Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

CƠ sở LÝ LUẬN QLNN về CHỐNG HÀNG GIẢ, HÀNG NHÁI VÀ GIAN lận THƯƠNG MẠI TRONG KINH DOANH mặt HÀNG MỸ PHẨM TRÊN địa BÀN HÀ nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.89 KB, 12 trang )

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN QLNN VỀ CHỐNG HÀNG GIẢ, HÀNG NHÁI VÀ
GIAN LẬN THƯƠNG MẠI TRONG KINH DOANH MẶT HÀNG MỸ PHẨM
TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
1.1. Khái niệm.
1.1.1. Khái niệm và vai trò QLNN về thương mại.
1.1.1.1. Khái niệm QLNN về thương mại
QLNN về thương mại là một bộ phận hợp thành của quản lý nhà nước về kinh
tế, đó là sự tác động có hướng đích, có tổ chức của hệ thống cơ quan quản lý về
thương mại các cấp đến hệ thống bị quản lý thông qua việc sử dụng các công cụ và
chính sách quả lý nhằm đạt mục tiêu đã đặt ra trong điều kiện môi trường xác định.
1.1.1.2. Vai trò của QLNN về thương mại
- Định hướng, hướng dẫn đối với chủ thể thương mại trong lĩnh vực thương mại được
thể hiện thông qua các chiến lược, quy hoạch, các chương trình mục tiêu, các dự án, kế
hoạch và chính sách. Nhờ vậy, các doanh nghiệp mới có cơ sở để tính toán, lựa chọn
các quyết định đầu tư và kinh doanh theo ngành hàng, các nhóm sản phẩm dịch vụ,
theo phạm vi thị trường và theo độ dài thời gian cũng như liên kết, liên doanh với các
đối tác một cách hợp lý.
- Tạo lập môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp: Nhà nước tạo lập và cải thiện
môi kinh doanh cho các doanh nghiệp thông qua khai thông các quan hệ thương mại,
làm thông thoáng sự giao lưu hàng hóa trong nước và quốc tế, nhờ thiết lập khung khổ
phá lý đầy đủ hơn, đồng bộ hơn, tiến bộ hơn và thuận lợi hơn trong lĩnh vực thương
mại bao gồm các quy định pháp luật, các chính sách, ký kết các hiệp định, thực hiện
các cam kết mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế.
- Điều tiết các hoạt động thương mại và thị trường: Các quan hệ thị trường, các hoạt
động trao đổi tự nó không phải bao giờ cũng cân đối và hiệu quả. Theo quy luật thị
trường, các chủ thể kinh doanh luôn quan tâm tới việc bố trí, di chuyển nguồn lực đến
nơi có điều kiện sản xuất và thương mại thuận lợi, bán được giá cao, tìm kiếm nhiều
lợi nhuận, dẫn đến phân bổ nhiều nguồn lực tập trung, mất cân đối. Trong khi đó, một
bộ phận dân cư, thu nhập thấp, các nhà kinh doanh không muốn tới hoặc tới đó rất ít vì
không thể tìm kiếm được lợi nhuận. Do vậy, nhà nước phải điều tiết các quan hệ trao
đổi, các hoạt động thương mại nhằm hạn chế nhược điểm trên để đảm bảo tính cân đối


và hiệu quả của tổng sản phẩm xã hội, để mọi người dân đều được hưởng lợi từ kết
quả và thành tựu phát triển xã hội.
- Hỗ trợ và giúp đỡ các doanh nghiệp trong quá trình hình thành và phát triển
1.1.2. Khái niệm hàng giả, hàng nhái, gian lận thương mại
- Hàng giả, hàng nhái:
Hàng làm bắt chước theo mẫu mã của loại hàng thật nào đó đang được lưu
hành, nhưng không bảo đảm đủ tiêu chuẩn về phẩm chất hoặc không có giá trị sử
dụng, hoặc không có giá trị sử dụng đầy đủ, nhất là đối với mặt hàng thông dụng và có
nhu cầu lớn. Về hình thức, các loại hàng giả rất giống hàng thật, vì kĩ thuật làm hàng
giả ngày càng tinh vi. Người làm hàng giả cũng có khi sử dụng một phần nguyên liệu,
các loại bao bì, tem nhãn của hàng thật để lừa gạt người mua. Sản xuất và buôn bán
hàng giả là một tội phạm được xử theo luật hình rất nghiêm, đặc biệt đối với hàng giả
về thuốc chữa bệnh, về thực phẩm, và nó có thể gây tác hại nguy hiểm đến sức khoẻ,
tính mạng con người.
- Gian lận thương mại:
Một thuật ngữ nữa luôn gắn liền với buôn lậu "gian lận thương mại". Gian lận
thương mại theo Từ điển Việt là "dối trá, lừa lọc" trong hoạt động thương mại. Người
có hành vi gian lận thương mại gọi là "gian thương" tức là "người có nhiều mưu mô
lừa lọc"; "kẻ buôn bán gian lận và trái phép".
Hành vi gian lận thương mại trước hết phải là hành vi gian lận nói chung,
nhưng hành vi gian lận này phải được thể hiện trong lĩnh vực thương mại thông qua
đối tượng thể hiện hàng hoá, dịch vụ. Chủ thể của hành vi gian lận thương mại là các
chủ hàng, có thể là người mua, người bán cũng có khi là cả người mua và người bán.
Mục đích của hành vi gian lận thương mại là nhằm thu lợi bất chính do thực
hiện trót lọt hành vi lừa đảo, dối trá.
1.2. Những qui định trong QLNN về quyền sở hữu trí tuệ nhằm chống lại hàng
giả, hàng nhái, gian lận thương mại.
1.2.1. Qui định về phân cấp QLNN về quyền sở hữu trí tuệ.
1.2.1.1. Mối quan hệ giữa cơ quan quyền lực nhà nước và cơ quan hành chính nhà
nước trong việc phân cấp quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ và thực thi quyền sở hữu

trí tuệ
• Cơ quan quyền lực Nhà nước: Hội đồng nhân dân các cấp (tỉnh, huyện)
• Cơ quan hành chính Nhà nước: Uỷ ban nhân dân các cấp (tỉnh, huyện)
Luật Tổ chức Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân (2003) : “Uỷ ban nhân dân do
Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và
cơ quan nhà nước cấp trên” => Cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan chấp hành
của cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp => theo Luật Sở hữu trí tuệ (2006) thì cơ
quan hành chính nhà nước được trao quyền QLNN về sở hữu trí tuệ và thực thi quyền
sở hữu trí tuệ.
1.2.1.2. Mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước thẩm quyền chuyên môn
trong việc phân cấp quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.
Điều 11 của Luật Sở hữu trí tuệ (2006) đã trao rõ trách nhiệm QLNN về sở hữu
trí tuệ (bao gồm tất cả các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ), cụ thể:
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.
2. Bộ Khoa học và Công nghệ chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì, phối hợp với
Bộ Văn hoá – Thông tin, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện quản lý
nhà nước về sở hữu trí tuệ và thực hiện quản lý nhà nước về quyền sở hữu công
nghiệp.
Bộ Văn hoá – Thông tin trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản
lý nhà nước về quyền tác giả và quyền liên quan.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
thực hiện quản lý nhà nước về quyền đối với giống cây trồng.
3. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Văn hoá –
Thông tin, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương trong việc quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.
4. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ tại địa
phương theo thẩm quyền.
Như vậy, các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ bao gồm các nhóm:

- Quyền tác giả và quyền liên quan do Bộ Văn hóa – Thông tin, nay là Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch quản lý.
- Quyền sở hữu công nghiệp (bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ
dẫn địa lý…) do Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý.
- Giống cây trồng do Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn quản lý.
1.2.2. Qui định về phân cấp thực thi quyền sở hữu trí tuệ.
Các cơ quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ bao gồm: Tòa án, Thanh tra chuyên
ngành văn hóa, khoa học và công nghệ, Quản lý thị trường, Cảnh sát điều tra tội phạm
tật tự quản lý kinh tế và chức vụ, Hải quan, Ủy ban Nhân dân các cấp…
Hiện nay ở Việt Nam chưa có Tòa án chuyên trách việc xét xử các tranh chấp
và vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, việc xét xử này đều do Tòa Dân sự, Tòa Hình sự, Tòa
Hành chính thuộc Tòa án Nhân dân các cấp đảm nhiệm, việc xét xử này mới chỉ đạt ở
mức độ phân cấp. Luật Sở hữu trí tuệ cũng quy định nhiệm vụ của Hải quan được tiến
hành các biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí
tuệ
1.3. QLNN về chống hàng giả, hàng nhái và gian lận thương mại trong kinh
doanh hàng hoá.
Quyết định 65/2010/QĐ-TTg ngày 25/10/2010 Quyết định ban hành quy chế về
trách nhiệm và quan hệ phối hợp hoạt động giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong
công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại.
Điều 5. Nội dung phối hợp
Theo yêu cầu cụ thể trong từng giai đoạn, trên từng địa bàn, lĩnh vực và theo chức
năng của mình trong công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu, hàng giả và gian lận
thương mại, các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan chức năng kiểm tra, kiểm soát
chủ động xác lập quan hệ phối hợp hoạt động trong việc:
1. Phân định phạm vi trách nhiệm quản lý và hoạt động.
2. Xây dựng kế hoạch, phương án công tác, các biện pháp quản lý theo ngành, lĩnh
vực, địa bàn; những vấn đề có liên quan đến ngành hoặc địa phương khác cần có sự
trao đổi, bàn bạc thống nhất với các cơ quan liên quan.
3. Chỉ đạo thực hiện đồng bộ các biện pháp hành chính, kinh tế, giáo dục, tuyên truyền

để đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương
mại.
4. Phát hiện, thu nhập trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu, gồm:
a) Thông tin về dự báo tình hình thị trường, tình hình kinh tế, cung cầu hàng hóa, giá
cả; về công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại
trong ngành và trên địa bàn; kết quả công tác trong từng giai đoạn. Trong trường hợp
có những vấn đề đột xuất, nổi cộm thì kịp thời báo cáo về Ban chỉ đạo 127/TW để
thông báo cho các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan chức năng có biện pháp xử
lý.
b) Thông tin về những quy định mới của pháp luật trong hoạt động quản lý biên giới,
chính sách xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thông hàng hóa trong nước, chính sách khu kinh
tế cửa khẩu, phi thuế quan, chính sách cư dân biên giới, chính sách quản lý đối với
từng ngành hàng, mặt hàng.
c) Thông tin về tình hình vi phạm pháp luật, quy luật, thủ đoạn hoạt động của các đối
tượng vi phạm; về các tổ chức, đường dây, ổ nhóm, các tuyến, địa bàn trọng điểm liên
quan đến buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, buôn bán, vận
chuyển hàng nhập lậu, sản xuất, kinh doanh hàng giả và các hành vi gian lận thương
mại khác.
d) Thông tin về quy trình kiểm tra, xử lý mang tính nghiệp vụ của các ngành, địa
phương; thông tin về những khó khăn, vướng mắc và kinh nghiệm của từng ngành,
từng địa phương trong công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép
hàng hóa qua biên giới, buôn bán, vận chuyển hàng nhập lậu, sản xuất, kinh doanh
hàng giả và các hành vi gian lận thương mại khác.
đ) Thông tin về kỹ thuật phòng, chống và các tiến bộ khoa học, kỹ thuật có thể áp
dụng, trang bị khi các cơ quan chức năng thi hành nhiệm vụ.
e) Các thông tin, tài liệu khác theo đề nghị của các cơ quan quản lý nhà nước có liên
quan.
5. Chỉ đạo và tổ chức tuần tra, thanh tra, điều tra, kiểm tra, kiểm soát nhằm phát hiện,
ngăn chặn và xử lý các vụ việc vi phạm về buôn lậu, sản xuất, kinh doanh hàng giả,
gian lận thương mại, gồm xây dựng kế hoạch kiểm tra, cung cấp thông tin về đối

tượng; tổ chức lực lượng kiểm tra, phương tiện để bắt giữ; tư vấn, trao đổi nghiệp vụ
chuyên môn để xử lý vụ việc theo yêu cầu.
a) Phối hợp trong quá trình điều tra theo quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự và
theo quy định của các cơ quan pháp luật như: mở rộng điều tra, xác lập chuyên án lớn,
phức tạp cần đến sự phối hợp của nhiều lực lượng trong và ngoài ngành để có thể thu
thập được đầy đủ các tài liệu, chứng cứ liên quan.
b) Khi xử lý có sự bàn bạc thống nhất giữa các bên tham gia; việc kiểm tra, kiểm soát
không chồng chéo, trùng lắp, kéo dài thời gian, gây phiền hà, khó khăn cho đối tượng
được kiểm tra.
c) Trong quá trình kiểm tra, kiểm soát nếu phát hiện tổ chức, cá nhân được kiểm tra,
kiểm soát có những hành vi vi phạm ngoài chức năng, thẩm quyền xử lý của mình, thì
đơn vị kiểm tra, kiểm soát thông báo và bàn giao cho cơ quan chức năng có thẩm
quyền xem xét xử lý đúng pháp luật.
d) Khi cần thiết có thể tổ chức lực lượng kiểm tra, kiểm soát liên ngành để phối hợp
kiểm tra. Cơ quan quản lý nhà nước chủ trì sự phối hợp kiểm tra liên ngành có trách
nhiệm chính trong việc tổ chức kiểm tra và xử lý kết quả kiểm tra theo thẩm quyền và
quy định của pháp luật. Các cơ quan tham gia hỗ trợ lực lượng chuyên môn, phương
tiện trong quá trình kiểm tra và xử lý các vụ việc có tính chất phức tạp.
đ) Trong trường hợp vụ việc thuộc thẩm quyền xử lý của nhiều đơn vị, nếu ở cấp trung
ương thì giao Ban Chỉ đạo 127/TW chủ trì tổ chức sự phối hợp để xem xét biện pháp
xử lý cho phù hợp; nếu ở cấp tỉnh, thành phố thì giao Ban Chỉ đạo 127 cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương chủ trì tổ chức sự phối hợp xử lý.
6. Đề xuất sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách pháp luật khi phát sinh những vấn đề
mới trong công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa
qua biên giới, buôn bán, vận chuyển hàng nhập lậu, sản xuất, kinh doanh hàng giả và
các hành vi gian lận thương mại khác để các Bộ, ngành liên quan tham mưu Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, văn bản
quy phạm pháp luật cho phù hợp bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước.
7. Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, xây dựng lực lượng theo yêu cầu công tác; hỗ trợ lẫn
nhau trong hoạt động hợp tác quốc tế liên quan đến đào tạo nâng cao năng lượng cho

cán bộ thực thi; tổ chức giao lưu, tuyên truyền về gương người tốt, việc tốt, tuyên
truyền, phổ biến pháp luật.
8. Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng:
a) Tuyên truyền, phát động quần chúng nhân dân tham gia phòng, chống các hành vi
tiêu cực, vi phạm pháp luật trong công tác phòng, chống buôn lậu, hàng giả, gian lận
thương mại.
b) Tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người kinh doanh chấp hành các quy định của
pháp luật liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, phòng, chống buôn lậu, hàng
giả và gian lận thương mại.
9. Phối hợp với các doanh nghiệp, các Hiệp hội ngành hàng, Hiệp hội Chống hàng giả
và Bảo vệ thương hiệu Việt Nam, Hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam trong việc
tuyên truyền, phổ biến pháp luật liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp, của người tiêu dùng.
Chương2. THỰC TRẠNG QLNN VỀ CHỐNG HÀNG GIẢ, HÀNG NHÁI VÀ
GIAN LẬN THƯƠNG MẠI TRONG KINH DOANH MẶT HÀNG MỸ PHẨM
TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN về chống hàng giả, hàng nhái và gian lận
thương mại trong kinh doanh mặt hàng mỹ phẩm trên địa bàn Hà Nội.
Nền kinh tế Việt Nam sau một năm gia nhập WTO đã có những bước phát triển
lớn và đạt được nhiều thành tựu nhất định. Riêng đối với hoạt động thương mại, nước
ta được hưởng quy chế thành viên của WTO, điều này tạo cơ hội cho việc mở rộng thị
trường ,nâng cao kim ngạch xuất nhập khẩu, tăng tổng mức lưu chuyển bán lẻ hàng
hóa và doanh thu dịch vụ. Thị trường trong nước phát triển sôi động với nhiều chủng
loại hàng hóa đa dạng, phong phú. Trong sự phát triển chung đó sẽ là thiếu sót nếu
không nhắc đến thị trường mỹ phẩm Việt Nam với tốc độ tăng trưởng bình quân là
20%/năm.
Kinh tế phát triển, thu nhập của người dân ngày càng được cải thiện, nhu cầu
chăm sóc bản thân cũng được nâng cao. Mối quan tâm của cả hai giới tới ngoại hình
ngày càng lớn do đó mỹ phẩm dần dần trở thành sản phẩm tiêu dùng quen thuộc.
Không những thế, ngày nay nó đã trở thành một loại hình sản phẩm không thể thiếu

được với tất cả mọi người ở mọi lứa tuổi, tầng lớp khác nhau. Ảnh hưởng của nó
không chỉ dừng lại ở khía cạnh thẩm mỹ mà còn qua đó gián tiếp tác động đến nhiều
khía cạnh khác nữa. Đó là một mặt hàng tiềm năng và cần được khai thác một cách
đúng hướng và hiệu quả. Theo nhận xét của các chuyên gia, thị trường mỹ phẩm Việt
Nam được nhìn nhận như một thị trường phát triển nhanh và sẽ còn phát triển mạnh
trong những năm tiếp theo. Bên cạnh những thuận lợi không thể không nói đến những
thách thức đặt ra.Thị trường luôn tiềm ẩn nhiều yếu tố tác động bất lợi đến nền kinh tế
như giá cả biến động cần phải có nhiều nỗ lực để kiểm soát; công tác quản lý thị
trường còn nhiều hạn chế; nhiều khâu còn buông lỏng quản lý đặc biệt là việc xử lý
kinh doanh hàng giả, hàng nhái hàng kém chất lượng còn chưa triệt để. Đặc biệt riêng
với loại sản phẩm mỹ phẩm còn có mối liên hệ mật thiết với sức khỏe của người tiêu
dùng. Bởi vậy viêc nghiên cứu thị trường mỹ phẩm có nhiều ý nghĩa cả về mặt lý luận
lẫn thực tiễn.
Các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN về chống hàng giả, hàng nhái và gian lận thương
mại trong kinh doanh mặt hàng mỹ phẩm trên địa bàn Hà Nội như sau:
• Nhân tố về thu nhập
• Nhân tố về dân cư và địa lý
• Nhân tố thị hiếu và văn hóa
• Nhân tố về môi trường chính trị - luật pháp
2.1.1. Nhân tố về thu nhập
Tình trạng hàng giả, hàng nhái tiếp tục phát sinh, phát triển do nhiều nguyên
nhân, không chỉ do bản thân những kẻ làm hàng giả, hàng nhái hám lợi, lừa đảo, mà
còn liên quan đến các chủ thể trên thị trường, đó là các doanh nghiệp, người tiêu dùng
và các cơ quan quản lý nhà nước. Các doanh nghiệp có sản phẩm bị làm giả, làm nhái
trong nhiều trường hợp đã không muốn, không dám công bố ồn ào, do sợ nếu công bố
thì sản phẩm của mình cũng sẽ không tiêu thụ được, thà rằng "chung sống với lũ", rồi
dò tìm tự phát hiện. Người tiêu dùng khi bị lừa xong mới biết là hàng giả, hàng nhái
thì kẻ làm hàng giả, hàng nhái đã lừa được rồi; khi phát hiện được thì đã không tìm ra
được người bán, chưa nói là tìm ra được kẻ sản xuất, đành "ngậm bồ hòn làm ngọt".
Một trong những nguyên nhân chính khiến hàng giả, hàng nhái khó giảm chính

là thu nhập của người tiêu dùng còn thấp, chênh lệch giữa giá hàng hiệu và hàng giả
quá lớn. Người bán vì hám lợi mà sẵn sàng trộn hàng giả vào để bán như hàng thật.
Hàng thật thì tỷ lệ chiết khấu ở mức nhất định nhưng bán hàng giả thì lời hơn gấp đôi.
Còn đối với người tiêu dùng, cũng do giá tiền hàng giả rẻ hơn rất nhiều lần so
với hàng thật nên tặc lưỡi dùng sản phẩm mà không biết đến hậu quả sau này sẽ ra sao.
Xét về mặt giá cả thì hàng giả thường có mức giá khá là thấp. Rõ ràng trong lúc hàng
giả đóng góp phần nào vào chuyện không làm tăng mặt bằng giá cả thì lại càng được
người tiêu dùng chấp nhận.
Một doanh nhân người Việt đang ở Trung Quốc, ông Thắng, giải thích điều mà
ông am hiểu: “Phần lớn hàng giả Trung Quốc bắt nguồn từ vùng giáp Việt Nam mình.
Đầu tiên khu vực làm hàng giả chỉ tập trung ở những vùng nông thôn, nơi người ta có
thu nhập kém. Sang Việt Nam thì các doanh nghiệp trung bình cũng gọi là kém, do đó
người ta thường lấy những hàng mà giá cả nó vừa phải”.
2.1.2. Nhân tố về dân cư và địa lý
Yếu tố nhân khẩu và địa lý cũng ảnh hưởng rất lớn đến quản lý nhà nước đối
với việc kinh doanh hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Đặc biệt là đối với
những người định cư hay tạm trú trên địa bàn Hà Nội. Nơi mà được tiếp xúc nhiều với
công nghệ thông tin. Theo thống kê thì tỷ lệ hàng giả, hàng nhái trên địa bàn Hà Nội
chiếm tỷ lệ cao, điều này cũng đồng nghĩa với việc người dân nơi đây cũng được tiếp
xúc nhiều với những mặt hàng này. Hà Nội có thể nói là nơi phát triển nhất của cả
nước, trung tâm của mọi sự phát triển. Vì vậy, nhu cầu làm đẹp của người dân cũng
ngày càng cao. Việc quản lý của Nhà nước về vấn đề này ngày càng trở nên khó khăn.
2.1.3. Nhân tố thị hiếu và văn hóa.
Khi đời sống vật chất, tinh thần của người dân đang ngày càng cao hơn, thị hiếu
“hàng hiệu” khi mua các sản phẩm cũng được thể hiện rõ rệt. Cùng với đó, hiện trạng
hàng nhái, hàng giả mang “thương hiệu thật” nhưng kém chất lượng, làm giảm uy tín
của các hãng sản xuất hàng hoá có uy tín là điều không tránh khỏi.
Thực tế, hàng giả, hàng nhái làm mất thị phần của nhà sản xuất do quá trình
tiêu thụ với mức giá thấp hơn nhiều so với giá của hàng hiệu, hàng thật nên đáp ứng
được thị hiếu của người tiêu dùng (đặc biệt là người tiêu dùng có thu nhập thấp).

Thói quen của người tiêu dùng, đặc biệt sự hiểu biết của người tiêu dùng Việt Nam để
làm sao phân biệt hàng giả hàng nhái còn hạn chế. người tiêu dùng chưa chọn lựa sản
phẩm tại các địa chỉ nguồn gốc, xuất sứ rõ ràng. Các cơ quan quản lý các cơ quan
truyền thông có thể giúp cho người tiêu dùng chống hàng giả hàng nhái thì đây cũng là
lãnh vực còn nhiều hạn chế.
2.1.4. Nhân tố về môi trường chính trị - luật pháp.
Thứ nhất, các cơ quan QLNN, tuy đã có Luật Sở hữu trí tuệ (có hiệu lực thi
hành từ tháng 6.2006), nhưng việc hướng dẫn thi hành còn quá chậm, việc thực thi của
các ngành, các cấp còn chưa được quan tâm. Trong điều kiện mở cửa, hội nhập, việc vi
phạm sở hữu trí tuệ là vi phạm vào điều cấm của luật pháp quốc tế, ảnh hưởng đến uy
tín của hàng Việt Nam. Việt Nam vẫn còn bị xếp vào danh sách những nước có mức
độ vi phạm nhiều nhất, sẽ phải đứng trước các vụ kiện vi phạm sở hữu trí tuệ của
khách hàng và các tổ chức quốc tế. Việc xử lý vi phạm Luật Sở hữu trí tuệ còn quá
nhẹ, chưa đủ tính răn đe nếu so với lợi ích thu được của những kẻ làm hàng giả, hàng
nhái.
Về nỗ lực kiểm tra của chính phủ trong việc kiểm soát, ngăn chận hàng giả
hàng nhái, và những biện pháp tịch thu và xử phạt đang thực hiện đối với các công ty
tiêu thụ hàng giả nội địa:
- Kiểm tra kiểm soát và công tác quản lý để chống nhập lậu vẫn chưa hiệu quả.
- Ngăn chặn hàng giả còn nhiều bất cập, công tác quản lý hàng hoá ở vùng biên giới
vẫn còn kẽ hở, tạo cơ hội cho hàng giả hàng nhái xâm nhập nội địa, trong lúc thiếu sự
liên kết giữa thị trường trong nước với các khu vực hải quan để có thể phát hiện những
lượng hàng giả đã xâm nhập vào trong nước rồi.
- Mặt hàng mỹ phẩm vẫn đang bị thả nổi, chưa được các cơ quan chức năng kiểm soát
theo đúng quy định về giá cả, chất lượng, nhãn mác Hậu quả là đã có nhiều người
phải vào bệnh viện điều trị, trong đó có khá nhiều ca nặng ảnh hưởng nghiêm trọng
đến sức khỏe, thẩm mỹ.
- Thông qua đường buôn lậu tức không phải nộp các loại thuế, do đó thậm chí giá cả
lại còn được hỗ trợ nhờ không phải khoản thu ngân sách nhà nước. Đây cũng là
nguyên nhân làm tăng tình trạng trên.

2.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh mặt hàng mỹ phẩm trên địa bàn Hà Nội.
Hiện cả nước có hơn 15.000 loại mỹ phẩm đã đăng ký lưu hành. Số lượng mỹ
phẩm có nguồn gốc xuất xứ cụ thể vẫn còn khá khiêm tốn so với mỹ phẩm trôi nổi
kém chất lượng và hàng “xách tay” bạt ngàn trên thị trường. Ngành y tế và lực lượng
quản lý thị trường cũng chỉ kiểm tra được các cơ sở sản xuất lớn còn những điểm bán
lẻ ở chợ, các lề đường thì vẫn bỏ ngỏ. Hiện Cục Quản lý dược (Bộ Y tế) chưa có một
khảo sát cụ thể về tình hình mỹ phẩm thật - giả trên thị trường. Việc quản lý mỹ phẩm
gặp rất nhiều khó khăn do lực lượng thanh tra còn mỏng, hàng giả lại tinh vi, thậm chí
nhiều cửa hàng mỹ phẩm giả thường mua một số mỹ phẩm thật trà trộn vào hàng giả
để lấy hóa đơn mua hàng thật nhằm qua mặt cơ quan chức năng khi kiểm tra.
Khoảng 70% mỹ phẩm bày bán trên thị trường Hà Nội hiện nay là mỹ phẩm
không rõ nguồn gốc xuất xứ, không được cơ quan chức năng kiểm định chất lượng sản
phẩm, tiềm ẩn nguy cơ chứa hóa chất độc hại, ảnh hưởng đến sức khỏe người sử dụng.
Mỹ phẩm không rõ nguồn gốc bày bán tràn lan ở khu vực các phố trung tâm do thiếu
kiểm tra, xử lý như: Hàng Chiếu, phố Huế, Lê Duẩn Các cửa hàng đa phần bán mỹ
phẩm nhập lậu kém chất lượng. Vì đa số mỹ phẩm giả đều có bao bì in ấn đẹp, sắc
nét, nếu chỉ nhìn bằng mắt thường khó phân biệt được đâu là hàng giả - hàng thật. Để
qua mắt người tiêu dùng, nhiều sản phẩm còn được dán tem chống hàng giả của Viện
Khoa học hình sự (Bộ Công an), nhưng tất cả đều là tem giả. Mỹ phẩm giả, không
nguồn gốc chủ yếu là sản phẩm kem dưỡng da, kem thoa mặt, trắng da, kem tắm trắng,
son môi và phấn lót có xuất xứ khác nhau, như sản xuất lậu trong nước, hay nhập lậu
từ Trung Quốc, Thái Lan.
Bên cạnh đó hành vi gian lận thương mại trong kinh doanh mặt hàng mỹ phẩm
cũng hết sức phức tạp. Một nghiên cứu gần đây đã cho thấy chất lượng một số quảng
cáo mỹ phẩm như: : không gây dị ứng, không gây mụn, không gây độc, đã kiểm
nghiệm không hoàn toàn đúng như chất lượng thực sự của sản phẩm. Việc hỗn độn
và khó phân biệt được mỹ phẩm chính hãng và hàng giả trên thị trường cũng là một
yếu tố thuận lợi để những kẻ kinh doanh gian lận lợi dụng trà trộn hàng thật, hàng giả
để kiếm lời mà người tiêu dùng khó có thể phát hiện ra được.
2.3. QLNN về chống hàng giả, hàng nhái, và gian lận thương mại trong kinh

doanh mặt hàng mỹ phẩm trên địa bàn Hà Nội trong thời gian qua.
Để đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại chi cục QLTTTP HàNội -
Phòng 127 đã bám sát tình hình và triển khai nhiều kế hoạch đấu tranh với các đối
tượng tập trung vào từng chuyên đề đối với các mặt hàng như vải. thuốc lá, xăng dầu,
sắt thép, điện thoại di động, mỹ phẩm thực phẩm tươi sống và rau quả nhập khẩu.
Bằng các biện pháp cụ thể như sau:
- Tổ chức, quán triệt các chỉ thị nghị quyết của Đảng, Nhà nước và của ngành
về tăng cường công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại.
- Xây dựng phương án đấu tranh một cách toàn diện, chú trọng địa bàn trọng
điểm, đối tượng buôn lậu trọng điểm, mặt hàng trọng điểm hoặc mặt hàng nhạy cảm
- Thành lập ban chỉ đạo chống buôn lậu, gian lận thương mại, tham nhũng của
Cục. Xác định lấy lực lượng điều tra chống buôn lậu làm lực lượng nòng cốt trong
công tác đấu tranh
- Xây dựng quy chế phối kết hợp công tác giữa Cục Hải quan thành phố Hà
Nội với các đơn vị chức năng thuộc các ngành khác như: Công an, quản lý thị trường,
Cục Thuế, Kho bạc, Cơ quan văn hoá, Viện Kiểm sát, Kiểm lâm… Tham gia Ban chỉ
đạo 127 của thành phố.
- Xác định rõ các phương thức, thủ đoạn hoạt động của các đối tượng buôn lậu,
gian lận thương mại. Rà soát các văn bản, quy định, qui chế, qui trình nghiệp vụ để
khắc phục những vấn đề sơ hở trong qui chế chính sách dẫn đến lợi dụng chót lọt, gây
thất thu thuế xuất nhập khẩu.
- Nâng cao hiệu quả công tác điều tra bí mật, xây dựng mạng lưới cơ sở bí mật.
Quán triệt nhiệm vụ chống buôn lậu, gian lận thương mại là nhiệm vụ trọng tâm của
tất cả các đơn vị kiểm tra, giám sát làm thủ tục xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh trong
đó, lực lượng điều tra chống buôn lậu là lực lượng chủ lực chuyên sâu. Chú trọng
khâu tổ chức và con người điều chỉnh bố trí qua thực tế hoạt động cho phù hợp với yêu
cầu từng thời gian. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, phúc tập hồ sơ .
- Tăng cường thêm các phương tiện, thiết bị kỹ thuật cho công tác kiểm tra,
kiểm soát, phát hiện hàng cấm, hàng lậu.
- Phân luồng làm thủ tục hải quan đối với hành khách xuất nhập cảnh theo 3

dạng: “ luồng xanh”, “ luồng vàng”. “luồng đỏ” để sàng lọc, lựa chọn đối tượng kiểm
tra có trọng tâm.
- Thực hiện đúng các quy định về hình thức kiểm tra, tỉ lệ kiểm tra trên cơ sở
nắm bắt các thông tin liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp. Lập danh bạ các
doanh nghiệp thuộc địa bàn quản lý giúp cho việc ra các quyết định kiểm tra được
chính xác vừa nâng cao hiệu quả giám sát quản lý vừa tạo điều kiện thông quan hàng
hoá nhanh chóng, thuận lợi.
- Phối hợp chặt chẽ giữa Đội Kiểm soát với Phòng Trị giá tính thuế , Phòng
Kiểm tra sau thông quan phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý kịp thời những trường hợp
gian lận qua giá, chống thất thu. Đi sâu vào các biện pháp nghiệp vụ kiểm tra sau
thông quan.
- Cải cách thủ tục hành chính, cải tiến các quy trình, thủ tục hải quan tại các
cửa khẩu, đơn giản hoá qui trình thủ tục theo hướng “một cửa” tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh nhưng vẫn đảm bảo quản lý chặt chẽ,
thủ tục nhanh chóng, văn minh phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Làm rõ trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp trước pháp luật trong việc khai
báo, cải tiến chế độ thông tin, phản ánh tình hình nhanh chóng. Rút kinh nghiệm kịp
thời qua mỗi vụ việc giúp cho công tác tham mưu, chỉ đạo kiểm tra sâu sát có hiệu
quả.
- Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật Hải quan đảm bảo đúng
người, đúng tội.
- Xây dựng qui chế trích thưởng kịp thời có tác dụng động viên, khích lệ tốt.
* Một số kết quả cụ thể trong công tác phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại
mà thành phố Hà Nội đạt được:
Năm 2003, Toàn chi cục đã thực nhiệm vụ kiểm tra và xử lý các hành vi vi
phạm luật kinh doanh thương mại và dịch vụ, cụ thể kiểm tra 3.537 vụ, tổng số tiền
thu nộp ngân sách gần 13 tỷ đồng, đạt 118%. Cục Hải quan thành phố Hà Nội đã phát
hiện lập biên bản 238 vụ với trị giá tang vật ước tính 50 tỷ đồng, đã xử lý vi phạm 195
vụ, phạt tiền 157 vụ với số tiền 325 triệu đồng, tịch thu tang vật 26 . Năm 2004, Tổng
số các vụ vi phạm toàn Cục phát hiện là 431 vụ (trong năm 2003 là 238 vụ) với mức

độ 75% là vi phạm thủ tục hải quan. Trị giá hàng vi phạm ước tính : 04 tỷ đồng Việt
nam. Đã ra quyết định xử phạt 308 vụ, thu nộp ngân sách do vi phạm hành chính là
451.635.000 đ.
Chương 3. GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QLNN VỀ CHỐNG
HÀNG GIẢ, HÀNG NHÁI VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI TRONG KINH
DOANH MẶT HÀNG MỸ PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
3.1. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về chống hàng giả, hàng nhái và
gian lận thương mại trong kinh doanh mặt hàng mỹ phẩm trên địa bàn Hà Nội.
1. Tiếp tục rà soát các cơ chế, chính sách và quy định của pháp luật theo hướng
cơ chế quản lý thông thoáng đi đôi với cơ chế kiểm soát chặt chẽ, các chế tài xử lý
phải đủ mạnh, có tính răn đe cao.
2. Hỗ trợ kinh phí cho các lực lượng chức năng chống buôn lậu, hàng giả và
gian lận thương mại và thực hiện thí điểm cơ chế hỗ trợ tiêu hủy hàng giả. Trong quá
trình thực hiện cần quản lý chặt chẽ, kịp thời sơ kết, rút kinh nghiệm, báo cáo kết quả
lên cơ quan chức năng.
3. Cần nhanh chóng kiện toàn tổ chức bộ máy, quy chế hoạt động để hoạt động
của Ban ngày càng chặt chẽ, phát huy hiệu quả trong công tác chỉ đạo và tổ chức đấu
tranh chống hàng giả, hàng nhái và gian lận thương mại.
4. Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát một cách kiên quyết, triệt
để theo chức năng, nhiệm vụ của mình và theo sự chỉ đạo của Ban 127-TW bằng các
phương án, chương trình của Ban 127 TW và kế hoạch cụ thể của từng lực lượng kiểm
tra cho phù hợp tình hình của địa phương.
5. Cần có biện pháp kịp thời kiểm tra, xử lý theo đúng quy định của PL đối với
các thông tin, kiến nghị được cung cấp từ Hiệp hội và Doanh nghiệp phối hợp chặt chẽ
với Hiệp hội để tạo điều kiện cho Hiệp hội hoạt động có hiệu quả, hỗ trợ tích cực cho
các Doanh nghiệp làm ăn chân chính bảo vệ thương hiệu của mình.
6. Hiệp hội và các Doanh nghiệp nói chung, trong đó nòng cốt là các doanh
nghiệp Hội viên của Hiệp hội chủ động hơn nữa trong việc phối hợp với các lực lượng
chức năng tổ chức các Hội thảo, tập huấn, triển lãm hàng chính hiệu, hàng giả nhằm
tăng cường năng lực thực hiện nhiệm vụ đấu tranh chống hàng giả, hàng nhái theo

từng ngành hàng, mặt hàng cả trong nội địa và ở biên giới, góp phần nâng cao nhận
thức của cộng đồng về công tác chống hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng và
xâm phạm quyền SHTT, làm cho công tác này trở thành việc làm thường xuyên, liên
tục và đạt hiệu quả cao nhất.
7. Tăng cường công tác trao đổi thông tin phối kết hợp giữa Hiệp hội và doanh
nghiệp, đặc biệt là các Hội viên của Hiệp hội có Thương hiệu hàng hoá và dịch vu uy
tín, chất lượng với Ban 127-TW và Ban 127- ĐF các lực lượng thực thi trong công
cuộc đấu tranh này nhằm nâng cao hiệu quả sự hợp tác chống hàng giả, hàng nhái và
vi phạm quyền sở hữu trí tuệ trong thời gian tới. Hỗ trợ một cách thiết thực cho các lực
lượng thực thi trong quá trình điều tra, xử lý
8. Hàng năm Hiệp hội đánh giá tổng hợp, những doanh nghiệp có nhiệt tình, có
ý thức cao trong việc chống hàng giả, hàng nhái và xây dựng bảo vệ thương hiệu của
mình, đề xuất Ban 127 TW, Bộ Công Thương và các cơ quan có thẩm quyền động
viên khen thưởng các doanh nghiệp có thành tích trong lĩnh vực này vào ngày 29/11
hàng năm nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của doanh nghiệp đồng thời động viên
các doanh nghiệp tích cực tham gia vào nhiệm vụ chống hàng giả, bảo vệ thương hiệu,
hưởng ứng tích cực Chỉ thị 28/2008/CT-TTg ngày 8/9/2008 của Thủ tướng Chính phủ.
9. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người tiêu dùng nói “không” với hàng
giả, hàng nhái.
Để công cuộc chống hàng gian, hàng giả mang lại hiệu quả thiết thực cần có sự
kết nối ba lực lượng gồm: Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đặc biệt với
các doanh nghiệp cần phải đầu tư nghiên cứu và đưa ra các giải pháp phòng chống
hàng giả để bảo vệ thương hiệu, đồng thời góp phần ngăn chặn nạn sản xuất và tiêu
thụ hàng giả trên thị trường. Triệt tiêu được hàng lậu, hàng giả, hàng nhái thì mới
mong bảo vệ được quyền lợi cho người tiêu dùng và các doanh nghiệp làm ăn chân
chính, qua đó xây dựng được môi trường kinh doanh trong sạch và góp phần trong
việc ổn định trật tự xã hội.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về sở hữu trí tuệ và thực thi quyền sở
hữu trí tuệ
3.2.1. Phân cấp nhiệm vụ của các cơ quan quyền lực nhà nước ở mỗi cấp về sở hữu

trí tuệ
Các cơ quan này bao gồm: cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan hành chính
nhà nước, cơ quan kiểm sát và xét xử. Trước hết cần quy định cho rõ ràng và cụ thể
nhiệm vụ của Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh và Hội đồng Nhân dân cấp huyện về sở hữu
trí tuệ, bên cạnh đó phải quy định rõ cho cả 2 cơ quan này nhiệm vụ giám sát việc thực
hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ của cơ quan hành chính nhà nước.
3.2.2. Phân cấp quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ
Trong điều kiện hiện nay rất khó có thể trao toàn bộ các đối tượng được bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ tập trung vào một cơ quan quản lý nhà nước, bởi vậy phải chấp
nhận một thực tế là có tới 3 Bộ với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước thẩm
quyền chuyên môn quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ. Nhưng phải ban hành một quy
định để nêu rõ trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc quản lý nhà nước
đối với tên thương mại, tránh tình trạng đã diễn ra như trùng tên thương mại trong
cùng lĩnh vực kinh doanh, tên thương mại và nhãn hiệu trùng nhau và tương tự tới
mức độ gây nhầm lẫn với nhau.
3.2.3. Phân cấp nhiệm vụ xét xử của Tòa án về sở hữu trí tuệ
Do đặc thù của hoạt động sở hữu trí tuệ, nên rất cần thành lập Tòa chuyên trách
về sở hữu trí tuệ thuộc Tòa án Nhân dân các cấp, Tòa chuyên trách này phải độc lập
với Tòa Dân sự, Tòa Hình sự, Tòa hành chính…Khi đã thành lập được Tòa chuyên
trách về sở hữu trí tuệ cần phân cấp nhiệm vụ xét xử về sở hữu trí tuệ cho mỗi cấp Tòa
án.
3.2.4. Phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ
Luật Sở hữu trí tuệ đã nêu rõ trách nhiệm của từng cơ quan thực thi quyền sở
hữu trí tuệ, nhưng chưa có quy định ràng buộc trách nhiệm phải phối hợp công tác
giữa các cơ quan này, chế tài đối với người đứng đầu các cơ quan này nếu để xảy ra
tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ có nguyên nhân từ việc không phối hợp công
tác với nhau

×