1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
CHỦ ĐỀ:
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và
vai trò của nó đối với sự ra đời của triết
học Mác.
Học viên thực hiện: Trương Văn Sáng
Nhóm: 09
Lớp: Đêm 3 – QTKD
Khóa: 22
Giảng viên phụ trách: TS.Bùi Văn Mưa
TP.HCM, tháng 12/2012
2
I. LỜI MỞ ĐẦU:
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hêghen và
Phoiơbắc, là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác. C.Mác và Ph.Ăngghen đã
từng là những người theo học triết học Hêghen. Sau này, cả khi đã từ bỏ chủ nghĩa duy
tâm của triết học Hêghen, các ông vẫn đánh giá cao tư tưởng biện chứng của nó. Chính
cái "hạt nhân hợp lý" đó đã được Mác kế thừa bằng cách cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí
để xây dựng nên lý luận mới của phép biện chứng - phép biện chứng duy vật. Trong
khi phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, C.Mác đã dựa vào truyền thống của chủ
nghĩa duy vật triết học mà trực tiếp là chủ nghĩa duy vật triết học của Phoiơbắc; đồng
thời đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục tính chất siêu hình và những hạn chế
lịch sử khác của nó. Từ đó Mác và Ăngghen xây dựng nên triết học mới, trong đó chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ. Với tính cách
là những bộ phận hợp thành hệ thống lý luận của triết học Mác, chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng đều có sự biến đổi về chất so với nguồn gốc của chúng. Không thấy
điều đó, mà hiểu chủ nghĩa duy vật biện chứng như sự lắp ghép cơ học chủ nghĩa duy
vật của triết học Phoiơbắc với phép biện chứng Hêghen, sẽ không hiểu được triết học
Mác. Để xây dựng triết học duy vật biện chứng, Mác đã cải tạo cả chủ nghĩa duy vật
cũ, cả phép biện chứng của Hêghen. Mác viết: "Phương pháp biện chứng của tôi không
những khác phương pháp của Hêghen về cơ bản mà còn đối lập hẳn với phương pháp
ấy nữa". Giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi phép siêu hình, Mác đã làm cho chủ nghĩa
duy vật trở nên "hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến
chỗ nhận thức xã hội loài người, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại
nhất của tư tưởng khoa học".
Mục đích của bài tiểu luận này nhằm tìm hiểu về chủ nghĩa duy vật nhân bản
Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác.
Tài liệu nghiên cứu dựa trên các bài giảng của TS Bùi Văn Mưa và một số tài liệu
trên sách, báo chí và trên Internet.
3
II. LỊCH SỬ RA ĐỜI CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC
2.1 GIỚI THIỆU VỀ PHOIƠBẮC:
Phoiơbắc (1804 - 1872) - là đại diện vĩ đại cuối cùng của triết học cổ điển Đức.
Người có công lao to lớn đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, phục hồi và
phát triển chủ nghĩa duy vật trong thời kỳ chuẩn bị cách mạng tư sản Đức (1848).
Phoiơbắc là nhà triết học duy vật vì ông khẳng định vật chất là tính thứ nhất; tư duy
là tính thứ hai. Song là nhà duy vật nhân bản, ông coi con người là sản phẩm cao nhất
của giới tự nhiên, vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại là vấn đề bản chất con người, vì
thế đây là đối tượng duy nhất, phổ biến và cao nhất của triết học. Chủ nghĩa duy vật
nhân bản của Phoiơbắc là đóng góp to lớn vào cuộc đấu tranh chống lại việc giải thích
duy tâm, nhị nguyên luận, thậm chí cả chủ nghĩa duy tâm tầm thường về vấn đề con
người. Song, nguyên l ý nhân bản của Phoiơbắc không triệt để, vì ông hiểu con người
chỉ là những cá nhân trừu tượng, là thực thể thuần túy tự nhiên - sinh vật. Ông không
thấy được mặt xã hội của con người trong hoạt động biến đổi thực hiện thực.
Triết học Phoiơbắc là sản phẩm tất yếu của những điều kiện mới, hình thành vào
cuối những năm 30 - đầu những năm 40. Đó là thời kỳ nhen nhóm tình thế cách mạng ở
nhiều nơi trên nước Đức. Năm 1823 với mục đích nghiên cứu tôn giáo, Phoiơbắc vào
học tại khoa thần học của trường đại học Heidelberg, nhưng sau một năm lại rời khoa
thần học và chuyển đến Berlin, nơi Hegel đang giảng triết học. Chẳng mấy chốc
Phoiơbắc trở thành người học trò nghiêm túc của Hegel. Năm 1928 Phoiơbắc gởi cho
Hegel bản luận án của mình mang tên “ Về l tính đơn nhất, phổ biến và vô hạn” trong
đó ông nói thẳng tâm nguyện triển khai tiếp tục chủ nghĩa duy tâm khách quan. Năm
1829 Phoiơbắc lúc đó 25 tuổi bắt đầu sự nghiệp giảng dạy của mình tại trường đại học
Erlangen. Tại đây Phoiơbắc trình bầy logic học và siêu hình học, đồng thời nhen nhóm
tư tưởng nhân bản mà về sau trở thành nội dung chủ yếu của chủ nghĩa duy vật đặc
trưng - chủ nghĩa duy vật nhân bản. Khái niệm trung tâm - tình yêu. Năm 1841
Phoiơbắc cho ra mắt tác phẩm chính “Bản chất đạo Cơ đốc”, ấn tượng mà nó đem lại
thật to lớn. Những năm tiếp theo ông viết “Luận cương khởi đầu về cái cách triết học”
4
(1842), “Các luận điểm triết học cơ bản của tương lai”(1843), Phoiơbắc đứng bên lề của
diễn biến cách mạng 1848, tỏ ra là người thu động về chính trị, mặc dù hoan nghênh
tinh thần dân chủ tư sản của cuộc cách mạng đó. Thời kỳ cách mạng Phoiơbắc viết và
công bố một vài tác phẩm nhưng chẳng mấy ai chú ý. Giai cấp tư sản quay lưng lại với
nhà tư tưởng vĩ đại, vì học không thích thú gì cái tình yêu nhân loại quá lớn của ông,
còn các lực lượng khác nhận thấy ở đó có những biểu hiện của chủ nghĩa không tưởng
chính trị.
2.2NỘI DUNG CHÍNH CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN
PHOIƠBẮC
QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI:
Phoiơbắc cho rằng, con người vừa mang bản tính cá nhân, vừa mang bản tính cộng
đồng.
Do mang bản tính cá nhân, mà mỗi con người là một cá thể sinh học đặc biệt có lý
trí, có ý chí, có trái tim… của riêng mình để nhận thức, để khát vọng đam mê, để rung
động cảm xúc… Đó là con người tồn tại bằng xương, bằng thịt, đang sống, đang làm
việc, đang nhận thức như mỗi chúng ta, chứ không phải con người trong ý tưởng – con
người trừu tượng. Với bản tính đó, mỗi con người tiềm tàng một năng lực sáng tạo kỳ
vĩ, năng lực này bắt nguồn từ trong cá tính cá nhân của mỗi con người chứ không xuất
phát từ Thượng đế.
Do mang bản tính cộng đồng, mà mỗi con người cá nhân bị ràng buộc với những
người khác. Hạnh phúc của mỗi cá nhân không là hạnh phúc đơn độc của mỗi con
người mà là hạnh phúc được tìm kiếm trong sự hòa hợp với mọi người, trong cộng
đồng. Với bản tính đó, mỗi con người tiềm tàng một tình yêu mênh mông dành cho con
người, tình yêu cũng tuôn trào từ bản tính cộng đồng của con người chứ không phải bắt
nguồn từ Thượng đế.
Bản tính vừa cá nhân vừa cộng đồng của con người, theo Phoiơbắc, là cơ sở của
tính ích kỷ hợp lý – thống nhất tính ích kỷ cá nhân với tính ích kỷ cộng đồng xã hội.
Tính ích kỷ hợp lý đòi hỏi các quyền lợi riêng tư của mỗi cá nhân con người phải phù
hợp hài hòa với quyền lợi chung của xã hội. Phoiơbắc cho rằng tình yêu giữa con người
5
với nhau vừa là phương tiện vừa là mục đích của sự hòa hợp xã hội, và hơn thế nữa, nó
còn là động lực tiến bộ xã hội, bởi vì nó là sự thể hiện rõ nhất bản chất người trong mỗi
con người. Phoiơbắc cho rằng : Chúng ta sẽ không thể là con người nếu không biết yêu,
và một đứa trẻ chỉ trở thành người lớn khi nó biết yêu; tình yêu phụ nữ là tình yêu phổ
quát, ai không yêu phụ nữ người đó không yêu con người. Tuy nhiên, trong biển trời
mênh mông của tình yêu thì, tình yêu của người đàn ông dành cho người đàn bà là tình
yêu đích thực. Đối với Phoiơbắc con người và tình yêu chỉ là một, chúng không thể tách
rời nhau.
Xác định vấn đề con người giữ vị trí trung tâm của triết học Phoiơbắc trở thành đại
biểu tiêu biểu của chủ nghĩa duy vật nhân bản. Đây là mặt tiến bộ so với các nhà trước
học trước ông. Tuy nhiên ông đã không thấy được phương diện xã hội của con người.
Song, nó còn hạn chế là đã tuyệt đối hóa tình yêu, coi tình yêu là bản chất của con
người mà không chú ý đến mặt lịch sử - xã hội, không thấy điều kiện chính trị - xã hội
mà con người đang sống trong đó. Quan niệm về con người của ông rất trừu tượng, bởi
vì nó không mang tính lịch sử, tính giai cấp, tính dân tộc.
QUAN NIỆM VỀ TỰ NHIÊN :
Đời sống của người nguyên thuỷ hàng ngày bắt phải tiếp xúc với muôn vàn sự vật,
hiện thể tượng đa dạng của giới tự nhiên như mặt trăng, mặt trời, sấm sét, bão lụt, giông
tố, sông sâu, biển rộng, núi non hiểm trở, rừng rậm, cây cao và lẽ đó nhiên là con
người phải lệ thuộc vào chúng để tồn tại. Từ đó làm phát sinh tâm lý hay tình cảm trong
con người đối với giới tự nhiên: "Điều mục đầu tiên của tôi trong Bản chất của tôn giáo
có thể nói một cách vắn tắt là: cơ sở của tôn giáo là tình cảm về sự lệ thuộc của con
người. Trong ý nghĩa đầu tiên, giới tự nhiên chính là đối tượng của tình cảm lệ thuộc
này. Vì vậy, giới tự nhiên nói chung là khách thể đầu tiên của tôn giáo". Từ trước tới
giờ đối tượng của các bài giảng của tôi chính là ở chỗ, tình cảm về sự lệ thuộc chính là
cơ sở và nguồn gốc của tôn giáo còn đối tượng của sự lệ thuộc đó chính là giới tự
nhiên". Vậy tại sao giới tự nhiên lại trở thành đối tượng đầu tiên bắt buộc con người
phải lệ thuộc Phoiơbắc giải thích như sau:
6
Thứ nhất, bởi giới tự nhiên là đối tượng cảm giác trực tiếp của con người, là cái tác
động hàng ngày, hàng giờ lên các giác quan nhận biết của con người: "cái bắt con
người, lệ thuộc, cái mà con người cảm thấy lệ thuộc, cái mà từ đó con người biết được
sự lệ thuộc của mình chính là giới tự nhiên, là đối tượng của cảm giác, tất cả những ấn
tượng mà giới tự nhiên tạo ra cho con người thông qua các cảm giác đều có thể trở
thành lý do của sự sùng bái tôn giáo".
Thứ hai, sự sùng bái giới tự nhiên còn bắt nguồn từ việc trong quá trình sống, do
thể chất yếu ớt của mình, con người thường có tâm lý sợ hãi các hiện tượng của giới tự
nhiên, dẫn đến tình trạng bất lực trước các hiện tượng đó: "Quan niệm về sức mạnh vô
biên như là đặc tính cơ bản của thần thánh xuất hiện và phát triển trong con người đặc
biệt khi con người so sánh hành động của mình với hành động của tự nhiên. Con người
không thể tạo nên cây cỏ, không làm nên bão tố và thời tiết, không thể làm sáng loé như
chớp, gào thét như sấm tất cả những hiện tượng tự nhiên này vượt trội sức mạnh của
con người, làm cho con người cảm thấy bất lực. Chính vì vậy, thực thể tạo nên các hiện
tượng đó đối với con người là một thực thể siêu nhân - thực thể có tính thần thánh".
QUAN NIỆM VỀ XÃ HỘI:
Phoiơbắc cố gắng xây dựng quan điểm xã hội học nhân đạo trên cơ sở đạo đức học.
Ở đây Phoiơbắc chịu ảnh hưởng của phong trào ánh sáng (Montesquieu, Voltaire ) và
chủ nghĩa duy vật pháp thế kỷ XVIII. Từ khẩu hiệu tự do - bình đẳng - bắc ái Phoiơbắc
đã nêu lên tuyên ngôn nổi tiếng: “hãy thống nhất mọi người trên tinh thần nhân bản!)
Con người bình đẳng như chính thiên nhiên tạo ra. Vấn đề này trong triết học cận
đại đề cập nhiều, nhưng đến Phoiơbắc mang thêm nhiều nét đặc trưng, thể hiện tâm
trạng của tầng lớp tiến bộ trong giai cấp tư sản Đức. Nếu con người bình đẳng với nhau
theo bản chất tự nhiên của mình, thì mọi đặc quyền đặc lợi đẳng cấp trên đều trái với tự
nhiên, do đó cần phải loại trừ.
Con người do thiên nhiên tạo ra để sống và hưởng thụ chứ không phải để đau khổ.
Quan niệm như vậy có lẽ còn thua các nhà duy vật Pháp. Cả Diderot lẫn Hollbach đều
đòi quyền tự do hoạt động kinh tế như quyền tự do của con người trong xã hội công
dân. Phoiơbắc hầu như không quan tâm đến cơ cấu kinh tế - xã hội hiện thực mà ở đó
7
một giai cấp này thống trị một giai cấp khác, không nhìn thấy mối liên hệ giữa áp bức
và bóc lột với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Trong khi xem xét con
người như một thực thể tự nhiên, Phoiơbắc cố gắng vạch ra những điều kiện tồn tại tự
nhiên của con người trong phạm vi xã hội tư sản, ảnh hưởng của nó tới hoạt động sáng
tạo của nhân cách cá thể. Ông tỏ ra hài lòng với trật tự xã hội tư sản, nơi mà theo ông,
con người đạt tới hạnh phúc một cách dễ dàng, nói cách khác, con người có thể yên tâm
với địa vị hiện tại. “Tất cả các sự vật, ngoài trừ những trường hợp phản tự nhiên - vui
lòng ở nơi mà chúng có, và vui lòng trở thành cái mà nó có”. Đó là sự biện hộ cho xã
hội tư sản, một sự biện hộ vô hình mà nhà triết học không để ý.
QUAN NIỆM VỀ TÔN GIÁO:
Phân tích một cách toàn điện về nguồn gốc phát sinh của tôn giáo, Phoiơbắc có cơ
sở khoa học để đi đến kết luận: "Không phải Thượng đế đã sáng tạo nên con người theo
hình đáng của mình như đã miêu tả trong Kinh thánh, mà chính con người đã sáng tạo
nên Thượng đế theo hình dáng của mình mọi Thượng đế đều là tồn tại được sáng tạo
nên bằng tư tưởng tượng. Con người u sầu, ốm yếu phản ánh tâm trạng của mình trong
hình ảnh một Thượng đế tương tư, con người vui vẻ thì ngược lại, họ miêu tả Thượng
đế với bộ mặt tươi tỉnh, sáng ngời. Tính đa dạng của con người quy định tính đa dạng
của Thượng đế". Như vậy, có thể nói một cách ngắn gọn rằng, Phoiơbắc đã truy tìm bản
chất của tôn giáo trong bản chất của con người, ông viết. "Bản chất thần thánh không là
cái gì khác như là bản chất con người, bản chất đó đã được gột rửa, được giải phóng
khỏi những giới hạn cá nhân, nghĩa là khỏi những con người vật lý hiện thực, được
khách quan hoá, được nhìn nhận như một bản chất độc lập xa lạ. Bởi vậy, mọi sự xác
đinh về bản chất thần thánh đều có liên quan đến việc xác định bản chất con người. Dựa
trên những khảo cứu lịch sử hiện thực của nhân loại, Phoiơbắc thấy rằng trong thực tế
thường diễn ra sự thù địch giữa tôn giáo này với tôn giáo khác, sự thù địch giữa người
theo đạo và kẻ dị giáo. Hơn nữa có những người có chức sắc tôn giáo cao trong giáo
hội, song họ vẫn có nhũng hành vi phi đạo đức. Từ đó ông lên tiếng phản đối quan điểm
của các nhà thần học cho rằng dường như phủ định thương đế là một bước dẫn tới sự
tiêu diệt quan hệ đạo đức.
8
III. NHỮNG GIÁ TRỊ & HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
NHÂN BẢN PHOIƠBẮC
3.1 GIÁ TRỊ :
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc đã để lại cho di sản văn hóa nhân loại vô
cùng quý giá. Là một người có tư tưởng cách tân triết học, Phoiơbắc cho rằng triết học
là một khoa học về thực tại trong chân lý và tính tổng thể của nó. Tính tổng thể của
thực tại không là gì khác ngoài giới tự nhiên, và điều này chỉ biết được nhờ sự cảm
nhận thông qua sự tác động của các hiện tượng khác từ bên ngoài. Điều này không có
nghĩa là triết học phải hy sinh cho những khoa học chuyên biệt cụ thể như toán, lý, hóa,
sinh, tâm lý, sinh lý học. Bên cạnh đó Phoiơbắc còn đưa ra nhiều nét độc đáo trong chủ
nghĩa vô thần trong tư tưởng triết học của mình Phoiơbắc đều viết về tôn giáo, và khi
viết về mảng này thì ông nghiên cứu phán xét tôn giáo là cơ sở, điều kiện tất yếu để
khám phá bản tính của con người và ngược lại. Nghiên cứu một cách căn bản lịch sử
hình thành và phát triển của tôn giáo đã cho Phoiơbắc cơ sở lý luận vững vàng để khẳng
định rằng: Chủ nghĩa phiếm thần và tôn giáo đa thần phản ánh sự lệ thuộc của con
người vào giới tự nhiên cũng như nhân cách hóa các hiện tượng tự nhiên, từ đó mà phát
sinh ra biểu tượng về thần sông, thần núi như đã miêu tả trong thần thoại Hy Lạp.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc là đóng góp to lớn vào cuộc đấu tranh
chống lại việc giải thích duy tâm, nhị nguyên luận, thậm chí cả chủ nghĩa duy tâm tầm
thường về vấn đề con người.
3.2HẠN CHẾ:
Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc còn không triệt để, vì ông hiểu con
người chỉ là những cá nhân trừu tượng, là thực thể thuần túy tự nhiên - sinh vật. Ông
không thấy được mặt xã hội của con người trong hoạt động biến đổi hiện thực.
Trong quan hệ đối với triết học của Hêghen, Ông có thái độ phủ định sạch trơn,
không thấy được thành tựu quý giá của Hêghen là phép biện chứng đã kế thừa và phát
triển. Ông hiểu tính quy luật, tính tất yếu, tính nhân quả một cách siêu hình. Cho nên
chủ nghĩa duy vật nhân bản của ông còn mang nặng tính sieeuhinhf. Trong lý luận nhận
9
thức, Phoiơbắc đã tiếp tục truyền thống cảm giác luận duy vật, chống lại thuyết không
thể biết và lối tư biện trừu tượng. Ông không phủ nhân vai trò của tư duy trong nhân
thức, nên chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc chưa thoát khỏi tính trực quan của
chủ nghĩa duy vật trước Mác.
Những hạn chế của nguyên tắc nhân bản trong thế giới quan của Phoiơbắc còn thể
hiện rõ trong việc nghiên cứu tôn giáo và đạo đức. Ở lĩnh vực này, ông lại rơi vào lập
trường duy tâm thể hiện trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo và ý định đưa ra nguyên
tắc đạo đức chung cho mọi dân tộc, mọi thời đại lịch sử.
IV. VAI TRÒ CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN CỦA PHOI Ơ BẮC
ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC:
C.Mác và Ph.Ăngghen chịu ảnh hưởng sâu sắc những quan niệm duy vật của
Phoiơbắc: “không phải chúa Trời sáng tạo ra con người, mà chính con người sáng tạo ra
chúa Trời”. Theo nhà duy vật Đức, “con người đang khách quan hóa bản chất của mình
và biến mình thành đối tượng của cái bản chất đã bị khách quan hóa này – và đây chính
là bí mật của tôn giáo”. Luận điểm của Phoiơbắc - “bản chất của thần thánh không là
cái gì khác ngoài bản chất của con người bị khách quan hóa, tách biệt khỏi con người cá
thể, nghĩa là tách biệt khỏi con người hiện thực bằng xương bằng thịt”- đã trở thành
“sợi chỉ đỏ” trong quan niệm của C.Mác và Ph. Ănghen về tôn giáo. C.Mác đã bày tỏ
sự ủng hộ Phoiơbắc, thể hiện một tình cảm bái phục nhà duy vật này trong cuộc tranh
luận giữa ông với nhà thần học, nhà triết học theo phái Hêghen trẻ - Đ.Stơrauxơ (1808 -
1874) năm 1842. Sau đó, C.Mác đoạn tuyệt với nhóm Béclin trong phái Hêghen trẻ.
C.Mác và Ph.Ăngghen không có tác phẩm chuyên bàn về tôn giáo, nhưng vấn đề
tôn giáo đã được các ông đề cập ngay trong những tác phẩm đầu tay. Tiếp thu quan
niệm duy vật của Phoiơbắc - “Chúa trời chẳng qua chỉ là cái bản chất chủ quan của con
người đã bị tách biệt theo cách riêng của mình và do vậy, những hành động cao đẹp của
con người hoá ra lại không phải xuất phát từ con người, mà từ Chúa trời”, nhưng đi xa
hơn Phoiơbắc, C.Mác đã nhận thấy mối quan hệ giữa tôn giáo và các thế lực chính trị -
xã hội. Trong Về vấn đề Do Thái (1843), C.Mác đã phê phán mối quan hệ giữa nhà
10
nước và Giáo hội ở châu Âu. Theo ông, “cái gọi là nhà nước Cơ Đốc Giáo là một nhà
nước không hoàn bị, và Đạo Cơ Đốc là sự bù đắp và thần thánh hoá sự không hoàn bị
đó… Còn nhà nước dân chủ, một nhà nước thật sự, thì không cần đến tôn giáo để bù
đắp về mặt chính trị cho mình". Trong khi Brunô Bauơ - người không tán thành phân
biệt người Đức gốc Do Thái theo đạo Do thái với người Đức gốc Đức theo đạo Kitô,
đòi giải phóng người Do Thái khỏi đạo Kitô, và tách rời những vấn đề tôn giáo khỏi
những vấn đề chính trị, thì C.Mác lại khẳng định sự gắn kết giữa giải phóng tôn giáo và
giải phóng chính trị. Ông đặt vấn đề xoá bỏ chế độ tư hữu, xoá bỏ chế độ người bóc lột
người cùng với tất cả những gì là sản phẩm, là tàn dư của chế độ đó, trong đó có tôn
giáo, nhằm xây dựng một nhà nước hoàn toàn thế tục.
Sự không thể khoan nhượng của Chủ Nghĩa Cộng Sản với Tôn Giáo còn được
C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục trong Hệ Tư Tưởng Đức (1845 - 1846). Bênh vực chủ
nghĩa Duy Vật của Phoiơbắc trước sự phê phán của các nhà duy tâm Đức theo phái
Hegel trẻ, các ông cho rằng, “trong tôn giáo, người ta biến thế giới kinh nghiệm của
mình thành một cái gì đó chỉ có trong tư tưởng, trong tưởng tượng đối lập với họ như
một cái gì đó xa lạ. Để giải thích điều đó, không thể lại dùng những khái niệm khác,
không thể lại dùng “tự ý thức“, hoặc những cái nhảm nhí tương tự như thế được, mà
phải xuất phát từ toàn bộ phương thức sản xuất và giao tiếp hiện đang tồn tại“.
Mác đánh giá cao Chủ Nghĩa Duy Vật của Phoiơbắc nhưng đồng thời cũng phê
phán tư duy siêu hình, duy tâm về lịch sử của ông. Chính Mác & Ăngghen là những
người đã nhận thức một cách chính xác những thành tựu và hạn chế của triết học
Phoiơbắc và dựa trên hệ thống triết học này để xây dựng thế giới quan duy vật biện
chứng của mình
Để tiếp cận đúng xã hội dân sự (hay xã hội công dân), C. Mác đòi hỏi trong Luận cương
về Phoiơbắc, phải xuất phát từ “quan điểm của chủ nghĩa duy vật mới là xã hội loài
người, hay loài người xã hội hóa” và phải vượt qua quan điểm của chủ nghĩa duy vật cũ
là xã hội “công dân”. C.Mác yêu cầu phải khắc phục quan điểm xã hội công dân tư sản
chỉ nhấn mạnh mối liên hệ của những con người thị dân, tức là những con người “độc
11
lập” thông qua cái nút lợi ích tư nhân và tính tất yếu tự nhiên vô ý thức của những cá
nhân nô lệ cho doanh nghiệp, nô lệ cho nhu cầu hám lợi của mình và của người khác.
Theo tinh thần này, có thể hiểu, dưới chủ nghĩa xã hội, kể cả trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, cũng cần phải xây dựng xã hội dân sự là xã hội của những con
người tự chủ, giàu tính người, đoàn kết thúc đẩy phát triển và thực hành quyền lợi cộng
đồng, chứ không phải những con người cá nhân vị kỷ, nô lệ cho kinh tế thị trường, nô lệ
cho nhu cầu hám lợi của mình và của người khác.
Những học thuyết triết học trước triết học Mác thường mới dừng lại ở việc giải
thích thế giới, cho nên họ chưa đề cập đến vai trò của hoạt động thực tiễn đối với lý
luận, lý luận thường tách rời với thực tiễn. Do vậy, không tránh khỏi tình trạng rơi vào
quan điểm duy tâm về xã hội. Ngay cả ở trong triết học Phoiơbắc tuy coi vấn đề con
người là trung tâm thế nhưng đây chỉ mới là con người thuần túy về mặt sinh vật, chưa
phải con người với tính cách là chủ thể hoạt động cải tạo thế giới. Còn triết học Mác đã
xác định rõ: Nhiệm vụ của mình không chỉ dừng lại ở giải thích thế giới mà chủ yếu là
tìm ra các phương tiện, các biện pháp để cải tạo thế giới bằng cách mạng. Triết học Mác
thường lấy hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội, cải tạo thế giới của con người là điểm
xuất phát và thông qua quá trình hoạt động thực tiễn để hoàn thiện hệ thống lý luận của
mình. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, triết học Mác đã tạo ra được sự gắn
kết chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn. Lý luận xuất phát từ thực tiễn, chịu sự quyết
định của thực tiễn; khi ra đời, lý luận định hướng hoạt động thực tiễn. Vì thế, so với các
học thuyết triết học khác thì triết học Mác luôn luôn được bổ sung và hoàn thiện.
V. KẾT LUẬN :
Qua bài phân tích trên chúng ta có thể thấy rõ rằng, L. Phoiơbắc đã có vai trò rất
lớn đối sự ra đời của triết học Mác. Tư tưởng duy vật của ông đã ảnh hưởng đến thế
giới quan triết học của Mác và Ăngghen lúc bấy giờ và là “khâu trung gian” giữa triết
học Hêghen và triết học của hai ông. Bằng cách kế thừa những tư tưởng duy vật đúng
đắn và phê phán những quan điểm còn ạn chế của Phoiơbắc bằng “hạt nhân hợp lý” của
12
Hêghen, hai ông đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên "hoàn bị và mở rộng học thuyết
ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người, chủ nghĩa duy
vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học". Tuy triết học của
Phoiơbắc còn nhiều hạn chế, nhưng Mác và Ăngghen luôn đánh giá cao triết học của
Phoiơbắc nói chung, chủ nghĩa duy vật nhân bản của ông nói riêng, họ tự thừa nhận
mình là môn đồ của ông, chào đón quan điểm mới đó một cách nhiệt liệt, tin và đi theo
Phoiơbắc với một tinh thần hào hứng, phấn khởi.
Đề tài này chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu về chủ nghĩa duy vật nhân bản của
Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác, tuy nhiên, để hiểu rõ hơn
về nguồn gốc hình thành chủ nghĩa duy vật biện chứng của C. Mác, chúng ta nên tiếp
tục nghiên cứu về “ Phép biện chứng duy tâm của Hêghen và vai trò của nó đối với sự
ra đời của triết học Mác”.
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1:
Giáo trình triết học Mác-Lenin – NXB Chính trị quốc gia
2: Triết học phần I&2 (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc
chuyên ngành triết học ( TS Bùi Văn Mưa làm chủ biên , LHNB, Trường ĐH Kinh tế
TPHCM, 2010).
3: Các Bài giảng Triết học của TS: Bùi Văn Mưa
4: Một số website trên Internet: VIENTRIETHOC.COM.VN
14
PHỤ LỤC :
I. LỜI MỞ ĐẦU: 2
II. LỊCH SỬ RA ĐỜI CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC 3
2.1 GIỚI THIỆU VỀ PHOIƠBẮC: 3
2.2 NỘI DUNG CHÍNH CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC
4
2.2.1 QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI: 4
2.2.2 QUAN NIỆM VỀ TỰ NHIÊN : 5
2.2.3 QUAN NIỆM VỀ XÃ HỘI: 6
2.2.4 QUAN NIỆM VỀ TÔN GIÁO: 7
III. NHỮNG GIÁ TRỊ & HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN
PHOIƠBẮC 8
3.1 GIÁ TRỊ : 8
3.2 HẠN CHẾ: 8
IV. VAI TRÒ CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN CỦA PHOI Ơ BẮC ĐỐI VỚI
SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC: 9
V. KẾT LUẬN : 11