Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

TRANH DÂN GIAN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.52 MB, 111 trang )

Tranh DG VN
Page 1
Tranh DG VN


Trường: ĐH HÙNG VƯƠNG TP.HỒ CHÍ MINH
Khoa: QUẢN TRỊ KINH DOANH

Tiểu luận môn:

Page 2
Tranh DG VN
Page 3
Tranh DG VN
Page 4
Tranh DG VN

Trang
Lời giới thiệu 6
Lịch sử 8
Đặc điểm 11
 Cách vẽ - In ấn
 Nguyên liệu và cách tạo màu cho tranh
 Bố cục của tranh
Đề tài – Nội dung 14
Những dòng tranh chính 16
Bảo tồn và gìn giữ 36
Tính minh triết trong 43
Page 5
Tranh DG VN
LỜI GIỚI THIỆU


ranh dân gian xuất hiện cách đây từ nhiều thế kỷ, là kho tàng quý giá của
nền văn hóa dân tộc Việt. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử cũng như những
thăng trầm của đất nước, dòng tranh này vẫn giữ được vẻ vui tươi dí dỏm, sự
hiền lành đôn hậu, thể hiện giá trị nhân văn và tinh thần của làng quê Việt Nam.
T
Nghề làm tranh dân gian Việt Nam là một nghề thủ công mỹ thuật truyền
thống ở Việt Nam, chuyên làm ra các loại tranh dân gian Việt Nam, đáp ứng nhu
cầu tinh thần và thẩm mỹ xã hội. Nghề làm tranh dân gian Việt Nam có từ lâu
đời, gắn bó với nghề khắc ván in chữ, in tranh.
Về nội dung, tranh dân gian Việt Nam có thể chia 4 nhóm:Tranh thờ,Tranh
chúc tụng,tranh sinh hoat,tranh minh họa-lịch sử.Và được chia ra 4 dòng tranh
chính:Tranh Kim Hoàng,tranh Làng Sình,dòng tranh Hàng Trống,và đặc biệt là
dòng tranh Đông Hồ.
Mỗi dòng tranh Dân gian ngoài điểm chung giống nhau, lại có những
điểm khác nhau. Sự khác nhau đó chính là tô đậm sự phong phú kho tàng Nghệ
thuật Tranh Dân gian Truyền thống (có khởi điểm từ cuối thế kỷ XVI) - cách ngày
nay khoang năm trăm năm lịch sử.
Tranh Dân gian từ xưa sáng tạo và được bán trong những ngày giáp tết,
Page 6
Tranh DG VN
dân chúng mua về treo, dán trong nhà đón Tết năm mới, vì vậy còn được gọi là
tranh Tết.Và có thể nói một vài tờ tranh dân gian bên cạnh mâm ngũ quả ngày
Tết sẽ là thứ mà các bà nội trợ ngày xưa không thể quên khi đi chợ trong những
ngày áp Tết. Sự hiện diện của một bức tranh dân gian trên vách trong ba ngày
Tết là một ấm áp có thể cảm nhận được dễ dàng trong bất cứ gia đình Việt Nam
nào.
Page 7
Tranh DG VN
Tranh dân gian Việt Nam là một loại hình mỹ thuật cổ truyền của dân gian Việt
Nam.

 Lịch sử
ranh dân gian Việt Nam có lịch sử rất lâu đời, đã từng có thời gian phát triển rất
mạnh mẽ, ngày nay nó có phần giảm sút nhưng vẫn còn được giữ gìn bảo tồn trong
một số làng nghề và một số gia đình làm tranh. Về cơ bản có hai loại tranh chính là tranh
Tết và tranh thờ. Sở dĩ tranh dân gian Việt Nam xuất hiện rất sớm là bởi vì nó với hai loại
chính là tranh tết và tranh thờ xuất hiện gần như cùng lúc với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
của người Việt và việc thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên.
T
Vào thời nhà Lý (thế kỷ 12) đã bắt đầu xuất hiện những gia đình hay thậm chí là cả
một làng chuyên làm khắc ván, làm tranh. Đến cuối đời nhà Trần nhiều nơi đã in được
tiền giấy (là một cách thể hiện của tranh dân gian) và sang đời nhà Hồ tiền giấy đã được
phát triển mạnh.
Tời thời kỳ Lê sơ việc in khắc tranh đã được tiếp thu thêm kỹ thuật khắc ván in của
Trung Quốc và sau khi vào Việt Nam đã được cải tiến thêm cho phù hợp. Cùng với đó là
sự phân hoá của tranh dân gian xuất hiện ngày càng rõ nét.
Đến đời nhà Mạc (thế kỷ 16) một thay đổi đặc biệt đã xảy ra, tranh dân gian không
còn là sản phẩm riêng của những người nông dân nghèo khó nữa, mà đã được cả tầng lớp
quý tộc ở kinh thành Thăng Long ưa thích, thường sử dụng vào dịp Tết Nguyên Đán.
Page 8
Tranh DG VN
Sang thế kỷ 18 - 19, tranh dân gian đã dần đi vào giai đoạn ổn định và phát triển
mạnh mẽ. Nghề làm tranh đã lan truyền rộng rãi hầu khắp cả nước. Cùng với đó là sự
phân hóa, những dòng tranh mới xuất hiện, được gọi tên theo địa danh nơi sản xuất, đã có
những phong cách riêng của mình. Nét riêng của mỗi dòng tranh được thể hiện ngay từ
quy trình làm tranh cũng như trong mỗi đường nét của tranh. Đó là sự khác biệt giữa kỹ
thuật khắc ván in, kỹ thuật vẽ, nguyên liệu làm tranh, cách pha chế tạo màu sắc riêng
V N QUÝ TRANH DÂN GIANỐ
Như chúng ta đã biết tranh dân gian xuất hiện cách đây từ nhiều thế kỷ, nó là kho tàng
quý giá của nền văn hoá dân tộc Việt Nam. Các tranh thờ, vẽ hay in gỗ của các dân tộc
Tày, Nùng, Dao, Cao Lan thường là tranh tôn giáo, gắn liền với đạo Phật hay đạo Lão.

Một số bức như "Cầu Hoa" của dân tộc Tày, thờ "Mé Hoa" cầu sinh con cái, "Bàn Cổ"
thờ thủy tổ của dân tộc Dao, "Thần Nông" thường là thờ vị thần cày cấy trồng trọt của
dân tộc Cao Lan. Phần lớn tranh vẽ bằng bột màu, trên giấy dó, bồi dày. Màu sắc, đường
nét chân phương nhưng mang đậm vẻ u huyền, trang trọng của thẩm mỹ miền sơn cước,
Page 9
Tranh DG VN
và thể hiện ước vọng ấm no, yên vui, qua khỏi bệnh tật của người dân tộc vùng cao.
Do nhu cầu tín ngưỡng và nhất là thú chơi tranh ngày Tết, tranh vẽ tay không đủ đáp ứng,
các nghệ nhân phải tìm cách in tranh thành nhiều bản. Từ đó tranh dân gian bằng kỹ thuật
in bản gỗ ra đời. Vì vậy, tranh dân gian có mang yếu tố nghệ thuật đồ hoạ
Tranh dân gian vẽ theo quan niệm "sống" hơn "giống". Đường nét hết sức gạn lọc, thuần
khiết, cốt sao rung cảm thẩm mỹ cho người xem hơn là vẽ đúng luật. Đó cũng là xu
hướng vươn tới của hội hoạ hiện đại.
Và thích thú khi ngắm tranh, liệu có ai đồng cảm với Đông Hồ, một vùng quê chất phác,
hồn hậu và mộc mạc:
" Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xóm răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Những cô nàng cắn chỉ môi trầu
Những cụ già bồng bềnh tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi về đâu, về đâu?".
Page 10
Tranh DG VN
 Đặc điểm
ranh dân gian Việt Nam dù có nhiều dòng tranh khác nhau nhưng nhìn chung đều
được dựng hình theo kiểu lấy các nét khoanh, lấy các mảng màu và bao lại toàn
hình. Các thành phần trong tranh không có một điểm nhìn cố định mà hầu hết được thiết
kế để có thể quan sát di động, từ nhiều góc độ khác nhau. Cách tạo màu cũng vậy, tất cả

đều nhằm làm cho bức tranh thật dễ nhìn.
T
 Cách vẽ, in ấn:
Do đặc điểm của tranh dân gian là để phục vụ đời sống văn hóa tinh thần của
nhân dân, phục vụ việc thờ cúng, trang hoàng cho ngày Tết cho nên cần phải có số
lượng lớn mà giá cả không được đắt. Vì thế mà người làm tranh đã sử dụng
phương pháp khắc ván rồi từ đó sao in ra nhiều bức tranh.
Nhìn chung cách in tranh chủ yếu là sử dụng ván khắc. Các bản ván khắc
chủ yếu làm từ gỗ. Đầu tiên nghệ nhân sẽ khắc lên bản gỗ đường nổi thể hiện
những đường nét chính của tranh, sau này khi in tranh ra giấy, người làm tranh lại
tiếp tục tô vẽ để hoàn thiện bức tranh đó, còn đối với một số tranh đơn giản thì
Page 11
Tranh DG VN
người thợ không cần tô vẽ thêm nữa mà tranh được đưa ra khi in xong. Nghệ thuật
in tranh qua các bản gỗ khắc nổi xuát hiện từ xa xưa, được lưu truyền từ đời nay
qua đời khác.
Ngoài các dòng tranh sử dụng phương pháp khắc thì còn có những bức tranh
vẽ tay của các nghệ nhân. Phương pháp vẽ tranh trực tiếp này chủ yếu được dùng ở
vùng các dân tộc thiểu số ở vùng núi miền Bắc như người: Tày, Nùng, Dao
 Nguyên liệu và cách tạo màu cho tranh:
Tranh thường được in hoặc vẽ trực tiếp lên giấy. Loại giấy phổ biến thường
được các dòng tranh dùng hơn cả là giấy dó. Từ loại giấy này có thể làm ra giấy
điệp, loại giấy mà tranh Đông Hồ sử dụng in hình. Đặc điểm của loại giấy này là
độ bền rất cao, mà lại xốp nhẹ, không nhoè khi viết vẽ, ít bị mối mọt, hoặc gòn
gẫy, ẩm nát. Với đặc tính chống ẩm rất cao, giấy dó giúp cho các bức tranh không
bị ẩm mốc, trường tồn cùng thời gian.
Mỗi dòng tranh thường có cách tạo màu, pha chế màu sắc riêng, nhưng nhìn
chung thì màu sắc cho những bức tranh thường được tạo nên từ những nguyên liệu
đơn giản, dân dã bằng rất nhiều phương pháp khác nhau.
Ví dụ như trong tranh Đông Hồ, thường chỉ có 3 đến 4 màu mà thôi, màu

sắc được tạo nên từ:
• Than xoan tạo màu đen,
• Rỉ đồng tạo màu xanh,
• Hoa hòe tạo màu đỏ,
• Lá chàm tạo màu xanh mát,
• Màu vàng ấm lấy từ hoa hoè hay quả dành dành,
• Màu trắng óng ánh thì dùng vỏ trai điệp ở biển nghiền mịn
Page 12
Tranh DG VN
Còn với tranh Hàng Trống, thì:
• Màu đen của tranh được làm từ tro rơm nếp hay tro lá tre được đốt và
ủ kỹ,
• Màu vàng cũng tạo nên từ hoa hoè,
• Màu chàm từ các nguyên liệu của rừng núi,
• Màu son của sỏi đồi tán nhuyễn.
Những màu sắc đó lại được pha với dung dịch hồ nếp cổ truyền tạo
cho tranh Hàng Trống một vẻ óng ả và trong trẻo mà các loại màu hiện đại
không thể nào có được.
 Bố cục của tranh:
Hầu hết tranh dân gian được vẽ theo quan niệm "sống" hơn "giống". Đường nét
của mỗi bức tranh hết sức gạn lọc, thuần khiết, cốt sao rung cảm thẩm mỹ cho người xem
hơn là vẽ đúng luật. Các thành phần trong tranh không có một điểm nhìn cố định mà hầu
hết được thiết kế để có thể quan sát di động, từ nhiều góc độ khác nhau.
Page 13
Tranh DG VN
 Đề tài và nội dung
của tranh dân gian
o ra đời để đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của người dân, gắn bó chặt chẽ với
đời sống thường nhật của người dân nơi thôn dã cho nên đề tài của tranh hết sức
phong phú. Tranh phản ánh từ những gì gần gũi, thân thiết nhất với người dân cho đến

những điều thiêng liêng cao quý trong các tranh thờ.
D
Những truyện Nôm như Truyện Kiều và Nhị Độ Mai cũng được dùng làm đề tài
tranh. Truyện Kiều thì có cảnh ba chị em đi tảo mộ gặp Kim trọng. Nhị Đọ Mai thì vẽ
cảnh Hạnh Nguyên đi cống Hồ.
Những đề tài dân dã như: cóc, chuột, đàn gà, hái dừa, đánh ghen, khiêng trống,
đánh vật Cùng tồn tại với những đề tài như: Phú Quý, Tố Nữ,
Lịch sử Việt Nam cũng là một đề tài được tranh dân gian đề cập đến rất nhiều,
như: bà Trưng Trắc cưỡi voi xung trận, Ngô Quyền đánh quân Nam Hán, Đinh Bộ Lĩnh
cờ lau tập trận rồi sang thời kỳ lịch sử hiện đại có Việt Nam độc lập, bình dân học vụ,
bắt sống giặc lái máy bay, Bác Hồ về thăm làng
Page 14
Tranh DG VN
Về nội dung, tranh dân gian Việt Nam có thể chia 4 nhóm:tranh thờ,tranh chúc
tụng,tranh sinh hoạt và tranh minh họa lịch sử.
Nội dung của tranh cũng hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi bức tranh đều mang
một ý nghĩa nhân sinh riêng, biểu hiện nhiều góc độ tâm trạng của con người,mang trong
nó là cả những ước vọng của người dân, từ những ước mong giản dị cho tới những điều
cao quý. Đó có thể là mong ước về một cuộc sống no ấm của nhà nông với sự thể hiện
của tranh "Mẹ con đàn lợn",hay sự thể hiện ý chí kiên cường bất khuất của đấng nam nhi
với "Tranh gà trống" sặc sỡ và oai vệ,và nó cũng thể hiện cho 5 đức tính quý của con
người: văn (vẻ đẹp – mào gà), vũ (cứng rắn – cựa gà), nhân (lòng thương yêu đồng loại –
khi kiếm được mồi luôn gọi đàn đến cùng ăn), dũng (sức mạnh – gặp kẻ thù thì kiên
quyết chống lại), tín (hàng ngày báo giờ rất đúng). Tranh gà đẹp và ý nghĩa như thế, nên
nhà thơ Đoàn Văn Cừ đã viết trong bài thơ Chợ têt: "Lũ trẻ còn mải ngắm bức tranh gà/
Quên cả chị bên đường đang đứng gọi".
Còn tranh "Đám cưới chuột" lại là một minh chứng sống động và hóm hỉnh cho
quan hệ mạnh hiếp yếu trong xã hội. Chuột làm đám cưới phải lo lễ vật cống cho mèo,
cầu xin mèo để yên cho đám cưới được tiến hành.
Dù được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng tranh dân gian của các

dòng tranh đều có điểm giống nhau là luôn đề cao cái đẹp, đề cao đạo lý làm người, giáo
dục những phẩm chất tốt và cầu mong những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Page 15
Tranh DG VN
 Những dòng tranh chính
ùng với những đổi thay của đất nước, tranh dân gian cũng vậy, có nhiều dòng tranh
xuất hiện. Có dòng tranh thì phát triển mạnh mẽ nhưng cũng có những dòng tranh
nhanh chóng biến mất. Ngày nay, dù thời gian đã làm mai một đi, các dòng tranh dân
gian hiện không còn ở thời kỳ cực thịnh, nhưng những giá trị to lớn của mỗi dòng tranh
vẫn còn đó, như là một chứng tích của xã hội Việt Nam một thời, nó sẽ vãn mãi là di sản
của dân tộc Việt Nam.
C
Có một số dòng tranh dân gian chính đã một thời cực thịnh và ngày nay còn lưu giữ
được một phần, như:
• Tranh dân gian Đông Hồ (Bắc Ninh)
• Tranh Hàng Trống (Hà Nội)
• Tranh Kim Hoàng (Hà Tây)
• Tranh làng Sình (Huế)
TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ
Page 16
Tranh DG VN
Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông
Hồ, là một dòng tranh dân gian Việt Nam với xuất xứ từ làng
Đông Hồ (xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
Trước kia tranh được bán ra chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên
Đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường, hết năm
lại lột bỏ, dùng tranh mới. Thơ Tú Xương về tranh Đông Hồ ngày
Tết có câu:
Đì đoẹt ngoài sân tràng pháo chuột
Om sòm trên vách bức tranh gà

Làng tranh Đông Hồ là làng nghề nổi tiếng về tranh dân gian, thuộc xã Song Hồ, huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh cách Hà Nội chừng trên 35 km. Làng Đông Hồ (đôi khi dân
địa phương chỉ gọi là làng Hồ) nằm trên bờ nam sông Đuống, cạnh bến đò Hồ, nay là cầu
Hồ.
Quanh năm rất nhiều khách du lịch trong ngoài nước đến làng tranh Đông Hồ thăm và
mua tranh Đông Hồ làm kỷ niệm. Một số khách sạn, nhà hàng từ Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh cũng về đây đặt những bức tranh khổ lớn để trang trí cho cách phòng khách,
hoặc phòng ăn lớn. Từ Hà Nội muốn đi Đông Hồ đường gần nhất du khách thường đi là
xuôi theo đường Quốc lộ số 5 (đường đi Hải Phòng) đến ga Phú Thụy, cách Hà Nội
chừng 15 km thì rẽ trái, đi chừng 18 km nữa, qua các địa danh khá nổi tiếng của huyện
Gia Lâm (Hà Nội) như phố Sủi, chợ Keo, chợ Dâu (Thuận Thành-Bắc Ninh) là đến phố
Hồ-huyện lỵ Thuận Thành. Rẽ trái thêm 2 km là đến làng Hồ. Cũng có thể đi hết phố Hồ,
lên đê rẽ trái, gặp điếm canh đê thứ hai sẽ có biển chỉ đường xuống làng Đông Hồ.
Làng Đông Hồ xưa còn gọi là làng Mái. Các cụ làng Đông Hồ vẫn truyền lại mấy câu ca
rằng:
Page 17
Tranh DG VN
Cô kia mà thắt lưng xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có sông tắm mát có nghề làm tranh.
Làng Đông Hồ nằm ngay sát bờ sông Đuống, ngày xưa chỉ cách sông một con đê, đó là ý
trong câu "Có sông tắm mát có nghề làm tranh". Ngày nay, do sự bồi lấp của dòng sông
nên từ đê ra đến mép nước giờ khá xa.
Còn "làng Mái có lịch có lề" thì nghĩa là gì? Tục ngữ Việt Nam có câu: giấy rách phải
giữ lấy lề. Chữ lề ở đây tượng trưng cho những quy tắc đạo đức của người xưa, rất trọng
danh dự, khí tiết. Còn dân làng Mái, dân nghệ thuật rất trọng lời ăn tiếng nói. Không như
nhiều làng quê khác, người dân làng Hồ, nhất là phụ nữ, ăn nói rất lịch lãm, trên dưới
thưa gửi rất rõ ràng. Người làng kể rằng kể cả từ xưa, rất hiếm khi trong làng có tiếng
người mắng chửi nhau.

Do công nghệ phát triển, tranh dân gian làng Hồ bây giờ không tiêu thụ nhiều như trước.
Qua nhiều thế kỷ, 17 dòng họ đã quy tụ về làng, vốn xưa tất cả đều làm tranh. Nhưng đến
nay, dân làng Hồ hiện chủ yếu sống bằng nghề làm vàng mã. Hiện nay chỉ còn hai gia
đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và Nguyễn Hữu Sam cùng con cháu là theo nghề
tranh, gìn giữ di sản tranh Đông Hồ.
Hàng năm làng Hồ có hội làng vào rằm tháng 3 âm lịch. Trong hội làng có những nghi
thức truyền thống như tế thần, thi mã, thi tranh rất vui vẻ. Làng còn có các làn điệu dân
ca như:
Hỡi anh đi đường cái quan
Page 18
Tranh DG VN
Đừng chân ngắm cảnh mà tan nỗi sầu
Mua tờ tranh điệp tươi màu
Mua đàn gà lợn thi nhau đẻ nhiều.
Đặc điểm in ấn
Tranh được in hoàn toàn bằng tay với các bản màu; mỗi màu dùng một bản, và bản nét
(màu đen) in sau cùng. Nhờ cách in này, tranh được "sản xuất" với số lượng lớn và không
đòi hỏi kỹ năng cầu kỳ nhiều. Tuy nhiên vì in trên ván gỗ một cách thủ công, nên tranh bị
hạn chế về mặt kích thước, thông thường các tờ tranh không lớn quá 50 cm mỗi chiều.
Giấy in và màu sắc
Trong bài thơ Bên kia Sông Đuống Hoàng Cầm viết:
Tranh Đông Hồ, gà lợn nét tươi trong,
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Ngoài các đặc điểm về đường nét và bố cục, nét dân gian của tranh Đông Hồ còn nằm ở
màu sắc và chất liệu giấy in. Giấy in tranh Đông Hồ được gọi là giấy điệp: người ta
nghiền nát vỏ con điệp, một loại sò vỏ mỏng ở biển, trộn với hồ (hồ được nấu từ bột gạo
tẻ, hoặc gạo nếp, có khi nấu bằng bột sắn - hồ dùng để quét nền tranh thường được nấu
loãng từ bột gạo tẻ hoặc bột sắn, hồ nấu từ bột nếp thường dùng để dán) rồi dùng chổi lá
thông quét lên mặt giấy dó. Chổi lá thông tạo nên những ganh chạy theo đường quét và
vỏ điệp tự nhiên cho màu trắng với ánh lấp lánh những mảnh điệp nhỏ dưới ánh sáng, có

Page 19
Tranh DG VN
thể pha thêm màu khác vào hồ trong quá trình làm giấy điệp. Màu sắc sử dụng trong
tranh là màu tự nhiên từ cây cỏ như đen (than xoan hay than lá tre), xanh (gỉ đồng, lá
chàm), vàng (hoa hòe), đỏ (sỏi son, gỗ vang), v.v. Đây là những màu khá cơ bản, không
pha trộn và vì số lượng màu tương ứng với số bản khắc gỗ, nên thường thường tranh
Đông Hồ chỉ dùng tới 4 màu mà thôi.
Nội dung tranh
Nội dung tranh gồm có 5 thể loại:
1. Tranh thờ: bộ ngũ sự
2. Tranh lịch sử: Hai Bà Trưng, Bà Triệu
3. Truyện tranh: Thánh Gióng, Truyện Kiều, Thạch Sanh
4. Phổ biến nhất là chúc tụng; ví như tranh Vinh hoa-Phú quý, Nghi xuân, Gà đàn
(xem thêm Bảy bức tranh gà)
5. Tranh sinh hoạt: Đánh Ghen, Chăn Trâu Thổi Sáo, Nhà Nông, Đám cưới Chuột,
Hái dừa Với các tranh có phần chữ Hán đi kèm thì ý nghĩa sáng tỏ hơn bao giờ
hết. Ví dụ như tranh Nhân nghĩa vẽ hình em bé ôm cóc có chú thích chữ "nhân
nghĩa" ấy chính là lời cầu chúc cho các cháu bé được tặng tranh có được cái Nhân,
cái Nghĩa như con cóc tía trong truyện cổ: mình mẩy tuy có thể xấu xí, bé nhỏ song
dám lên kiện cả ông trời để đòi mưa cho dân làng. Chính vì vậy tranh vẽ hình em
bé ôm con cóc một cách trìu mến. Không có sự giải thích nội dung tranh sẽ trở nên
khó hiểu vì ai mà bồng bế một con cóc bao giờ.
Các tranh khác, đặc biệt là tranh sinh hoạt thì có nhiều cách giải thích hơn, cho tới
nay có những cách phân tích khác nhau hoàn toàn (ví dụ tranh Đánh ghen).
Page 20
Tranh DG VN
Tranh Đông Hồ có đặc điểm thường là những hình ảnh sung túc như đám cưới chuột,
cảnh trai gái cùng nhau hái dừa, cảnh cá chép nhiều màu vẫy đuôi thể hiện mong muốn
về sự sung túc.
Thay đổi gần đây

Tranh Đông Hồ khá gần gũi với đại đa số dân chúng Việt Nam, nhắc tới hầu như ai cũng
đều biết cả. Tranh gần gũi còn vì hình ảnh của nó đã đi vào thơ, văn trong chương trình
học. Ngày nay lệ mua tranh Đông Hồ treo ngày Tết đã mai một, làng tranh cũng thay đổi
nhiều: làng Đông Hồ ngày nay có thêm nghề làm vàng mã. Nghề giấy dó ở làng Yên Thế
(Bưởi, Tây Hồ) cũng đã không còn. Tuy thế tranh Đông Hồ đóng vai trò như một di sản
văn hóa, một dòng tranh dân gian không thể thiếu.
Theo đánh giá của một số họa sĩ, tranh Đông Hồ in ở thời điểm hiện tại thường không có
màu sắc thắm như tranh cổ, nguyên nhân là người ta trộn màu trắng vào điệp quét giấy để
bớt lượng điệp khiến giấy mất độ óng ánh và trở nên "thường", màu sắc sử dụng cũng
chuyển sang loại màu công nghiệp, các bản khắc mới có bản không được tinh tế như bản
cổ. Một điểm đáng lưu ý khác nữa là một số bản khắc đã đục bỏ phần chữ Hán (hoặc chữ
Nôm) bên cạnh phần hình của tranh khiến tranh ít nhiều bị què cụt về mặt ý nghĩa.
Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này ước đoán là:
1. Có một thời chữ Hán (và chữ Nôm) bị coi là phong kiến lạc hậu, liệt vào danh mục
bài xích nên thợ in đục bỏ cho đỡ rách việc.
2. Thế hệ sau này không phải ai cũng đọc và hiểu được các ký tự ấy nên tự ý bỏ đi.
3. Cũng do không đọc hiểu được nên các ván khắc truyền lại "tam sao thất bản", đến
mức còn lại các ký tự nhưng không đọc được ra chữ gì.
Page 21
Tranh DG VN
Về nội dung tranh, lưu ý rằng có sự gần gũi nhất định giữa nội dung tranh khắc gỗ màu
của Việt Nam với của Trung Quốc, có những tranh mà cả hai nước đều có, song tranh
Đông Hồ phát triển thành một hướng riêng tồn tại nhiều thế kỷ và được thừa nhận như
dòng tranh dân gian được biết đến nhiều nhất ở Việt Nam.
Bức "Hứng dừa" dí dỏm, hài hước, với hai câu thơ:
"Khen ai khéo dựng lên dừa
Đấy trèo đây hứng cho vừa một đôi"
Chị nông dân trẻ, phốp pháp, yếm hở mình, tóc xoã ngang lưng, với bộ mặt vênh vênh
hồn nhiên, hớn hở vén váy hứng đón dừa. Một anh trai tráng vạm vỡ, cởi trần đang trèo
lên ngọn dừa có mấy buồng trĩu quả rũ xuống, tay phải bám thân dừa, tay trái cầm trùm

dừa 2 qủa với bỏ xuống. Đường nét giản dị mà sinh động, màu son đỏ tươi trên nền vàng
giấy dó quét điệp.
Ngược với "Hứng dừa" nhẹ nhàng tình tứ, bức "Đánh ghen" khôi hài, gây hấn, nực cười.
Một người đàn ông, đứng giữa hai người đàn bà, tay trái đang đặt lên ngực người đàn bà
cởi trần, tay phải giang ra như đang đỡ chiếc kéo của người đàn bà đứng trước mặt (chắc
là vợ cả) đang giơ lên để cắt tóc người đàn bà cởi trần (chắc là vợ hai). Bức tranh sinh
động, châm biếm cảnh đa thê:
"Thôi thôi bớt giận làm lành
Chi điều sinh sự nhục mình nhục ta"
Tranh "Đám cưới chuột", có người còn gọi là "Nghè chuột vinh quy", đề tài này cả hai
dòng tranh Đông Hồ và Hàng Trống đều có. Bố cục tranh phóng túng, táo bạo, cắt đám
cưới ra làm hai giai đoạn mà vẫn đảm bảo tính nghệ thuật cả về hình thức lẫn nội dung.
Người xem tranh vẫn thấy đám cưới vẫn tiếp diễn một cách đều đặn chứ không bị gián
đoạn trong sự chia cắt. Chủ đề phần trên là "giữ thân", có hai chú chuột thổi kèn và chú
chuột đi trước, một chú sách con cá chép to tướng, một chú hai tay bưng con chim câu
béo ("Gà trống thiến"- tranh Hàng Trống), trước mặt chúng là một anh mèo đẫy đà đang
ngồi chễm chệ chắn đường, tay phải giơ ra nhận của lễ. Chủ đề phần dưới "Nghênh hôn",
một chú chuột cưỡi ngựa đi trước đang quay đầu nhìn lại ra hiệu là lễ đã xong, được phép
đi qua, một chú chuột đi sau cầm lọng che, chú thứ ba cầm tấm biển gỗ có chữ chúc
mừng, và sau cùng là bốn chú chuột khiêng kiệu, trên kiệu là một chú chuột chễm chệ
cân đai, áo mũ chỉnh tề. Bức tranh đả kích tệ nạn tham nhũng của giai cấp thống trị.
Người dân phải lo lót biếu xén bọn cường hào, quan lại sâu mọt.
Page 22
Tranh DG VN
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: các bức tranh trên xuất hiện rất sớm, có thể là những
năm đầu thế kỷ XI (đời Lý) hoặc trước đó.
Bộ tranh Tố Nữ (Tứ Bình), mỗi bức vẽ một cô gái xinh đẹp đang độc diễn sáo, xênh
phách, cầm quạt hát, gẩy đàn và 4 bài thơ tứ tuyệt kèm theo. Xin trích bài tứ tuyệt về cô
cầm quạt:
"Môi son vừa hé nụ anh đào

Răng ngọc hai hàng nhả điệu cao
Trước gió nghìn cành hoa nhún nhảy
Gót sen lần nhịp đến Dương Châu"
Bộ tranh rất đẹp, đậm nét văn hoá dân tộc. Nhiều nhà thơ từ thế kỷ XVIII đã cảm khái đề
thơ, trong đó có nữ sĩ Hồ Xuân Hương:
"Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa như in tờ giấy trắng
Ngàn năm còn mãi cái xuân xanh".
Bức "Gà đàn" tả một gia đình gà đông vui, gà mẹ kiếm mồi cho đàn gà con, gà trống
đứng hùng dũng bảo vệ, các chú gà con tính cách tinh nghịch.
Sang giai đoạn văn hoá thị trường, kỹ thuật in ấn phát triển thì làng tranh chỉ còn mươi
gia đình trên 4000 dân theo nghề, và cũng chỉ còn khoảng chục nghệ nhân tường tận nghề
tranh. Lẽ nào "mẹ con đàn lợn âm dương chia lìa trăm ngả. Đám cưới chuột tưng bừng
rộn rã. Bây giờ tan tác về đâu" (Bên kia sông Đuống)?
Page 23
Tranh DG VN
Chất liệu tranh Đông Hồ bắt nguồn từ các sản phẩm của thiên nhiên, gắn bó gần gũi với
đời sống người Việt Nam như vỏ cây dó dùng để làm giấy, lá tre, viên sỏi, hoa hiên, bột
nếp dùng làm màu, gỗ thị làm bản khắc,… Nhìn vào một bức tranh dân gian Đông Hồ,
người xem không khỏi trầm trồ, thú vị trước những màu sắc phong phú, tươi tắn; những
hình khối, đường nét tuy đơn giản nhưng sống động, thực mà hư, hư mà thực, gần gũi với
đời sống của người nông dân đồng bằng Bắc Bộ. Những người nghệ nhân Đông Hồ đã
chứng tỏ sự tài hoa, sáng tạo khi làm ra những bức tranh như vậy. Mỗi bức tranh có từ
bẩy đến tám màu nhưng mỗi màu phải in theo một trình tự nhất định: đầu tiên là màu đỏ,
rồi xanh, tiếp đến là trắng, hồng hoặc vàng và cuối cùng là màu đen (bản nét). Mỗi một
màu của bức tranh lại đi kèm với một bản khắc bằng gỗ thị. Ví dụ như bức tranh Đám
cưới chuột có bốn màu đỏ, xanh, vàng và đen thì có bốn bản khắc các chi tiết khác nhau
đi kèm với các màu tương ứng.


Với những màu sắc tươi sáng, các nhân vật sống động, tranh dân gian Đông Hồ chuyển
tải nhiều nội dung sâu sắc về tín ngưỡng, đời sống, sinh hoạt của người dân Việt Nam.
Mảng đề tài tranh đời sống, sinh hoạt có rất nhiều bức tranh nổi tiếng như Hứng dừa,
Đánh đu, Mục đồng thổi sáo hay Hiếu học Tuy nhiên, tranh Đông Hồ còn có một mảng
đề tài khá đặc sắc mà ít người chú ý là mảng tranh có ý nghĩa tín ngưỡng là tranh thờ. Bộ
tranh hoàn chỉnh bày trên bàn thờ gia tiên gồm 8 bức, trong đó có bộ tranh chủ (5 bức) và
3 chữ đại tự (3 bức). Bộ tranh chủ là đôi câu đối Tứ thời xuân tại thủ - Ngũ phúc thọ vi
tiên (Trong nhà bốn mùa là mùa xuân – Nhà có năm thế hệ cùng chung sống là có phúc).
Ba chữ đại tự có thể là 3 chữ Thọ hoặc Phúc – Mãn - Đường, Tích - Thiện - Đường hoặc
Đức – Lưu – Quang. Đặc biệt, các chữ này đều được vè theo kiểu long – ly – quy -
phượng, bốn con vật cao qúy trong tín ngưỡng của người Việt.

Page 24
Tranh DG VN
Ngày xưa, mỗi dịp Tết đến, xuân về, người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ có thói quen
mua tranh Đông Hồ về treo. Trong số những bức tranh ấy, không thể thiếu được là hai
bức Vinh hoa – Phú quý vẽ hai em bé trai và gái hôm hai con gà vịt. Ý nghĩa của hai bức
tranh tưởng chừng đơn giản này thực ra rất độc đáo: mong năm mới gia đình được bình
yên, làm ăn khấm khá hơn, có con cái thì phải có đủ cả trai lẫn gái, hay “có nếp có tẻ”
như cách nói của các cụ xưa.

Đám cưới chuột

Chuột vinh quy Chuột rước rồng
Bịt mắt bắt de
Đánh đu

Đấu vật
TRANH HÀNG TRỐNG
Tranh Hàng Trống một trong những dòng tranh

dân gian Việt Nam được làm chủ yếu tại phố Hàng
Nón, Hàng Trống của Hà Nội xưa. Hàng Trống xưa
kia thuộc đất cũ của thôn Tự Pháp, tổng Tiêu Túc
(sau đổi thành Thuận Mỹ), huyện Thọ Xương, nay
thuộc quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Phố Hàng Trống
nằm kề các phố Hàng Nón, Hàng Hòm, Hàng
Quạt là nơi chuyên sản xuất cả đồ thủ công mỹ nghệ nhất là đồ thờ như : tranh thờ,
trống, quạt, lọng, cờ Dòng tranh này hiện nay gần như đã bị mai một hết, chỉ còn lưu
giữ trong các viện bảo tàng. Chính vì vậy, những nghệ nhân vẽ tranh Hàng Trống giảm
Page 25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×