Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

khái quát về giáo dục và giáo dục đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.79 KB, 16 trang )

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ GIÁO DỤC VÀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
1.1. Khái niệm về giáo dục
- Giáo dục là một sản phẩm đặc biệt theo nghĩa nó là phương tiện nhằm tăng sản
xuất ra của cải trong tương lai, mà như vậy, nó là hàng hóa tích lũy. Nó lại là
hàng hóa xã hội cần do đó đòi hỏi kể cả cưỡng bách mọi công dân phải đạt
trình độ tối thiểu.
- Giáo dục là dịch vụ đặc biệt theo nghĩa lợi ích xã hội của nó cao hơn lợi ích cá
nhân mà người mua nhận được. Do vậy mà nếu thị trường tự do quyết định thì
mức cung sẽ ít hơn mức cầu của xã hội.
Giáo dục là sản phẩm vô hình, có thể tiêu dùng ngay nhưng lại có thêm một số
đặc điểm mà dịch vụ khác không có, đó là nó có thể “ tồn kho” vào tri thức cá
nhân và trở thành vốn tri thức. Mặt khác nó có cả thuộc tính xã hội mà các hàng
hóa và dịch vụ cá nhân khác không có và nó lại được xếp vào hàng hóa có tính
chất công.
1.2. Đặc trưng cơ bản của giáo dục
1.2.1. Thuộc tính xã hội của giáo dục
Giáo dục ngoài việc cung cấp cho cá nhân khả năng suy luận và kỹ năng cơ bản
để đáp ứng với đòi hỏi của thị trường lao động có tính cá nhân, nó cũng đòi hỏi xã hội
cung cấp cho từng cá nhân trong xã hội những giá trị chung về đạo đức cá nhân, gia
đình và xã hội, về nhiệm vụ và quyền công dân, về mức văn hóa tối thiểu nhằm đảm
bảo cho xã hội ổn định, nhân bản và dân chủ. Vì thuộc tính xã hội này mà nhiều quốc
gia đòi hỏi mọi công dân phải được giáo dục tối thiểu là tiểu học hoặc trung học và
nhà nước có nhiệm vụ chi trả cho giáo dục cơ bản này.
1.2.2. Thuộc tính phương tiện sản xuất của giáo dục
Giáo dục là phương tiện tác động thẳng từ người thầy đến người trò, mặc dù
không đem bán được nhưng người học có thể lưu trữ được kiến thức, coi đó là hình
thức tích lũy và là phương tiện có khả năng tại ra sức lao động có tri thức và hiệu quả
hơn so với trường hợp không có nó. Khả năng cao hơn này thể hiện ở thu nhập cao
hơn. Như vậy giáo dục là phương tiện nâng năng suất của người lao động trong tương
lai. Giáo dục là sản phẩm tích lũy.
Khác với sản phẩm tích lũy khác , giáo dục có quá trình tích lũy dài, không thể


có tiền mà mua ngay được, và việc tích luỹ này có tính rủi ro cao vì lợi ích của giáo
dục không thể hiện hoàn toàn ngay khi vừa tiêu dùng dịch vụ giáo dục.
1.2.3. Giáo dục là một sản phẩm công và có ảnh hưởng ngoại biên thuận (ngoại
ứng tích cực)
1

Tư nhân cung cấp Q, với giá P; Nhà nước cung cấp Qm, với giá Pm => Nhà
nước cung cấp sẽ đảm bảo không bị tổn thất phúc lợi xã hội, nếu muốn tư nhân cung
cấp Nhà nước phải trợ cấp cho tư nhân.
Giáo dục nói chung có ảnh hưởng ngoại biện thuận ( ngoại ứng tích cực): Giáo
dục nhằm đào tạo những công dân có ích cho chính mình và có ích cho xã hội, có
trách nhiệm với gia đình, xã hội và quốc gia khác.
Bất cứ hàng hoá nào có ảnh hưởng ngoại ứng biên thuận thị trường tự do sẽ
không tự nó cung cấp đủ nhu cầu cho xã hội . Để đáp ứng nhu cầu xã hội , khi mà lợi
ích xã hội lớn hơn lợi ích cá nhân và do đó lớn hơn chi phí cá nhân thì Nhà nước (hay
cá nhân, tổ chức nào đó) phải bù đắp thêm vào chi phí cá nhân.
1.2.4. Không bị ảnh hưởng bởi năng suất lao động
Trong giáo dục rất khó có thể tăng năng suất lao động (bao gồm cả lượng và
chất) của người thầy giáo và càng không thể mở rộng thị trường theo nghĩa tăng số
học sinh trên đầu một thầy giáo nếu không muốn giảm chất lượng giáo dục. Ngược
lại, muốn tăng chất lượng giảng dạy mà sự phát triển kinh tế và khoa học ngày càng
đòi hỏi ở mức cao hơn thì phải giảm số học sinh trên một thầy giáo, và tăng số lượng
thầy giáo với các chuyên ngành khác nhau.
1.2.5. Giáo dục cơ bản là dịch vụ mà người mua không phải người hưởng thụ
Đối với giáo dục cơ bản, người được hưởng không phải là người mua vì thanh
thiếu niên còn ở tuổi vị thành niên chưa có thu nhập không thể tự chi trả cho giáo dục
mà người chi trả chính là cha mẹ của họ nếu như không có sự hỗ trợ của Nhà nước.
Chính vì vậy mà một vấn đề đặt ra là nếu cha mẹ nghèo hay không có cái nhìn đúng
2
P

Pm
Điển
tối ưu
Chi phí XH
Chi phí TN
Q
Qm
đắn về giáo dục thì con cái sẽ trở thành vô học hoặc không nhận được sản phẩm giáo
dục về cả chất và lượng theo đúng nhu cầu xã hội. Ở xã hội cổ xưa, giáo dục hay đầu
tư vào giáo dục không rộng khắp cũng vì phải dựa hoàn toàn vào khả năng tài chính
của gia đình, hay tổ chức tôn giáo. Trong giai đoạn hiện nay do giáo dục có thuộc tính
xã hội cho nên Nhà nước trong thời đại phát triển có ý thức đầu tư vào phát triển giáo
dục.
1.3. Đặc trưng của giáo dục đại học
1.3.1. Giáo dục đại học là dịch vụ công không thuần tuý
Giáo dục đại học là dịch vụ công không thuần tuý vì nó có tính loại trừ trong tiêu
dùng nhưng lại có tính không cạnh tranh trong tiêu dùng:
+ Thứ nhất, dịch vụ giáo dục đại học có tính loại trừ trong tiêu dùng: Sinh viên muốn
thụ hưởng dịch vụ giáo dục đại học thì sẽ cần phải trả một khoản phí nhất định mặc
dù có thể đã được Ngân sách nhà nước trợ cấp một phần. Như vậy những sính viên
nào không chấp nhận hoặc không có khả năng chi trả (trừ những đối tượng thuộc diện
miễn giảm học phí) thì sẽ không được theo học. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc,
nếu chi phí giáo dục đại học ở mức cao sẽ làm cho nhiều sinh viên có hoàn cảnh gia
đình khó khăn không để đến trường để đi học, mặc dù học giỏi và có thể thi đỗ đại
học.
+ Thứ hai, dịch vụ giáo dục đại học không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng: Khi
dịch vụ giáo dục đại học đã được cung cấp thì tất cả những người tiêu dùng đều có thể
hưởng thụ mà không bị ảnh hưởng lần nhau về mặt lợi ích. Ví dụ: Ở trên lớp, việc
một sinh viên này tiếp thu bài giảng của giáo viên không ảnh hưởng đến việc những
sinh viên khác đồng thời tiếp thu bài giảng đó.

(Tuy nhiên, xét trên một khía cạnh khác thì việc thụ hưởng giáo dục đại học giữa các
sinh viên vẫn có sự ảnh hưởng lẫn nhau hay vẫn có tính cạnh tranh trong tiêu dùng.
Như đã biết, số lượng giáo viên cũng như cơ sở vật chất phục vụ quá trình giảng dạy
và học tập của mỗi một trường học là có hạn. Vì vậy, nếu số lượng sinh viên trong
một lớp học quá đông thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu bài giảng của
mỗi sinh viên).
1.3.2. Giáo dục đại học có ngoại ứng biên thuận
Giáo dục đại học không chỉ có ảnh hưởng tích cực đến người học, giúp họ được
đào tạo về kỹ năng và kiến thức về nghề nghiệp để sau này sử dụng trong quá trình đi
làm. Mà bên cạnh đó, nó sẽ góp phần giúp nâng cao trình độ dân trí, nâng cao chất
lượng đội ngũ lao động, do đó góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp cho xã hội, nâng
có mức sống, đảm bảo an sinh xã hội hơn.
3
1.3.3. Thất bại thị trường trong việc cung cấp giáo dục đại học
Tư nhân cung cấp Qe với mức chi phí học là P, trong khi đó số lượng sinh viên
tối đa Qc => Gây ra tổn thất phúc lợi xã hội là diện tích tam giác như trên hình. Để
không gây tổn thất phúc lợi xã hội nên cung cấp tại Qm.
Mặc dù không hoàn toàn được công nhận là giáo dục cơ bản, nhưng về thực
chất không có một quốc gia nào mà tư nhân hoàn toàn cung cấp giáo dục đại học. Bởi
vì giáo dục đại học được coi là cần thiết để xây dựng một xã hội phát triển mà trong
đó mọi người đều được thừa hưởng.
Có một số nguyên nhân gây ra thất bại của thị trường như sau:
Giáo dục đại học có ngoại ứng biên thuận do đó nếu chỉ để tư nhân cung cấp sẽ
gây ra tổn thất phúc lợi xã hội vì họ sẽ luôn cung cấp dưới mức tối ưu cho xã hội.
Lợi ích xã hội > Lợi ích cá nhân (= Chi phí cá nhân)
Lợi ích xã hội sẽ tăng lên nếu như sản phẩm được sản xuất nhiều hơn, như vậy
đòi hỏi chi phí cao hơn do đó phải có sự tham gia bù lỗ của nhà nước.
Lợi ích xã hội = Chi phí cá nhân + Bù lỗ của Nhà nước
Chi phí thiết bị ngày càng tăng do đó chi phí giáo dục cho một học sinh ngày
càng tăng, xã hội ngày nay đòi hỏi trình độ tri thức cao hơn, phức tạp hơn và do đó

thời gian cần thiết để giáo dục cho một con người ngày càng dài hơn và do đó chi phí
cao hơn. Do đó, nếu để cá nhân tự chi trả chi phí để sử dụng sản phẩm giáo dục sẽ rất
cao vì vậy Nhà nước phải tham gia để tài trợ cho giáo dục đại học.
1.3.4. Thất bại của Nhà nước trong việc cung cấp giáo dục đại học
Do hạn chế về khả năng tài chính mà các Nhà nước phải hạn chế số học sinh, việc
hạn chế đều được thông qua cơ chế sàng lọc để mọi người đều được có cơ hội ngang
4
Số người học
Chi phí
Đường cầu về số người
học đại học
Số người học tối đa
Tổn thất
phúc lợi
XH
QcQm
Qe
P
nhau. Cơ chế này để tránh tình trạng tắc nghẽn trong quá trình cung cấp sản phẩm
giáo dục đại học, mặt khác còn để sàng lọc những đối tượng thực sự có nhu cầu học.
Tuy nhiên, nó lại gây ra tình trạng tổn thất phúc lợi xã hội vì nó không cung cấp được
ở mức tối ưu cho xã hội.
Ngoài ra, nếu chỉ có Nhà nước cung cấp dịch vụ giáo dục đại học thì có thể sẽ gây
một số hạn chế khác làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục như: vấn đề tham nhũng,
chất lượng giáo dục đào tạo thấp, do nguồn vỗn đầu tư cho giáo dục còn hạn chế nên
việc duy tu, bảo dưỡng, thay thế các thiết bị dạy học và nghiên cứu không được
thường xuyên và đảm bảo, …
Kết luận: Do những nguyên nhân trên mà việc cung cấp dịch vụ giáo dục đại học
nên có sự tham gia của cả Nhà nước và tư nhân để đảm bảo tối ưu hoá phúc lợi xã hội
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VIỆC QUẢN LÝ CÔNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

TẠI VIỆT NAM
2.1. Các mô hình giáo dục đại học đã được áp dụng tại Việt Nam
Sự hình thành nền giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam có thể được đánh dấu
bằng việc thành lập Quốc Tử Giám, trường đại học đầu tiên của Việt Nam, theo mô
hình phương Đông, tại kinh thành Thăng Long vào năm 1076, dưới thời nhà Lý.
- Trong thời gian từ năm 1954 đến năm 1975:
Ở phía Bắc hệ thống GDĐH phát triển mạnh, nhiều trường đại học được thành
lập, phần lớn là các trường đơn lĩnh vực hoặc đơn ngành theo mô hình của Liên Xô,
song song với các viện nghiên cứu nằm bên ngoài các trường đại học. Cũng vào giai
đoạn đó ở phía Nam hệ thống GDĐH cũng phát triển nhanh, một bộ phận tiếp tục
chịu ảnh hưởng của mô hình Pháp (tiêu biểu là Viện Đại học Sài Gòn), một bộ phận
khác thành lập muộn hơn chịu ảnh hưởng của mô hình Mỹ (tiêu biểu là Viện Đại học
Cần Thơ và một số trường Đại học cộng đồng được thành lập vào cuối giai đoạn này).
- Sau khi thống nhất đất nước năm 1975:
Trên cả lãnh thổ Việt Nam , GDĐH được xây dựng lại theo kiểu miền Bắc: hệ
thống GDĐH theo mô hình Liên Xô được củng cố và phát triển. Theo mô hình này
chương trình đào tạo cấp đại học đầy đủ thường là 4 năm, 5 năm hay thậm chí 6 năm,
học liền một mạch. Các ngành đào tạo thường là hẹp, chuyên sâu vào những năm
cuối. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung đối với GDĐH biểu hiện rõ ở các yếu tố: sinh
viên được tuyển vào các trường đại học thường với số lượng không lớn bằng một quy
trình chặt chẽ, họ không phải đóng học phí và được bao cấp một chi phí đủ sống ở
mức độ thấp, sau khi tốt nghiệp họ được phân công vào các vị trí trong bộ máy nhà
5
nước hoặc các cơ sở kinh tế quốc doanh. Các trường đại học được Nhà nước cấp chỉ
tiêu tuyển sinh, kinh phí đào tạo và quy định chương trình đào tạo. Không có các
trường ngoài công lập, các trường tư đã tồn tại ở miền Nam trước năm 1975 bị giải
thể. Hệ thống GDĐH thống nhất theo mô hình Liên Xô này tồn tại cho đến cuối năm
1986, bộc lộ nhiều nhược điểm gây trì trệ cho sự phát triển. Cả đất nước lúc đó cũng
lâm vào tình trạng khủng hoảng chung về kinh tế xã hội do khó khăn sau chiến tranh
và tác động tiêu cực của mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung.

- Từ đầu năm 1987, Chính phủ Việt Nam quyết định từ bỏ mô hình kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, chuyển sang “nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”, bắt đầu thời kỳ “Đổi mới”. Từ đó, cùng với kinh tế xã hội, nền GDĐH Việt
Nam cũng có nhiều chuyển biến.
Hiện nay ở nước ta đang tồn tại 5 mô hình Giáo dục đại học khác nhau, đó là:
ĐH quốc gia, ĐH vùng, Trường ĐH, Học viện và viện ĐH.
Như vậy, cho đến nay nền GDĐH hiện đại của Việt Nam đã chịu ảnh hưởng
của ba mô hình GDĐH phương Tây: mô hình Pháp, mô hình Liên Xô (mà thực chất là
hỗn hợp mô hình Pháp, Đức với sự chi phối của hệ thống kinh tế kế hoạch hóa tập
trung) và mô hình Mỹ.
2.2. Đổi mới Quản lý Nhà nước về giáo dục đại học ở Việt Nam
Các chủ trương đổi mới GDĐH đầu tiên được đề xuất tại Hội nghị Hiệu trưởng
các trường đại học tại Nha Trang mùa hè năm 1987 thể hiện tập trung trong 4 tiền đề
đổi mới sau đây:
1) GDĐH không chỉ đáp ứng nhu cầu của biên chế Nhà nước và kinh tế quốc
doanh, mà còn phải đáp ứng nhu cầu của các thành phần kinh tế khác và nhu cầu học
tập của nhân dân;
2) GDĐH không chỉ dựa vào ngân sách Nhà nước mà còn dựa vào các nguồn
lực khác có thể huy động được: sự đóng góp của các cơ sở sản xuất kinh doanh, các tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, của cộng đồng, của người học; nguồn vốn do các hoạt
động của nhà trường về nghiên cứu khoa học, lao động sản xuất, dịch vụ làm ra;
nguồn vốn do các quan hệ quốc tế mang lại;
3) GDĐH không chỉ theo chỉ tiêu kế hoạch tập trung như một bộ phận của kế
hoạch nhà nước, mà còn phải theo những đơn đặt hàng, những xu thế dự báo, những
nhu cầu học tập từ nhiều phía trong xã hội;
4) GDĐH không nhất thiết phải gắn chặt với việc phân phối công tác cho người
tốt nghiệp theo cơ chế hành chính bao cấp; người tốt nghiệp có trách nhiệm tự tìm
việc làm, tự tạo việc làm trong mọi thành phần kinh tế; những nơi sử dụng lao động
được đào tạo sẽ tuyển dụng theo cơ chế chọn lọc, nhà trường giúp họ nâng cao trình
6

độ, tiếp tục bồi dưỡng để thích nghi với những yêu cầu cơ động về ngành nghề trong
thực tiễn.
Những đổi mới quan trọng về cơ cấu hệ thống, quy trình đào tạo và các loại
hình nhà trường của GDĐH được thực hiện lần lượt từ năm 1987 cho đến nay đã
được khẳng định trong Luật Giáo dục năm 1998 và 2005, trong văn bản “Chiến lược
phát triển giáo dục 2001-2010”

và trong nhiều văn bản chỉ đạo khác của Chính phủ.
Các khẳng định quan trọng nhất của quá trình đổi mới GDĐH cho đến nay có thể tóm
tắt như sau:
1) cơ cấu hệ thống trình độ của GDĐH với các cấp học chính là cử nhân, thạc
sĩ, tiến sĩ;
2) các loại hình trường đại học vể tổ chức và sở hữu, trong đó đại học đa lĩnh
vực, cao đẳng cộng đồng, các đại học dân lập, tư thục;
3) quy trình đào tạo đa giai đoạn với việc mô-đun hóa kiến thức theo học phần;
4) chương trình đào tạo cấp cử nhân phân chia thành hai khối kiến thức: giáo
dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp, và bước đầu chú ý đến khối kiến thức giáo
dục đại cương;
5) Bước đầu thừa nhận quyền tự chủ của trường đại học đi kèm với trách nhiệm
xã hội của chúng với việc xây dựng hệ thống kiểm định chất lượng để đảm bảo trách
nhiệm xã hội.
Trong những năm gần đây Chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều chủ trương
thúc đẩy tiến trình đổi mới của GDĐH Việt Nam nhằm đáp ứng sự phát triển nhanh
chóng của kinh tế xã hội và chuẩn bị hội nhập quốc tế. Biểu hiện tập trung nhất là
hoạt động triển khai xây dựng đề án đổi mới GDĐH bắt đầu từ giữa năm 2004 với kết
quả là một khung đề án đổi mới được Chính phủ chấp nhận bằng việc thông qua Nghị
quyết đổi mới toàn diện và triệt để GDĐH Việt Nam cho giai đoạn 2006-2020. Các ý
tưởng quan trọng về cơ cấu hệ thống, loại hình trường đại học, quy trình và chương
trình đào tạo, quyền tự chủ của trường đại học như đã nêu trên đây được tiếp tục
khẳng định và tăng cường. Đặc biệt, các yếu tố sau đây được nhấn mạnh: hệ thống

GDĐH sẽ được đại chúng hóa; hệ thống tín chỉ sẽ được mở rộng; quyền tự chủ và
trách nhiệm xã hội của trường đại học sẽ được nâng cao với các cơ chế cụ thể về hội
đồng trường, về hệ thống kiểm định công nhận; hệ thống đại học tư sẽ được khuyến
khích; cơ chế tài chính đại học chú trọng bài toán chia sẻ chi phí giữa Nhà nước, sinh
viên và cộng đồng sẽ được xác lập Tất cả các cố gắng đổi mới GDĐH nói trên nhằm
làm cho nó phù hợp với việc đổi mới nền kinh tế theo hướng thị trường và hội nhập
quốc tế. Có người nhận xét: GDĐH Việt Nam đang chuyển biến theo mô hình GDĐH
Hoa Kỳ.
7
2.3. Thực trạng hoạt động quản lý công giáo dục đại học tại Việt Nam trong
những năm gần đây
Từ khi chính sách Đổi Mới chính thức bắt đầu năm 1986, nền giáo dục tại Việt
nam đã có nhiều thay đổi quan trọng. Trên bình diện chính sách, các thay đổi này có
xu hướng làm tăng nguồn lực, cả Nhà nước và tư nhân tham gia vào giáo dục và giáo
dục đại học nói riêng như sau:
· Thứ nhất, ngân sách quốc gia hiện hành dành cho giáo dục tăng trưởng
đều đặn từ 7,7% năm 1992 đến 15,7% năm 2003.
· Thứ hai, nhiều luật lệ và định chế giới hạn vai trò của khu vực tư trong
giáo dục đã được bãi bỏ hay đã được lới lỏng hơn. Chính phủ đã ban hành một số sắc
lệnh và nghị quyết nhằm khuyến khích vai trò tư nhân trong giáo dục như các trường
bán công, dân lập, và các trường liên doanh với nước ngoài hay 100% đầu tư nước
ngoài trong lĩnh vực đại học.
· Thứ ba, chính phủ cho phép các cơ quan công thu học phí (trong các giới
hạn khá chặt chẽ). Điều này làm tăng đầu tư tư nhân vào giáo dục khá nhanh.
Về tổ chức và quản lý, giáo dục có khuynh hướng tập trung hóa như sau:
· Trước thời kỳ Đổi Mới, nhiều cơ quan nhà nước chia sẻ trách nhiệm cung
cấp dịch vụ giáo dục công tại Việt nam. Từ năm 1990, giáo dục công trực thuộc Bộ
Giáo Dục và Đào Tạo (BGDĐT), trừ một số trường cao đẳng quân sự và an ninh.
· Một số viện đại học đa ngành đã được thành lập tại Hà Nội (1993), Huế,
Thái Nguyên và Đà Nẵng (1994) và Thành Phố Hồ Chí Minh (1995), dựa trên cơ sở

của một số đại học chuyên ngành có sẵn tại địa phương.
Hiện nay, theo quy chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì bằng cấp tại các trường
công lập và dân lập cũngđược đành giá như nhau để theo học các cấp học cao hơn.
Điều này đảm bảo công bằng cho sinh viên tại các trường công lập và dân lập
2.4. Thực trạng hoạt động của các trường đại học tại Việt Nam
Hiện nay, cả nước có 120 trường đại học bao gồm cả công lập và dân lập, các
trường dân lập được thành lập từ đẩu thập niên 90 của thế kỷ trước. Đến nay đã có rất
nhiều trường dân lập được cấp phép hoạt động và tuyển sinh, chất lượng giáo dục đào
tạo đã có nhiều cải tiến đáp ứng nhu cầu xã hội. Tuy nhiên, các trường dân lập vẫn
tuyển chủ yếu tuyển nguyện vọng 2 và phải tuyển cả nguyện vọng 3 để đủ chỉ tiêu,
thậm chí trong mùa tuyển sinh 2011 các trường còn đề nghị hạ điểm sàn để đủ học
sinh viên nên chất lượng đầu vào không đảm bảo. Bên cạnh đó hiện nay chất lượng
đào tạo tại phần lớn các trường đại học dân lập không được đánh giá cao, số lượng
giảng viên cơ hữu thấp chủ yếu là mời giảng viên từ các trường công lập giảng dạy do
vậy chất lượng đầu ra không đảm bảo. Về cơ sở vật chất, cũng chỉ có một số trường
8
có cơ sở vật chất đảm bảo cho việc học tập và nghiên cứu của sinh viên còn lại thì
đang trong giai đoạn hoàn thiện.
Một vấn đề đặt ra hiện nay là xã hội Việt Nam không đánh giá cao việc giáo
dục đại học tại các trường dân lập do vậy sinh viên tại các trường này chủ yếu là do
trượt nguyện vọng tại các trường công lập. Việc đầu ra của sinh viên do vậy cũng trở
nên rất khó khăn, một số tổ chức, doanh nghiệp chỉ tuyển công lập mà không tuyển
dân lập. Điều này đã gây khó khăn cho các trường nâng cao chất lượng dạy và học và
do đó một phần làm ảnh hưởng đến mục tiêu đến năm 2020 của Việt Nam có khoảng
40% sinh viên ngoài công lập nhằm mục tiêu có 450 sinh viên trên một vạn dân. Bên
cạnh đó vấn đề học phí cũng là một vấn đề nhức nhối vì học phí tại các trường dân lập
thường cao hơn nhiều lần so với các trường công lập.
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ CÔNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM
3.1. Những cơ hội và thách thức đối với giáo dục đại học tại Việt Nam.

3.1.1. Cơ hội đối với giáo dục đại học tại Việt Nam
a. Quá trình hội nhập với các trào lưu đổi mới mạnh mẽ trong giáo dục đang
diễn ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội thuận lợi cho nước ta có thể nhanh chóng tiếp
cận với các xu thế mới, tri thức mới, những mô hình giáo dục hiện đại, tận dụng các
kinh nghiệm quốc tế để đổi mới và phát triển làm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa
nước ta với các nước khác. Hợp tác quốc tế được mở rộng tạo điều kiện tăng đầu tư
của các nước, các tổ chức quốc tế và các doanh nghiệp nước ngoài, tăng nhu cầu
tuyển dụng lao động qua đào tạo, tạo thời cơ để phát triển giáo dục.
b. Sau hơn 20 năm đổi mới, những thành tựu đạt được trong phát triển kinh tế
xã hội, sự ổn định chính trị làm cho thế và lực nước ta lớn mạnh lên nhiều so với
trước. Sự đóng góp về nguồn lực của nhà nước và nhân dân cho phát triển giáo dục
ngày càng được tăng cường.
c. Những người Việt Nam ở nước ngoài với nhiều tiềm năng đang hướng về tổ
quốc và dân tộc, sẵn sàng đóng góp cho sự nghiệp giáo dục nước nhà.
3.1.2. Thách thức đối với giáo dục đại học tại Việt Nam
a. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ trên thế giới
có thể làm cho khoảng cách kinh tế và tri thức giữa Việt Nam và các nước ngày càng
lớn hơn, nước ta có nguy cơ bị tụt hậu xa hơn. Hội nhập quốc tế không chỉ tạo cho
giáo dục cơ hội phát triển mà còn chứa đựng nhiều hiểm họa, đặc biệt là nguy cơ xâm
9
nhập của những giá trị văn hóa và lối sống xa lạ làm xói mòn bản sắc dân tộc. Khả
năng xuất khẩu giáo dục kém chất lượng từ một số nước có thể gây nhiều rủi ro lớn
đối với giáo dục Việt Nam, khi mà năng lực quản lý của ta đối với giáo dục xuyên
quốc gia còn yếu, thiếu nhiều chính sách và giải pháp thích hợp để định hướng và
giám sát chặt chẽ các cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài.
b. Ở trong nước, sự phân hóa trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Khoảng
cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, khoảng cách phát triển giữa các vùng miền
ngày càng rõ rệt. Điều này có thể làm tăng thêm tình trạng bất bình đẳng trong tiếp
cận giáo dục giữa các vùng miền và giữa các đối tượng người học.
c. Yêu cầu phát triển kinh tế trong thập niên tới không chỉ đòi hỏi số lượng mà

còn đòi hỏi chất lượng cao của nguồn nhân lực. Để tiếp tục tăng trưởng vượt qua
ngưỡng các nước có thu nhập thấp, Việt Nam phải cấu trúc lại nền kinh tế, phát triển
các loại sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao. Quá trình
này đòi hỏi đất nước phải có đủ nhân lực có trình độ. Mặc dù 62,7% dân số nước ta
trong độ tuổi lao động, nhưng trình độ của lực lượng lao động này còn thấp so với
nhiều nước trong khu vực, cả về kiến thức lẫn kỹ năng nghề nghiệp. Đất nước còn
thiếu nhân lực trình độ cao ở nhiều lĩnh vực. Cơ cấu đội ngũ lao động qua đào tạo
chưa hợp lý. Nhu cầu nhân lực qua đào tạo ngày càng tăng cả về số lượng và chất
lượng với cơ cấu hợp lý tạo nên sức ép rất lớn đối với giáo dục.
3.2. Đề xuất một số giải pháp cho hoạt động quản lý công giáo dục đại học tại
Việt Nam trong thời gian tới
3.2.1. Khuyến khích tư nhân đầu tư vào giáo dục đại học nhưng phải có sự quản
lý chặt chẽ của Nhà nước
Khuyến thích tư nhân tham gia đầu tư giáo dục để nâng cao cơ sở hạ tầng dạy
và học đồng thời nâng cao tính cạnh tranh cho các trường đại học công lập, buộc họ
phải đổi mới tư duy giáo dục để nâng cao chất lượng giảng dạy, đảm bảo đầu ra của
sinh viên. Nhưng đồng thời phải kiểm soát chặt chẽ chất lượng của các trường, chỉ
cho phép những trường có đủ giáo viên cơ hữu, chất lượng cơ sở vật chất đi vào hoạt
động. Phấn đấu đến năm 2020 có 40% sinh viên ngoài hệ thống công lập.
3.2.2. Đổi mới quản lý Nhà nước trong giáo dục đại học
- Thống nhất đầu mối quản lý nhà nước về giáo dục. Việc quản lý nhà nước đối
với hệ thống giáo dục nghề nghiệp sẽ do Bộ Giáo dục và Đào tạo đảm nhận. Thực
hiện dần việc bỏ cơ chế Bộ chủ quản đối với các cơ sở giáo dục đại học. Trong thời
gian trước mắt, các Bộ, các địa phương còn quản lý các trường đại học, cao đẳng phải
phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng quy chế quản lý trường đại học, cao
đẳng.
10
- Hoàn thiện môi trường pháp lý và chính sách giáo dục; xây dựng và chỉ đạo
thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục, điều tiết cơ cấu và quy
mô giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu của người học và nhân lực của đất nước trong

từng giai đoạn; triển khai hệ thống đảm bảo chất lượng, thực hiện công tác kiểm tra,
thanh tra giáo dục.
- Thực hiện công khai hoá về chất lượng giáo dục, nguồn lực cho giáo dục và
tài chính của các cơ sở giáo dục, thực hiện giám sát xã hội đối với chất lượng và hiệu
quả giáo dục.
- Thực hiện phân cấp quản lý mạnh đối với các địa phương và các cơ sở giáo
dục, nhất là đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và đại học; nâng cao tính tự chủ,
tự chịu trách nhiệm ở các cơ sở đào tạo về nội dung đào tạo, tài chính, nhân sự; kiên
quyết thúc đẩy thành lập Hội đồng trường ở các cơ sở giáo dục đại học để thực hiện
quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của đơn vị.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hiện cơ chế một cửa trong toàn bộ hệ
thống quản lý giáo dục, từ cơ quan trung ương tới các địa phương, các cơ sở giáo dục
nhằm tạo ra một cơ chế quản lý gọn nhẹ, hiệu quả và thuận lợi cho người dân. Đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông nhằm “tin học hóa” quản lý giáo
dục ở các cấp.
- Xây dựng và triển khai đề án đổi mới cơ chế tài chính cho giáo dục nhằm đảm
bảo mọi người đều được học hành, huy động ngày càng nhiều hơn và sử dụng hiệu
quả hơn nguồn lực của nhà nước và xã hội để tăng quy mô và nâng cao chất lượng
giáo dục.
3.2.3. Quốc tế hoá chất lượng giáo dục đại học
Muốn có chất lượng giáo dục tốt thì phải quốc tế hoá các hệ giá trị ở Đại học.
Các luận án tiến sỹ phải có ít nhất một giáo sư quốc tế trong hội đồng chấm luận
án.Việc quốc tế hoá này nên dựa vào nguồn nhân lực Việt kiều những người mà đang
tham gia giảng dạy ở đông đảo các trường đại học trên thế giới
3.2.4. Chấm dứt những hệ đào tạo khó kiểm soát và chủ động tổ chức đánh giá
chất lượng các trường đại học hàng năm
Tại Việt Nam từ nhiều năm nay đã cấp bằng tương đương với người học chính
quy cho những người học tại chức điều này là không hợp lý và cần phải thay đổi. Phải
duy trì giáo dục thường xuyên vì đó là nhu cầu của xã hội của một bộ phận đáng quý
của nhân dân. Hệ giáo dục thường xuyên luôn luôn có mặt tại các nước phát triển.

Nhưng nó không đồng nghĩa với việc cấp bằng tương đương với hệ chính quy mà trên
thực tế thời gian theo học cũng như chương trình đào tạo không thể so sánh được. Để
khuyến khích việc bổ túc hiểu biết thường xuyên cho mọi lứa tuổi, cho những nguời
11
có thiện chí trau dồi kiến thức hay chuyên môn, chỉ nên cấp chứng chỉ. Còn bằng cấp
thực thụ thì chỉ nên dành cho những ai có trình độ, đạt tiêu chuẩn.
3.2.5. Hội nhập vào nền kinh tế tri thức
Khi gia nhập WTO thì thế mạnh của Việt nam là phát triển lên mức cao hơn,
nền kinh tế thị trường. Nhưng hiện nay hàng hoá ta xuất cảng ra thế giới, thặng dư về
trí tuệ gần như ta còn thấp.Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học của người dân đã
ngấm sâu vào huyết quản từ ngàn xưa thì thặng dư trí tuệ phải là thế mạnh. Nhưng
chúng ta chưa tạo tiền đề để khai thác cơ may này. Cần phải ý thức đây chính là tiềm
lực quý hiếm để hội nhập vào nền kinh tế tri thức.
12
LỜI CAM ĐOAN
Tên đề tài:
Nhóm thực hiện đề tài: Nhóm 6
Lớp: CH17B QLKT
Khoa Sau đại học - Trường Đại học Thương mại
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Phạm Thị Tuệ
Lời cam kết: “Chúng tôi xin cam đoan bài thảo luận này là do nhóm chúng tôi
nghiên cứu và soạn thảo. Chúng tôi không sao chép từ bất kỳ bài việt nào đã được
công bố mà không trích dẫn nguồn gốc. Nếu có bất kỳ một sự vi phạm nào, chúng tôi
xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.”
Hà Nội, ngày 15 tháng 03 năm 2012
Đại diện nhóm thực hiện
Nhóm trưởng
Lê Thị Xuân Thu
13
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ GIÁO DỤC VÀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC…… 1
1.1. Khái niệm về giáo dục……………………………………………………… 1
1.2. Đặc trưng cơ bản của giáo dục……………………………………………… 1
1.2.1. Thuộc tính xã hội của giáo dục…………………………………………………… 1
1.2.2. Thuộc tính phương tiện sản xuất của giáo dục…………………………………. 1
1.2.3. Giáo dục là một sản phẩm công và có ảnh hưởng ngoại biên thuận (ngoại ứng
tích cực)………………………………………………………………………………………1
1.2.4. Không bị ảnh hưởng bởi năng suất lao động…………………………………….2
1.2.5. Giáo dục cơ bản là dịch vụ mà người mua không phải người hưởng thụ……2
1.3. Đặc trưng của giáo dục đại học…………………………………………… 3
1.3.1. Giáo dục đại học là dịch vụ công không thuần tuý………………………… 3
1.3.2. Giáo dục đại học có ngoại ứng biên thuận………………………………………3
1.3.3. Thất bại thị trường trong việc cung cấp giáo dục đại học…………………… 4
1.3.4. Thất bại của Nhà nước trong việc cung cấp giáo dục đại học……………… 4
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VIỆC QUẢN LÝ CÔNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
TẠI VIỆT NAM …………………………………………………………………. 5
2.1. Các mô hình giáo dục đại học đã được áp dụng tại Việt Nam…………… 5
2.2. Đổi mới Quản lý Nhà nước về giáo dục đại học ở Việt Nam…………… 6
2.3. Thực trạng hoạt động quản lý công giáo dục đại học tại Việt Nam trong
những năm gần đây……………………………………………………………… 8
2.4. Thực trạng hoạt động của các trường đại học tại Việt Nam……………… 8
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ CÔNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM
3.1. Những cơ hội và thách thức đối với giáo dục đại học tại Việt Nam……… 9
3.1.1. Cơ hội đối với giáo dục đại học tại Việt Nam…………………………………… 9
3.1.2. Thách thức đối với giáo dục đại học tại Việt Nam………………………………9
3.2. Đề xuất một số giải pháp cho hoạt động quản lý công giáo dục đại học tại
Việt Nam trong thời gian tới……………………………………………………… 10
3.2.1. Khuyến khích tư nhân đầu tư vào giáo dục đại học nhưng phải có sự quản lý

chặt chẽ của Nhà nước……………………………………………………………………… 10
14
3.2.2. Đổi mới quản lý Nhà nước trong giáo dục đại học……………………………… 10
3.2.3. Quốc tế hoá chất lượng giáo dục đại học…………………………………………11
3.2.4. Chấm dứt những hệ đào tạo khó kiểm soát và chủ động tổ chức đánh giá chất
lượng các trường đại học hàng năm………………………………………………………11
3.2.5. Hội nhập vào nền kinh tế tri thức………………………………………………… 12
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Phạm Thị Tuệ, Bài giảng môn học Quản lý công, Viện Phát triển
thương mại.
2. GS.TS. Vũ Huy Từ, Quản lý khu vực công, NXB Khoa học và Kỹ thuật, 1998.
3. Các tài liệu khác
16

×