Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.56 KB, 19 trang )


Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Lútvích Phoiơbắc
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
Giáo viên hướng dẫn : TS. BÙI VĂN MƯA
Người thực hiện :NGUYỄN PHÚC NGUYÊN
Lớp : Cao học kinh tế – K21 –Đêm 5
STT : 111
TP Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 02 năm 2012
Nguyễn Phúc Nguyên 1

Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Lútvích Phoiơbắc
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: PHOIƠBẮC VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN 3
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY
VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC 12
KẾT LUẬN 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
LỜI MỞ ĐẦU
Đặt chân vào nền triết học cổ điển Đức giai đoạn từ thế kỷ XVII – đầu
thế kỷ XIX, chúng ta bắt gặp hàng loạt các triết gia nổi bật như Imanuen
Căntơ, G.Phichto hay Hêghen với các công trình triết học khác nhau nhằm
đóng góp xây dựng một hệ thống triết học vạn năng. Trong số đó không thể
không kể đến Phoiơbắc – một triết gia từng được xem như là một lý tưởng
Đức bị ảnh hưởng sâu sắc bởi người thầy Hêghen, đồng thời cũng là bậc


tiền bối của triết học Mác. Người đã viết chương cuối cùng hùng tráng trên
cơ sở của chủ nghĩa duy vật và vô thần để kết thúc bản giao hưởng “Triết
học cổ điển Đức”.
Được nghiên cứu về “Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc” là một
trong những cơ hội thú vị để tôi từng bước khám phá thêm về thế giới triết
học và lịch sử phát triển của triết học. Đặc biệt, với cách tiếp cận vấn đề
triết học theo quan điểm nhân bản học là một sự mới mẻ mà Phoiơbắc đã
thực hiện thành công và đã được Mác kế thừa để phát triển, bổ sung vào bộ
tư tưởng triết học vĩ đại của nhân loại.
Dựa trên cơ sở các kiến thức về lịch sử triết học, hệ thống các quan điểm,
học thuyết trước Mác và cơ sở lý luận của phép biện chứng duy vật. Đặc
biệt, thông qua ba tác phẩm lớn mà Phoiơbắc đã để lại: Bản chất của Cơ
đốc giáo (1841), Sơ thảo luận cương về cải cách triết học (1842), Những
nguyên lý cơ bản của triết học về tương lai (1843), tôi đã hiểu sâu về quan
điểm của các nhà triết học đương thời, đồng thời thông qua bài tiểu luận
này tôi xin phép được đưa ra một số đánh giá về giá trị và những hạn chế
trong thuyết nhân bản của Phoiơbắc
Nguyễn Phúc Nguyên 2

Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Lútvích Phoiơbắc
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu chuyên đề này, mặc dù đã rất cố
gắng, nhưng chắc chắn rằng sẽ còn những sai sót, cần bổ sung. Kính mong
nhận được sự chỉ bảo, sửa chữa, góp ý từ thầy.
CHƯƠNG 1: PHOIƠBẮC VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN
1 1 Sơ lược về Lútvích Phoiơbắc
Lútvích Phoiơbắc (1804-1872), sinh ra ở
Landshut, Bravaria (Đức) trong một gia đình
luật sư nổi tiếng. Từ nhỏ, Phoiơbắc đã có
niềm đam mê nghiên cứu về tôn giáo, được sự
cho phép của cha, ông theo học tại Heidelberg

năm 1823 để nghiên cứu về thần học.
Tư tưởng cải cách triết học của Phoiơbắc
được hình thành từ năm 1829, khi ông vừa
hoàn thành luận án tiến sĩ và bắt đầu giảng
dạy lôgic học và siêu hình học tại Erlangen. Ông đã xuất bản ba cuốn sách
giữa các năm 1833-1838, bao gồm: Lịch sử của triết học hiện đại từ Bacon
đến Spinoza (1833), Trình bày, phát triển và phê bình triết học của Leibniz
(1837), Pierre Bayle (1838) và nhờ nó mà danh tiếng ông đã được thiết lập,
ông được xem như là một học giả trẻ tài năng.
Phoiơbắc là nhà triết học duy vật duy nhất trong nền triết học cổ điển
Đức, người đã đem đến sự kết thúc đầy ý nghĩa cho toàn bộ nền triết học
phương Tây cổ điển nói chung và triết học cổ điển Đức nói riêng. Ông từng
tham gia phái Hêghen trẻ, chống lại việc tôn giáo và các khái niệm của tinh
thần tuyệt đối thống trị thế giới hiện thực, ông coi chúng là những xiềng
xích trói buộc con người. Tuy nhiên, về sau chịu ảnh hưởng của các nhà
khai sáng Pháp thế kỉ XVIII, Phoiơbắc quay sang phê phán người thầy
Hêghen của mình và ngày càng ngả sang lập trường duy vật và năm 1839
ông cho xuất bản tác phẩm “Phê phán triết học Hêghen” nhằm bác bỏ quan
điểm duy tâm của người thầy Hêghen.
Nguyễn Phúc Nguyên 3

Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Lútvích Phoiơbắc
Chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là chủ nghĩa duy vật nhân bản. Theo
ông, con người là đối tượng của triết học mới, và khoa học nghiên cứu bản
chất của con người là nhân bản học, nên triết học mới đó phải là triết học
nhân bản, phải là khoa học cơ sở và chung nhất cho mọi ngành khoa
học[1;210].
Có thể nói, triết học Phoiơbắc cùng với triết học Hêghen chính là tiền đề
lý luận cho triết học Mác cũng như góp phần tích cực cho sự ra đời của triết
học Mác. Trong đó, chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc là khâu trung

gian giữa triết học của Hêghen và triết học Mác.
1 2 Chủ nghĩa duy vật nhân bản
Nếu như trước kia khi tham gia phái Hêghen trẻ, Phoiơbắc tin rằng tôn
giáo, các khái niệm của tinh thần tuyệt đối thống trị thế giới thực hay nói
cách khác việc giải quyết vấn đề quan hệ giữa con người và tự nhiên là
mang tính duy tâm, coi toàn bộ thế giới hiện thực chỉ là hiện thân của tinh
thần tuyệt đối được hiểu như một lực lượng siêu nhiên; thì sau này khi giác
ngộ với chủ nghĩa duy vật và đề cao vai trò của con người thì Phoiơbắc phủ
nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị Thượng đế siêu nhiên đứng
ngoài sáng tạo ra con người, chi phối cuộc sống con người. Ông cho rằng
không phải Thượng đế tạo ra con người, ông khẳng định chính con người
tạo ra Thượng đế, hơn thế nữa con người không phải là nô lệ của Thượng
đế hay tinh thần tuyệt đối, mà là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của quá
trình phát triển của tự nhiên, là cái cao quý nhất mà giới tự nhiên có được.
Phoiơbắc cho rằng, vấn đề về quan hệ giữa tư duy và tồn tại là thuộc về
bản chất của con người; bởi vì: chỉ có con người đang sống đang tồn tại mới
có tư duy [1;209]. Do vậy, phải giải quyết vấn đề quan hệ tư duy và tồn tại
trên lập trường duy vật nhân bản. Tư duy là chức năng của một dạng vật
chất có tổ chức cao, là cơ thể con người. Bản thân những con người cụ thể
là sự thống nhất giữa thể xác với tư duy là chức năng của cơ thể đó,
giữa cấu trúc và chức năng, giữa giải phẫu và sinh lý. Coi con người là sự
thể hiện hoàn hảo mối quan hệ tư duy và tồn tại, Phoiơbắc cho rằng chỉ có
thể giải quyết được vấn đề tinh thần và vật chất trong nhân bản học. Ông
khẳng định: “Chân lí không phải là chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy
tâm, không phải là sinh lý học hay tâm lý học, chân lí chỉ có thể là nhân bản
học”.
Nguyễn Phúc Nguyên 4

Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Lútvích Phoiơbắc
Như vậy, nguyên tắc nhân bản nằm ở tính thống nhất của bản chất con

người, tinh thần và thể xác, trong đó thể xác là bộ phận của thế giới khách
quan, và ở chừng mực nào đó nó bao hàm cả tồn tại của thế giới ấy. Triết
học mới Phoiơbắc viết “biến con người, gồm cả tự nhiên với tư cách cơ sở
của con người, thành đối tượng duy nhất, phổ quát và cao nhất của triết học
và do đó, biến thuyết nhân bản, trong đó có triết học, thành khoa học phổ
quát".
Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc là triết học mới về chính con
người, đề cao vai trò của con người trong có sứ mạng mang lại cho con
người một cuộc sống hạnh phúc thật sự trên trần gian, đồng thời ông lấy
con người làm đối tượng nghiên cứu của triết học mới.
1 3 Những tư tưởng cơ bản của triết học Phoiơbắc
1.3 1 Quan điểm về con người
Nếu Hêghen quan niệm con người một cách trừu tượng và thần bí, coi đó
là một lực lượng siêu nhiên sáng tạo ra hiện thực, thì con người, theo
Phoiơbắc, là sản phẩm của tự nhiên, là “cái gương của vũ trụ”, thông qua đó
giới tự nhiên nhận thức và ý thức chính bản thân mình. Đó là những con
người bằng xương, bằng thịt đang sống và làm việc, là chính bản thân
chúng ta. Bản chất con người là tổng thể những khát vọng, nhu cầu và cả
khả năng tưởng tượng. Phoiơbắc viết: “Con người là tồn tại tự do, tồn tại
của nhân cách, tồn tại của pháp quyền. Chỉ trong con người mới tồn tại cái
Tôi của Phíchtơ, đơn tứ của Lépnít, cái tuyệt đối” [10].
1.3.1 1 Mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên
Bàn về giới tự nhiên, có rất nhiều quan điểm tranh luận. Nếu Xpinôda
tuyên bố thực thể là nguyên nhân tự thân, thì Phoiơbắc, theo cách hiểu đó,
cũng khẳng định “tự nhiên là nguyên nhân tự thân”. Nếu Hêgen xem tự
nhiên là thứ ý niệm đã khách quan hoá , hay tinh thần hoá đá, chết cứng,
thiếu sáng tạo, thì Phoiơbắc lại nhấn mạnh yếu tố sản sinh và phát triển của
nó. Tự nhiên không phải là bản thể được nhào nặn từ cái tuyệt đối, thượng
đế nào đó, mà là bản thể độc lập, không cần đến bất kỳ giá đỡ thần thánh
nào. Sự hình thành thế giới nói chung, Trái đất, Mặt trời là quá trình tự

nhiên. “Cú hích ban đầu của Thượng đế” mà Galilê và Niutơn hình dung,
đối với Phoiơbắc chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng khôi hài.
Thật vậy, Phoiơbắc chứng minh rằng, thế giới vật chất, giới tự nhiên
không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại độc lập với ý thức con người và không
phụ thuộc vào bất cứ thứ triết học nào. Do đó cơ sở tồn tại của giới tự nhiên
Nguyễn Phúc Nguyên 5

Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Lútvích Phoiơbắc
nằm ngay trong giới tự nhiên. Theo đó, trong những điều kiện nhất định,
quá trình phát triển của giới tự nhiên sẽ dẫn đến sự ra đời của đời sống sinh
học mà cao hơn là con người và đời sống xã hội của con người; con người
muốn hiểu giới tự nhiên phải xuất phát từ chính bản thân mình thông qua
cảm giác và tư duy của chính mình.
Phoiơbắc khẳng định: con người là sản phẩm tất yếu cao nhất của giới tự
nhiên. Tuy nhiên, mặc dù giới tự nhiên tồn tại không lệ thuộc vào ý thức
nhưng nó là cơ sở của tồn tại người. Tóm lại, con người và giới tự nhiên có
mối liên hệ khắng khít với nhau và theo ông, con người không thể tách rời
khỏi giới tự nhiên và ngược lại giới tự nhiên là cơ sở không thể thiếu của
con người. Phoiơbắc lý giải rằng: con người dựa vào giới tự nhiên để thỏa
mãn các nhu cầu cơ bản của cuộc sống, ví dụ: ăn, uống, săn bắt, mặc, ở…
Mặt khác, giới tự nhiên là đối tượng cảm giác trực tiếp của con người, tác
động hàng ngày, hàng giờ lên các giác quan nhận biết của con người, qua
thời gian con người dần dần nhận thấy rằng chính bản thân con người đã bị
lệ thuộc vào giới tự nhiên - là đối tượng của cảm giác.
Một trong những điểm đáng ghi nhận trong quan điểm của Phoiơbắc đó
là ông đã phản ánh được tính tồn tại khách quan của các quy luật tự nhiên,
sự vận động và phát triển của giới tự nhiên diễn ra một cách khách quan, từ
đó dẫn tới sự xuất hiện của đời sống con người mà không có bất kì sự tác
động nào của sức mạnh siêu nhiên hay thần thánh.
Tuy nhiên, Phoiơbắc vẫn chưa khắc phục được hạn chế của duy vật siêu

hình, coi vật chất như là một cái gì thuần nhất. Cũng như, tuy thừa nhận vật
chất vận động nhưng chưa lý giải được nguồn gốc, động lực, hình thức của
vận động.
1.3.1 2 Mối quan hệ giữa con người và con người
Lý giải về mối quan hệ giữa con người và con người, Phoiơbắc chỉ rõ hai
bản tính của con người, bao gồm: bản tính cá nhân và bản tính cộng đồng.
Trong khi bản tính cá nhân thể hiện rõ tính cá thể của mỗi người, tạo ra sự
khác biệt giữa người và người thì bản tính cộng đồng theo Phoiơbắc là cội
nguồn của tình yêu mênh mông. Theo đó, sự hòa hợp giữa bản tính cá nhân
và cộng đồng chính là cơ sở của tính ích kỉ hợp lý và ông coi tính ích kỷ
của con người như là một động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội.
Ông lý giải “Trong lịch sử, một thời đại mới bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ chỗ
đông đảo quần chúng bị áp bức đưa ra tính ích kỷ chính đáng của mình
chống lại tính ích kỷ cực đoan của thiểu số người khác, tính ích kỷ của đa
Nguyễn Phúc Nguyên 6

Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Lútvích Phoiơbắc
số nhân loại đang bị áp bức phải và sẽ thực hiện quyền của mình và mở ra
một thời đại lịch sử mới”[9b].
Đối với Phoiơbắc, tình yêu chính là thể hiện bản chất con người, có thể
nói ông đã “thần thánh hóa tình yêu” khi cho rằng: “Chúng ta sẽ không thể
là con người nếu không biết yêu; và một đứa trẻ chỉ trở thành người lớn khi
nó biết yêu; tính yêu phụ nữ là tình yêu phổ quát, ai không yêu phụ nữ
người đó không yêu con người”[1;211].
Song, chúng ta có thể cảm thông rằng chính “nhược điểm” ấy của
Phoiơbắc lại là những chỗ bám của “chủ nghĩa xã hội chân chính”, chủ
nghĩa xã hội này đã lan truyền từ năm 1844 như một bệnh dịch trong “giới
có học thức” ở Đức, nó thay sự nghiên cứu khoa học bằng những lời văn
hoa, thay sự giải phóng giai cấp vô sản thông qua con đường cải tạo nền sản
xuất về mặt kinh tế bằng sự giải phóng loài người bằng “tình yêu”.

Nhìn chung, quan điểm của Phoiơbắc về con người chính là thể hiện
quan điểm của giai cấp tư sản muốn khẳng định cá tính sáng tạo của mỗi
người. Nhưng Phoiơbắc đã không nhận thấy bản chất xã hội của con người,
không coi trọng một thực tế là mỗi người tuy là cá thể nhưng lại sinh ra
trong một hoàn cảnh xã hội nhất định, thuộc một giai cấp hay một tầng lớp
xã hội, một dân tộc và một thời đại lịch sử nhất định. Vì vậy, theo nhận xét
của Ăng-ghen, con người của Phoiơbắc là con người phi lịch sử, phi giai
cấp và vì vậy cực kì trừu tượng. Phoiơbắc, trên thực tế, không vượt xa hơn
các nhà Khai sáng Pháp trong quan niệm về con người, kể cả xét theo khía
cạnh cá thể được coi là điểm mạnh nhất ở ông, cũng phải nhường bước cho
một số nhà tâm sinh lý học đương thời và sau ông như Freud.
1.3.1 3 Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại
Phoiơbắc khẳng định “Triết học Hêghen là chổ ẩn náu cuối cùng của
thần học. Mối quan hệ thực sự giữa tư duy và tồn tại như sau: tồn tại là chủ
ngữ, tư duy là vị ngữ”. Do vậy, cải cách triết học của Phoiơbắc trước hết
phải là giải quyết một cách duy vật vấn đề cơ bản của triết học - mối quan
hệ giữa tinh thần và vật chất, tư duy và tồn tại.
Có thể nói mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại, giữa tinh thần với vật
chất là một vấn đề tối cao của toàn bộ triết học. Đi trả lời cho câu hỏi ”cái
nào có trước, tinh thần hay vật chất? Tư duy hay tồn tại” là đại diện cho hai
trường phái triết học khác nhau, Hêghen – chủ nghĩa duy tâm và Phoiơbắc –
chủ nghĩa duy vật nhân bản.
Nguyễn Phúc Nguyên 7

Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Lútvích Phoiơbắc
Quan điểm Hêghen thừa nhận tồn tại “ý niệm tuyệt đối” – là sự hợp nhất
giữa thực thể -giới tự nhiên và Cái Tôi tuyệt đối, là sự đồng nhất giữa tư
duy và tồn tại, giữa tinh thần và vật chất, “ý niệm tuyệt đối” này đã tồn tại ở
đâu đó, vĩnh viễn từ trước tới nay, độc lập đối với thế giới và có trước thế
giới.

Trong khi đó, Phoiơbắc chỉ ra rằng sự tồn tại của “ý niệm tuyệt đối”
trước khi có thế giới, không phải là cái gì khác, mà chỉ là tàn dư hư ảo của
lòng tin vào một đấng sáng tạo siêu phàm; rằng thế giới vật chất, cảm thấy
được bằng giác quan, thế giới mà bản thân chúng ta cũng thuộc vào đấy, là
hiện thực duy nhất; rằng ý thức, cũng như tư duy của chúng ta, dù có vẻ
siêu cảm giác như thế nào đi chăng nữa, cũng chỉ là sản vật của một khí
quan vật chất, nhục thể, tức là bộ óc. Vật chất không phải là sản phẩm của
tinh thần, mà chỉ có bản thân tinh thần mới là sản phẩm tối cao của vật chất.
Khi Phoiơbắc phát biểu rằng: chủ nghĩa duy vật là cơ sở của tòa kiến
trúc: bản chất con người và tri thức con người, nó không phải là chủ nghĩa
duy vật theo nghĩa hẹp như đối với nhà sinh lý học, nhà tự nhiên học. Đi lùi
lại đằng sau, ông hoàn toàn nhất trí với các nhà duy vật chủ nghĩa; nhưng
tiến lên phía trước, ông không nhất trí với họ. Ông đã vấp phải những chỉ
trích [3;14].
Trước tiên, Phoiơbắc đã lẫn lộn chủ nghĩa duy vật với tư cách là thế giới
quan chung dựa trên một quan điểm nào đó về quan hệ giữa vật chất và tinh
thần, với hình thức đặc thù của thế giới quan ấy trong một giai đoạn lịch sử
nhất định, tức là vào thế kỷ XVIII. Hơn nữa, ông đã lẫn lộn chủ nghĩa duy
vật với hình thức thô sơ, tầm thường, mà theo đó mặc dù chủ nghĩa duy vật
tồn tại trong đầu các nhà tự nhiên học hay các bác sĩ nhưng nó rất đơn giản,
nó chỉ lấy những tiến bộ khoa học để phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại của
đấng tạo hóa. Tuy nhiên, Phoiơbắc đã hoàn toàn đúng, khi nhất trí với các
nhà thuyết giáo đương thời khoa học tự nhiên cũng đóng một vai trò rất
quan trọng trong đời sống con người, ông lý giải, con người không những
chỉ sống trong giới tự nhiên, mà còn sống trong xã hội loài người, mà xã hội
loài người thì cũng có lịch sử phát triển của nó và khoa học của nó, không
kém gì tự nhiên. Và cũng dễ hiểu tại sao Phoiơbắc nói “Đi lùi lại đằng sau,
ông hoàn toàn nhất trí với các nhà duy vật chủ nghĩa”.
Kết luận về quan điểm về con người:
Xác định vấn đề con người giữ vị trí trung tâm của triết học Phoiơbắc trở

thành đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa duy vật nhân bản. Đây là mặt tiến bộ
Nguyễn Phúc Nguyên 8

Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Lútvích Phoiơbắc
so với các nhà trước học trước ông và là một trong những thành tựu của
triết học trước Mác. Nhận xét về công lao của Phoiơbắc trong việc nghiên
cứu vấn đề con người, C.Mác và Ph.Ăng-ghen cho rằng, Phoiơbắc đã làm
cho chủ nghĩa duy vật được đồng nhất với chủ nghĩa nhân đạo. Trong đó,
lòng yêu thương vốn là bản chất của con người. Thế nhưng trong xã hội con
người bị kìm hãm trói buộc bởi giáo lý tôn giáo và bởi các quy định của xã
hội. Cho nên, cần phải giải phóng con người khỏi sự ràng buộc đó; nhằm
đem lại cho con người một quan niệm mới về chính mình, tạo điều kiện để
con người trở nên hạnh phúc. Theo ông, đây cũng là nhiệm vụ của các nhà
triết học. Tuy nhiên Phoiơbắc đã không thấy được phương diện xã hội của
con người. Con người mà ông quan niệm là con người bị tách khỏi điều
kiện kinh tế - xã hội và lịch sử. Do vậy về lĩnh vực này ông chưa thoát khỏi
ảnh hưởng của quan điểm duy tâm.
1.3 2 Quan điểm về nhận thức
Mặc dù Hium và Cantơ phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con
người. Song phần lớn các nhà triết học đều thừa nhận con người có khả
năng nhận thức được thế giới. Ngoài Ăng-ghen phê phán gay gắt khuynh
hướng bất khả tri luận đó thì Phoiơbắc cũng đưa ra những lý luận bảo vệ
quan điểm của mình.
Phoiơbắc đã phê phán chủ nghĩa duy tâm Hêgen trong nhận thức,
Phoiơbắc cho rằng, không phải cuộc sống diễn ra theo đồ thức luận tư duy
sẵn có, mà ngược lại, đồ thức luận ấy cần được làm mới, điều chỉnh thường
xuyên bằng chất liệu của cuộc sống, chịu sự phán quyết của những điều
kiện sống. Do đó, trước tiên con người phải nhận thức được những diễn
biến trong cuộc sống bằng tư duy của mình. Từ đó, Phoiơbắc vạch ra nhiệm
vụ của triết học là từ sự “nhận thức cái đang có”, tức Vậy bằng cách nào để

có thể “nhận thức cái đang có”? Và Phoiơbắc cho rằng chúng ta nhờ vào tri
giác cảm tính mới có khả năng nhận thức thế giới.
Nguyên tắc nhân bản của Phoiơbắc trong lý luận nhận thức được thể hiện
ở chỗ, ông đã lý giải khái niệm “khách thể” theo cách mới, bao gồm giới tự
nhiên và con người chứ không phải lý tính logich trừu tượng hay Thượng
đế. Trong đó, khái niệm khách thể thoạt tiên được hình thành trong kinh
nghiệm giao tiếp của con người, bởi thế khách thể đầu tiên đối với một
người bất kỳ nào đó chính là một người khác. Tình yêu đối với người khác
là con đường dẫn tới sự thừa nhận sự tồn tại khách quan của người đó, hơn
nữa đó còn là con đường dẫn tới sự tồn tại các vật ở bên ngoài nói chung
[9a].
Nguyễn Phúc Nguyên 9

Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Lútvích Phoiơbắc
Phoiơbắc cho rằng, chủ thể nhận thức không phải trìu tượng mà là con
người cụ thể, sống động, tồn tại trong thực tế, có cảm giác và lý tính. Tuy
nhiên, một người thì không thể nhận thức được hoàn toàn thế giới tự nhiên,
nhưng toàn bộ loài người thông qua các thế hệ thì có thể nhận thức được.
Con người nhận thức được thế giới trước hết thông qua cảm giác; “Bí quyết
của sự hiểu biết trực tiếp tập trung trong tính cảm giác”.[11]
Ngoài ra, đối với Phoiơbắc thực tiễn là hoạt động bản năng thấp hèn và
nó cần được loại bỏ ra khỏi nhận thức, hơn thế nữa là trục xuất ra khỏi hệ
thông triết học.
Như vậy, Phoiơbắc đã xây dựng quan điểm duy vật về nhận thức; đã
khẳng định, con người có khả năng nhận thức. Nhưng trong lý luận nhận
thức đã bộc lộ hạn chế ở chỗ, chưa hiểu được quá trình phát triển biện
chứng của nhận thức, vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức. Cho
nên, quan điểm nhận thức của Phoiơbắc vẫn nằm trong khuôn khổ của
những phương pháp suy nghĩ siêu hình.
1.3 3 Quan điểm về tôn giáo

Tôn giáo duy nhất mà Phoiơbắc nghiên cứu nghiêm túc là đạo Cơ Đốc,
tôn giáo toàn thế giới của phương Tây và được xây dựng trên chủ nghĩa độc
thần. Ông chứng minh rằng Thượng đế của đạo Cơ Đốc chỉ là sự phản
chiếu hư ảo con người. Ông lập luận rằng bản chất tự nhiên của con người
là muốn hướng tới những gì đẹp nhất trong một hình tượng đẹp nhất về con
người, nhưng trong thực tế những cái đó con người không đạt được nên đã
gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình tượng Thượng đế trời. Do vậy,
theo ông tôn giáo cũng chỉ là sản phẩm tất yếu của tâm lý cá nhân và bản
chất con người. Tôn giáo thể hiện sự mềm yếu, bất lực của con người đối
với các vấn đề xã hội, là sự thể hiện bản chất con người như thế. Phoiơbắc
khẳng định, bản chất thần thánh không là cái gì khác, mà là bản chất của
con người, nhưng đã được tinh chế, khách quan hóa, tách rời với con người
hiện thực bằng xương bằng thịt. Tóm lại, tôn giáo, trong quan niệm của nhà
duy vật Đức, là bản chất con người đã bị tha hóa.
Những quan niệm trên đây của Phoiơbắc đã vạch ra được nguồn gốc
tâm lý, tình cảm và tâm linh của con người đối với tôn giáo, cũng như nội
dung nhân bản trong các quan niệm thần thánh, nhưng chưa đề cập đến
những cơ sở kinh tế, chính trị - xã hội và văn hóa. Đây cũng là hạn chế
chung của các nhà tư tưởng trước Mác trong việc giải quyết nguồn gốc và
bản chất của tôn giáo.
Nguyễn Phúc Nguyên 10

Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Lútvích Phoiơbắc
Mặt khác, trên thực tế Phoiơbắc chỉ phê phán đạo Cơ Đốc. Còn tôn giáo
nói chung, theo ông vẫn là điều cần thiết đối với đời sống con người. Cho
nên thay vào đạo Cơ Đốc, con người “cần một tôn giáo mới”, vì chỉ có tín
ngưỡng, niềm tin mới an ủi được con người khỏi những nỗi bất hạnh trong
cuộc đời và mặc dù sự an ủi trên chỉ là giả dối.
Và thứ tôn giáo mà Phoiơbắc đề cao, muốn thay thế đó chính là tôn giáo
của tình yêu vĩnh cửu phổ quát giữa con người mà trước hết đó là tình yêu

nam nữ. Như vậy, Phoiơbắc đã nâng tình yêu nam nữ và quan hệ nam nữ
lên ngang hàng một “tôn giáo”. Và trong tôn giáo mới này, tình yêu vừa là
cơ sở, vừa là cứu cánh của con người để con người thật sự sông đúng với
bản tính của mình, nhằm biến trần gian thành thiên đàng trên mặt đất.
Thật vậy, đối với Phoiơbắc tất cả mọi thứ đều có thể giải quyết dựa trên
một thứ tình cảm mãnh liệt, được gọi là tình yêu. Điều đó thể hiện rất rõ
trong quan niệm của ông về hạnh phúc hay quyền bình đẳng của con người.
Giả sử như trong vấn đề bình đẳng. Phoiơbắc coi đó là yêu sách và có
tính bắt buộc tuyệt đối trong mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh. Song,
quyền đó được mọi người thừa nhận từ bao giờ?
Vâng và cách giải quyết đó lại dựa trên tình yêu. Đối với Phoiơbắc thì
tình yêu, ở đâu và bao giờ, cũng là một ông thần lắm phép lạ có thể giúp
vượt mọi khó khăn của đời sống thực tiễn, và điều đó diễn ra trong một xã
hội chia thành những giai cấp có những lợi ích đối lập hẳn với nhau. Do đó,
những vết tích cuối cùng của tính chất cách mạng trong triết học của ông
đều biến mất hết và chỉ còn lại cái điệp khúc cũ kỹ: Hãy yêu nhau đi, hãy
ôm nhau đi, không cần phân biệt nam nữ và đẳng cấp.
Theo Ăng-ghen, Phoiơbắc đã không đặt ra vấn đề xoá bỏ tôn giáo mà chỉ
muốn hoàn thiện nó và bản thân triết học cũng phải hoà vào tôn giáo. Tuy
nhiên, trong quan điểm về tôn giáo của Phoiơbắc lại lộ rõ tính duy tâm của
ông khi ông coi mối quan hệ thuần tuý giữa người với người là tôn giáo.
Phoiơbắc muốn xây dựng một thứ tôn giáo không cần Thượng đế và Ăng-
ghen coi đó cũng như “Thuật luyện kim cũng không cần đến viên đá tạo
vàng của nó”. Ăng-ghen cũng phê phán luận điểm sai lầm của Phoiơbắc khi
coi các thời đại của loài người chỉ khác nhau bởi những thay đổi về phương
diện tôn giáo, và khi thay thế tôn giáo cũ bằng tôn giáo mới sẽ làm cho xã
hội tiến lên. Ở đây, Phoiơbắc đã chưa thấy được vai trò của thực tiễn xã hội
quyết định sự vận động phát triển của xã hội loài người.
Nguyễn Phúc Nguyên 11


Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Lútvích Phoiơbắc
Rõ ràng, Phoiơbắc đã phê phán một ảo tưởng để hướng đến thứ ảo tưởng
khác - "tôn giáo của tình yêu’ phi lịch sử. Như thế, sự tiến bộ xã hội được
nhà tư tưởng nhân bản xem xét qua lăng kính của sự thay thế các hình thức
sinh hoạt tinh thần, chứ không phải hoạt động thực tiễn - vật chất của con
người.
Tuy nhiên, Phoiơbắc cũng nhận được sự ủng hộ của nhà triết học khác,
đó là Mác. Đọc “Gia đình thần thánh”, có thể thấy Mác đã đón chào quan
điểm của Phoiơbắc một cách nhiệt liệt như thế nào, và quan điểm mới đó
cũng đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Mác, mặc dầu Mác vẫn có những ý kiến
bảo lưu có tính chất phê phán.
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA
DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC
2 1 Giá trị
Nhìn chung, Hệ thống triết học Phoiơbắc đã mang lại nhiều đóng góp
quan trọng cho triết học nhân loại nói chung và triết học cổ điển Đức nói
riêng. Có thể kể đến một vài giá trị mà chủ nghĩa duy vật nhân bản của
Phoiơbắc đã để lại như sau:
2 1 Khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật thời kỳ cận đại
Có thể nhận thấy Phoiơbắc là nhà triết học hết sức triệt để trong cuộc
tranh luận với các bậc tiền bối của triết học Đức, cũng như triết học thế kỷ
XVII - XVIII. Đồng thời, triết học Phoiơbắc đã khôi phục được truyền
thống duy vật thế kỷ XVIII trong hoàn cảnh chủ nghĩa duy tâm thống trị đời
sống tinh thần ở Phương Tây, và phát triển chủ nghĩa duy vật thêm một
bước. Đây là một đóng góp rất đáng ghi nhận của Phoiơbắc cho nền triết
học nhân loại.
2 2 Phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và đạo Cơ đốc
Mặt tích cực trong triết học nhân bản của Phoiơbắc còn ở chỗ ông đấu
tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo thiên Thượng đế,
đặc biệt là quan niệm về Thượng đế [13]. Ông ra sức chứng minh rằng

Thượng đế chỉ là do con người tượng tượng ra nhằm giải quyết các khó khăn
trong cuộc sống của họ. Bên cạnh đó, ông phê phán mạnh mẽ chính sự tin
tưởng vào Thượng đế đã kìm hãm và tước đi tính năng động, sáng tạo và
năng lực độc lập phán xét của con người [1;211]. Rõ ràng, dưới góc nhìn của
một nhà duy vật nhân bản, Phoiơbắc đã làm tốt vai trò của mình khi chứng
Nguyễn Phúc Nguyên 12

Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Lútvích Phoiơbắc
minh sự tồn tại độc lập của con người với các ý niệm về thần thánh của chủ
nghĩa duy tâm và đạo Cơ đốc.
2 3 Nâng tầm quan trọng của con người trong phân tích triết học
Đối với Phoi ơ bắc, con người chính là một triết học mới, có sứ mạng
mang lại cho con người cuộc sống thật sự hạnh phúc trên trần gian và ông
lấy con người là đối tượng nghiên cứu của triết học. Như vậy, ưu điểm lớn
nhất của ông đã quan tâm nhiều đến vấn đề con người (chủ yếu là mặt tự
nhiên – sinh học). Ông tìm hiểu sâu về bản chất con người, các mối liên hệ
của con người với các đối tượng khác trong triết học như giới tự nhiên,
nhận thức, tôn giáo, để từ đó khẳng định vai trò trọng tâm của con người
cũng như loại bỏ bất kì ảnh hưởng hay ý niệm nào về Thượng đế trong triết
học.
Đề cao vai trò của con người, Phoiơbắc phủ nhận mọi quan điểm triết
học không lấy con người làm đối tượng nghiên cứu. Vì vậy, Phoiơbắc đã
từng phê phán chủ nghĩa duy tâm chủ quan Phíchtơ do sự tuyệt đối hoá cái
Tôi, cho dù đó là cái Tôi dân tộc đi chăng nữa. Lần nữa Phoiơbắc khẳng
định, không có cái Tôi trừu tượng, mà chỉ có nhưng con người bằng xương,
bằng thịt - sản phẩm hoàn thiện tưởng cải cách trong lý luận về con người -
vấn đề chủ đạo của thuyết nhân bản, hay nhân loại học.
2 4 Cùng với Hêghen, triết học Phoiơbắclà tiền đề lý luận của triết
học Mác
Tư tưởng duy vật của Phoiơbắc có ảnh hưởng to lớn đối với thế giới quan

triết học của Mác và Ăng-ghen lúc bấy giờ và “là khâu trung gian” giữa
triết học của Hêghen và triết học của hai ông. Các quan điểm của Phoiơbắc
về con người, tôn giáo rất được sự ủng hộ của Mac, mặc dù không phải là
tuyệt đối. Sử dụng tính duy vật khả tri và nhân bản trong triết học Phoiơbắc,
Mac đã khởi nguồn tư tưởng triết hoc của mình.
2 2 Hạn chế
Triết học của Phoiơbắc không sâu, còn nhiều quan niệm siêu hình, còn
nhiều quan niệm siêu hình phiên diện trong lý giải đối tượng triết học, trong
phân tích bản chất con người,…Đặc biệt, trong việc xác định nguồn gốc,
động lực phát triển và phương tiện cải tạo xã hội, quan điểm của Phoiơbắc
còn đầy tính duy tâm. Thái độ đối với tôn giáo của ông cũng không nhất
quán.[1;214]. Tất cả chúng được thể hiện như sau:
Nguyễn Phúc Nguyên 13

Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Lútvích Phoiơbắc
2 1 Phủ nhận phép biện chứng
Lẽ cố nhiên, phương án cải cách của Phoiơbắc không tránh khỏi những
ảo tưởng, do chịu sự tác động của thời đại mình. Trong triết học tự nhiên,
sự cải cách của Phoiơbắc chỉ thể hiện được một nửa. Trước hết, trong khi
phê phán triết học tư biện, duy tâm của Hêgen, Phoiơbắc đã không biết kế
thừa hạt nhân hợp lý của triết học Hêghen là phép biện chứng. Việc
Phoiơbắc đập tan hệ thống Hêghen và đơn giản đã gạt bỏ nó ra một bên chỉ
bằng những lý luận thiếu sâu sắc hay tuyên bố nó sai lầm thì thật thiếu sức
thuyết phục.
Hơn nữa, mặc dù Phoiơbắc giải quyết một cách duy vật vấn đề cơ bản
của triết học, song ông lại né tránh thuật ngữ duy vật, không thừa nhận bản
chất thế giới quan của mình.
2 2 Đề cao con người nhưng quan niệm con người của ông rất hời
hợt
Cách tiếp cận giá trị luận về con người của Phoiơbắc là cần thiết, nhưng

chưa đủ cơ sở đề lý giải bản chất thực sự của con người. Khi ông đòi hỏi
triết học mới - triết học nhân bản - phải gắn liền với tự nhiên thì đồng thời
đã đứng luôn trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi hiện
tượng thuộc về con người và xã hội. Phoiơbắc lấy con người làm điểm xuất
phát, nhưng đó không phải là con người sống trong một thế giới hiện thực
với những quan hệ phức tạp, mà là con người trừu tượng, phi xã hội, mang
những đặc tính sinh học bẩm sinh, đặc biệt tuyệt đối hóa và coi tình yêu là
bản chất con người.
Chính vì thế mà trong thời kỳ xác lập những tư tưởng nền tảng của triết
học mới, C.Mác đã nêu ra hai phạm trù lớn trong một tuyên ngôn triết học
của mình - phạm trù thực tiễn và phạm trù bản chất con người. Thống nhất
hai phạm trù đó sẽ hiểu được điểm xuất phát và mục đích cuối cùng của
triết học Mác. Cái cần có trong triết học mang tính cải cách của Phoiơbắc
chỉ dừng lại ở những nét phác thảo đơn giản, sơ lược và đầy mâu thuẫn.
2 3 Phủ nhận vai trò thực tiễn và sa vào chủ nghĩa duy tâm
Ông bám hết sức chặt lấy giới tự nhiên và con người, song ông cũng
không biết chính xác về tự nhiên hiện thực, cũng như về con người hiện
thực. Nhưng người ta chỉ đi được từ con người trừu tượng của Phoiơbắc
đến những con người hiện thực, sinh động, nếu người ta xét những con
người đó trong hành động lịch sử của họ. Nhưng Phoiơbắc lại từ chối làm
Nguyễn Phúc Nguyên 14

Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Lútvích Phoiơbắc
như vậy, và vì thế mà gần cuối đời mình, ông đã đoạn tuyệt vĩnh viễn với
thế giới hiện thực, rút lui vào cảnh sống ẩn dật.
Triết học nhân bản của Phoiơbắc cũng chứa đựng những yếu tố của chủ
nghĩa duy tâm. Ông nói rằng, bản tính con người là tình yêu, tôn giáo cũng
là một tình yêu. Ông cho rằng cần phải biến tình yêu thương của con người
thành quan hệ chi phối mọi quan hệ xã hội khác, thành lý tưởng xã hội.
Trong điều kiện của xã hội tư sản Đức thời đó, với sự phân chia giai cấp thì

chủ nghĩa nhân đạo về tình yêu thương con người trở thành chủ nghĩa nhân
đạo trừu tượng, duy tâm.
2 4 Chưa thể vượt qua khuôn khổ của chủ nghĩa duy vật siêu hình
Phoiơbắc xuất phát tử những khiếm khuyết của chủ nghĩa duy vật ở
những thế kỷ trước để phủ nhận các giá trị thực sự của nó trong lịch sử, hay
nói cách khác, ông quy hiện tượng nhất thời của một khuynh hướng thế giới
về bản chất của nó, tức "thấy cây mà không thấy rừng". Ông nói nhiều đến
vận động, phát triển, song không lý giải một cách đúng đắn động lực của
phát triển. Trọng tâm phân tích của Phoiơbắc là làm sáng tỏ tính khách
quan của tự nhiên, chứ không phải tính biến đổi, tính quy luật, tính tất yếu
khách quan và tính lịch sử của nó. Với những điều vừa nêu, có thể thấy
rằng Phoiơbắc chưa thể vượt qua khuôn khổ của chủ nghĩa duy vật siêu
hình.
2 5 Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên
Phoiơbắc chưa vượt khỏi những hạn chế lịch sử của chủ nghĩa duy vật
thế kỷ XVIII. Ăng-ghen đã vạch rõ nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó:
“Đó là lỗi tại những điều kiện thảm hại ở Đức hồi đó, những điều kiện đã
khiến cho những ghế giáo sư triết học đều do bọn chiết trung chủ nghĩa
chuyên giết rệp chiếm đoạt hết, còn Phoiơbắc, người vượt tất cả những bọn
đó một trời một vực, lại buộc phải nông dân hoá và rầu rĩ trong một làng
nhỏ. Nếu như Phoiơbắc vẫn không tiếp thu được quan điểm lịch sử về tự
nhiên…, và đã trút bỏ được tất cả cái gì là phiến diện trong chủ nghĩa duy
vật Pháp, thì đó không phải là lỗi tại ông”[2;13]. Chính trong điều kiện xã
hội và điều kiện sống như thế, nên chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là không
biện chứng và về xã hội cũng không thoát khỏi chủ nghĩa duy tâm cổ
truyền. Ăng-ghen đã trích lời của Phoiơbắc như sau: “Đi lùi lại đằng sau tôi
hoàn toàn nhất trí với các nhà duy vật chủ nghĩa, nhưng khi tiến lên phía
trước, tôi không nhất trí với họ”. Cho nên, Phoiơbắc là nhà duy vật ở nửa
dưới, còn nửa trên ông lại là duy tâm. Ông phê phán chủ nghĩa duy tâm, coi
nó là tư biện, trừu tượng, nhưng sang địa hạt lịch sử ông xem xét con người,

xã hội cũng trìu tượng không kém.
Nguyễn Phúc Nguyên 15

Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Lútvích Phoiơbắc
KẾT LUẬN
Đóng góp lớn nhất của Phoiơbắc chính là ông đã vượt qua lối tư duy cũ
để hình thành cách suy nghĩ mới, cả trong quan niệm về tự nhiên, về lý luận
nhận thức lẫn trong cách hiểu về con người. “Triết học hiện đại từ bỏ tư
tưởng kinh viện ”[10] tuyên bố đó của Phoiơbắc trong “Những nguyên
nhân cơ bản của triết học về tương lai” đã thể hiện thiên hướng cải cách tích
cực của ông. Triết học cần từ bỏ tính sách vở, những biện luận thuần tuý
của tư duy để đến với cuộc sống, được vật chất hoá trong hoạt động thực
tiễn của con người.
Có thể nói triết học mới vừa có tính phủ định, vừa có tính thống nhất, nó
phủ định cái phiến diện ở mỗi học thuyết và thống nhất các chân lý dù đối
lập nhau nhưng cùng đóng vai trò tích cực cả trong quá khứ lẫn hiện tại.
Triết học của tương lai không phải là phép cộng hay sự chiết trung tư tưởng
từ ngày hôm qua, mà là thuyết nhân bản có định hướng thực tiễn, phát huy
cao nhất quan hệ chân chính, khắc phục tình trạng phân đôi bản chất của
con người.
Mặc dù còn những hạn chế siêu hình trong quan điểm về tự nhiên duy
tâm, trong quan điểm về xã hội, chưa có quan điểm duy vật triệt để về con
người nhưng Phoiơbắc đã có công lao trong việc khôi phục và phát triển
chủ nghĩa duy vật chống lại quan điểm duy tâm và tôn giáo; vì thế, quan
điểm duy vật của Phoiơbắc cùng với tư tưởng biện chứng của Cantơ và
Nguyễn Phúc Nguyên 16

Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Lútvích Phoiơbắc
phép biện chứng của Hêghen trở thành tiền đề lý luận hình thành triết học
Mác - Lênin.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. TS Bùi Văn Mưa, Triết học (phần I) “Đại cương về lịch sử Triết học” -
Dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không thuộc chuyên
ngành Triết học, 2011.
[2]. PGS.TS. Đặng Hữu Toàn, Ph.Ăngghen với tác phẩm “Lútvích Phoiơbắc
và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, tạp chí Triết học số 4, 1995.
[3]. C.Mác và Ăng-ghen, Phoiơbắc sự đối lập giữa quan điểm duy tâm và
quan điểm duy vật-Phần 2, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1995
[4]. C.Mác, Ph.Ăng-ghen, Tuyển tập (Tập 6), NXB Sự thật, 1984
[5]. L.Phoiơbắc, Tuyển tập các tác phẩm triết học, Nxb Chính trị Quốc gia,
1955
[6]. C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Luận cương về Phoiơbắc, NXB Chính trị quốc
gia, 2000
[7]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Triết học (tập 1, 2, 3) - Dùng cho Nghiên cứu
sinh và Học viên cao học không thuộc chuyên ngành Triết học. NXB
Chính trị Quốc gia, 2001.
[8]. Nguyễn Hữu Vui, Lịch sử triết học, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1998
[9]. Hệ tư tưởng Đức, Nhà xuất bản sự thật, 1977.
a. TS Nguyễn Huy Hoàng, Quan điểm của L.Phoiơbắc về văn hóa và
con người, Tạp chí Triết học số 5, 2006
/>vientriet=articles_deltails&id=543&cat=48&pcat=
Nguyễn Phúc Nguyên 17

Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Lútvích Phoiơbắc
b. TS Lê Công Sự, Đánh giá của C.Mác và ph.Ăngghen về vấn đề con
người trong triết học L.Phoiơbắc qua “hệ tư tưởng Đức”, Tạp chí
Triết học số 11, 2006
/>vientriet=articles_deltails&id=364&cat=48&pcat=
[10].
[11].

option=com_content&task=view&id=371&Itemid=265
[12].
option=com_content&view=article&id=14:lun-cng-v-phoi-
bc&catid=6:h-hinh-tam-thc-hc&Itemid=193
[13].
%E1%BA%BFt-h%E1%BB%8Dc-m%C3%A1c-l%C3%AAnin?p=30
Nguyễn Phúc Nguyên 18

×