Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Nghĩa tình thái của câu trong các đoạn hội (trên những văn bản ở sách giáo khoa ngữ văn 11 tập một)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 106 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM




VŨ THỊ KIM THOA




11 - )




LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM






THÁI NGUYÊN - 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM



VŨ THỊ KIM THOA



11 - )
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60 22 01 02



LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Nguyễn Thị Nhung




THÁI NGUYÊN - 2014

i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu khảo

sát, thống kê, nghiên cứu, kết luận trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố ở
bất kì công trình nào khác.

Tác giả


Vũ Thị Kim Thoa












ii
LỜI CÁM ƠN

Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến TS. Nguyễn Thị Nhung,
cô đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn
thành luận văn này.
Luận văn là kết quả của quá trình học tập. Vì vậy tôi xin bày tỏ lòng biết ơn
đến những người thầy, người cô đã giảng dạy các chuyên đề cao học cho lớp Ngôn
ngữ K20 (2012 - 2014) tại trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, người thân đã luôn ủng hộ và động
viên tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.


Thái Nguyên, tháng 8 năm 2014
Tác giả luận văn



Vũ Thị Kim Thoa











iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CÁM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT iv
DANH MỤC BẢNG v
1
1
2
3
4

4
5
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT 6
1.1. Khái quát về câu và nghĩa tình thái 6
1.1.1. Khái quát về câu 6
1.1.2. Khái niệm nghĩa tình thái 7
1.1.3. Phân loại nghĩa tình thái 11
1.1.4. Các phương tiện biểu thị nghĩa tình thái trong tiếng Việt 18
1.2. Một số vấn đề liên quan đến đề tài 20
1.2.1. Một số vấn đề về hội thoại và hội thoại trong tác phẩm văn học 20
1.2.2. Sơ lược về từ, cụm từ, từ loại 24
1.2.3. Đôi nét về các tác phẩm tự sự và kịch trong sách giáo khoa Ngữ văn 11
- tập một 26
1.2.4. Tính cách nhân vật, chủ đề tác phẩm, phong cách tác giả 28
1.3. Tiểu kết 30
Chƣơng 2: PHƢƠNG TIỆN BIỂU THỊ NGHĨA TÌNH THÁI CỦA CÂU
TRONG CÁC ĐOẠN HỘI THOẠI (TRÊN NHỮNG VĂN BẢN Ở SÁCH
GIÁO KHOA NGỮ VĂN 11 - TẬP MỘT) 31
2.1. Nhận xét chung 31
2.1.1. Nhận xét 31

iv
2.1.2. Kết quả khảo sát 31
2.2. Các phương tiện biểu thị nghĩa tình thái xét trong quan hệ giữa người nói
với sự việc được nói tới 32
2.2.1. Các phương tiện biểu thị nghĩa tình thái nhận thức 33
2.2.2. Các phương tiện biểu thị nghĩa tình thái đánh giá 39
2.2.3. Các phương tiện biểu thị nghĩa tình thái cảm xúc 46
2.3. Các phương tiện biểu thị nghĩa tình thái xét trong quan hệ giữa người nói
với người nghe 50

2.3.1. Các phương tiện biểu thị nghĩa tình thái đạo lí 50
2.3.2. Các phương tiện biểu thị nghĩa tình thái thái độ 56
2.4. Tiểu kết 61
Chƣơng 3: GIÁ TRỊ NGHĨA TÌNH THÁI CỦA CÂU TRONG CÁC
ĐOẠN HỘI THOẠI (TRÊN NHỮNG VĂN BẢN Ở SÁCH GIÁO KHOA
NGỮ VĂN 11 - TẬP MỘT) 62
3.1. Nghĩa tình thái với với việc khắc họa tính cách nhân vật 62
3.1.1. Nghĩa tình thái với việc khắc họa tính cách nhân vật Liên 62
3.1.2. Nghĩa tình thái với việc khắc họa tính cách nhân vật viên quan coi ngục 65
3.1.3. Nghĩa tình thái với việc khắc họa tính cách nhân vật Xuân Tóc Đỏ 66
3.1.4. Nghĩa tình thái với việc khắc họa tính cách nhân vật Bá Kiến 67
3.1.5. Nghĩa tình thái với việc khắc họa tính cách nhân vật người con - thằng Tí 68
3.1.6. Nghĩa tình thái với việc khắc họa tính cách nhân vật vua Khải Định 69
3.1.7. Nghĩa tình thái với việc khắc họa tính cách nhân vật ông Lí 70
3.1.8. Nghĩa tình thái với việc khắc họa tính cách nhân vật Vũ Như Tô 71
3.2. Nghĩa tính thái với việc thể hiện chủ đề tác phẩm 72
3.2.1. Nghĩa tình thái với việc thể hiện chủ đề truyện ngắn Hai đứa trẻ 72
3.2.2. Nghĩa tình thái với việc thể hiện chủ đề truyện ngắn Chữ người tử tù 73
3.2.3. Nghĩa tình thái với việc thể hiện chủ đề đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia 75
3.2.4. Nghĩa tình thái với việc thể hiện chủ đề truyện ngắn Chí Phèo 76
3.2.5. Nghĩa tình thái với việc thể hiện chủ đề đoạn trích Cha con nghĩa nặng 77
3.2.6. Nghĩa tình thái với việc thể hiện chủ đề truyện ngắn Vi hành 78

v
3.2.7. Nghĩa tình thái với việc thể hiện chủ đề truyện ngắn Tinh thần thể dục 79
3.2.8. Nghĩa tình thái với việc thể hiện chủ đề đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài 80
3.3. Nghĩa tình thái với việc góp phần thể hiện phong cách của nhà văn 81
3.4. Tiểu kết 92
KẾT LUẬN 93
95

97



iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1. Tình thái TT
2. Nghĩa tình thái NTT
3. Nghĩa tình thái khách quan NTTKQ
4. Nghĩa tình thái chủ quan NTTCQ
5. Nghĩa tình thái nhận thức NTTNT
6. Nghĩa tình thái đánh giá NTTĐG
7. Nghĩa tình thái cảm xúc NTTCX
8. Nghĩa tình thái đạo lí NTTĐL
9. Nghĩa tình thái thái độ NTTTĐ
10. NL1 Hai đứa trẻ
11. NL2 Chữ người tử tù
12. NL3 Hạnh phúc của một tang gia
13. NL4 Chí Phèo
14. NL5 Cha con nghĩa nặng
15. NL6 Vi hành
16. NL7 Tinh thần thể dục
17. NL8 Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

v
DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Các phương tiện biểu thị nghĩa tình thái của câu xét theo vị trí
trong câu 31

Bảng 2.2. Các phương tiện biểu thị nghĩa tình thái của câu xét về mặt đặc
điểm cấu tạo 32
Bảng 2.3. Các bộ phận nghĩa tình thái của câu trong những đoạn hội thoại 32
Bảng 2.4. Phân loại các phương tiện biểu thị nghĩa tình thái nhận thức theo
đặc điểm cấu tạo, từ loại 34
Bảng 2.5. Phân loại các phương tiện biểu thị nghĩa tình thái đánh giá theo
đặc điểm cấu tạo, từ loại 41
Bảng 2.6. Phân loại các phương tiện biểu thị nghĩa tình thái cảm xúc theo
đặc điểm cấu tạo, từ loại 47
Bảng 2.7. Phân loại các phương tiện biểu thị nghĩa tình thái đạo lí theo đặc
điểm cấu tạo, từ loại 52















1




Vi
.
Để góp phần khắc họa tính cách nhân vật, thể hiện chủ đề tác phẩm và phong
cách tác giả, các nhà văn, nhà viết kịch đã xây dựng nên những câu đối thoại cho sáng
tác của mình. Câu đối thoại là thành phần chủ yếu của phạm trù lời nói. Nó có tác
dụng thể hiện diễn biến câu chuyện và thái độ của những nhân vật xuất hiện trong các
đoạn hội thoại cũng như diễn biến tâm lí của họ. Ở chương trình Ngữ văn 11- tập một
có rất nhiều tác phẩm văn học xây dựng các đoạn hội thoại để thực hiện chức năng
thẩm mĩ, tạo nên tính chỉnh thể của cấu trúc văn bản nghệ thuật. Hầu hết các tác phẩm
có sử dụng câu trong các đoạn hội thoại ở sách giáo khoa Ngữ văn 11- tập một đều là
những sáng tác văn học hiện đại. Những sáng tác ở giai đoạn này rất tiêu biểu, có giá
trị ở mọi phương diện và để lại những dấu ấn nhất định trong lòng bạn đọc. Vì vậy,
việc tìm hiểu các tác phẩm ở chương trình Ngữ văn 11 - tập một hứa hẹn nhiều điều
mới mẻ và đầy thú vị.
(NTT) trong câu n
các đoạn nghi :

- )”.

của NTT nói chung, của NTT trong tiếng Việt nói riêng
tri thức NTT -
-

2
,
.

.
.
Việc xây dựng NTT nổi lên những đóng góp của những tác giả như:

Vinogradov, O.B Xriotinina, Lyons, Gak, Liapol, Palmer, Ch. Bally, Chomsky,
Bybee… Ở Việt Nam có Hoàng Trọng Phiến, Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban,
Nguyễn Thiện Giáp, Lê Quang Thiêm, v.v. Họ đều có những quan niệm rộng hẹp
khác nhau về NTT. Theo quan niệm hẹp, NTT thường được cho là thành phần nghĩa
phản ánh mối quan hệ giữa nội dung phát ngôn đối với thực tế. Theo quan niệm rộng,
tình thái - nói theo Bybee - là “tất cả những gì mà người nói thực hiện cùng toàn bộ
nội dung mệnh đề”.
Tìm hiểu phân loại NTT, phương tiện biểu thị NTT có đóng góp của một số
tác giả như: Jespersen, Von Wright, Rescher, Ch. Bally, Palmer, Lyons, Cao Xuân
Hạo, Nguyễn Văn Hiệp, Diệp Quang Ban, Nguyễn Thị Lương, v.v. Các nhà ngôn ngữ
học nước ngoài khi nói tới tình thái thường phân biệt tình thái nhận thức và tình thái
đạo nghĩa theo hai góc độ khách quan và chủ quan trong mối quan hệ với các hành
động ngôn từ. Còn những tác giả Việt Nam thường nói tới tình thái của hành động
phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn, tình thái khách quan và tình thái chủ quan.
Những công trình tiêu biểu có đề cập đến các phương diện nói trên của NTT là
Phong cách học tiếng Việt (1961) của Bally, Mood and Moda lity (1986) của Palmer,
Ngữ nghĩa học dẫn luận (2009) của Lyons, Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt (2006)
của Hoàng Trọng Phiến, Ngữ nghĩa học (2006) của Lê Quang Thiêm, Đại cương
ngôn ngữ học (2009) của Đỗ Hữu Châu, v.v.
Ở những công trình này, các tác giả vẫn chưa có sự thống nhất về khái niệm,
cũng như cách phân loại và phương tiện biểu thị NTT. Hơn nữa, do mục đích nghiên
cứu riêng của từng công trình nên các tác giả mới chỉ đề cập đến vấn đề lí luận chung
của NTT ở mức độ khái quát.

3
Bên cạnh những công trình đề cập đến lí luận chung về NTT, chúng ta cần
phải nói tới những công trình nghiên cứu ứng dụng lí thuyết NTT vào câu tiếng Việt
(xét ở phạm vi trong nước). Chẳng hạn, Một số phương tiện biểu hiện ý nghĩa tình
thái trong câu ghép tiếng Việt (Luận án tiến sĩ, ĐHQGHN, 2001) của Ngô Thị Minh;
Khảo sát các động từ tình thái trong tiếng Việt (Luận án tiến sĩ, ĐHQGHN, 2004)

của Bùi Trọng Ngoãn; Tình thái nhận thức trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
(Luận văn thạc sĩ ĐHSPHN, 2005) của Lưu Văn Hưng; Tiểu từ tình thái trong tác
phẩm của Nam Cao từ góc nhìn ngôn ngữ học (Luận văn thạc sĩ, ĐHSPTN, 2009)
của Nguyễn Thị Kim Chi; Tình thái đạo nghĩa trong câu văn của tác phẩm Tắt đèn -
Ngô Tất Tố (Luận văn tốt nghiệp, người hướng dẫn: Nguyễn Thị Nhung, ĐHSPTN,
2012); Tình thái nhận thức của câu đối thoại trong truyện ngắn Nam Cao trước cách
mạng tháng tám (Luận văn tốt nghiệp, người hướng dẫn: Nguyễn Thị Nhung, ĐHSPTN,
2012). Đây là những công trình nghiên cứu ứng dụng một bộ phận phương tiện của
NTT ở một đối tượng hoặc một số tác phẩm văn học cụ thể. Tuy nhiên đến nay vẫn
chưa có một công trình nào nghiên cứu ứng dụng lí thuyết NTT vào kiểu câu trong
các đoạn hội thoại ở nhóm tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 11 - tập một.
trong các
đoạn hội thoại (trên những văn bản ở 11 - )”.
3

-
11 - ) trong câu
tiếng Việt t
.
- -
ăn .

:
- .

4
- , miêu t
(trên những
văn bản ở sách giáo khoa Ngữ văn 11 - tập một).
- ,

.
4
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là NTT của câu tiếng Việt.
- Về phạm vi nghiên cứu: d
các loại NTT chủ quan của câu trong những đoạn hội thoại
- .
5. Ngữ liệu và p
5.1. Ngữ liệu khảo sát
các đoạn hội thoại ở -
:
), ),
), (Nam Cao), ),
), ),
: -
- 17 x 24cm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu để tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp miêu tả với các thủ
pháp như sau:
+ Thủ pháp giải thích bên trong:
Thủ pháp thống kê, thủ pháp phân loại và hệ thống hóa là các thủ pháp giúp
chúng tôi xác định số lượng câu trong các đoạn hội thoại để chỉ ra đặc điểm mọi mặt,
cũng như vai trò, giá trị NTT của câu trong các đoạn hội thoại thuộc những tác phẩm
kể trên.
+ Thủ pháp giải thích bên ngoài:
Thủ pháp phân tích ngôn cảnh chúng tôi sử dụng để phân tích những yếu tố
thuộc về ngôn cảnh tình huống và ngôn cảnh văn hóa, lấy đó làm cơ sở giúp giải
thích và hiểu NTT của câu trong các đoạn hội thoại ở những tác phẩm trên.

5
Những thủ pháp thử nghiệm như thay thế, lược bỏ, cải biến, so sánh được sử

dụng để hạn chế sự cảm tính, chủ quan, tăng hiệu quả các thủ pháp, phương pháp khác.

:
Chƣơng 1. Cơ sở lí thuyết
Trong chương này, chúng tôi xác định những cơ sở lí thuyết cơ bản liên quan
đến đề tài như: khái niệm NTT; phân loại NTT; các phương tiện biểu thị NTT trong
tiếng Việt; một số vấn đề về hội thoại và hội thoại trong tác phẩm văn học; sơ lược về
từ, cụm từ, từ loại; đôi nét về các tác phẩm tự sự và kịch trong sách giáo khoa Ngữ
văn 11 - tập một; tính cách nhân vật, chủ đề tác phẩm, phong cách tác giả.
Chƣơng 2. Phƣơng tiện biểu thị nghĩa tình thái của câu trong các đoạn hội
thoại (trên những văn bản ở sách giáo khoa Ngữ văn 11 - tập một)
Chương này, chúng tôi trình bày kết quả khảo sát, phân loại và miêu tả các
phương tiện; phân tích những sắc thái ý nghĩa thuộc các bộ phận NTT chủ quan ở
ngữ liệu khảo sát.
Chƣơng 3. Giá trị nghĩa tình thái của câu trong các đoạn hội thoại (trên
những văn bản ở sách giáo khoa Ngữ văn 11 - tập một)
Chương này chúng tôi sẽ phân tích, khẳng định những đóng góp của NTT đối
với việc khắc họa tính cách nhân vật, thể hiện chủ đề tác phẩm và góp phần thể hiện
phong cách tác giả.






6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT

1.1. Khái quát về câu và nghĩa tình thái

1.1.1. Khái quát về câu
Vấn đề về câu từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước. Khái niệm này được các nhà ngôn ngữ học tiếp cận theo nhiều hướng
khác nhau.
* Trên thế giới có các khuynh hướng định nghĩa câu sau:
- Khuynh hướng định nghĩa câu dựa vào mặt ý nghĩa
Thế kỉ thứ III-II trước công nguyên, học phái ngữ pháp Alecxangđria đã nêu
định nghĩa: “Câu là sự tổng hợp của các từ biểu thị một tư tưởng trọn vẹn” [dẫn theo
2,105].
- Khuynh hướng hình thức ngữ pháp:
Khuynh hướng này, Tác giả F.Ja. Fililov theo dấu câu đã nêu định nghĩa: “
Câu là một chuỗi hình nằm giữa hai dấu chấm và hai chữ cái viết hoa” [dẫn theo
27, 11].
- Khuynh hướng định nghĩa câu dựa vào cả mặt ý nghĩa và mặt hình thức:
Viện sĩ V.V. Vinogradov định nghĩa như sau: Câu đó là đơn vị lời nói hoàn chỉnh
được hình thành về mặt ngữ pháp theo qui tắc một ngôn ngữ nhất định làm phương
tiện quan trọng nhất để cấu tạo, biểu thị và truyền đạt tư tưởng. Câu không chỉ biểu
thị sự truyền đạt về hiện thực mà còn cả mối quan hệ của người nói với hiện thực.
* Ở Việt Nam có các khuynh hướng định nghĩa câu sau:
- Khuynh hướng định nghĩa câu dựa vào mặt ý nghĩa:
+ Trần Trọng Kim: “Câu lập thành do một mệnh đề có nghĩa lọn hẳn hoặc do
hai hay nhiều mệnh đề”.
- Khuynh hướng định nghĩa câu dựa vào mặt ý nghĩa và hình thức:
+ Hoàng Trọng Phiến: “Câu là đơn vị của ngôn ngữ có cấu tạo ngữ pháp (bên
trong và bên ngoài) tự lập và có ngữ điệu kết thúc, mang một tư tưởng tương đối trọn
vẹn có kèm theo thái độ của người nói hoặc chỉ biểu thị thái độ của người nói, giúp

7
hình thành và biểu hiện, truyền đạt tư tưởng, tình cảm với tư cách là đơn vị thông báo
nhỏ nhất” [37, 285].

+ Diệp Quang Ban định nghĩa như sau: “ Câu là đơn vị của nghiên cứu ngôn
ngữ có cấu tạo ngữ pháp (bên trong và bên ngoài ) tự lập và ngữ điệu kết thúc, mang
một ý nghĩ tương đối trọn vẹn hay thái độ, sự đánh giá của người nói, giúp hình thành
và biểu hiện, truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Câu đồng thời là đơn vị thông báo nhỏ
nhất bằng ngôn ngữ” [2, 106].
- Khuynh hướng định nghĩa câu dựa vào khối lượng và chức năng:
Tiêu biểu cho khuynh hướng này là tác giả Nguyễn Thiện Giáp: Câu là đơn vị
ngôn ngữ nhỏ nhất có khả năng thông báo một sự việc, một ý kiến, một tình cảm hoặc
một cảm xúc.
Từ các cách định nghĩa trên cho thấy, câu được nhìn nhận ở nhiều phương diện và
có sự thay đổi theo từng thời kì khác nhau. Bởi vậy, trong lịch sử ngôn ngữ học đã tồn tại
nhiều định nghĩa về câu. Chúng tôi chọn cách định nghĩa câu dựa vào mặt ý nghĩa và
hình thức của tác giả Diệp Quang Ban. Do định nghĩa đã nêu được những đặc trưng về
nghĩa của câu và điều đó phù hợp với đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Phạm vi nghĩa của câu là một vấn đề khá phức tạp, việc đưa ra một câu trả lời
chính xác: “Câu nói của chúng ta truyền tải những nghĩa gì?” là không dễ. Dù đã cố
gắng đưa ra đáp án, nhưng vẫn chưa có câu trả lời nào thỏa mãn được số đông ý kiến
của các nhà ngôn ngữ học. Sang đến những nghiên cứu gần đây, đã bắt đầu thấy xuất
hiện sự phân biệt ra các loại ý nghĩa tuy không phải lúc nào cũng rõ ràng, nhưng hầu
hết đều thống nhất rằng câu có hai nghĩa: nghĩa miêu tả và nghĩa tình thái.
1.1.2. Khái niệm nghĩa tình thái
Trong lịch sử nghiên cứu ngành ngôn ngữ học, mặc dù tình thái trong ngôn
ngữ là một vấn đề khá mới so với các vấn đề ngôn ngữ khác, nhưng nó lại được các
nhà nghiên cứu quan tâm một cách đặc biệt bằng những công trình nghiên cứu
chuyên sâu, tiếp cận theo nhiều hướng với những phương diện khác nhau. Chính sự
quan đặc biệt của các nhà ngôn ngữ đã khiến cho lĩnh vực nghiên cứu nghĩa tình thái
ngày một phát triển. NTT là một thành phần nghĩa phức tạp, bởi vậy nó được hiểu
theo nhiều cách khác nhau và quan niệm về nó chưa có sự nhất quán trong các nhà
ngôn ngữ học. Điều đó được thể hiện như sau:


8
- Quan niệm của các nhà ngôn ngữ học nước ngoài.
+ Vinogradov xem tình thái như phạm trù ngữ pháp độc lập, tồn tại song song với
phạm trù vị tính và định nghĩa nó như sau: “ Mỗi câu đều mang một ý nghĩa tình thái
như dấu hiệu cấu trúc cơ bản, tức chỉ ra quan hệ đối với hiện thực” [22].
+ Ch. Bally cũng là một trong những người đầu tiên đề cập đến vấn đề tình
thái một cách hệ thống. Ông chủ trương phân biệt trong cấu trúc nghĩa của phát ngôn
hai thành phần cơ bản tương ứng là dictum (tình thái) và modus (ngôn liệu). Trong
đó, dictum là bộ phận biểu hiện nội dung sự tình ở dạng tiềm năng. Nó gắn với chức
năng kinh nghiệm, chức năng miêu tả của ngôn ngữ. Còn mudus thì gắn với bình diện
chủ quan, thể hiện những nhân tố như ý chí, thái độ, sự đánh giá của người nói đối
với điều được nói ra, xét trong các chiều kích quan hệ với thực tế, quan hệ với người
đối thoại và quan hệ với hoàn cảnh giao tiếp. Modus tham gia vào quá trình thực tại
hóa, nhờ đó nội dung sự tình còn ở dạng tiềm năng có thể trở thành phát ngôn hiện
thực. Modus cho biết sự tình nêu trong phát ngôn chỉ là khả năng hay đã là hiện thực,
là khẳng định hay phủ định, cho biết mức độ cam kết của người nói đối với độ xác
thực của điều được nói ra, thể hiện đánh giá của người nói đối với hành động được
nêu ra trong câu, cho biết ý chí, mong muốn, mục đích của người nói khi phát ngôn
câu nói,… [22, 86]
Ví dụ: (1) Anh hát.
(2) Anh hát à?
(3) Anh hát đi!
(4) Anh đã hát đâu.
Các ví dụ nêu trên, đều có chung một nội dung cốt lõi là chỉ quá trình diễn ra
một sự việc. Hay nói cách khác, chúng đều có chung một nội dung mệnh đề là Anh
hát. Song ở mỗi ví dụ lại có một ý nghĩa tình thái riêng, cụ thể: Ở ví dụ (1) là tình thái
khẳng định, không có tiểu từ tình thái cuối câu. Ở ví dụ (2) tiểu từ tình thái à cuối
câu, là tình thái nghi vấn, thể hiện sự quan tâm của người nói đối với người nghe.
Tiếp đến ví dụ (3) có tiểu từ tình thái đi biểu thị hành động điều khiển, giục giã. Còn
ví dụ (4), từ đâu cuối câu biểu thị tình thái phủ định, bác bỏ sự việc nói trên. Và chính

các tình thái này làm nên sự khác nhau của bốn câu trên.

9
Xuất phát từ hai thuật ngữ dictum và modus trên, Ch. Bally đã đưa ra định
nghĩa như sau: “Tình thái là thái độ của người nói được biểu thị đối với sự việc hay
trạng thái diễn đạt trong câu” [ 22, 86].
+ O.B. Xirotinina cho rằng tình thái nằm trong vị tính của câu “thời tính, tình
thái tính và ngôi tính nằm trong cấu trúc vị tính và cùng nhau tạo nên cái gọi là vị tính
mà thiếu nó thì không thể có thông báo” [ 22, 84].
+ Liapol quan niệm: “Tình thái là phạm trù ngữ nghĩa chức năng thể hiện các
dạng quan hệ khác nhau của phát ngôn với thực tế cũng như các dạng đánh giá chủ
quan khác nhau với điều được thông báo” [22, 85].
+ Palmer định nghĩa: “Tình thái là thông tin ngữ nghĩa của câu thể hiện thái độ
hoặc ý kiến của người nói đối với điều được nói đến trong câu” [22, 85].
+ Theo Lyons: “ Tình thái là thái độ của người nói với nội dung mệnh đề mà
câu biểu thị hay sự tình mà mệnh đề miêu tả” [22, 85].
+ N. Chomsky quan niệm rằng: câu bao giờ cũng phải là câu tường thuật hay
câu nghi vấn hoặc câu mệnh lệnh. Tính chất khác nhau của các câu đó là tình thái.
Như vậy, tình thái là yếu tố bắt buộc phải có, để cùng với “hạt nhân” tạo ra “câu cơ
sở” [dẫn theo 34, 104 – 105].
+ J. Bybee hiểu tình thái theo nghĩa rộng, đó là “tất cả những gì mà người nói
thực hiện cùng với toàn bộ nội dung mệnh đề” [dẫn theo 34, 105].
Như vậy, trên thế giới có quan niệm rộng, hẹp khác nhau về NTT.
+ Theo quan niệm hẹp, NTT thường được cho là phần nghĩa phản ánh mối
quan hệ, thái độ, ý định của người nói đối với nội dung phát ngôn và quan hệ nội
dung phát ngôn đối với thực tế.
+ Theo quan niệm rộng, tình thái - nói theo Bybee - là “tất cả nhũng gì mà
người nói thực hiện cùng với toàn bộ nội dung mệnh đề”.
- Quan niệm của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam
+ Hoàng Trọng Phiến cho tình thái là một điều kiện để tạo câu (cùng với tính vị

ngữ: “Câu bao giờ cũng mang tính tình thái nhất định. (…). Nó có tác dụng thông báo
một điều gì mới mẻ. Qua câu, người nhận hiểu rõ người nói có thái độ như thế nào đối
với hiện thực, người nói trình bày hiện thực với sự đánh giá của mình” (đúng hay sai, tin
hay ngờ, ước đoán hay đã tồn tại thực, khuyên bảo hay ra lệnh…). [dẫn theo 34, 105].

10
+ Cao Xuân Hạo phân biệt: “Trong lô gích học, nội dung của một mệnh đề
được chia làm hai phần. Phần thứ nhất gọi là ngôn liệu (lexis hay dictum), tức cái tập
hợp gồm sở thuyết (vị ngữ lô gích) và các tham tố của nó được xét như một mối liên
hệ tiềm năng, và phần thứ hai gọi là tình thái (modalité), là cách thực hiện mối quan
hệ ấy, cho biết mối liên hệ ấy là có thật (hiện thực) hay là không có (phủ định nó, coi
nó là phi hiện thực), là tất yếu hay là không tất yếu, là có thể có được hay không thể
có được” [dẫn theo 34, 105 - 106].
+ Theo Diệp Quang Ban thì câu có nghĩa miêu tả và nghĩa tình thái. Nghĩa
miêu tả phản ánh vật, việc, hiện tượng được nói đến trong câu. Nghĩa tình thái chỉ ý
định (ý chí, ý muốn), thái độ, tình cảm của người nói đối với điều được nói ra (còn
được gọi là nghĩa liên nhân, nghĩa bộc lộ). Ngoài ra, phần nghĩa chỉ quan hệ của
người nói đối với người nghe cũng có thể xếp vào nghĩa tình thái. [1, 181].
+ Nguyễn Văn Hiệp cho rằng “Nghĩa tình thái là phạm trù ngữ nghĩa bao gồm
những quan điểm, thái độ khác nhau của người nói, được hiểu như là những thông tin
kèm theo, có tác dụng định tính cho nội dung được miêu tả trong câu, xét trong mối
quan hệ với người nghe, với hoàn cảnh giao tiếp” [22, 84].
+ Nguyễn Thiện Giáp đã phân biệt tình thái trong lô gích và trong ngôn ngữ. Lô
gích học quan tâm tới tình thái khách quan, chỉ quan tâm tới giá trị chân lí của mệnh
đề. Tình thái trong ngôn ngữ liên quan đến thái độ chủ quan của người nói. Đó là thái
độ của người nói với nội dung mệnh đề mà câu biểu thị hay tình trạng mà mệnh đề đó
miêu tả, là thông tin ngữ nghĩa của câu thể hiện thái độ hoặc ý kiến của người nói đối
với điều được nói ra. [17, 334 - 335].
+ Nguyễn Thị Lương định nghĩa: “Tình thái là một phần nghĩa của câu thể
hiện thái độ, ý định, mục đích hay quan hệ giữa người nói với người nghe, giữa người

nói với hiện thực (sự tình) được phản ánh trong câu, giữa nội dung được phản ánh
trong câu với hiện thực ngoài thực tế khách quan” [27, 178].
+ Nguyễn Thị Nhung, trong Đề cương bài giảng dành cho học viên sau Đại
học, theo quan niệm rộng, tác giả cho rằng: “Tình thái là tất cả những gì mà người nói
thể hiện kèm theo nội dung mệnh đề khi thực hiện một lời nói. Nó biểu thị ý định,
thái độ, sự đánh giá của người nói với nội dung phát ngôn, quan hệ của nội dung phát
ngôn với hiện thực khách quan và quan hệ của người nói với người nghe” [34, 107].

11
Tổng hợp những quan niệm của các nhà ngôn ngữ học về khái niệm NTT từ
trước đến nay, chúng tôi thấy rằng: Tình thái là một phạm trù phức tạp và chưa thể
thống nhất. Đúng như V.Panfilov đã có một nhận xét rất xác đáng là: không có phạm
trù nào mà bản chất ngôn ngữ học và thành phần các ý nghĩa bộ phận lại gây ra nhiều
ý kiến khác biệt và đối lập nhau như phạm trù tình thái. Trong công trình này chúng
tôi quyết định theo quan điểm rộng về NTT trong Đề cương bài giảng của Nguyễn
Thị Nhung, bởi nội dung định nghĩa phù hợp với việc nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến nội dung mà chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát trong cả luận văn.
1.1.3. Phân loại nghĩa tình thái
Như chúng ta đã biết, hiện nay một trong những trọng tâm mà ngữ pháp chức
năng - khuynh hướng ngữ pháp thiên về ngữ nghĩa đang theo đuổi là nghiên cứu tình
thái của câu. Cũng như những quan niệm về định nghĩa, khái niệm tình thái thì việc
phân loại NTT cũng trở nên vô cùng phức tạp khi ngành ngôn ngữ học đón nhận rất
nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Việc phân loại NTT cũng đã có nhiều ý
kiến, quan điểm không thống nhất và có sự khác nhau tương đối:
- Cách phân loại của các nhà ngôn ngữ học nước ngoài
+ V.N. Bondrenko cho rằng chỉ có hai nhóm ý nghĩa dưới đây mới đúng là các
ý nghĩa tình thái:
. Nhóm 1: Tính khả năng, tính thực tế và tính cần yếu. Nhóm ý nghĩa này là cơ
sở cho tình thái khách quan.
. Nhóm 2: Sự nghi ngờ, tính không chắc chắn (giả định khả năng) và tính dứt

khoát. Nhóm ý nghĩa này là cơ sở chính cho tình thái chủ quan.
+ J. Lyons nêu lên hai loại ý nghĩa tình thái là tình thái nhận thức và tình thái
đạo nghĩa. Cả hai tình thái này đều có thể mang tính khách quan hoặc chủ quan. Tính
khách quan có ở “tình thái được trình bày như một cái gì đó hiện tồn trong thế giới khả
hữu mang tính nhận thức hay đạo nghĩa nào đó, vốn ở bên ngoài bất kì ai nói câu đó
trong những trường hợp phát ngôn cụ thể” [29, 340]. Tính chủ quan thể hiện “khi phát
ngôn câu này, người nói (khAAái quát hơn, tác thể tạo lời) có thể biểu đạt hoặc niềm
tin và thái độ riêng, hoặc mong muốn và thẩm quyền riêng của mình chứ không phải
chỉ là tường thuật sự tồn tại của một sự tình này nọ, với tư cách của một người quan sát
trung dung. Tình thái chủ quan phổ biến hơn rất nhiều so với tình thái khách quan trong
hầu hết những trường hợp sử dụng ngôn ngữ thường ngày”. [29, 340].

12
+ F. Pamer cũng nói tới tình thái nhận thức và đạo nghĩa. Trong đó, tình thái
nhận thức “cần được xem là dùng để chỉ ra vị thế hiểu hay biết của người nói”, nó
“không chỉ liên quan đến tính khả năng hay tất yếu mà còn liên quan đến mức độ cam
kết của người nói đối với điều anh ta nói ra”. Còn “tình thái đạo nghĩa lại liên quan
đến tính hợp thức về đạo lý của hành động do một người nào đó hay chính người nói
thực hiện” [dẫn theo 47, 16].
+ M. Liapon có cách chia khác như sau: Ông chia ý nghĩa tình thái thành hai
loại là tình thái khách quan và tình thái chủ quan. Tình thái khách quan là dấu hiệu tất
yếu của một phát ngôn bất kì, biểu thị mối quan hệ giữa cái được thông báo với thực
tế ở bình diện hiện thực tính và phi hiện thực tính. Tình thái chủ quan là dấu hiệu
không bắt buộc của một phát ngôn, biểu thị quan hệ của người nói với điều được
thông báo. Khái niệm “đánh giá” làm nên cơ sở ngữ nghĩa cho “tình thái chủ quan”
nó bao gồm không chỉ các đánh giá lô gich (lí tính, duy lí) mà cả các dạng khác nhau
về phản ứng có tính cảm giác (phi lí tính).
+ Rescher (1969) đã đề nghị một hệ thống mở về tình thái. Bên cạnh các loại
tình thái tất suy và đạo lí ông đề cập các loại tình thái: tình thái thời đoạn, mong ước,
những tình thái đánh giá và những tình thái nhân quả. [22, 80 - 81].

Như vậy, các nhà ngôn ngữ học nước ngoài thường phân biệt giữa tình thái
nhận thức và tình thái đạo nghĩa (ở các mức độ khác nhau) khi nói tới tình thái. Họ
đều dựa trên hai tiêu chí là tính chủ quan và tính khách quan trong mối quan hệ với
hành động và ý nghĩa ngôn từ.
- Quan niệm của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam
+ Cao Xuân Hạo trước hết phân biệt hai loại tình thái: tình thái của hành động
phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn. Tình thái của hành động phát ngôn thuộc
bình diện dụng pháp, phân biệt các lời về phương diện mục tiêu, tác dụng của giao tế.
Tình thái của lời phát ngôn thuộc bình diện nghĩa học, gắn với nội dung được truyền
đạt, thái độ của người nói với điều được nói ra, quan hệ giữa sở đề và sở thuyết của
mệnh đề. Tình thái của lời phát ngôn lại được chia thành: tình thái của câu (thái độ
của người nói với điều nói ra, tính hiện thực, xác thực, tất yếu, khả năng,…); tình thái
của cấu trúc vị ngữ hạt nhân (dạng thức của hành động, tính chất, trạng thái do phần
thuyết biểu thị). [dẫn theo 34, 110].

13
+ Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học (Nguyễn Như Ý chủ biên) phân
biệt tình thái khách quan với tình thái chủ quan. Tình thái khách quan “biểu hiện mối
quan hệ của điều được thông báo đối với hiện thực khách quan (có thật hay không có
thật, có thể hay không có thể, tất yếu hay ngẫu nhiên) bằng các phạm trù thức, phạm
trù thời, các loại ngữ điệu khác nhau v.v…” [48, 297]. Tình thái chủ quan “biểu hiện
thái độ (quan hệ) của người nói đối với điều được thông báo (tin hay không tin, đồng
ý hay không đồng ý, đánh giá, biểu cảm) bằng trật tự từ, ngữ điệu, phép kí từ, từ tình
thái, tiểu từ, từ cảm, từ xen, v.v…” [48, 297].
+ Nguyễn Văn Hiệp cho rằng, phải qua những đối lập thì bức tranh về tình thái
mới hiện ra một cách rõ ràng nhất, đúng bản chất nhất. Tác giả đã đưa ra các thể đối
lập: tình thái trong logic và tình thái trong ngôn ngữ; trong ngôn ngữ lại có đối lập
giữa tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa, đối lập giữa tình thái nhận thức và
tình thái căn bản, đối lập giữa tình thái hướng tác thể và tình thái hướng người nói,
đối lập giữa tình thái của mục đích phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn và cuối

cùng là những đối lập tình thái mang tính “lập trường” thuộc chủ quan của người nói.
[22, 96 - 127].
+ Diệp Quang Ban cũng phân biệt tình thái của hành động nói và tình thái của
phát ngôn: “Tình thái của hành động nói là ý định (ý chí, ý muốn, còn gọi là cái đích,
mục đích) thực hiện một hành động nào đó của người nói khi nói ra một lời.
Tình thái của phát ngôn là cách đánh giá, thái độ của người nói đối với sự thể
(vật, việc, hiện tượng) được nói đến trong phát ngôn”. [1, 183].
Tình thái của phát ngôn gồm tình thái khách quan và tình thái chủ quan. Tình
thái khách quan có thể kiểm tra được tính đúng sai, gồm tình thái khẳng định và tình
thái phủ định. Tình thái chủ quan là thứ tình thái không kiểm tra được tính đúng sai,
chỉ thái độ, cách đánh giá của người nói đối với vật, việc, hiện tượng được nói đến.
Ngoài ra, tình thái chỉ ý kiến và tình thái chỉ quan hệ của người nói đối với người
nghe cũng có thể xếp vào phạm trù tình thái trong câu. [1, 201-204].
+ Nguyễn Thị Nhung, trên cơ sở hai công trình Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú
pháp (Nguyễn Văn Hiệp, 2007, 74 - 186) và Ngữ pháp tiếng Việt (Diệp Quang Ban -
Hoàng Dân, 2000, 196 - 206) đã đưa ra những nhận định và có cách nhìn bao quát về
các thành phần NTT. Tác giả cho rằng, trong tình thái của lời phát ngôn cần phân biệt

14
nghĩa tình thái hướng về sự việc và nghĩa tình thái hướng về người nghe. Ở nghĩa tình
thái hướng về sự việc có hai nhóm: nhóm tình thái khách quan và nhóm tình thái chủ
quan. Nhóm tình thái khách quan gồm tình thái khẳng định, tình thái phủ định, tình
thái của sự tình được truyền đạt. Nhóm tình thái chủ quan lại gồm tình thái biểu thị
nhận thức, ý kiến, tình thái biểu thị đạo nghĩa, tình thái biểu thị thái độ, tình cảm và
tình thái đánh giá”. [34, 112].
Tóm lại, các tác giả trên đã có cách nhìn nhận các thành phần NTT không chỉ
trong quan hệ đẳng lập mà cả trong quan hệ cấp độ, tôn ti. Nhờ vậy, các NTT đã có quan
hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành hệ thống tương đối hoàn chỉnh.
Trong thực tế sử dụng ngôn ngữ, thật khó mà có được một sự phân biệt thật rõ
ràng, bao quát cho tất cả các ý nghĩa thuộc phạm trù tình thái. Bởi trong ngôn ngữ tự

nhiên, các phương tiện biểu hiện tính tình thái là rất đa dạng. Các ý nghĩa tình thái
nhiều khi đan bện vào nhau làm thành một phổ liên tục không dễ gì quy hoạch thành
những kiểu loại, những bình diện rõ ràng. Tuy vậy, để bức tranh về NTT trong câu
tiếng Việt hiện lên một cách sáng rõ thì việc phân loại vẫn là một yêu cầu bắt buộc
đối với người nghiên cứu.
Xuất phát từ cách phân loại về NTT của các tác giả trên, chúng tôi có thể tổng
hợp và đưa ra những bộ phận NTT cụ thể như sau:
Đầu tiên, chúng tôi chia NTT thành hai bộ phận lớn: bộ phận thứ nhất biểu thị
mối quan hệ của điều được thông báo đối với hiện thực khách quan; bộ phận thứ hai
biểu thị quan hệ giữa người nói đối với điều được nói đến trong câu, và với người
nghe. Bộ phận thứ nhất còn được gọi là nhóm NTT khách quan (NTTKQ) hoặc NTT
hướng tác thể; bộ phận thứ hai được gọi là nhóm NTT chủ quan (NTTCQ). Mặc dù
tình thái khách quan đã được logic học quan tâm đến bởi nó biểu thị tính đúng/sai hay
thực cách của mệnh đề trong câu nói, nhưng nó cũng là một nhóm, một bộ phận
nghĩa tình thái trong ngôn ngữ học.
Tiếp đến là các tiểu nhóm NTT thuộc hai bộ phận NTT trên cũng được chúng
tôi đề cập một cách cụ thể.
1.1.3.1. Tình thái khách quan
Tình thái khách quan là loại NTT chỉ ra mối quan hệ giữa cái được thông báo với
thực tế ở bình diện hiện thực tính, phi hiện thực tính và phản hiện thực tính. Đó là dấu

15
hiệu NTT của bất kỳ phát ngôn nào. Nó gạt bỏ mọi nhân tố chủ quan như ý chí, sự đánh
giá, mức độ cam kết, thái độ hay lập trường của người nói. Người nói chỉ trình bày lại
hiện thực một cách khách quan, như nó vốn có mà thôi.
Bộ phận NTT này thường được chia làm ba loại là: NTTKQ hiện thực,
NTTKQ phi hiện thực và NTTKQ phản hiện thực.
a. Nghĩa tình thái khách quan hiện thực
Loại NTT này biểu thị sự việc được nói đến trong câu là có tính hiện thực: đã
xảy ra, có điểm bắt đầu/ điểm kết thúc, có trạng thái kéo dài/ không kéo dài, bất ngờ/

không bất ngờ
Ví dụ: (5) Tôi đã làm xong bài kiểm tra.
(dùng phó từ chỉ thời gian đã trong câu để khẳng định sự việc “làm…bài kiểm tra” đã
xảy ra, đã hoàn thành).
b. Nghĩa tình thái khách quan phi hiện thực
Đây là tiểu bộ phận NTTKQ biểu thị sự việc được nói đến trong câu là chưa
xảy ra, có khả năng xảy ra trong hiện thực khách quan.
Ví dụ: (6) Ngày mai, nó định về quê thăm gia đình.
(động từ tình thái định xuất hiện trong câu thể hiện ý định, khả năng có thể xảy ra; sự
việc chưa xảy ra trong thực tế).
c. Nghĩa tình thái khách quan phản hiện thực
Tiểu bộ phận NTTKQ này biểu thị sự việc được nói đến trong câu là không
xảy ra trong hiện thực khách quan. Đây cũng chính là NTT phủ định, và phủ định
mang tính khách quan thường là phủ định miêu tả. Đó là sự xác nhận âm tính đối với
sự tồn tại của hiện tượng, quan hệ, sự vật,…
Ví dụ: (7) Nó không đi làm.
(sự xuất hiện của phó từ không nhằm đưa ra xác nhận âm tính đối với việc đi làm của
chủ nhân Nó, sự việc được nói tới là không xảy ra).
1.1.3.2. Tình thái chủ quan
Tình thái chủ quan thể hiện vai trò của người nói đối với điều được nói ra
trong câu và với người nghe. Người nói đưa ra những bằng chứng, suy luận có tính cá
nhân làm cơ sở cho một cam kết nào đó đối với tính chân thực của điều được nói ra
trong câu hoặc thể hiện thái độ của mình đối với hành động được đề cập đến trong

16
câu. Dung lượng của tình thái chủ quan có tính chất rộng hơn tình thái khách quan và
không đồng nhất. Tình thái chủ quan được chia thành hai tiểu nhóm như sau: nhóm
biểu thị quan hệ của người nói với sự tình được nói đến trong câu và nhóm biểu thị
quan hệ của người nói đối với người nghe.
a. Nhóm biểu thị quan hệ của người nói với sự tình được nói đến trong câu.

Tiểu nhóm này bao gồm: nghĩa tình thái nhận thức (NTTNT), nghĩa tình thái
cảm xúc (NTTCX) và nghĩa tình thái đánh giá (NTTĐG)
+ Tình thái nhận thức: Tính chủ quan trong tình thái nhận thức thể hiện ở
những bằng chứng và cơ sở suy luận mang tính cá nhân của người nói nhằm thể hiện
sự cam kết có phạm vi, mức độ vào tính chân thực của điều được nói ra. Trường hợp
không đánh dấu về tình thái nhận thức là người nói xác nhận hoàn toàn tính chân thật
của điều được nói ra. Còn trường hợp có đánh dấu về tình thái nhận thức là trường
hợp người nói thể hiện những mức độ cam kết thấp hơn. NTTNT được đánh dấu ở
các sắc thái: NTTNT hiện thực (người nói khẳng định tính chân lí của điều được nói
đến trong câu; khẳng định điều được nói đến trong câu có một giá trị tương đối hay
có sự xác thực hạn chế), NTTNT phi hiện thực (người nói phỏng đoán, nhận định về
một điều gì đó có thể đã xảy ra, đang, sẽ xảy ra hoặc không xảy ra) và NTTNT phản
hiện thực (người nói khẳng định tính chân lí của một nội dung mang đính phủ định
được nói đến trong câu).
Ví dụ: (8) Chắc là cô ấy đi du học rồi.
(dùng từ Chắc là biểu thị khả năng hiện thực là phỏng đoán, nửa tin nửa ngờ về việc cô ấy
đi du học, sự phỏng đoán với độ tin cậy cao; thuộc sắc thái NTTNT phi hiện thực).
+ Tình thái cảm xúc: là tiểu loại tình thái chủ quan dùng để biểu thị thái độ,
các cung bậc cảm xúc của người nói trước điều được nêu ra trong câu. NTTCX được
đánh dấu bởi các sắc thái: NTTCX vui mừng, phấn khởi, tự hào; NTTCX băn khoăn,
lo lắng, sợ hãi; NTTCX buồn khổ, nuối tiếc, đau đớn, xót xa; và NTTCX coi thường,
khinh ghét, bực tức.
Ví dụ: (9) A, nhìn thấy rồi!
(dùng tiểu từ tình thái A nhằm biểu lộ cảm xúc vui mừng, phấn khởi).
+ Tình thái đánh giá: biểu thị sự đánh giá của người nói đối với điều được nêu
ra trong câu. NTTĐG được đánh đấu bởi các sắc thái: NTTĐG về tính hợp lí;

×