong các ngành thực vật Việt Nam
(Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997)
Ngành Số lượng
Tên Việt Nam Tên khoa học Họ Chi Loài
1. Rêu Bryophyta 60 182 793
2. Khuyết lá thông Psilotophyta 1 1 2
3. Thông đất Lycopodiophyta 3 5 57
25

×