Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Chuyện cũ Hà Nội trong văn Tô Hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (721.87 KB, 113 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM





NGUYỄN THỊ ÚT HÀ






“CHUYỆN CŨ HÀ NỘI” TRONG VĂN TÔ HOÀI





LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN











Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Thái Nguyên, năm 2013





ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM




NGUYỄN THỊ ÚT HÀ






“CHUYỆN CŨ HÀ NỘI” TRONG VĂN TÔ HOÀI



Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60220121



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. Phong Lê





Thái Nguyên, năm 2013


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, tác giả xin chân thành cảm ơn GS. Phong Lê,
người thầy đã tận tâm giúp đỡ, hướng dẫn, động viên tác giả trong suốt quá
trình thực hiện đề tài.
Tác giả luận văn cũng xin chân thành cảm ơn.
Các thầy cô giáo cộng tác, các cấp quản lí, lãnh đạo của Trường Trung
học phổ thông Vị Xuyên - huyện Vị Xuyên - tỉnh Hà Giang
Khoa Ngữ văn, khoa Sau Đại học, các quý thầy cô giảng dạy lớp cao
học Văn K19 - trường Đại học sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều
kiện cho tác giả học tập và nghiên cứu.
Toàn thể các anh chị em, bạn bè và gia đình đã quan tâm giúp đỡ.
Xin chân thành cảm ơn!


Thái Nguyên, tháng 4 năm 2013
Tác giả


Nguyễn Thị Út Hà


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả, số liệu nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kì công trình nào khác
Ngƣời viết cam đoan
(Ký và ghi rõ họ tên)


Nguyễn Thị Út Hà





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ

Lời cảm ơn i
Lời cam đoan ii
Mục lục iii
PHẦN MỞ ĐẦU 6
PHẦN NỘI DUNG 12
Chƣơng 1: BỐI CẢNH XÃ HỘI - ĐỜI SỐNG VĂN HỌC NHỮNG NĂM
1941 -1945 VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN TÔ HOÀI 12
1.1. Bối cảnh xã hội những năm 1941 – 1945 12
1.2. Đời sống văn học trong những năm 1941 - 1945 15
1.3. Sự nghiệp sáng tác và vị trí đề tài Hà Nội trong sáng tác của nhà văn Tô
Hoài 16
1.3.1. Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài. 16
1.3.2. Vị trí đề tài Hà Nội trong sáng tác của nhà văn Tô Hoài 18
Chƣơng 2: GIÁ TRỊ VÀ ĐẶC TRƢNG CỦA “CHUYỆN CŨ HÀ NỘI” 23
2.1. Bức tranh đô thị hóa trong Chuyện cũ Hà Nội 23
2.2. Người và cảnh trong Chuyện cũ Hà Nội. 33
2.2.1. Con người trong Chuyện cũ Hà Nội 33
2.2.2. Cảnh trong Chuyện cũ Hà Nội 44
2.3. Nếp sống và phong tục trong Chuyện cũ Hà Nội 54
2.3.1. Nếp sống trong Chuyện cũ Hà Nội 54
2.3.2. Phong tục trong Chuyện cũ Hà Nội 58
2.4. Ẩm thực và thú chơi trong Chuyện cũ Hà Nội 67
2.4.1. Ẩm thực trong Chuyện cũ Hà Nội 67
2.4.2. Thú chơi trong Chuyện cũ Hà Nội 74


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
2.5. Nội thị và ven đô trong Chuyện cũ Hà Nội 77

2.5.1. Nội thị trong Chuyện cũ Hà Nội 77
2.5.2. Ven đô trong Chuyện cũ Hà Nội 82
Chương 3 ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT VÀ PHONG CÁCH CỦA TÔ HOÀI 86
3.1. Sức nhớ và sức nghĩ của Tô Hoài 86
3.2. Cái hóm hỉnh và tiếng cười tinh nghịch trong văn Tô Hoài 96
3.3. Cách kể chuyện của Tô Hoài 101
PHẦN KẾT LUẬN 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO 109


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Hà Nội - mảnh đất ngàn năm văn hiến, luôn là một nguồn cảm
hứng, là đề tài khiến nhiều nhà văn say mê. Có những nhà văn đã dành tâm
huyết cả cuộc đời cho những trang viết về Hà Nội. Trong số những nhà văn
ấy, Tô Hoài là một người tiêu biểu.
Đề tài Hà Nội có mặt trong nhiều sáng tác của Tô Hoài. Trong bài Tô
Hoài sáu mươi năm viết GS Phong Lê đã nhận xét:“Đề tài Hà Nội cũ và mới
vốn là mạch sống quen thuộc ở Tô Hoài, vẫn liên tục xuất hiện cho đến nay;
mỗi tác phẩm ra đời, từ Người ven thành (1972), qua Quê nhà (1980) đến Kẻ
cướp bến bỏi (1996), đều được bạn đọc chú ý, tuy không gây sôi nổi trong dư
luận. Có tác phẩm rất quý giá về tư liệu và vui hóm trong cách kể như hai tập
Chuyện cũ Hà Nội (1998), nhưng lại có ít bài bàn và bình.” [23, 18]
1.2. Chuyện cũ Hà Nội là một tác phẩm tiêu biểu của Tô Hoài về đề tài
Hà Nội. Được viết vào những năm 90 của thế kỉ XX, bao gồm 114 truyện
ngắn, mỗi truyện như kể lại, thuật lại những cảnh, những người, những việc
hoàn toàn có thật của một Hà Nội vào nửa đầu thế kỉ XX trong thời kì thuộc

Pháp. Một Hà Nội xưa cũ với người và cảnh, nếp sống và phong tục qua
những trang văn Tô Hoài đã đem lại cho người đọc một lượng kiến thức rất
phong phú về xã hội học, dân tộc học và phong tục học. Tuy nhiên, cho đến
nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu về Chuyện cũ Hà Nội. Vì vậy, đây là
một nội dung còn mới mẻ, rất cần được nghiên cứu.
1.3. Năm 2010 vừa qua, nước ta tổ chức lễ kỉ niệm 1000 năm Thăng
Long Hà Nội. Đại lễ thể hiện niềm tự hào của nhân dân cả nước với lịch sử và
truyền thống thủ đô ngàn năm tuổi. Ngày nay, trong công cuộc công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước, Hà Nội càng nhận được sự quan tâm của nhân


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
dân Việt Nam và nhân dân thế giới. Hà Nội đã, đang và sẽ mãi là trái tim của
đất nước Việt Nam. Với niềm tự hào về thủ đô Hà Nội xưa và nay, với tình
yêu mến dành cho nhà văn Tô Hoài, nhằm giúp cho bạn đọc có một cái nhìn
cụ thể hơn về Hà Nội trong văn học, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài:
“Chuyện cũ Hà Nội” trong văn Tô Hoài.
2. Lịch sử vấn đề
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về tác giả Tô Hoài, nhưng nghiên
cứu về hai tập truyện Chuyện cũ Hà Nội của ông lại rất ít, chỉ có một vài ý
kiến của các nhà phê bình được nằm rải rác trong các công trình nghiên cứu
mang tính khái quát, giới thiệu, mà chưa thực sự đi vào nghiên cứu chuyên
biệt. Trong phạm vi luận văn chúng tôi chỉ điểm duyệt những ý kiến có liên
quan trực tiếp đến đề tài Hà Nội của nhà văn Tô Hoài.
Người đầu tiên nghiên cứu văn chương Tô Hoài là nhà nghiên cứu phê
bình Vũ Ngọc Phan. Ông đã phát hiện ra:“Người “kẻ Bưởi” là những người ở
gần Hà Nội, đã nhiễm ít nhiều thói tục của đất kinh kỳ, tuy tính tình họ còn
giản dị và chất phác, nhưng cách sống của họ đã bắt đầu phức tạp, không còn

như những dân quê các miền xa.” [23, 58]
Trong bài Tô Hoài sáu mươi năm viết GS Phong Lê nhận xét:”Ở đề tài
Hà Nội - quê ông, tức Hà Nội ven đô, Hà Nội mà ông đã vừa trải rộng vừa
đào sâu vào thế giới bên ngoài và bên trong nó, Hà Nội ấy vẫn đi theo ông,
dẫu ông đi bất cứ đâu, để thành hành trang của ông, để mỗi lúc soi nhìn nó,
ông lại thấy bao điều mới lạ, cả trong ba chiều: quá khứ, hiện tại và tương lai.
Một Hà Nội - quê hương trong ba chiều thời gian, quả đã làm nên vóc dáng
một Tô Hoài, có giống và có khác với Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Nguyễn


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Huy Tưởng - cái “bộ tứ” làm nên khuân hình và chất lượng “người Hà Nội –
Văn Hà Nội”[23,37]
Cũng nhận xét về đề tài Hà Nội, PGS Trần Hữu Tá viết : “Ông viết về
Hà Nội hồi đầu thế kỉ với những công cuộc đấu tranh, quật khởi chống Pháp
ngấm ngầm hay công khai ( Quê nhà - tiểu thuyết; Câu chuyện bên bờ đầm
sen và cửa miếu Đồng Cổ - truyện ngắn). Một Hà Nội với đủ mọi thứ chuyện
của đời thường trong mấy chục năm trước Cách mạng tháng Tám: từ cảnh
mua bán người thê thảm ở phố Mới đến chuyện kinh doanh thức ăn thừa rất
dơ dáy của lính Tây ở cửa Đông; từ việc Tây đoan khám rượu lậu đến “tiếng
rao đêm” bán quà bánh trên các đường phố vv ( Chuyện cũ Hà Nội) Cái
quý của những tác phẩm này còn ở giá trị tư liệu. Biết bao nhiêu thứ chuyện,
bao nhiêu cảnh đời một thời vang bóng đã được tái hiện một cách sống động.
Nó giúp ta hiểu quá khứ, từ những chi tiết sinh hoạt nhỏ nhặt. Những tên đất,
tên trạm, đặc sản địa phương. Cách chạm cửa miếu và lễ dựng nóc. Cảnh rước
kiệu linh đình, kiệu bay, kiệu bò. Cách nói, cách gọi đồ vật, sự vật theo lối
xưa vv Tất cả làm tăng màu sắc cổ kính của tác phẩm và chứng tỏ công phu
tìm tòi hết sức say mê, tỉ mỉ của tác giả để có thể gợi lên “hồn núi sông ngàn

năm.”” [23, 150 - 151]
Nhà văn Băng Sơn là người hàng chục năm nay vẫn được tôn vinh là
một trong vài nhà văn viết hay nhất, sâu lắng nhất về Hà Nội, nhưng khi đọc
tập Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài ông cũng phải thốt lên rằng: “Thế hệ trẻ
trên dưới 40 tuổi sẽ không biết gì về Hà Nội nếu không đọc bộ sách này''.
Về đề tài Hà Nội, Tô Hoài viết kĩ, tỉ mỉ. Chính vì thế mà nhà phê bình
Hoài Anh đã nhận xét trong Tô Hoài, nhà văn viết về Hà Nội đặc sắc và phong
phú: “Đề tài Hà Nội luôn trở đi trở lại trong tác phẩm của Tô Hoài: Vỡ tỉnh,


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Người ven thành, Quê nhà, Chuyện cũ Hà Nội Ông viết kĩ, luôn luôn sửa, tỉa
bớt chữ cho cô đọng, đảo cú pháp cho gần với cách nói thông thường, nhiều
nhận xét hóm hỉnh, sắc sảo, giàu chất tạo hình và chất thơ” [23, 175]
Trong Lời giới thiệu Tuyển tập Tô Hoài, GS Hà Minh Đức viết: “Thế
giới nhân vật của Tô Hoài vốn là những kiểu người bình dị gần gũi trong cuộc
sống hàng ngày của những vùng quê. Họ quay tơ, dệt cửi, chạy chợ để
kiếm sống. Gặp buổi thuận thời làng quê vang lên đều đặn tiếng thoi dệt cửi
đến canh khuya, phiên chợ đông vui kẻ mua người bán, hội làng nhộn nhịp
trong những ngày xuân, trai gái hò hẹn lứa đôi ”[23, 113]
Những ý kiến của các tác giả trên đây là những đánh giá đúng và sâu về
đề tài Hà Nội trong sáng tác của Tô Hoài. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có
công trình nghiên cứu chuyên biệt nào viết riêng về Chuyện cũ Hà Nội trong
văn Tô Hoài. Do vậy những ý kiến đánh giá này là cơ sở lí luận rất quý báu
cho chúng tôi trong việc nghiên cứu tiếp về đề tài Hà Nội của Tô Hoài qua hai
tập truyện Chuyện cũ Hà Nội.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn không nghiên cứu tất cả những tác phẩm viết về đề tài Hà

Nội của Tô Hoài mà chỉ tập trung vào hai tập Chuyện cũ Hà Nội .
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn chỉ ra, làm rõ những giá trị và đặc trưng trong nội dung hai
tập truyện Chuyện cũ Hà Nội cùng với những đặc điểm về nghệ thuật, phong
cách của Tô Hoài. Từ đó khẳng định vị trí và những đóng góp của nhà văn Tô
Hoài đối với nền văn học dân tộc nói chung, với đề tài Hà Nội nói riêng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp:


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
- Phương pháp lịch sử
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp đối chiếu so sánh
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo, nội dung chính của
luận văn được thể hiện trong 3 chương:
Chương 1: Bối cảnh xã hội - Đời sống văn học những năm 1941 - 1945
và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài
Chương 2: Giá trị và đặc trưng của Chuyện cũ Hà Nội
Chương 3: Nghệ thuật và phong cách của Tô Hoài

















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
BỐI CẢNH XÃ HỘI - ĐỜI SỐNG VĂN HỌC NHỮNG NĂM 1941 -1945
VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN TÔ HOÀI
1.1. Bối cảnh xã hội những năm 1941 – 1945
* Tình hình thế giới.
Từ nửa sau những năm ba mươi của thế kỉ XX, các thế lực phát xít tăng
cường các hoạt động bành trướng và xâm lược, chạy đua vũ trang chuẩn bị
chiến tranh để phân chia lại thế giới. Ngày 1/9/1939, Đức tấn công Ba Lan
mở đầu cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ngày 3/9/1939, Anh và Pháp
tuyên chiến với Đức. Lợi dụng tình thế chiến tranh chính phủ Đalađiê thi
hành hàng loạt biện pháp đàn áp các lực lượng dân chủ trong nước và ở các

nước thuộc địa, Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ, Đảng Cộng sản Pháp bị đặt
ngoài vòng pháp luật.
Đến tháng 7/1939, được cử làm toàn quyền Đông Dương, Catơru tăng
cường chính sách vơ vét thuộc địa, đàn áp phong trào đấu tranh, với tuyên bố
“ta đánh toàn diện và mau chóng vào các tổ chức cộng sản; trong cuộc đấu
tranh này, phải tiêu diệt Cộng sản thì Đông Dương mới được yên ổn và trung
thành với nước Pháp”. Lệnh thiết quân luật được ban bố. Để phục vụ chính
quốc, chúng tăng cường vơ vét bóc lột Đông Dương, ra lệnh tổng động viên
nhằm “cung cấp cho mẫu quốc tiềm lực tối đa của Đông Dương về quân đội,
nhân lực, các sản phẩm và nguyên liệu”. Kết quả của chính sách đó là 8 vạn
lính Việt Nam bị đưa sang Pháp.
Tháng 6/1940, Pháp đầu hàng Đức. Ở Đông Dương, được cử làm toàn
quyền thay Catơru, Đờcu tiến hành cải cách bộ máy cai trị, phát xít hóa bộ
máy thống trị đàn áp cách mạng Đông Dương.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Đến tháng 6/1941, phát xít Đức mở cuộc tấn công Liên Xô. Cuộc chiến
tranh ái quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô bắt đầu. Tính chất cuộc chiến từ
đây thay đổi về căn bản. Trên thế giới đã hình thành hai trận tuyến, một bên là
phe Đồng minh và các lực lượng dân chủ do Liên Xô đứng đầu và một bên là
khối phát xít gồm Đức, Italia, Nhật.
Bước sang năm 1945, Chiến tranh Thế giới thứ hai chuyển vào giai
đoạn kết thúc. Trên chiến trường châu Âu, phát xít Đức đã bị quét sạch khỏi
lãnh thổ Liên Xô. Nhiều nước Đông Âu được giải phóng. Thủ đô Béclin sắp
thất thủ. Đồng thời quân Anh- Mĩ đổ bộ lên đất Pháp, mở mặt trận mới đánh
Đức. Nước Pháp được giải phóng.
Còn ở Châu Á- Thái Bình Dương, phát xít Nhật cũng khốn đốn trước

các đòn tấn công dồn dập của Anh - Mĩ ở trên bộ cũng như trên biển… Tháng
8/1945, Nhật đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện. Tình hình ấy đã tạo
điều kiện cho nhân dân ta khởi nghĩa giành chính quyền.
* Tình hình Việt Nam
Sau khi chiến tranh bùng nổ, ngày 29/9/1939, Trung ương Đảng gửi
thông cáo cho các cấp bộ Đảng, nêu một số phương hướng và biện pháp cần
kíp trước mắt nhằm chuyển hướng các hoạt động của Đảng.
Ở Đông Dương, tháng 6/1940 Nhật gửi thư cho toàn quyền Đông
Dương yêu cầu đóng cửa biên giới Việt - Trung. Tháng 8/1940, Nhật yêu cầu
Pháp cho quân đội Nhật vào Đông Dương và thừa nhận cho Nhật có những
đặc quyền ở Đông Dương. Nhật bắt Pháp đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ
khác, vừa tìm cách lôi kéo một số phần tử cơ hội trong đám địa chủ và tư sản
làm tay sai phục vụ cho mưu đồ xâm lược của chúng. Bọn này núp dưới hình
thức đảng phái chính trị ( Đại Việt, Phục Quốc…) hoặc tôn giáo để hoạt động,


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
ra sức tuyên truyền lừa bịp về văn minh và sức mạnh của Nhật, về thuyết
“Đại Đông Á”, ráo riết dọn đường cho Nhật hất cẳng Pháp.
Sau khi đầu hàng Nhật ở Lạng Sơn (9/1940), rồi mở cửa cho chúng
vào Đông Dương, thực dân Pháp đã suy yếu rõ rệt, Nhật tiếp tục lấn bước
để biến Đông Dương thành thuộc địa và căn cứ chiến tranh của chúng. Các
công ty của Nhật đầu tư vào Đông Dương ngày một nhiều và hoạt động
trong nhiều ngành công nghiệp và thương mại. Cả Nhật và Pháp đều ra sức
bóc lột nhân dân, bắt nhân dân ta phải bán thóc theo diện tích cày cấy, bắt
nhân dân ta nhổ lúa trồng đay, thầu dầu… Rõ ràng từ khi đặt chân lên Đông
Dương dù là trực tiếp hay gián tiếp qua tay Pháp phát xít Nhật đã bòn rút
triệt để các nguyên liệu và thực phẩm của đất nước và nhân dân ta nhằm

phục vụ cho chiến tranh
Mặc dù bị Nhật ức hiếp tước đoạt mọi bề, thực dân Pháp vẫn có những
thủ đoạn gian xảo để thu được lợi cao nhất như tăng cường đầu cơ tích trữ,
thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy”, tăng thuế lên gấp ba lần, thu mua lúa
gạo với giá rẻ mạt… Chính những thủ đoạn này đã gây ra nạn khan hiếm thực
phẩm nghiêm trọng trên thị trường và là nguyên nhân trực tiếp làm cho hơn
hai triệu đồng bào ta ở miền Bắc chết đói trong mấy tháng đầu năm 1945.
Dưới hai tầng áp bức bóc lột nặng nề của Nhật - Pháp, các tầng lớp
nhân dân nói chung, nhất là nông dân, bị đẩy đến tình trạng cực khổ, điêu
đứng. Cuộc sống của người nông dân thời đó thật sự khốn quẫn. Họ sống cầm
hơi với hớp cháo cám nhạt và trần mình chịu rét lúc đêm đông. Bên cạnh đó,
không chỉ nông dân, đời sống của các tầng lớp giai cấp khác trong xã hội
cũng điêu đứng nhiều bề…
Nói tóm lại, trừ bọn đại địa chủ, tư sản mại bản, quan lại cường hào
tham nhũng và bọn đầu cơ tích trữ, còn mọi tầng lớp nhân dân đều rên xiết


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
dưới hai tầng áp bức bóc lột của Nhật - Pháp. Vì vậy, nhân dân ta đều sôi sục
căm thù, và sẵn sàng nổi dậy khi thời cơ tới. Cả nước Việt Nam như một đồng
cỏ khô, chỉ một tàn lửa nhỏ rơi vào là sẽ bùng lên thiêu cháy bè lũ cướp nước
và tay sai.
1.2. Đời sống văn học trong những năm 1941 - 1945
Đời sống văn học thời kì này có nhiều biến động gắn với sự biến đổi
của ba trào lưu văn học đó là văn học cách mạng, văn học hiện thực phê phán
và văn học lãng mạn.
Văn học vô sản rút vào bí mật nhưng vẫn phát triển mạnh mẽ. Thơ ca
cách mạng trong tù và thơ ca cách mạng ngoài nhà tù phát triển, nói nhiều tới

tương lai, một tương lai sáng sủa đang tiến gần. Thời kì này thơ tuyên truyền
kết hợp với thơ trữ tình cách mạng càng thấm thía, sâu sắc hơn. Tố Hữu
trưởng thành nhanh chóng với tập thơ Từ ấy. Nhật kí trong tù của Hồ Chí
Minh cũng đang viết trong thời kì này. Bên cạnh thơ ca, hàng loạt bài chính
luận của đồng chí Trường Chinh xuất hiện trên các báo chí của Ðảng vào thời
kì này cũng có nhiều giá trị văn học. Có thể nói văn học cách mạng trong
những năm tiền khởi nghĩa đã góp phần quan trọng vào cuộc vận động cách
mạng của Ðảng, đập tan chế độ thuộc địa, giành thắng lợi trong những ngày
Tháng Tám năm 1945 lịch sử.
Văn học hiện thực phê phán có sự phân hóa mạnh mẽ. Vũ Trọng Phụng
qua đời; có nhà văn không viết tiểu thuyết nữa mà chuyển dần sang khảo cứu
dịch thuật như Ngô Tất Tố
Một thế hệ nhà văn hiện thực mới ra đời: Nam Cao, Mạnh Phú Tư,
Nguyễn Ðình Lạp, Bùi Hiển, Các nhà văn hiện thực này vẫn tiếp tục miêu
tả cuộc sống tăm tối của người nông dân như trong Chí Phèo, Lão Hạc của
Nam Cao; Sống nhờ của Mạnh Phú Tư, Ngoại ô, Ngõ hẻm của Nguyễn Đình


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Lạp, Nằm vạ của Bùi Hiển Cuộc sống bế tắc mòn mỏi của người trí thức
tiểu tư sản cũng được các nhà văn hiện thực đề cập một cách sâu sắc như
trong Sống mòn, Ðời thừa, Trăng sáng của Nam Cao. Như vậy có thể nói,
các nhà văn hiện thực đã nêu lên những mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp
thống trị với tầng lớp nhân dân lao động. Họ tập trung viết về quá trình của
người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa. Để dẫn đến thảm họa này là
do cái đói và cái chết.
Văn học lãng mạn rơi vào cái tôi bế tắc, cực đoan. Một số tác giả trong
Tự lực văn đoàn đưa ra một chủ nghĩa “vô luân”. Nguyễn Tuân đi vào hoài

cổ, xê dịch và cuộc sống trụy lạc Thơ Mới khủng hoảng nghiêm trọng với
thơ say, thơ điên, thơ loạn
1.3. Sự nghiệp sáng tác và vị trí đề tài Hà Nội trong sáng tác của nhà văn
Tô Hoài
1.3.1. Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài.
Tô Hoài sinh ngày 27.9.1920 tại quê ngoại - làng Nghĩa Đô, phủ Hoài
Đức, tỉnh Hà Đông cũ ( nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội).
Quê nội ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai tỉnh Hà Tây. Ngay từ những
ngày còn thơ ấu, Tô Hoài đã sống gắn bó với mảnh đất và con người ven đô.
Vì thế cuộc sống và con người làng Nghĩa Đô đã khơi nguồn cảm hứng bất
tận cho nhà văn. Tô Hoài đã từng tâm sự: “Đời sống xã hội quanh tôi, tư
tưởng và hoàn cảnh của chính tôi đã vào cả trong sáng tác của tôi.”
Tên thật của Tô Hoài là Nguyễn Sen. Trong nghề viết, ông dùng rất
nhiều bút danh khác nhau như: Mắt Biển, Mai Trang, Duy Phương, Hồng Hoa
(dùng cho viết báo) Trong các bút danh ấy, Tô Hoài là bút danh được ông
dùng nhiều và rất quen thuộc với độc giả. Chính vì tình yêu đối với Hà Nội


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
mà nhà văn đã mượn tên con sông Tô Lịch và tên đất phủ Hoài Đức làm nên bút
danh cho mình.
Tô Hoài xuất thân trong một gia đình làm nghề thủ công dệt lụa, và chỉ
định học hết bậc tiểu học, sau đó vừa tự học vừa đi làm. Tô Hoài đã làm nhiều
nghề để kiếm sống: thợ thủ công, dạy học tư, bán hàng, kế toán hiệu buôn
và tự học để trở thành nhà văn. Hoàn cảnh xuất thân và những trải nghiệm
cuộc sống đã giúp cho Tô Hoài có một vốn kiến thức thực tế sâu sắc, giúp ích
rất lớn cho việc sáng tác của nhà văn.
Năm 1938, trong thời kì Mặt trận dân chủ, Tô Hoài tham gia phong

trào ái hữu thợ dệt, làm thư kí ban trị sự Hội ái hữu thợ dệt Hà Đông rồi
tham gia phong trào thanh niên phản đế. Năm 1943, gia nhập tổ Văn hóa cứu
quốc đầu tiên ở Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám Tô Hoài tham gia phong
trào Nam tiến; rồi lên Việt Bắc làm báo Cứu quốc, chủ nhiệm Cứu quốc Việt
Bắc, chủ bút Tạp chí cứu quốc. Từ 1951 về công tác ở Hội văn nghệ Việt
Nam. Sau ngày hòa bình lập lại, trong Đại hội nhà văn lần thứ nhất năm
1957, ông được bầu làm Tổng thư kí của Hội. Từ 1958 đến 1980 ông tiếp tục
tham gia ban chấp hành, rồi Phó Tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam. Từ
1966 đến 1996 là Chủ tịch Hội văn nghệ Hà Nội. Ngoài ra, Tô Hoài còn
tham gia nhiều công tác xã hội khác.
Lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị đô hộ, dưới chế độ phong kiến thực
dân, Tô Hoài được tận mắt chứng kiến nỗi khổ của người nông dân nơi thôn
quê và dân nghèo thành thị. Cầm bút viết văn, ông đã bày tỏ thái độ cảm thông,
chia sẻ với quê nghèo bằng một tấm lòng gắn bó thiết tha, sâu nặng. Tô Hoài đã
để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ cả trước và sau Cách mạng tháng Tám.
Tô Hoài đến với nghề văn khá sớm. Từ trước Cách mạng tháng Tám, khi
mới 17, 18 tuổi, ông đã có một số sáng tác thơ đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
(Tiếng reo, Đan áo). Từ giã vườn thơ lãng mạn ông đến với cánh đồng văn
xuôi hiện thực. Nước lên là truyện ngắn đầu tiên được đăng trên Hà Nội tân
văn. Và khoảng bốn năm sau, Tô Hoài “viết như chạy thi”để có được nhiều đầu
sách tiêu biểu: Nhà nghèo (1941), O chuột (1942); các tiểu thuyết: Dế mèn
phiêu lưu ký (1941), Giăng thề (1941), Quê người (1942), Xóm giếng ngày xưa
(1944), Cỏ dại (1944). Những sáng tác thời kì này chủ yếu tập trung vào hai đề
tài chính đó là truyện viết về loài vật và về làng quê tác giả.
Sau Cách mạng, với Tô Hoài, là một quá trình gần 60 năm viết bền bỉ,

liên tục, không ngừng nghỉ, không mệt mỏi trên rất nhiều đề tài quan trọng
của văn học Việt Nam hiện đại. Với đề tài miền núi, có thể kể đến Núi Cứu
quốc (1948), Truyện Tây Bắc (1953) và Miền Tây (1967) Chân dung và hồi
ức có Tự truyện (1978), Những gương mặt (1988), Cát bụi chân ai (1992) và
Chiều chiều (1999) Rồi trở lại đề tài Hà Nội với vùng ngoại ô kẻ Bưởi như là
một sự tiếp tục của Quê người (1942), Giăng thề (1942). Sau Cách mạng, với
đề tài Hà Nội, Tô Hoài viết Mười năm (1958), Người ven thành (1972), Quê
nhà (1980), Chuyện cũ Hà Nội (1998)
Năm 1996 Tô Hoài được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Giải thưởng
cao quý này đã khẳng định một sức sáng tạo dồi dào và phong phú của một nhà
văn tài năng.
1.3.2. Vị trí đề tài

Hà Nội trong sáng tác của nhà văn Tô Hoài
Trong hành trình sáng tạo của mình, Tô Hoài gắn bó và giành cho Hà
Nội một tình yêu tha thiết và sâu nặng. Với trên 150 tác phẩm lớn nhỏ, bao
gồm nhiều thể loại, trong đó những trang văn viết về đề tài Hà Nội vô cùng
dồi dào và sâu sắc.
Trước Cách mạng, Tô Hoài đã vẽ nên một Hà Nội nhiều sắc màu. Qua
những hồ nước, những vạt cỏ với dấu chân Dế mèn trong tác phẩm đầu tay Dế


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
mèn phiêu lưu ký (1941) cũng thấp thoáng bóng hình của một vùng đất Hà
Nội xưa. Trong O chuột (1942), Nhà nghèo ( 1942), Quê người (1942) , Xóm
Giềng ngày xưa (1942), rồi đến Cỏ dại (1944) ta đều gặp lại một Hà Nội
của những con người, thế sự và nỗi niềm theo cách cảm, cách nghĩ rất tinh tế
của Tô Hoài.

Có thể thấy, những tác phẩm của Tô Hoài trước Cách mạng chủ yếu
viết về vùng quê ngoại ở làng Nghĩa Đô và các khu vực lân cận như Bưởi,
Võng Thị, Trích Sài Trong tác phẩm của ông giai đoạn này hiện lên những
đường thôn ngõ xóm, những căn nhà đơn sơ luôn văng vẳng tiếng khung cửi
lách cách, những “tàu seo” róc rách lúc đêm khuya, những cánh đồng rộng,
những mảnh vườn nhỏ với nhiều loại cây, quả quen thuộc của một vùng quê
Thế giới nhân vật của Tô Hoài trước Cách mạng chủ yếu là những
người nông dân, thợ thủ công hoặc nông dân pha thợ thủ công. Họ vừa làm
ruộng, vừa dệt lĩnh, cuộc sống của họ quanh năm nghèo đói, lam lũ. Tô Hoài
đã phát hiện ra rằng: “Người ta ra người ta thì phải là người ta đã chứ”, có
nghĩa là đã là con người thì đều có tất cả mọi thứ, có phẩm chất, có thói tật,
có hay, có dở Theo ông con người không phải là “thánh nhân”, mà có cả xấu
- tốt, thiện - ác, thậm chí còn có cả những phần đen tối lẩn khuất trong tâm
hồn. Trong cái nhìn của Tô Hoài, con người dẫu có những khổ đau, bất hạnh,
nhưng họ biết vươn lên dù có phải vật lộn với cuộc sống muôn vàn khó khăn.
Họ vượt qua những khổ đau, nhọc nhằn để tìm lại cuộc sống của chính mình.
Chẳng hạn trong truyện Nhà nghèo tác giả kể về cái Gái. Nó sinh ra trong
cảnh nghèo, thiếu ăn thiếu mặc và suốt ngày phải chứng kiến cảnh bố mẹ
mắng chửi nhau. Vì cảnh nghèo, cái Gái phải đi theo dân làng bắt nhái để
kiếm ăn cho gia đình rồi chẳng may bị rắn độc cắn chết. Khi cái Gái chết


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
người bố nghèo mới nhận thấy nỗi khổ của đứa con khi sống trong cảnh túng
quẫn cả về vật chất và tinh thần.
Tô Hoài không chỉ nói về cảnh nghèo túng của những người ven đô mà
ông còn dựng lên biết bao cảnh phiêu bạt, li tán, tha hương. Điển hình có thể
kể đến nhân vật Thoại trong Quê người. Là một thanh niên khỏe mạnh, với

tay nghề giỏi, thế nhưng anh lại có một gia cảnh thật buồn khiến người đọc
không khỏi xót xa, thương cảm : “Ngày mai mùng một tết, chẳng có xôi,
chẳng có thịt, chẳng có hương, chẳng có nến, nghĩa là chẳng có một thứ gì để
cúng ”. Thiếu thốn, nợ thì không đòi được nên Thoại đã liều lĩnh đi ăn trộm
chó. Việc không thành nên cũng đúng vào ngày mùng một tết, vợ chồng con
cái Thoại lại đùm dúm dắt díu nhau bỏ làng mà đi
Trong các sáng tác của Tô Hoài trước Cách mạng còn có một loại
nhân vật nữa, đó là những con vật bé nhỏ gần gũi với đời sống sinh hoạt
của con người. Những con vật nhỏ bé như gã chuột bạch, những con mèo
mướp, những con chó dưới ngòi bút của Tô Hoài cũng có tình cảm, có cá
tính, tâm trạng và số phận giống như con người. Thông qua thế giới loài
vật, tác giả muốn nói đến thế giới của con người, nói đến số phận của
những người nông dân, thợ thủ công ở ven đô. Qua hình ảnh đôi chim ri đá,
người đọc thấy hình ảnh lam lũ của người nông dân làng Nghĩa Đô. “Hình
bóng một người cù rù, nhưng nhẫn nại, lam lũ và luôn luôn chân lấm tay
bùn - những người cần lao của đồng ruộng họ ăn ở dè sẻn, bình lặng, chịu
khó, ít ồn ã. Cuộc đời trôi chảy âm thầm dưới vòm lá xanh, y như cuộc đời
của những người Nghĩa Đô, cần cù và nghèo khó trên cái khung cửi, trong
bốn lũy tre già ” [10, 230 - 238]
Như vậy có thể thấy, trước Cách mạng, Tô Hoài viết về đề tài Hà Nội
chủ yếu là phản ánh cuộc sống, sinh hoạt hằng ngày của người dân làng


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
Nghĩa Đô với những khó khăn, nhọc nhằn, tủi cực nhưng cũng rất đỗi yên ả,
thanh bình. Sau Cách mạng, Tô Hoài lại trở về với miền thân thuộc của mình
qua mảng đề tài viết về Hà Nội - ngoại ô, quê ông. Đề tài này xuất hiện trong
nhiều sáng tác của Tô Hoài sau cách mạng: Mười năm (1958), Tự truyện

(1978), Người ven thành (1972),Quê nhà (1980), Những gương mặt (1988),
Cát bụi chân ai ( 1992), Chuyện cũ Hà Nội ( 1998), Chiều chiều ( 1999), Giấc
mộng ông thợ dìu ( 2004) …
Nếu như trước Cách mạng, Tô Hoài viết về những con người ven đô nhỏ
bé, cam chịu và nhẫn nhục thì sau Cách mạng ông vẫn tiếp tục viết về họ. Chỉ
có điều bây giờ, họ xuất hiện với một tâm thế khác, không còn là những con
người nhỏ bé như trước kia mà họ có ý thức về sức mạnh của bản thân, có
nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đất nước lúc nguy nan.
Sau Cách mạng, có thể kể đến các tiểu thuyết của Tô Hoài như Mười
năm (1958), Quê nhà (1980) Những tác phẩm này đã khắc họa rất rõ nét về
các chặng đường biến đổi của Hà Nội.
Trong tiểu thuyết Mười năm, tác giả đã phản ánh một thời kì đau thương
của đất nước nói chung và vùng Nghĩa Đô ven đô nói riêng. Đó là vào những
năm 1935 - 1945, chỉ với mười năm nhưng đất nước ta đã trải qua biết bao biến
động, từ Mặt trận dân chủ, đến Đại chiến thế giới lần thứ hai và nạn đói hoành
hành đã cướp đi sinh mạng của hai triệu đồng bào ta. Cuộc sống của con người
nơi đây ngày càng khốn khó, người nông dân bần cùng, những người thợ thủ
công kiếm được miếng ăn rất khó khăn, chật vật. Nạn đói khiến người chết la
liệt như ngả rạ. Hầu như cái đói, cái chết đã rình rập ở tất cả mọi thôn, xóm.
Bên cạnh nỗi khổ đau, nghèo đói của người dân, Tô Hoài cũng nói đến rất
nhiều về sự giác ngộ của quần chúng nhân dân khi bị áp bức bóc lột. Họ đã đến
với Cách mạng bắt đầu từ việc tham gia các hoạt động của ái hữu thợ dệt đến


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
phong trào lớn mạnh của thời kì Mặt trận Việt Minh. Tô Hoài đã thấy được sức
lớn mạnh của tập thể quần chúng nhân dân nên trong tác phẩm đã xuất hiện
những nhân vật mới như Lạp, Ba trong nhóm thanh niên cấp tiến.

Sang đến tiểu thuyết Quê nhà, tác giả lại ngược về trước những năm
cuối thế kỉ XIX, khi thực dân Pháp bắt đầu đặt chân đến xâm lược nước ta. Khi
đó, mặc dù triều đình có sự kháng cự nhưng đều bị thất bại. Tuy vậy với sự
đồng sức đồng lòng, với tinh thần đoàn kết dân tộc, quần chúng nhân dân đã
đứng lên để đánh đuổi kẻ thù Cuộc chiến đấu của nghĩa quân dưới sự lãnh
đạo của thủ lĩnh Xuất, rồi sau này là Nghĩa, đã kéo dài mười năm trời mà
không dễ gì dập tắt. Đặc biệt trong tác phẩm này Tô Hoài đã dựng lên hình ảnh
của hai người phụ nữ, đó là bà Xuất - vợ góa của thủ lĩnh Xuất, và Nghĩa - cô
gái Ba Trại đã đóng giả trai. Họ đã nén nỗi đau riêng để tiếp tục con đường của
những người đi trước. Hình ảnh của những người phụ nữ ấy thật giống như
những tượng đài bất tử.
Những năm gần đây, kể từ thập niên cuối thế kỉ XX, Tô Hoài lại tiếp tục
ngược dòng lịch sử để trở về tái hiện lại một Hà Nội xưa. Trong một cách viết
mới, qua hai tập Chuyện cũ Hà Nội, đây không phải là văn hư cấu như trong
truyện ngắn và tiểu thuyết mà bạn đọc đã quá quen thuộc, mà bây giờ là văn kể
chuyện, một lối kể hoàn toàn thoát ra khỏi cái tôi, theo cách kể của dân gian;
một lối kể với văn phong giản dị, cô đúc, ngắn gọn như các loại truyện có trong
kho tàng văn học dân gian - Một kiểu “Vũ trung tùy bút” của thời hiện đại, để
ghi lại “muôn mặt đời thường” của Hà Nội một thời thuộc Pháp chưa xa lắm,
khi đất nước chuyển sang xã hội thuộc địa, vào đầu thế kỉ XX.
Từ người và cảnh, nếp sống và phong tục, ẩm thực và thú chơi nơi
vùng ngoại ô ven đô hay nội thị đều được Tô Hoài ghi lại rất tỉ mỉ trong hai
tập truyện này. Bức tranh Hà Nội ấy đã làm nên một nét riêng rất giá trị cho


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
Chuyện cũ Hà Nội để phân biệt với những tác phẩm viết về Hà Nội của Tô
Hoài cũng như của nhiều người viết về Hà Nội khác nói chung. Như vậy, sau

Cách mạng, viết về Hà Nội, Tô Hoài đã có cái nhìn trong chiều dài lịch sử, và
với Chuyện cũ Hà Nội Tô Hoài lại có sự đổi thay trong cách viết. Đây là một
bước tiến của Tô Hoài khi ông viết về mảnh đất mà ông gắn bó cả cuộc đời
mình, có lẽ vì đó mà đề tài Hà Nội có một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự
nghiệp sáng tác của ông.
Chƣơng 2
GIÁ TRỊ VÀ ĐẶC TRƢNG CỦA “CHUYỆN CŨ HÀ NỘI”

2.1. Bức tranh đô thị hóa trong
Chuyện cũ Hà Nội
Trong truyện ngắn Những cửa ô Tô Hoài có ghi lại rằng Hà Nội chính
thức trở thành mảnh đất của Pháp từ năm 1888, kể từ ngày 3 tháng 10.Vua Đồng
Khánh nhà Nguyễn cắt đất Hà Nội cho Pháp gọi là “nhượng địa”. Tuy nhiên, quá
trình biến Hà Nội thành “nhượng địa” của Pháp đã được khởi động từ trước đó
hơn 20 năm, khi mà công cuộc “bình định” xứ Bắc Kỳ của thực dân Pháp còn
chưa thực sự bắt đầu.
Theo quy ước được ký kết ngày 6-2-1874, Pháp được đặt tại Hà Nội một
lực lượng lính bảo vệ không quá 100 người. Diện tích khu đất nhượng cho Pháp
xây Tòa Công sứ được quy định là 2,5 héc-ta. Nhưng do sự bất lực của nhà
Nguyễn mà đại diện là Trần Đình Túc, cuối cùng khu đất nhượng này đã lên tới
18,5 héc-ta. Ngày 28-8-1875, Pháp bắt đầu đặt Lãnh sự quán tại Hà Nội. Như
vậy là, về mặt pháp lý, mặc dù Bắc Kỳ chưa chính thức trở thành đất “bảo hộ”
của Pháp song trên thực tế, Pháp đã đặt được chân vào Hà Nội. Ý đồ xâm chiếm
Bắc Kỳ của Pháp đã có cơ sở để thực hiện. Tháng 10-1875, Pháp bắt đầu khởi
công xây dựng các công trình kiên cố trên khu “nhượng địa”, chính thức mở đầu

×