Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
MỤC LỤC
Nội dung Trang
Mục lục
Lời mở đầu
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán
bộ quản lý trong doanh nghiệp Nhà nước
1.1-Khái niệm, vai trò và yêu cầu về cán bộ quản lý
1.1.1- Khái niêm cán bộ quản lý
1.1.2- Vai trò của cán bộ quản lý
1.1.3- Yêu cầu đối với cán bộ quản lý
1.1.3.1- Yêu cầu về kỹ năng đối với cán bộ quản lý
1.1.3.2- Yêu cầu về phẩm chất cá nhân
1.2- Công tác của cán bộ quản lý
1.2.1- Nội dung công tác của cán bộ quản lý
1.2.2- Phong cách làm việc của cán bộ quản lý
1.3- Tính cấp thiết của việc xây dựng đôi ngũ cán bộ trong
doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng đội ngũ cán bộ ở Trung tâm khai
thác vận chuyển Bưu điện Hà Nội
2.1- Đặc điểm tình hình hoạt động của Trung tâm khai thác
vận chuyển Bưu điện Hà Nội
2.1.1- Quá trình hình thành và phát triển của Trung tâm
2.1.2- Chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm
2.1.3- Cơ cấu tổ chức của Trung tâm
- Sơ đồ cơ cấu tổ chức
2.1.4- Tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh tại Trung tâm
a- Tổ chức mạng vận chuyển
b- Tổ chức mạng khai thác
2.2- Thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý của Trung tâm
2.2.1- Cơ cấu đội ngũ cán bộ quản lý của Trung tâm
2.2.2- Tình hình công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
quản lý của Trung tâm từ năm 2005 - 2007
2.3- Mặt mạnh, mặt yếu, nguyên nhân và các tồn tại của đội
ngũ cán bộ trong Trung tâm
2.3.1- Mặt mạnh
2.3.2- Mặt hạn chế và những nguyên nhân
2.3.3- Những bài học kinh nghiệm cần rút ra
Chương III- Những giải pháp cơ bản xây dựng đôi ngũ cán
bộ ở Trung tâm khai thác vận chuyển Bưu điện Hà Nội
3.1- Phương hướng và mục tiêu phát triển của Trung tâm
3.1.1- Phương hướng phát triển chung
3.1.2- Phương hướng và mục tiêu phát triển của Tổng Công ty
1
3
6
6
6
6
7
9
11
12
12
13
14
17
17
17
19
19
23
25
25
26
27
27
30
31
31
32
33
34
34
34
35
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
3.1.3- Phương hướng và mục tiêu phát triển của trung tâm khai
thác vận chuyển
3.2- Những giải pháp để hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn cán
bộ của Trung tâm
3.2.1- Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng
3.2.2- Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
3.2.3- Đổi mới công tác kế hoạch hóa cán bộ
3.2.4- Đổi mới công tác nhận xét đánh giá cán bộ
3.2.5- Tăng cường công tác kiểm tra
3.2.6- Đổi mới bộ máy làm công tác cán bộ
3.2.7- Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
3.2.8- Xây dựng tiêu chuẩn cho cán bộ quản lý tại Trung tâm
3.3- Các kiến nghị về cơ chế, chính sách để đảm bảo thực
hiện các đề xuất có hiệu quả
Kết luận
Tài liệu tham khảo
38
40
40
41
43
44
48
49
50
51
55
55
57
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
LỜI MỞ ĐẦU
1/ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU:
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX về đường lối
phát triển kinh tế của nước ta trong thời kỳ đổi mới là: Đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa đất nước ta trở
thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương đường lối, chủ trương phát
triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, đất nước ta đã có những bước phát triển
mạnh mẽ, tình hình kinh tế của nước ta đang tăng trưởng và ổn định, đời sống
xã hội được nâng cao. Tuy nhiên quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế là
xu hướng khách quan, dẫn đến quá trình vừa phải hợp tác để phát triển, vừa
phải cạnh tranh rất phức tạp, đặc biệt là giữa các nước đang phát triển. Đối với
nước ta, trong tình hình và bối cảnh quốc tế như vậy, tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế trong thời gian tới phải được nâng lên một bước mới, gắn với việc cam
kết quốc tế. Do vậy phải ra sức nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng
độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động
quốc tế.
Trước những vận hội lớn của Đất nước, các doanh nghiệp Nhà nước một
thành phần quan trọng và cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa cũng phải có những bước đi thích hợp để tồn tại và phát triển, đồng
thời nhanh chóng hội nhập với nền kinh tế quốc tế. Trong mỗi doanh nghiệp
đội ngũ cán bộ quản lý có một vai trò vô cùng quan trọng nó quyết định đến
việc hoạt động sản xuất kinh doanh thắng lợi hay thất bại của mỗi doanh
nghiệp.
Để có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, có đầy đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng
được những đòi hỏi trong giai đoạn mới thì việc nâng cao năng lực lãnh đạo
của cán bộ quản lý trong doanh nghiệp là hết sức cần thiết và cấp bách.
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
Trung tâm khai thác vận chuyển Bưu điện Hà Nội là Trung tâm chuyên
ngành Bưu chính, đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc của Tổng Công ty
Bưu chính viễn thông Việt nam (nay là Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông).
Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước, trong những năm qua đặc
biệt sau 2 giai đoạn tăng tốc, Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã
đạt những thành tựu to lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và phục vụ trên
cả hai lĩnh vực Bưu chính và Viễn thông. Tuy nhiên trong quá trình phát triển,
bên cạnh những thành quả không khỏi còn nhiều hạn chế bất cập. Phương án
đổi mới quản lý khai thác kinh doanh Bưu chính - Viễn thông trên địa bàn tỉnh,
thành phố ban hành kèm theo quyết định số 226/QĐ-TCCB/HĐQT ngày
04/6/2004 của Hội đồng quản trị Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt nam
đã nêu “Việc hạch toán không rõ ràng giữa hai dịch vụ Bưu chính và Viễn
thông đã tạo ra sự thiếu năng động, kém phát triển trong lĩnh vực Bưu chính,
năng suất lao động Bưu chính thấp”. Ngày 18/10/2005 Thủ tướng Chính phủ
ra quyết định số 158/2001/QĐ-TTG, phê duyệt chiến lược phát triển Bưu chính
Viễn thông Việt nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, trong đó
phần định hướng phát triển Bưu chính chỉ rõ “Phát triển Bưu chính Việt nam
theo hướng cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá, nhằm đạt trình độ hiện đại
ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực. Tổ chức Bưu chính tách ra khỏi
Viễn thông, hoạt động độc lập có hiệu quả, cung cấp các dịch vụ đa dạng theo
tiêu chuẩn quốc tế”.
Là một cán bộ đang công tác tại Trung tâm, bản thân tôi tự nhận thức:
Với những tồn tại, hạn chế của ngành Bưu chính, đứng trước những thách thức
của sự phát triển trong tương lai, hơn bao giờ hết vấn đề đặt ra đối với Trung
tâm là cần thiết phải có những con người đủ năng lực, phẩm chất và đầy nhiệt
huyết để khắc phục điểm yếu, tổ chức thực hiện thành công mục tiêu và định
hướng phát triển đã đề ra. Chính vì vậy, tôi chọn chuyên đề tốt nghiệp của
mình với đề tài:
Những giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý ở Trung tâm khai thác
vận chuyển Bưu điện Hà Nội trong giai đoạn hiên nay.
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
2/ MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Thông qua khảo sát đánh giá thực tiễn đội ngũ cán bộ quản lý trong
Trung tâm, tìm ra mặt mạnh, mặt yếu của đội ngũ cán bộ. Từ đó đề ra các giải
pháp xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý trong Trung tâm nhằm đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ trong giai đoạn mới, giai đoạn đất nước tiến hành công nghiệp hoá và
hiện đại hoá.
3/ PHẠM VI GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu đội ngũ cán bộ quản lý phân loại theo chức năng
chuyên môn trong bộ máy quản lý ở Trung tâm khai thác vận chuyển Bưu điện
Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
4/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để nghiên cứu viết đề tài này, tôi chọn phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác - LêNin, cụ thể là:
- Kết hợp với những phương pháp điều tra khảo sát.
- Phương pháp thống kê, phân tích.
- Phương pháp phân tích tổng hợp, phân tích dự báo.
- Phương pháp trừu tượng hoá, khái quát hoá để rút ra những vấn đề cốt
lõi và bản chất nhằm góp phần nâng cao năng lực của cán bộ quản lý trong
doanh nghiệp.
5/ KẾT CẤU CHÍNH CỦA CHUYÊN ĐỀ:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, chuyên đề có kết cấu chính gồm 3
chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý trong
doanh nghiệp Nhà nước
Chương II: Thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý trong Trung tâm khai thác vận
chuyển
Chương III: Những giải pháp cơ bản xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý của
Trung tâm khai thác vận chuyển
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
QUẢN LÝ TRONG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1- Khái niệm, vai trò và yêu cầu về cán bộ quản lý
1.1.1- Khái niệm cán bộ quản lý:
Cán bộ quản lý là những người thực hiện các chức năng quản lý nhằm
đảm bảo cho tổ chức đạt được những mục đích của mình với kết quả và hiệu
quả cao.
Một cán bộ quản lý được xác định bởi ba yếu tố cơ bản. Thứ nhất, có vị
thế trong tổ chức với những quyền hạn nhất định trong quá trình ra quyết định.
Thứ hai, có chức năng thể hiện những công việc cần thực hiên trong toàn bộ
hoạt động của tổ chức. Và thứ ba, có nghiệp vụ thể hiện phải đáp ứng những
đòi hỏi nhất định của công việc.
1.1.2 -Vai trò của cán bộ quản lý:
Có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về vai trò của các cán bộ quản lý tổ
chức trong đó có môt quan điểm được nhiều người chia sẻ là quan điểm của
Henry Mintzberg. Ông cho rằng các cán bộ quản lý là nhân tố cơ bản quyết
định sự thành công hay thất bại của đường lối phát triển tổ chức. Trong hoạt
động hàng ngày, các nhà quản lý thường xuyên thực hiện ba vai trò là vai trò
liên kết con người, vai trò thông tin và vai trò ra quyết định
Vai trò liên kết bao hàm những công việc trực tiếp với những người
khác. Nhà quản lý là người đại diện cho đơn vị mình trong các cuộc gặp mặt
chính thức (vai trò người đại diện), tạo ra và duy trì đôộng lực cho người lao
động nhằm hướng cố gắng của họ tới mục đích chung của tổ chức (vai trò lãnh
đạo), đảm bảo mối quan hệ với các đối tác (vai trò người liên lạc).
Vai trò thông tin bao hàm sự trao đổi thông tin với những người khác. Nhà
quản lý tìm kiếm những thông tin phản hồi cần thiết cho quản lý (vai trò người
giám sát), chia sẻ thông tin với những người trong đơn vị (vai trò người truyền
tin), và chia sẻ thông tin với những người bên ngoài (vai trò người phát ngôn).
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
Vai trò quyết định bao hàm việc ra quyết định để tác động lên con người.
Nhà quản lý tìm kiếm cơ hội tận dụng, xác định vấn đề để giải quyết (vai trò
người ra quyết định), chỉ đạo việc thực hiện quyết định (vai trò người đIều
hành), phân bổ nguồn lực cho những mục đích khác nhau (vai trò người đảm
bảo nguồn lực), và tiến hành đàm phán với những đối tác (vai trò người đàm
phán).
Những vai trò trên của các nhà quản lý là tất yếu, giúp họ thực hiện có
kết quả và hiệu lực chức năng, nhiệm vụ của mình.
1.1.3 -Yêu cầu đối với cán bộ quản lý:
Cán bộ nói chung là những người làm công tác có nghiệp vụ, có chuyên
môn trong các cơ quan Nhà nước, trong cả hệ thống chính trị, có trình độ từ đại
học, cao đẳng trở lên, được hình hành trong quá trình đào tạo ở nhà trường. Số
người có trình độ thấp hơn như trung cấp, sơ cấp được gọi là nhân viên. Cán bộ
lãnh đạo là những người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ
chức cả trong hệ thống chính trị thông qua con đường bầu cử, đề bạt, bổ nhiệm;
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt là người đứng đầu quan trọng nhất, có tác dụng chi
phối toàn bộ hoạt động của một tổ chức nhất định.
Nội dung quá trình quản lý biểu hiện ở hệ thống cơ cấu các chức năng;
để thực hiện hiệu quả các chức năng này trong quá trình quản lý phải được hình
thành hệ thống những cán bộ chức năng có cấu trúc chuyên môn hoá chặt chẽ,
đó là bộ máy quản lý. Cán bộ quản lý trong doanh nghiệp là người lao động
thực hiện những chức năng và nhiệm vụ nhất định trong các quá trình quản lý,
là những người làm việc trong bộ máy quản lý. Cán bộ lãnh đạo quản lý là
người đứng đầu một tổ chức, điều hành hoạt động của tổ chức, sử dụng công
cụ, phương tiện để điều khiển một hoạt động nào đó của tổ chức. Cán bộ quản
lý là người có trách nhiệm, nghĩa vụ quyền hạn và lợi ích nhất định tuỳ theo vị
thế vai trò đảm nhiệm chức năng quản lý.
Quản lý ngày nay có vị trí cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp phát triển
kinh tế xã hội. Trong đó đội ngũ cán bộ quản lý đang là những nhân tố có tính
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
quyết định đến hiệu quả hoạt động và sự thành công hay thất bại của mỗi hệ
thống kinh tế xã hội. Xét trong một tổ chức cụ thể thì cán bộ quản lý là khâu
nối có tính quyết định đảm bảo sự phối hợp có hiệu quả các hoạt động trong
mỗi tập thể để thực hiện mục tiêu chung. Ngày nay, cán bộ quản lý là khâu nối
quyết định đảm bảo sự thống nhất giữa Đảng, Nhà nước và người lao động
trong xây dựng và thực hiện các mục tiêu phát triển Đất nước; là khâu nối
quyết định trong việc đảm bảo hài hoà giữa các lợi ích quốc gia - tập thể -
người lao động tạo động lực cho sự phát triển. Do vị trí, ý nghĩa quan trọng của
cán bộ quản lý đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống tổ chức từ kinh tế đến
chính trị, xã hội đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản về
phẩm chất và năng lực sau:
Yêu cầu về phẩm chất chính trị: Người cán bộ quản lý phải có quan điểm
lập trường chính trị vững vàng, kiên định; phải nắm được đường lối chính sách
của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn; có khả năng tự hoàn thiện, tự đánh
giá kết quả công việc của bản thân, đánh giá con người mà mình quản lý theo
tiêu chuẩn chính trị; biết biến nhận thức chính trị của mình thành nhận thức của
mọi người; tạo được lòng tin và lôi cuốn được mọi người cùng tham gia.
Yêu cầu về pháp lý: Cán bộ quản lý phải am hiểu và nắm được pháp luật,
nhất là những ngành luật có liên quan đến chuyên môn, ngành nghề của mình
sao cho trong quá trình làm việc không vi phạm pháp luật.
Yêu cầu về chuyên môn: Cán bộ quản lý phải am hiểu tri thức chuyên
môn, đủ tri thức để quản lý ngành nghề chuyên môn. Có trình độ cao và am
hiểu tường tận chuyên môn của ngành mình quản lý sẽ giúp cán bộ quản lý
hoạch định được chiến lược phát triển ngành đúng hướng, tổ chức thực hiện
mục tiêu quản lý của mình hiệu quả nhất.
Yêu cầu về năng lực tổ chức quản lý: Là người vạch mục tiêu và thông
qua các cộng sự thực hiện mục tiêu đã đề ra. Vì vậy cán bộ quản lý phải là
người có bản lĩnh, có khả năng nhạy cảm, linh hoạt, khả năng quan sát, nắm
được các nhiệm vụ từ tổng thể đến chi tiết để tổ chức hệ thống hoạt động linh
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
hoạt, đồng bộ và có hiệu quả; là người biết cách tổ chức lao động, biết sử dụng
đúng tài năng của từng cộng sự, đánh giá đúng con người và biết xử lý tốt các
mối quan hệ trong và ngoài hệ thống.
Yêu cầu về phẩm chất đạo đức tác phong: Đạo đức là chuẩn mực về
phẩm chất của con người, được xã hội chấp nhận. Tiêu chuẩn đạo đức đòi hỏi
cán bộ quản lý phải tuân theo các chuẩn mực nhất định biểu lộ qua ý thức đối
với xã hội; qua thái độ công tác; qua hành vi đối với lợi ích cá nhân và lợi ích
tập thể, được mọi người đồng tình ủng hộ và thừa nhận. Tác phong thể hiện
thông qua các phương pháp và nghệ thuật ứng xử để thực hiện nhiệm vụ. Tuỳ
thuộc vào phẩm chất đạo đức, tài năng cá nhân và môi trường cụ thể, mỗi
người cán bộ quản lý có tác phong riêng. Nhưng muốn quản lý và động viên
được người khác thì tác phong thích hợp nhất là tác phong quần chúng, có
nghĩa là xuất phát từ quần chúng, vì quyền lợi của quần chúng, tranh thủ được
sự ủng hộ của quần chúng. Muốn vậy người cán bộ quản lý phải biết lắng nghe
quần chúng, thuyết phục quần chúng, tin yêu quần chúng.
Ngoài ra các cán bộ quản lý phải đạt được ở mức nhất định những yêu
cầu về kỹ năng quản lý và phẩm chất đạo đức cá nhân.
1.1.3.1- Những yêu cầu về kỹ năng đối với cán bộ quản lý
Kỹ năng là khả năng của con người có thể đưa kiến thức vào thực tế
nhằm đạt được những kết quả mong muốn với hiệu quả cao. Daniel Katz đã
phân các kỹ năng cần thiết đối với các nhà quản lý thành ba nhóm: kỹ năng kỹ
thuật, kỹ năng thực hiện các mối quan hệ con người, kỹ năng nhận thức.
*Kỹ năng kỹ thuật
Kỹ năng kỹ thuật là khả năng của nhà quản lý thể hiện được kiến thức và
tài năng trong quá trình quản lý các hoạt động thuộc lĩnh vực chuyên môn của
mình. Nó bao gồm kỹ năng thực hiện các hoạt động chuyên môn và kỹ năng
thực hiện các quy trình quản lý. Muốn quản lý tốt những hoạt động nhất định,
nhà quản lý phải hiểu và thực hiện được những hoạt động đó.
Cụ thể như là các thợ cơ khí làm việc với các dụng cụ, và người đốc
công phải có khả năng dạy các kỹ năng sử dụng dụng cụ cho cấp dưới của
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
mình. Các kế toán viên thực hiện các quy trình kế toán và người kế toán trưởng
phải có khả năng hướng dẫn cho họ những quy trình đó. Để quản lý bộ phận
marketing, trưởng phòng phải nắm được công nghệ thực hiện các hoạt động
mảketing cơ bản. Đồng thời mọi nhà quản lý phải có khả năng thực hiện các
quá trình quản lý bao gồm việc lập kế hoạch, tổ chức lãnh đạo và kiểm tra đối
với các hoạt động trong phạm vi trách nhiệm của mình.
Gắn liền với việc sử dụng các phương pháp, quá trình và công cụ cụ thể,
để có kỹ năng kỹ thuật nhà quản lý phải được đào tạo và phải được trải qua
kinh nghiệm thực tế. Điều đó chứng tỏ được tại sao khi tuyển dụng cán bộ vào
các chức vụ quản lý, bên cạnh yêu cầu về bằng cấp bao giờ cũng có những yêu
cầu về kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực chuyên môn của tổ chức.
*Kỹ năng nhận thức
Kỹ năng nhận thức là khả năng phát hiện, phân tích và giải quyết những
vấn đề phức tạp.
Nhà quản lý phải thấy được bức tranh toàn cảnh thực trạng và xu thế
biến động của đơn vị do mình phụ trách, của toàn tổ chức và của môi trường,
nhận ra được những yếu tố chính trong mỗi hoàn cảnh, nhận thức được mối
quan hệ giữa các phần tử, bộ phận trong tổ chức và mối quan hệ của tổ chức
với môi trường.
Trong tất cả kỹ năng được cho là cần phải có đối với người quản lý có lẽ
kỹ năng được đánh giá cao và được nhấn mạnh nhất chính là năng lực phân tích
và giải quyết vấn đề. Người quản lý phải có khả năng xác định rõ các vấn đề,
hiểu rõ và giải thích được dữ liệu thônh tin, sử dụng được thông tin để xây
dựng các giải pháp giải quyết vấn đề. Lựa chọn được những giải pháp tối ưu
nhất cho vấn đề, biết cách lập luận và đưa ra các cam kết trong những tình
huống phức tạp.
Kỹ năng kỹ thuật có vai trò quan trọng lớn nhất ở cấp quản lý cơ sở,
giảm dần với cấp quản lý bậc trung và có ý nghĩa khá nhỏ đối với cấp cao. Kỹ
năng thực hiện các mối quan hệ con người có ý nghĩa quan trọng đối với mọi
cấp quản lý.
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
Kỹ năng nhận thức có vai trò nhỏ đối với cán bộ quản lý cấp cơ sở, trở
nên quan trọng hơn đối với cấp trung và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
cấp cao
*Kỹ năng thực hiện các mối quan hệ con người
Kỹ năng thực hiện các mối quan hệ con người là khả năng của một người
có thể làm việc được với những người khác, bao hàm những kỹ năng cụ thể
sau:
+ Đánh giá đúng con người, có khả năng thấu hiểu và thông cảm với
những tâm tư, tình cảm nguyện vọng của con người
+ Mềm dẻo trong hành vi, có kỹ năng giao tiếp và đàm phán
+ Có khả năng tạo quyền lực và tạo ảnh hưởng
+ Sử dụng một cách có nghệ thuật các phương pháp lãnh đạo con người
+ Có khả năng xây dựng và làm việc theo nhóm
+ Có khả năng chủ trì các cuộc họp
+ Giải quyết tốt các mâu thuẫn trong tập thể
+ Quản lý có hiệu quả thời gian và sự căng thẳng của bản thân mình,
không để các vấn đề cá nhân làm ảnh hưởng đến công việc chung …
Nhà quản lý có kỹ năng làm việc với con người sẽ tham gia tích cực vào
công việc của tập thể, tạo ra được một môi trường trong đó mọi người cảm thấy
an toàn, dễ bộc bạch ý kiến và phát huy triệt để tính sáng tạo của mình
1.1.3.2- Yêu cầu về phẩm chất cá nhân
Để làm việc có hiệu quả, bên cạnh kỹ năng nhà quản lý còn cần mang
những đặc tính cá nhân nhất định. Có thể tổng kết những đòi hỏi về đặc điểm
cá nhân đối với cán bộ quản lý bao gồm:
+ Người quản lý thành đạt có ước muốn mãnh liệt được làm quản lý, nó
được ảnh hưởng đối với những người khác và thu được kết quả thông qua
những cố gắng tập thể của cấp dưới. Trong thực tế nhiều người muốn có sự thú
vị được ở các cương vị quản lý, bao gồm cả địa vị lẫn lương bổng cao, nhưng
họ lại thiếu mất động lực cơ bản là tạo ra môi trường thuận lợi trong đó mọi
người có thể hợp tác với nhau vì mục đích chung. Lòng mong muốn đối với
công việc quản lý đòi hỏi sự nỗ lực, thời gian sức lực và sự kiên nhẫn.
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
+ Nhà quản lý phải là người có văn hóa, có kiến thức, có thái độ dúng
mực với những người xung quanh, tạo được ấn tượng tốt, gây được sự chú ý và
kính trọng, tỏ ra tự tin trong hành động và lời nói. Hành động một cách đúng
đắn và có sáng tạo theo pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội.
+ Nhà quản lý phải là người có ý chí, chấp nhận rủi ro, có khả năng duy
trì công việc ngay cả khi phải chịu những áp lực nặng nề.
Các yêu cầu trên đều cần được tiêu chuẩn hóa và thể chế hóa để làm căn
cứ cho quá trình tuyển chọn, sử dụng ,đánh giá và đào tạo bồi dưỡng cán bộ
quản lý tổ chức.
1.2- Công tác của cán bộ quản lý
1.2.1- Nội dung công tác của cán bộ quản lý
Công tác cán bộ quản lý là quá trình đảm bảo nguồn nhân lực cho hoạt
động quản lý với những nhiệm vụ cơ bản sau đây :
+ Phân tích nhu cầu về nhân lực quản lý và nguồn cán bộ quản lý tổ chức.
+ Tuyển chọn , bố trí và hòa nhập cán bộ quản lý.
+ Di chuyển và đề bạt cán bộ quản lý.
+ Đánh giá cán bộ quản lý.
+ Đãi ngộ cán bộ quản lý.
+ Đào tạo và phát triển cán bộ quản lý.
Công tác cán bộ, ảnh hưởng đến chức năng lãnh đạo và kiểm tra. Những
người quản lý được đào tạo tốt sẽ có khả năng tạo dựng môi trường làm việc
thuận lợi để mọi người, khi làm việc theo nhóm, có thể đạt được các mục tiêu
của tổ chức và mục đích cá nhân của mình. Nói cách khác, công tác cán bộ hợp
lý sẽ làm cho lãnh đạo hiệu quả hơn. Tương tự, việc lựa chọn được những
người quản lý có chất lượng cũng ảnh hưởng tốt đến công tác kiểm tra, ví dụ
như qua việc họ có thể loại trừ được nhiều sai lệch so với các kế hoạch, không
để chúng trở thành những vấn đề lớn .
Công tác cán bộ đòi hỏi phải áp dụng phương pháp tiếp cận hệ thống mở.
Tuy được thực hiện trong tổ chức, công tác này có mối quan hệ chặt chẽ với
môi trường bên ngoài. Vì vậy, các yếu tố nội bộ tổ chức, chẳn hạn như các
chính sách quản lý nguồn nhân lực hay bầu không khí trong tổ chức phải được
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
tính đến, đồng thời không bỏ qua các yếu tố của môi trường bên ngoài. Ví dụ,
xu thế sử dụng công nghệ cao đòi hỏi phải có nhà quản lý được đào tạo cẩn
thận, bồi dưỡng chu đáo và rất lành nghề. Việc không thể đáp ứng những nhu
cầu về những người quản lý như vậy có thể sẽ gây trở ngại cho tổ chức trong
việc phát triển với tốc độ mong muốn.
1.2.2- Phong cách làm việc của cán bộ quản lý
Phong cách làm việc của cán bộ quản lý là tổng thể các biện pháp, các
thói quen, các cách cư xử đặc trưng mà người đó sử dụng trong quá trình giải
quyết công việc hàng ngày để hoàn thành nhiệm vụ.
* Các phong cách làm việc cơ bản:
- Phong cách cưỡng bức
Là phong cách làm việc trong đó nhà quản lý chỉ dựa vào kiến thức, kinh
nghiệm, quyền hạn của mình để tự đề ra các quyết định rồi bắt buộc cấp dưới
phải thực hiện nghiêm chỉnh, không được thảo luận hoặc bàn bạc gì thêm.
Phong cách cưỡng bức có ưu điểm là giải quyết mọi vấn đề một cách nhanh
chóng và giữ được bí mật ý đồ. Tuy nhiên với phong cách này nhà quản lý sẽ
triệt tiêu tính sáng tạo của mọi người trong tổ chức.
Phong cách cưỡng bức đặc biệt cần thiết khi tổ chức hay bộ phận mới
thành lập, khi có nhiều mâu thuẫn và sung đột phát sinh trong hệ thống, khi cần
phải giải quyết những vấn đề khẩn cấp và cần giữ bí mật.
- Phong cách dân chủ
Nhà quản lý có phong cách làm việc dân chủ rất quan tâm thu hút tập thể
tham gia thảo luận đẻ quyết định các vấn đề của đơn vị, thực hiện rộng rãi chế
độ ủy quyền.
Phong cách dân chủ phát huy được tính sáng tạo của đội ngũ nhân lực và
tạo được bầu không khí phấn khởi, nhất chí trong tập thể. Nhung phong cách
này có thể làm chậm quá trình ra quyết định dẫn đến mất thời cơ.
Với khả năng và trình độ ngày càng cao của đội ngũ nhân lực phong
cách dân chủ ngày càng được sử dụng rộng rãi và trở thành phong cách làm
việc có hiệu quả nhất đối với các cán bộ quản lý ở hầu hết các tổ chức, đặc biệt
là các doanh nghiệp.
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
- Phong cách tự do
Người cán bộ quản lý có phong cách này tham gia rất ít vào công việc
tập thể thường chỉ xác định các mục tiêu cho đơn vị mà mình phụ trách rồi để
cho các cấp dưới tự do hành động để đi đến mục tiêu.
Phong cách tự do có ưu điểm là tạo ra khả năng chủ động sáng tạo tối đa
cho con người. Tuy nhiên, nó dễ đưa tập thể tới tình trạng vô chính phủ và đổ
vỡ.
Phong cách này chỉ có thể áp dụng có hiệu quả đối với những đơn vị có
các mục tiêu độc lập, rõ ràng và có đội ngũ nhân lực có kỹ năng và ý thức kỷ
luật cao. Trong các tổ chức khác, chỉ nên sử dụng phong cách tự do khi thảo
luận những vấn đề nhất định mà thôi.
Cán bộ quản lý là những người giữ chức vụ và trách nhiệm cao trong
mỗi tổ chức, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của bộ máy, có vai trò tham gia
định hướng điều khiển hoạt động của bộ máy đó. Cán bộ quản lý là người xây
dựng kế hoạch, ra quyết định, tổ chức, điều hành, giám sát các hoạt động của
doanh nghiệp, để duy trì hoạt động thường xuyên một cách tối ưu để thực hiện
các chương trình kế hoach mục tiêu của doanh nghiệp đó
1.3- Tính cấp thiết của việc xây dựng đội ngũ cán bộ trong doanh nghiệp
Yêu cầu, nhiệm vụ của việc xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn
hiện nay là phải phát huy được những lợi thế, tận dụng được mọi khả năng để
đạt trình độ công nghiệp tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ
sinh học. Tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn những
thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối chính sách, đồng thời có
tiềm lực kinh tế đủ mạnh, có mức tích luỹ ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế,
có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh, kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại
và có một số ngành công nghiệp nặng then chốt, có năng lực nội sinh về khoa
học và công nghệ, giữ vững ổn định kinh tế, tài chính vĩ mô, đảm bảo an ninh
lương thực, an toàn năng lượng, tài chính, môi trường. Xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực với
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước. Như vậy sản xuất xã
hội ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Trong điều kiện của nền
kinh tế thị trường có sự đua tranh quyết liệt sẽ làm tăng nhanh các phương án,
dẫn đến việc quyết định lựa chọn phương án tối ưu trở nên ngày càng phức tạp.
Sự tăng nhanh khối lượng tri thức và độ phức tạp của cơ cấu tri thức, sự xuất
hiện của hệ thống thông tin mới, gồm cả thông tin quản lý đã mở rộng đòi hỏi
khả năng xử lý, chọn lọc để có quyết định quản lý đúng đắn và hiệu quả ngày
càng cao. Lúc này tác động của các quyết định quản lý đối với đời sống kinh tế
- xã hội vừa sâu sắc, vừa có hiệu quả lớn song cũng có thể để lại những hậu quả
hết sức nghiêm trọng và lâu dài. Để đáp ứng được yêu cầu sự nghiệp công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước thì hơn bao giờ hết Đảng ta phải xây dựng
được đội ngũ cán bộ quản lý có đủ năng lực trí tuệ và bản lĩnh chính trị để thích
nghi với môi trường phát triển toàn cầu hoá hiện nay phải nhận thức được các
vấn đề.
Thực tiễn cách mạng nước ta cho thấy, trong các thời kỳ cách mạng, nhất
là trong các thời điểm có tính chất chuyển giai đoạn, cán bộ bao giờ cũng đống
vai trò quan trọng. Chính vì vậy, Nghị quyết, Hội nghị lần thứ ba Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng định: “ Cán bộ là nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước. Đảng ta đã dày công đào tạo, huấn luyện, xây dựng được một độ ngũ cán
bộ tận tụy, kiên cường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các giai đoạn”.
Hiện nay đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, cải cách và mở cửa kinh tế, hội nhập với kinh tế quốc tế. Trước
nhiệm vụ mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi các Doanh nghiệp nói
chung và Doanh nghiệp Bưu chính nói riêng phải xây dựng được một đội ngũ
cán bộ lãnh đạo ngang tầm, góp phần thực hiện được từng nhiệm vụ chiến lược
của doanh nghiệp Bưu chính nói riêng và hệ thống các Doanh nghiệp nhà nước
nói chung.
Cũng như các Doanh nghiệp khác nói chung, Doanh nghiệp Bưu chính
nói riêng là nơi làm ra của cải, đáp ứng được nhu cầu thông tin liên lạc trong
xã hội, tạo công ăn việc làm cho một bộ phận người lao động. Trong giai đoạn
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
hiện nay, ngành bưu chính đã xây dựng được một mạng lưới rộng khắp, với
những công nghệ và thiết bị hiện đại. Từ đó ta có thể suy ra rằng, sự hưng thịnh
hay không của nền kinh tế ở một quốc gia phụ thuộc phần lớn sự hùng hậu ở
phần lớn đội ngũ cán bộ của Doanh nghiệp tại quốc gia đó mà trước hết đó là
các doanh nghiệp bản địa. Các quốc gia vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của
chính mình, đều buộc phải định hướng cho mình chiến lược phát triển bền
vững, nghĩa là sự phát triển lành mạnh, vừa đáp ứng được nhu cầu hiện tại, vừa
không xâm phạm đến lợi ích của các thế hệ tương lai.
Những vấn đề nêu trên, cộng với xu thế phát triển Kinh tế - Xã hội của
các nước trong khu vực và trên thế giới, sự diễn ra nhanh chóng của quá trình
toàn cầu hóa vá tin học hóa, đã đặt ra một sứ mệnh vô cùng to lớn cho các
doanh nghiệp. Đó là làm thế nào để hoạt động của doanh nghiệp vừa hết sức
hợp lý, lại vừa hết sức nhân văn để có thể thích ứng những yêu cầu của cộng
đồng và Quốc tế.
Thực tế muốn nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, ngoài các biện pháp về kinh tế, pháp luât,
xã hội…thì biện pháp nâng cao chất lượng của người cán bộ quản lý là một nội
dung không thể thiếu được, vì trong nguyên nhân thành công hay thất bại của
Doanh nghiệp thì cá nhân người lãnh đạo Doanh nghiệp giữ vai trò đặc biệt
quan trọng.
Quá trình đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở cửa
hội nhập kinh tế quốc tế là cả môt chặng đường phấn đấu thực hiện những
nhiệm vụ cao cả nhưng vô cùng khó khăn, phức tạp đòi hỏi đội ngũ cán bộ
quản lý phải có đủ năng lực phẩm chất không ngừng sáng tạo, phải vươn lên
mạnh mẽ hơn nữa mới có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Vì vậy để thấy được tính cấp thiết của đội ngũ cán bộ quản lý, người cán
bộ quản lý trước hết phải hoàn thành tốt vai trò, chức năng nhiệm vụ đặt ra của
doanh nghiệp.
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
Ở TRUNG TÂM KHAI THÁC VẬN CHUYỂN BƯU ĐIỆN HÀ NỘI
2.1- Đặc điểm tình hình hoạt động của Trung tâm khai thác vận chuyển
bưu điện Hà Nội
2.1.1- Quá trình hình thành và phát triển của Trung tâm:
Trung tâm khai thác vận chuyển bưu điện Hà Nội có tên gọi cũ là Trung
tâm Bưu chính Liên tỉnh & Quốc tế khu vực I ( Tên giao dịch Quốc tế là Mail
Center zone I ) là doanh nghiệp Nhà nước - Đơn vị thành viên của Công ty Bưu
chính Liên tỉnh & Quốc tế ( VPS ) hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích
trong lĩnh vực Bưu chính. Quá trình hình thành và phát triển của Trung tâm
được chia ra làm hai thời kỳ:
Thời kỳ từ năm 1991 - 1996:
Tháng 1 năm 1991, Trung tâm khai thác vận chuyển được chính thức
thành lập theo quyết định số 374B/QĐ - TCCB của Tổng cục trưởng Tổng cục
Bưu điện, địa điểm tại số 4 Đinh lễ – Quận Hoàn kiếm – Hà Nội.
Từ khi thành lập cho đến năm 1995. Nhiệm vụ chính của Trung tâm là tổ
chức khai thác bưu gửi đi, đến trong nước và Quốc tế. Mở các ghi sê giao dịch
để thu gom bưu gửi tại Ga Hà nội và Gia Thụy-Tổ chức vận chuyển Bưu chính
trên mạng cấp I khu vực các tỉnh phía Bắc từ Quảng Bình trở ra bằng các
phương tiện chuyên ngành, hợp đồng vận chuyển bưu chính bằng phương tiện
đường hàng không, đường thủy, đường sắt, để vận chuyển Bưu gửi trong nước
và Quốc tế
Thời kỳ từ năm 1997 - đến nay:
Để đáp ứng yêu cầu sản xuất đang đòi hỏi phát triển, ngày 31/3/1997
Tổng giám đốc Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt nam ký quyết định số
821/QĐ-TCCB về việc thành lập Trung tâm, trên cơ sở mô hình tổ chức của
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
Trung tâm khai thác vận chuyển bưu điện Hà Nội ( Tên gọi cũ là Trung tâm
bưu chính liên tỉnh và Quốc tế khu vực 1 ).
Tháng 5/1998, toàn bộ Trung tâm chuyển về 142 Đường Lê Duẩn- Quận
Đống Đa – Hà Nội. Đến năm 2000 nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Trung
tâm đã đưa thêm dịch vụ mới Datapost vào hoạt động làm tăng doanh thu lên
đáng kể. Bước vào Thế kỷ mới, năm 2001 là năm thực hiện kế hoạch 5 năm
đầu tiên của Thế kỷ XXI, Trung tâm khai thác vận chuyển liên tục thu được
những thành công rất đáng tự hào, và cũng là năm đơn vị được chính thức
chuyển về địa điểm mới của mình tại Đường Phạm Hùng – Mỹ Đình – Từ
Liêm – Hà Nội. Đây là cụm công trình kiến trúc liên hoàn từ 4 tầng đến 10 tầng
với tổng diện tích mặt bằng sàn trên 2000m
2
được xây dựng trên diện tích xấp
xỉ 10000 m
2
, có mặt bằng sản xuất và làm việc rộng lớn, là lợi thế cho khai thác
và tập trung từng bước hiện đại hóa Bưu chính.
Tháng 10 năm 2002, hệ thống máy chia chọn Bưu phẩm, Bưu kiện tự
động lần đầu tiên được lắp đặt tại Việt Nam đã làm tăng năng suất lao động lên
hàng chục lần và làm giảm thiểu cường độ lao động cho công nhân khai thác
Bưu chính của Trung tâm. Đến tháng 12 năm 2002, thực hiện phương án đổi
mới tổ chức sản xuất của Tổng Công ty Bưu chính – Viễn thông Việt nam
Trung tâm khai thác vận chuyển được Tổng Công ty bưu chính giao thêm
nhiệm vụ khai thác, vận chuyển Bưu chính mạng cấp II từ Bưu điện Thành phố
Hà Nội chuyển giao sang. Mô hình tổ chức cũng được đổi mới theo hướng
chuyên môn hóa cao nhằm tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm,
giảm thiểu khai thác trung gian, hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh
trong cơ chế thị trường theo định hướng XHCN.
Trung tâm khai thác vận chuyển là đơn vị có đầy đủ tư cách pháp nhân,
hạch toán kinh tế phụ thuộc và có tài khoản tại Ngân hàng Công thương Việt
nam
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
Đến tháng 4 năm 2008 Trung tâm Bưu chính liên tỉnh và quốc tế khu
vực 1 sáp nhập vào Bưu điện Thành phố Hà Nội được đổi tên thành Trung
tâm Khai thác vận chuyển Bưu điện Hà Nội.
2.1.2- Chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm
Trung tâm khai thác vận chuyển là Trung tâm đầu mối khai thác chia
chọn, vận chuyển trao đổi bưu phẩm, bưu kiện và thư từ công văn tài liệu với
các tỉnh trong cả nước và với các Quốc gia trên Thế giới với những chức năng
nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Tổ chức xây dựng, vận hành, khai thác, phát triển mạng lưới bưu chính
Liên tỉnh và Quốc tế. Đảm bảo thông tin bưu chính trên mạng Liên tỉnh và
Quốc tế đối với các dịch vụ cơ bản, phục vụ sự chỉ đạo của các cơ quan Đảng,
chính quyền các cấp, các yêu cầu thông tin trong đời sống kinh tế xã hội của
nhân dân theo quy định của Tổng công ty và Bưu điện thành phố Hà Nội.
- Kinh doanh vận chuyển chuyên ngành Bưu chính và các dịch vụ vận
chuyển có liên quan trên mạng Liên tỉnh và Quốc tế.
- Tham gia với các cơ quan hữu quan như: Hải quan, Công an, và các
ngành liên quan khác, kiểm hóa các bưu phẩm, bưu kiện, thư từ, tài liệu từ
trong nước gửi ra nước ngoài và từ nước ngoài gửi đến Việt nam.
- Thực hiện việc sản xuất kinh doanh vật tư, ấn phẩm, thiết bị chuyên
ngành về Bưu chính và kinh doanh các ngành nghề khác theo quy định của
Pháp luật được bưu điện thành phố Hà Nội cho phép.
- Tư vấn, khảo sát, thiết kế, lắp đặt, bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa trang
thiết bị khai thác Bưu chính và phương tiện vận chuyển.
2.1.3- Cơ cấu tổ chức của Trung tâm khai thác vận chuyển
* Cơ cấu tổ chức.
Ban Giám đốc
Trung tâm hiện có 1 Giám đốc và 3 Phó Giám đốc trong đó:
- Giám đốc Trung tâm có quyền quản lý và điều hành cao nhất của Trung
tâm, có trách nhiệm quản lý chung toàn bộ công tác tổ chức tài chính, hoạt
động và kết quả sản xuất kinh doanh của toàn Trung tâm, đồng thời là đại diện
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
pháp nhân của đơn vị, chịu trách nhiệm trước Giám đốc Bưu điện thành phố Hà
Nội, Tổng công ty và trước Pháp luật về điều hành hoạt động của đơn vị trong
phạm vi quyền hạn và nghĩa vụ được giao. Bên cạnh đó Giám đốc còn nắm bắt
các chủ trương chính sách của Đảng Nhà nước, của Tổng công ty, cũng như các
mối quan hệ với các cơ quan hữu quan, để ra quyết định chung cho toàn Trung
tâm.
- Phó Giám đốc là người giúp Giám đốc quản lý, điều hành một hoặc
một số lĩnh vực hoạt động của đơn vị theo phân công của Giám đốc, chịu trách
nhiệm trước Giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được phân công.
Các phòng chức năng:
- Phòng tổ chức - hành chính: là đơn vị quản lý, giúp Giám đốc Trung
tâm thực hiện chức năng quản lý công tác tổ chức nhân sự, đào tạo, thi đua,
tổng hợp, thanh tra, lao động tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động,
phòng chống cháy nổ và hành chính quản trị.
- Phòng kế toán: Là đơn vị quản lý, giúp Giám đốc Trung tâm thực hiện
chức năng quản lý công tác hạch toán kế toán thống kê, công tác tài chính và
thông tin kinh tế.
- Phòng kế hoạch: Là đơn vị quản lý, giúp Giám đốc Trung tâm thực
hiện chức năng quản lý về kế hoạch sản xuất kinh doanh, quản lý tài sản, cung
ứng vật tư và nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật.
- Phòng quản lý nghiệp vụ: Là đơn vị quản lý, tham mưu giúp Giám đốc
Trung tâm thực hiện chức năng quản lý nghiệp vụ, triển khai hướng dẫn thực
hiện các qui định thể lệ nghiệp vụ trong nước và Quốc tế, quản lý chất lượng
dịch vụ, mạng lưới khai thác, vận chuyển, kinh doanh các dịch vụ Bưu chính
Viễn thông và báo cáo thống kê nghiệp vụ.
- Phòng tiếp thị bán hàng: Là đơn vị quản lý, giúp Giám đốc Trung tâm
thực hiện chức năng về hoạt động Marketing: Tiếp thị, bán hàng, chăm sóc
khách hàng, kinh doanh các sản phẩm dịch vụ Bưu chính, các sản phẩm dịch vụ
khác và hợp tác kinh doanh theo sự phân cấp của Công ty.
Khối trực tiếp sản xuất:
- Bưu cục giao dịch: Là đơn vị có chức năng thực hiện kế hoạch sản xuất
kinh doanh của trung tâm trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ Bưu chính –
Viễn thông.
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
- Chi nhánh Bưu chính ủy thác: Là đơn vị có chức năng thực hiện kế
hoạch sản xuất kinh doanh của Trung tâm trong lĩnh vực khai thác dịch vụ Bưu
chính ủy thác.
- Chi nhánh Datapost: Là đơn vị có chức năng thực hiện kế hoạch sản
xuất kinh doanh của Trung tâm trong lĩnh vực tổ chức thực hiện cung cấp dịch
vụ Datapost.
- Bưu cục khai thác Bưu phẩm: Là đơn vị sản xuất, có chức năng thực
hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của Trung tâm trong lĩnh vực khai thác chia
chọn thư, ấn phẩm, ghi số Liên tỉnh và đến tận tuyến phát Nội, Ngoại thành Hà
Nội.
- Bưu cục khai thác Bưu kiện: Là đơn vị sản xuất, có chức năng thực hiện
kế hoạch sản xuất kinh doanh của Trung tâm trong lĩnh vực khai thác chia chọn
Bưu kiện Liên tỉnh và Nội, Ngoại thành Hà Nội.
- Bưu cục Ngoại dịch: Là đơn vị sản xuất, có chức năng thực hiện kế
hoạch sản xuất kinh doanh của Trung tâm trong lĩnh vực khai thác bưu phẩm,
bưu kiện Quốc tế đi và đến.
- Bưu cục khai thác EMS: Là đơn vị sản xuất, có chức năng khai thác
hàng Bưu chính gửi dịch vụ chuyển phát nhanh EMS đi, đến trong nước và
Quốc tế (Tháng 01 năm 2006 Bưu cục khai thác EMS đã chuyển sang Công ty
cổ phần chuyển phát nhanh Hà Nội ).
- Các đội vận chuyển I, II, III: Là đơn vị có chức năng thực hiện kế hoạch
sản xuất kinh doanh của Trung tâm trong lĩnh vực vận chuyển Bưu chính, Phát
hành báo chí trên các tuyến đường thư do đơn vị được giao phụ trách.
Khối phụ trợ
- Đội kỹ thuật tin học: Là đơn vị phụ trợ, thực hiện chức năng tổ chức theo
dõi, bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa hệ thống thiết bị dây chuyền khai thác, tin
học, điện nước, điều hòa nhiệt độ…. đảm bảo an toàn kỹ thuật, phát huy hiệu
quả nguồn vốn đầu tư được Công ty giao.
- Đội điều độ trung chuyển: Là đơn vị phụ trợ, thực hiện chức năng điều
hành sản xuất trong lĩnh vực trung chuyển túi gói bưu chính tại đầu mối khu
vực Hà Nội.
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
- Ban bảo vệ: Là đơn vị phụ trợ, giúp Giám đốc Trung tâm thực hiện
chức năng quản lý công tác an ninh nội bộ, bảo đảm mục tiêu quân sự, tự vệ,
phòng chống cháy nổ tại các khu vực thuộc Trung tâm quản lý.
Sau đây là sơ đồ cơ cấu tổ chức của Trung tâm Khai thác vận chuyển
Bưu điện Hà Nội:
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Trung tâm Khai thác vận chuyển Bưu điện Hà Nội:
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
GIÁM ĐỐC TRUNG TÂM
Khối
khai thác
CÁC PHÓ GIÁM ĐỐC
CÁC PHÒNG CHỨC NĂNG
PHÒNG
TỔ
CHỨC
HÀNH
CHÍNH
PHÒNG
KẾ
TOÁN
TÀI
CHÍNH
PHÒNG
QUẢN
LÝ
NGHIỆP
VỤ
PHÒNG
TIẾP
THỊ
BÁN
HÀNG
PHÒNG
KẾ
HOẠCH
ĐẦU
TƯ
Khối vận chuyển
Khối phụ trợ
Khối doanh
thu cước
ĐỘI VẬN CHUYỂN 1
ĐỘI VẬN CHUYỂN 2
ĐỘI VẬN CHUYỂN 3
BAN BẢO VỆ
ĐỘI KỸ THUẬT TIN HỌC
ĐỘI ĐIỀU ĐỘ TRUNG CHUYỂN
BƯU CỤC GIAO DỊCH
CHI NHÁNH BCUT
CHI NHÁNH DATAPOST
BƯU CỤC KHAI THÁC B. PHẨM
BƯU CỤC KHAI THÁC B. KIỆN
BƯU CỤC KHAI THÁC EMS
BƯU CỤC NGOẠI DỊCH
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
- * Cơ cấu lao động của Trung tâm;
Tính đến quý II năm 2006 cơ cấu lao động tại Trung tâm được thống kê
như sau:
Bảng thống kê lao động
Trình độ
Ngành
Đại học
( Người )
Cao đẳng
( Người )
Trung cấp
( Người )
Sơ cấp
( Người )
1. Viễn thông 10 5 2
2. Kinh tế 32 10 5
3. Điện tử tin học 20 4 2
4. Khai thác 20 5 30 427
5. Chuyên ngành khác 25 12 6
Tổng 107 36 45 427
Tổng số CBCNV là 615 người, trong đó:
- Trình độ Đại học và trên Đại học: 107 người, chiếm 17,4%.
- Trình độ Cao đẳng: 36 người, chiếm 5,9%.
- Trình độ Trung cấp: 45 người, chiếm 7,3%.
- Trình độ Sơ cấp: 427 người, chiếm 69,4%.
Theo số liệu thống kê trên có thể thấy lượng lao động có trình độ sơ cấp
chiếm tỷ trọng cao nhất 69,4%, trong khi số lượng lao động có trình độ Cao
đẳng chỉ chiếm 5,9%. Như vậy cơ cấu lao động như hiện nay là chưa phù hợp.
Trong khi việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất ngày càng được chú
trọng thì với cơ cấu trên khả năng nắm bắt kịp thời công nghệ mới của đại đa
số trong đơn vị sẽ thấp. Rõ ràng điều đó làm cho doanh nghiệp gặp rất nhiều
khó khăn để đáp ứng được theo yêu cầu phát triển của xã hội và của ngành. Đội
ngũ cán bộ quản lý của đơn vị hiện nay có chất lượng chưa theo kịp tốc độ phát
triển và sự thay đổi nhanh chóng về cơ cấu tổ chức, một phần do có trình độ
chuyên môn chưa cao, một phần do cách thức quản lý tập trung hành chính còn
để lại ảnh hưởng sâu nặng.
Những năm gần đây, đơn vị đã chú trọng nhiều tới công tác nâng cao chất
lượng lao động thông qua các hình thức đào tạo, nâng cao chuyên môn, tay
nghề.Tuy nhiên hiệu quả đạt chưa được cao, do vậy lao động được đào tạo
nâng cao chưa nhiều.
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Sinh viên: Vi Thị Châu Mai
2.1.4- Tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh tại Trung tâm khai thác vận
chuyển bưu điện Hà Nội
a- Tổ chức mạng vận chuyển.
Trung tâm khai thác vận chuyển là đơn vị đầu mối tổ chức, quản lý khai
thác vận chuyển và giao nhận túi gói Bưu chính trên mạng cấp 1 (Liên tỉnh)
trực tiếp với các Bưu điện tỉnh trong khu vực. Từ Quảng Bình trở ra hết các
tỉnh phía Bắc.
Trao đổi trên mạng Quốc tế qua các cửa khẩu Nội Bài, bằng đường hàng
không. Qua cửa khẩu Hữu Nghị Quan, bằng đường bộ. Qua Singapore bằng
đường thủy. Đường thư ôtô chuyên ngành trong nước.
Tính đến nay, Trung tâm khai thác vận chuyển có khoảng 16 tuyến đường
thư chuyên ngành cấp I, trong đó có 7 tuyến đường thư tần xuất 2 chuyến/ngày
và có 9 tuyến đường thư 01 chuyến/ngày với khoảng 16.000 km xe lăn
bánh/ngày. Thực hiện giao nhận với 147 Bưu cục cấp 1,2,3 trên tuyến. Đảm
nhận toàn bộ mạng vận chuyển cấp 2 của Tp Hà nội.
- Đường thư bộ đi Quốc tế hiện đang duy trì tuyến đường thư bộ Quốc tế
là Hà nội – Bắc Kinh giao nhận qua cửa khẩu Hữu nghị quan 2 chuyến/tuần.
Đường thư máy bay hợp đồng với 8 tuyến đường bay của hãng Hàng không
Việt nam và 3 hãng Hàng không Quốc tế khác để vận chuyển đi Tp Hồ Chí
Minh, Đà Nẵng và đến các nước trên Thế giới. Sử dụng vận chuyển bằng máy
bay tuyến Hà nội - Hồ Chí Minh 2 chuyến/ngày.Tuyến Hà nội - Đà Nẵng 2
chuyến/ngày.
- Đường tàu hoả: Sử dụng tàu Thống nhất T3 và T4 của Tổng công ty
Đường sắt Việt Nam để vận chuyển bưu gửi cho các tỉnh dọc tuyến đường sắt
Bắc - Nam và ngược lại với tần suất 1 chuyến/ngày. Ngoài ra còn thuê thêm toa
Hành lý và toa dịch vụ (HBN) để lưu thoát bưu gửi trao đổi thẳng giữa Hà nội
và Tp Hồ Chí Minh bình quân 25 - 30 tấn/ngày.
Ngoài ra Trung tâm còn giao nhận tiếp nối với các Trung tâm tại Quảng
Bình, Nha Trang, Buôn Ma Thuột bằng xe ôtô chuyên ngành, tạo nên sự phối
hợp khép kín trên toàn mạng lưới.
Do năng lực vận chuyển bằng tàu hoả, đường hàng không giữa hai đầu
Bắc - Nam còn hạn chế nên Trung tâm vẫn sử dụng thêm các xe ôtô tải ngoài
xã hội để vận chuyển hàng Bưu chính đi thẳng Hà nội - Hồ Chí Minh. Tùy theo
Lớp Quản lý kinh tế Khoa KHQL K36
25