Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.59 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC






TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Giảng viên hướng dẫn
TS. BÙI VĂN MƯA
Người thực hiện
STT: 116
Họ tên: LÊ THỊ CẨM NHUNG
Lớp: Cao học QTKD, Đ5
Khóa: 21 (2011 – 2013).
TP. HCM, tháng 2 năm 2012
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
Chương 1: NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
NHÂN BẢN PHOIƠBẮC 2
1.1Cơ sở của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc……………………….……….2
1.2 Quan niệm về con người 3
1.2.1 Quan hệ giữa con người và giới tự nhiên 3
1.2.2 Quan hệ giữa con người với con người 5


1.3 Quan niệm về tôn giáo 5
1.4 Quan niệm về nhận thức 6
CHƯƠNG 2: NHỮNG NHẬN XÉT CHUNG VỀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT
NHÂN BẢN PHOIƠBẮC………………………………………………………….8
2.1 Những giá trị……… ……………………………………………………………8
2.1.1 Khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật thời kỳ cận đại…………… 8
2.1.2 Phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và đạo Cơ Đốc giáo 9
2.1.3 Nâng tầm quan trọng của con người trong phân tích triết học……… 9
2.1.4 Cùng với Hêghen,triết học nhân bản Phoiơbắc là một trong những tiền đề lý
luận của triết học Mác-Lênin… ……………………………………………….10
2.2 Những hạn chế………………………………………………………………… 12
2.2.1 Phủ nhận tính đúng đắn của phép biện chứng, chưa thể vượt ra khuôn khổ
của chủ nghĩa duy vật siêu hình…………….…………………… …………………11
2.2.2 Đề cao vai trò của con người nhưng chỉ là con người trừu tượng, phi lịch
sử……….…………………………………………………………………………… 11
2.2.3 Phủ nhận vai trò của thực tiễn và sa vào chủ nghĩa duy tâm……….…… 12
KẾT LUẬN…………………………… ……………………………………………14
Tiểu luận: CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói triết học Mác - Lênin là một triết học khoa học và cách mạng của
loài người; được hình thành dựa trên sự kế thừa và phát triển những hạt nhân lý luận
của các bậc triết học tiền nhân trong suốt lịch sử. Trong đó, không thể không kể đến
cái gốc duy vật nhân bản được đúc kết từ bậc thầy triết học Đức – Phoiơbắc.
Sinh ra và lớn lên trong thời kỳ xuất hiện cách mạng triết học Đức thế kỷ XIX,
ông đã từng tin tưởng và trở thành một môn đồ của trường phái Hêghen. Tuy nhiên,
sớm nhận thấy những quan niệm duy tâm sai lầm trong lý luận về tư duy và tồn tại, về
con người và thế giới, ông đã xây dựng cho riêng mình một hệ thống triết học mới –
triết học của con người, của tinh thần duy vật nhân bản.
Tìm hiểu triết học Phoiơbắc mang đến cho chúng ta cơ hội thú vị nghiên cứu về
tầm vóc một con người, một trong những bộ óc vĩ đại trong kho tàng triết học thế giới.

Qua đó, thấy được nét đẹp nhân bản không dễ dàng gì bắt gặp trong những lý luận triết
học đương thời. Mặc dù, đôi chỗ trong triết học của ông vẫn còn biểu hiện sai lầm
nhưng đó là những sai lầm có thể chấp nhận được bởi ông cũng là một con người,
cũng phải chịu tác động của điều kiện xã hội thời bấy giờ. Từ đó, chúng ta kế thừa
những hạt nhân lý luận hợp lý của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa nhân đạo, đồng thời
xóa bỏ nét duy tâm, siêu hình trong nhận thức để hoàn chỉnh quá trình nghiên cứu triết
học cũng như để áp dụng lý luận vào thực tiễn, góp phần thúc đấy sự phát triển của đời
sống con người và đời sống xã hội.
Bài nghiên cứu chủ yếu dựa trên những đúc kết từ Giáo trình Triết học (phần 1)
- Khoa Sau Đại học trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh; cũng như sự tham
khảo thêm từ kho tài liệu triết học qua sách báo, các trang mạng, đặc biệt là sự tiếp thu
những nhận xét khá chính xác từ người bạn tư tưởng quan trọng của Mác là Ăngghen
thông qua bài nghiên cứu “L. Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”.
GHVD: TS. Bùi Văn Mưa 1 Thực hiện: Lê Thị Cẩm Nhung
Tiểu luận: CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
CHƯƠNG 1: NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
NHÂN BẢN PHOIƠBẮC
1.1Cơ sở của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc
Với cương vị từng là môn đồ của trường phái triết học Hêghen, chịu ảnh hưởng lớn
bởi quan niệm cho rằng tôn giáo và các khái niệm của tinh thần tuyệt đối thống trị thế
giới. Nhưng dần dần, Phoiơbắc nhận ra chúng chỉ là những xiềng xich trói buộc con
người. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của triết học duy vật Pháp thế kỷ XVIII và sự phát
triển của thực tiễn xã hội và khoa học đầu thế kỷ XIX, kết hợp với việc tiếp thu những
giá trị tư tưởng trong nhân bản học của Cantơ, ông chuyển dần sang tham vọng vươn
tới việc thiết lập một nền triết học mới – nền triết học tương lai, lấy con người và đời
sống tâm – sinh lý của nó là đối tượng nghiên cứu cơ bản. Triết học mới, theo ông:
“Biến con người, kể cả giới tự nhiên với tư cách là nền tảng của con người, trở thành
đối tượng duy nhất, phổ biến, cao nhất của triết học, do đó cũng biến nhân bản học,
kể cả sinh lý học thành khoa học phổ quát”.
Như vậy, Phoiơbắc đề cập đến nền triết học mới như một sự phản ánh chân lý của

thời đại, nó đặt ra và lý giải những vấn đề xã hội đương thời mà chủ nghĩa duy vật hay
chủ nghĩa duy tâm trước ông đều bất lực: “Chân lý không phải là chủ nghĩa duy vật
hay chủ nghĩa duy tâm, không phải là sinh lý học hay tâm lý học. Chân lý là nhân bản
học”, [4,186]. Nền triết học tương lai sẽ khắc phục được sự khác biệt của mình đối
với tôn giáo, sẽ không còn là thứ triết học nhận thức tư biện, mà trở thành nhân bản
học - một học thuyết toàn diện về con người, về mối quan hệ của nó với thế giới.
Trong triết học mới (triết học nhân bản), hình ảnh con người sẽ được trình bày cả trên
cơ sở của các dữ liệu khoa học cũng như trên cơ sở của học thuyết về Chúa. Con
người trong nhân bản học không chỉ được hiểu như là một bộ phận của giới tự nhiên
mà còn là một sinh thể tự nhiên toàn năng. Triết học mới có sức mạnh truy tìm lời giải
đáp hiện thực để giải quyết mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại.
Dưới góc nhìn nhân bản, việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học – mối quan hệ
giữa tinh thần và vật chất, tư duy và tồn tại được thay đổi. Phoiơbắc đã đưa thuyết
nhân bản đến gần chủ nghĩa duy vật. Luận điểm xuất phát của triết học Phoiơbắc là
giới tự nhiên tồn tại không lệ thuộc vào ý thức, nó là cơ sở của tồn tại người, ngoài tự
nhiên và con người, không có gì cả, bản chất của Thượng đế chẳng qua là sự phản ánh
hư ảo bản chất con người.
GHVD: TS. Bùi Văn Mưa 2 Thực hiện: Lê Thị Cẩm Nhung
Tiểu luận: CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
Với quan niệm như vậy, hệ thống triết học của Phoiơbắc đã nâng vị trí con
người lên một tầm cao mới – trở thành trung tâm của triết học duy vật nhân bản.
1.2 Quan niệm về con người:
Đi ngược lại quan niệm con người một cách trừu tượng và thần bí, coi đó như
một lực lượng siêu tự nhiên của Hêghen; Phoiơbắc đề xuất xây dựng một quan niệm
mới về con người. Con người không phải là sản phẩm của thượng đế như các nhà thần
học quan niệm, nó cũng không phải là sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối như Hêgen nói,
mà là sản phẩm của giới tự nhiên. Con người như một thực thể sinh vật có cảm giác,
biết tư duy, có ham muốn, có ước mơ, có tình yêu thương; lòng yêu thương vốn là bản
chất của con người. Trong con người có sự thống nhất giữa cơ thể với tư duy. Đây là
điểm khác biệt cơ bản của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc với chủ nghĩa duy

tâm trước đây bởi các nhà duy tâm đã đem tách cái sinh thể nguyên vẹn ấy ra làm đôi,
tạo nên sự xung đột giữa linh hồn và thể xác hoặc đem đồng nhất bản chất con người
với tư duy, với ý thức. Sự thống nhất toàn vẹn mà ông đề cập đảm bảo cho con người
có thể tồn tại và phát triển như một sinh vật cao nhất, hoàn thiện nhất trong mọi sinh
vật hiện có. Và sai lầm của chủ nghĩa duy tâm là sự toan tính thủ tiêu sự thống nhất
toàn vẹn đó của con người, tách tư duy con người khỏi tồn tại của nó, biến tư duy con
người thành một thực thể siêu tự nhiên có khả năng sáng tạo nên thế giới vật chất. Còn
sai lầm của chủ nghĩa nhị nguyên là đánh đồng tư duy và tồn tại, coi chúng như những
thực thể tồn tại độc lập bên cạnh nhau, đó là một sự khẳng định vòng vo, nửa vời, trái
ngược.
Đeo đuổi quan niệm thống nhất giữa hai phương diện thể xác (tồn tại) và tinh
thần (tư duy) trong bản chất con người, Phoiơbắc cho rằng những dấu hiệu người thực
sự trong mỗi con người đó chính là lý trí, ý chí và trái tim. Như vậy ý chí, tư duy và
tình cảm không chỉ là những năng lực cơ bản của con người, mà còn là những sức
mạnh bị chế định bởi chính bản chất của con người, là mục tiêu và phương tiện tồn tại
của con người.
1.2.1 Quan hệ giữa con người với tự nhiên:
Trước tiên, Phoiơbắc đi tìm định nghĩa mới cho giới tự nhiên mà theo ông chắc
chắc không phải là “ý niệm tuyết đối bị tha hóa” như bậc tiền bối Hêghen. Ông lại
càng không ủng hộ quan điểm tính phong phú, đa dạng của thế giới là kết quả của sự
vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Ông chứng minh thế giới là vật chất; giới
GHVD: TS. Bùi Văn Mưa 3 Thực hiện: Lê Thị Cẩm Nhung
Tiểu luận: CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
tự nhiên tồn tại khách quan , ngòai ý thức của con người; là cơ sở sinh sống của con
người. Đặc biệt, giới tự nhiên không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại và vận động nhờ
những cơ sở bên trong nó. Tự nhiên không phải là bản thể được nhào nặn từ cái tuyệt
đối, thượng đế nào đó, mà là bản thể độc lập, không cần đến bất kỳ giá đỡ thần thánh
nào. Sự hình thành thế giới nói chung, Trái đất, Mặt trời là quá trình tự nhiên. Nếu
Hêgen xác lập ranh giới không thể vượt qua giữa thế giới vô cơ và thế giới hữu cơ, tự
nhiên và tinh thần, thì Phoiơbắc lại từ lập trường của chủ nghĩa duy vật mà khẳng định

rằng, không có cái gì, kể cả sự sống, lại không hình thành từ vật chất. Từ đó ông
khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; ý thức không tự nó tồn tại mà nó chỉ là
sản phẩm của 1 dạng vật chất, là một thuộc tính của bộ óc người.
Bên cạnh đó, ông quan niệm không gian và thời gian tồn tại khách quan, gắn
liền với vật chất, là hình thức căn bản cho sự tồn tại của vật chất. Không có vật chất
tồn tại và vận động bên ngòai không gian và thời gian. Đồng thời, ông cũng thừa nhận
sự tồn tại khách quan của các quy luật tự nhiên, của quan hệ nhân quả; thừa nhận sự
vận động và phát triển của giới tự nhiên diễn ra một cách khách quan, từ đó dẫn tới sự
xuất hiện của đời sống hữu cơ, con người. Như vậy, con người và giới tự nhiên có mối
liên hệ khắng khít với nhau, theo ông, con người không thể tách rời khỏi giới tự nhiên
và ngược lại giới tự nhiên là cơ sở không thể thiếu của con người. Bởi vì con người
chỉ dựa vào giới tự nhiên để thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của cuộc sống, ví dụ: ăn,
uống, săn bắt, mặc, ở… Mặc khác, giới tự nhiên là đối tượng cảm giác trực tiếp của
con người, tác động hàng ngày, hàng giờ lên các giác quan nhận biết của con người,
qua thời gian con người dần dần nhận thấy rằng chính bản thân con người đã bị lệ
thuộc vào giới tự nhiên - là đối tượng của cảm giác. Nói cách khác, con người có thể
cảm nhận thế giới tự nhiên thông qua cảm giác. Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan.
Như vậy, mối quan hệ giữa giới tự nhiên và con người phản ảnh mối quan hệ
thế giới vô cơ và hữu cơ, bởi vì thế giới vô cơ là tiền đề là nền tảng của sự sống con
người và mọi vật. Tuy nhiên, theo Phoiơbắc , con người chỉ tồn tại và phát triển trong
thế giới tự nhiên, và chính giới tự nhiên tác động lại quá trình tồn tại và phát triển của
con người chứ không phải là thần thánh là chủ nghĩa duy tâm chủ quan như quan điểm
các nhà triết học đương thời.
GHVD: TS. Bùi Văn Mưa 4 Thực hiện: Lê Thị Cẩm Nhung
Tiểu luận: CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
1.2.2 Quan hệ giữa con người với con người:
Học tập từ người thầy triết học cổ đại Aristote, cho rằng con người là một tồn
tại xã hội, nhưng Phoiơbắc đã kịp nhìn thấy “cái tôi”, “cái đơn tử”, “cái tuyệt đối”
được miêu tả trong triết học của các bậc tiền bối mới chỉ là xuất phát điểm, là nền tảng

vật lý – sinh lý của con người. Cái chính yếu, cốt lõi là những yếu tố quy định sự tồn
tại của nó với tư cách là một sinh thể có tính loài hay nói theo cách của Mác là tính xã
hội của con người. Như vậy, theo nhà triết học duy vật nhân bản Đức, khi nói về con
người, nhất thiết phải giả định rằng , có những người khác và chỉ có trong mối quan hệ
đó thì con người mới là con người với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Nói cách khác, con
người trong quan niệm của ông vừa mang bản tính cá nhân vừa mang bản tính cộng
đồng.
Ông khẳng định bản tính cá nhân và bản tính cộng đồng không phải hoàn toàn
độc lập nhau mà cái bản tính cá nhân của Phoiơbắc không tách khỏi sự bó buộc, không
nằm ngoài mối quan hệ mật thiết với cộng đồng xã hội. Đối với Phoiơbắc bản tính cá
nhân rất được ông nhấn mạnh, song quan điểm của ông chỉ ra rằng trong quá trình sinh
sống các hoạt động của cá nhân tiếp xúc với cộng đồng xã hội và chính sự tiếp xúc đã
làm cho con người không phải đơn thuần là một sinh vật tự nhiên không có giống loài
– tức là tồn tại chỉ quan tâm tới bản thân mình mà con người của Phoiơbắc là hiện thân
tồn tại của tự do, tồn tại của nhân cách, tồn tại của pháp luật. Đi xa hơn, Phoiơbắc còn
nhận thấy của con người là động lực thúc đẩy sự phát triển lịch sử xã hội.
1.3 Quan niệm về tôn giáo:
Khi nhắc đến tôn giáo, Phoiơbắc cho rằng, tôn giáo là sản phẩm tất yếu của tâm lý
cá nhân và của sự tưởng tượng của con người. Tôn giáo thể hiện sự mềm yếu, bất lực
của con người trước sức mạnh tự nhiên và điều kiện của xã hội. Do con người cũng sợ
chết, cũng có niềm tin và an ủi; nên bản chất của tôn giáo chứa đựng trong nhân bản
học. Nó là sản phẩm của sự tưởng tượng phong phú của con người. Chính con người
đã bày đặt ra thần thánh bằng cách trừu tượng hóa bản chất con người. Do vậy, cần
thay thế tôn giáo cũ bằng thứ tôn giáo mới không cần có thần thánh, chúa trời mà lấy
tình yêu giữa người với người làm nền tảng. Trong những mối quan hệ tình cảm của
con ngừơi, thì cuối cùng Phoiơbắc đã chọn tình yêu nam nữ là một trong những hình
GHVD: TS. Bùi Văn Mưa 5 Thực hiện: Lê Thị Cẩm Nhung
Tiểu luận: CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
thức cao nhất. Hay nói khác hơn, tôn giáo mới sẽ xóa bỏ áp bức, bất công trong xã hội
chính là “tôn giáo tình yêu”.

Và một lần nữa, nhà triết học duy vật đáng kính đi tìm sự xuất hiện của tôn giáo
ngay chính trong trạng thái tâm lý của con người. Chính những xúc cảm mạnh mẽ là
nguồn gốc sâu xa của tôn giáo. Nhưng sự chiêm nghiệm hay trạng thái đau khổ, trạng
thái xúc cảm không phải là hiện tượng có tính chủ quan như chủ nghĩa duy tâm chủ
quan quan niệm , mà chúng có tính khách quan, nghĩa là gắn liền với các hiện tượng tự
nhiên và đời sống xã hội. Ông từng viết: "Tôn giáo là giấc mơ của tinh thần con
người nhưng trong giấc mơ đó chúng ta không phải ở trên bầu trời mà ở trên mặt đất
trong vương quốc của hiện thực,…”. Trên tinh thần như vậy, ông phê phán các quan
điểm cho rằng, tôn giáo là hiện tượng có tính ngẫu nhiên hoặc có tính bẩm sinh.
Tuy ông đã thể hiện ưu điểm của mình trong quan niệm về tôn giáo như chống lại
quan niệm tôn giáo chính thống của đạo Thiên chúa khi cho rằng chính con người tạo
ra Thượng đế, phủ nhận Thượng đế sáng tạo ra con người, chi phối cuộc sống con
người; hay đi ngược lại quan niệm của Hêghen khi cho rằng tôn giáo là sự tha hóa của
ý niệm tuyệt đối và ông cho rằng tôn giáo hữu thần là sự tha hóa bản chất của con
người… nhưng triết học của ông lại lộ rõ tư tưởng duy tâm nhiều nhất chính là lúc
này. Ông thực sự chưa chỉ ra bản chất thật sự của tôn giáo, chưa thoát khỏi quan điểm
duy tâm khi chỉ phê phán tôn giáo hiện thời chứ không phê phán tôn giáo nói chung.
1.4 Quan niệm về nhận thức:
Vừa phê phán triết học của Hêghen ở chỗ, coi đối tượng của tư duy không khác gì
với bản chất của tư duy đồng thời phê phán chủ nghĩa bất khả tri của Cantơ, ông vừa
khẳng định, đối tượng nhận thức nói chung và của triết học nói riêng là giới tự nhiên
và con người. Và ông cũng chỉ ra được rằng con người chủ thể nhận thức không phải
trìu tượng mà là con người cụ thể, con người có khả năng nhận thức được giới tự
nhiên, một người thì không thể nhận thức được hoàn toàn thế giới tự nhiên, nhưng
toàn bộ loài người thông qua các thế hệ thì có thể nhận thức được. Con người nhận
thức được thế giới trước hết thông qua cảm giác.
Tuy nhiên, từ trong lý luận nhận thức ông đã bộc lộ rõ hạn chế ở chỗ, chưa hiểu
được quá trình phát triển biện chứng của nhận thức, vai trò của hoạt động thực tiễn đối
với nhận thức. Theo ông, thực tiễn mang tính bẩn thỉu, mang tính con người. Do đó,
GHVD: TS. Bùi Văn Mưa 6 Thực hiện: Lê Thị Cẩm Nhung

Tiểu luận: CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
cần loại thực tiễn ra khỏi nhận thức, trục xuất ra khỏi hệ thống triết học. Cho nên,
quan niệm nhận thức của Phoiơbắc vẫn nằm trong khuôn khổ phương pháp siêu hình.
GHVD: TS. Bùi Văn Mưa 7 Thực hiện: Lê Thị Cẩm Nhung
Tiểu luận: CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
CHƯƠNG 2: NHỮNG NHẬN XÉT CHUNG VỀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT
NHÂN BẢN PHOIƠBẮC
2.1 Những giá trị:
2.1.1 Khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật thời kỳ cận đại
Tiến trình hoàn thiện mình của chủ nghĩa duy vật là một tiến trình lâu dài và
phức tạp. Trong đó, thường xuyên là sự thắng thế của chủ nghĩa duy tâm bởi sự ủng
hộ của thần học và triết học kinh viện. Đặc biệt, sự thống trị triết học duy tâm kéo dài
đã làm mai một không ít những tư tưởng duy vật đúng đắn. Phải đợi đến Phoiơbắc chủ
nghĩa duy vật mới thực sự trở lại chỗ đứng và thể hiện sự thắng thế của mình.
Trong thời kỳ của những nhà triết học như Phoiơbắc có thể thấy rõ sự ảnh
hưởng mạnh mẽ của trường phái triết học duy tâm Hêghen. Tuy nhiên, Phoiơbắc đã
tìm đến con đường duy vật, xây dựng và củng cố những nền tảng cơ bản cho chủ
nghĩa duy vật. Xuất phát điểm từ những tư tưởng duy vật thời kỳ Phục hưng bị mai
một và vùi lấp sau “đêm trường Trung cổ” bởi sự thống trị của thần học và triết học
kinh viện, đồng thời tiếp thu từ thành tựu mới từ khoa học tự nhiên, Phoiơbắc đã
chứng minh được sự xuất phát của giới tự nhiên là vật chất. Khi đưa ra quan niệm này
Phoiơbắc gần như phải một mình chống lại cả hệ thống triết học “ý niệm tinh thần
tuyệt đối” của người thầy Hêghen. Đồng thời, ông đã thể hiện khả năng học tập tuyệt
vời của mình khi chắt lọc tinh tế những quan niệm duy vật đúng đắn từ bậc thầy nhị
nguyên luận Cantơ. Từ những quan niệm thô cứng của chủ nghĩa duy vật thế kỷ trước
– chủ nghĩa duy vật có tính máy móc bởi trình độ phát triển khoa học kỹ thuật thời ấy
chỉ dừng lại ở cơ học và quan niệm con người như một cái máy, chằng khác gì động
vật đối với Đêcáctơ, Phoiơbắc đã hình thành nên những quan niệm duy vật ở trình độ
cao so với thực tiễn triết học thời bấy giờ. Theo ông: “…chủ nghĩa duy vật là cơ sở
của tòa kiến trúc; bản chất con người và thi thức con người; nhưng đối với tôi, nó

không phải là chủ nghĩa duy vật theo nghĩa hẹp như đối với nhà sinh lý học hay nhà
tự nhiên học, chẳng hạn như Môlêsốt, và không thẻ là không như thế đối với họ, xét
theo quan điểm của họ, theo chuyên môn của họ, nghĩa là đối với tôi, chủ nghĩa duy
vật không phải là bản thân tòa nhà. Đi lùi lại đằng sau, tôi hoàn toàn nhất trí với các
nhà duy vật chủ nghĩa, nhưng tiến lên phía trước tôi không nhất trí với họ”,[6,10].
GHVD: TS. Bùi Văn Mưa 8 Thực hiện: Lê Thị Cẩm Nhung
Tiểu luận: CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
Như vậy, xét theo trình độ phát triển của xã hội, mặc dù vẫn còn tồn tại những
quan niệm siêu hình trong tư duy nhưng Phoiơbắc đã đưa chủ nghĩa duy vật lên một vị
trí mới – hoàn thiện hơn, sâu sắc hơn và nhân bản hơn.
2.1.2 Phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và đạo Cơ Đốc giáo
Không những khôi phục lại địa vị xứng đáng của chủ nghĩa duy vật, Phoiơbắc
còn dùng lý luận triết học của mình giáng một đòn rất nặng vào triết học duy tâm của
Hêghen và chủ nghĩa duy tâm nói chung. Phoiơbắc chứng minh rằng, thế giới vật chất,
giới tự nhiên không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại độc lập với ý thức con người và không
phụ thuộc vào bất cứ thứ triết học nào. Do đó cơ sở tồn tại của giới tự nhiên nằm ngay
trong giới tự nhiên.Chống lại hệ thống duy tâm của Hêghen - hệ thống coi giới tự
nhiên là sự tồn tại khác của tinh thần. Phoiơbắc chỉ ra rằng triết học mới này phải có
tính chất nhân bản, phải kết hợp với khoa học tự nhiên.
Bên cạnh đó, Phoiơbắc không ngừng ra sức đấu tranh chống các quan niệm tôn
giáo chính thống của đạo thiên chúa, đặc biệt là quan niệm về Thượng đế. Trái với các
quan niệm tôn giáo và thần học cho rằng Thượng đế tạo ra con người, ông khẳng định
chính con người tạo ra Thượng đế. Khác với Hêghen nói về sự tha hoá của ý niệm
tuyệt đối. Phoiơbắc nói về sự tha hoá của bản chất con người vào Thượng đế. Ông lập
luận rằng bản chất tự nhiên của con người là muốn hướng tới cái chân, cái thiện nghĩa
là hướng tới cái gì đẹp nhất trong một hình tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong
thực tế những cái đó con người không đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của
mình vào hình tượng Thượng đế; từ đó ông phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về
một vị Thượng đế siêu nhiên đứng ngoài sáng tạo ra con người, chi phối cuộc sống
con người. Cụ thể hơn, ông đi sâu vào nghiên cứu một cách nghiêm túc đạo Cơ Đốc,

tôn giáo toàn thế giới của phương Tây và được xây dựng trên chủ nghĩa độc thần. Ông
chứng minh rằng “Chúa của đạo Cơ Đốc chỉ là sự phản chiếu hư ảo con người. Song,
bản thân ông Chúa đó lại là sản phẩm của một quá trình trừu tượng hóa lâu dài, là tinh
hoa của nhiều ông thần của các bộ lạc và các dân tộc trước kia. Và do đó, con người
mà Chúa chỉ là một hình ảnh, cũng không phải là con người hiện thực mà là tinh hoa
của một số lớn con người hiện thực, là con người trừu tượng, vậy cũng lại chỉ là một
hình ảnh trong quan niệm”, [6,16].
2.1.3 Nâng tầm quan trọng của con người trong phân tích triết học
GHVD: TS. Bùi Văn Mưa 9 Thực hiện: Lê Thị Cẩm Nhung
Tiểu luận: CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
Quan niệm của Phoiơbắc về con người là một trong những thành tựu của triết
học trước Mác. Chính việc đưa con người làm trung tâm nghiên cứu của triết học đã
làm cho chủ nghĩa duy vật của ông được đồng nhất với chủ nghĩa nhân đạo. Đối với
Phoiơbắc, con người chính là một triết học mới, có sứ mạng mang lại cho con người
cuộc sống thật sự hạnh phúc trên trần gian và ông lấy con người là đối tượng nghiên
cứu của triết học , như vậy, ưu điểm lớn nhất của ông đã quan tâm nhiều đến vấn đề
con người (chủ yếu là mặt tự nhiên – sinh học). Khi tìm hiểu sâu hơn bản chất tự nhiên
- sinh học của con người. "Bản chất chung của con người là gì? Những nhân tính cơ
bản trong con người là gì?. Đó là lý tính, ý chí và trái tim. Con người hoàn thiện có
năng lực tư duy, sức mạnh ý chí và nguồn lực tình cảm. Năng lực tư duy chính là ánh
sáng của nhận thức, sức mạnh của ý chí chính là năng lượng của tính cách, nguồn lực
tình cảm chính là tình yêu Trong ý chí, tư duy và tình cảm luôn chứa đựng bản chất
tối cao, tuyệt đối của con người và mục đích tồn tại của nó con người tồn tại để
nhận thức, yêu thương và mong muốn. Nhưng mục đích của lý tính, của ý chí, của tình
yêu là gì? là để làm cho con người trở thành người tự do", [5,180].
Những tư tưởng nhân bản về con người của Phoiơbắc là một trong những tư
tưởng triết học có giá trị nhất trong triết học cổ điển Đức nói riêng và triết học nói
chung.
2.1.4 Cùng với Hêghen, triết học nhân bản Phoiơbắc là một trong những tiền đề lý
luận của triết học Mác-Lênin

Để xây dựng triết học của mình ngang tầm với trí tuệ nhân loại, Các Mác và
Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại, trong đó nền
tảng là triết học cổ điển Đức với hai đại diện tiêu biểu là Hêghen và Phoiơbắc. Trong
đó những lý luận triết học của Phoiơbắc tuy còn mang nặng quan điểm siêu hình
nhưng nội dung lại thấm nhuần quan điểm duy vật. Hai ông đã kế thừa những luận
điểm đúng đắn của chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc về con người, về việc giải quyết vấn
đề cơ bản và muôn thưở của triết học – mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại; đồng thời
cũng khắc phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó để xây dựng nên
lí luận mới của chủ nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để hai ông xây dựng nên học
thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất một
cách hữu cơ. Như vậy quả không sai khi hai nhà triết học lẫy lừng của nhân loại từng
nhiều lần nói rằng, trong sự phát triển của mình, hai ông chịu ơn nhiều nhà triết học
GHVD: TS. Bùi Văn Mưa 10 Thực hiện: Lê Thị Cẩm Nhung
Tiểu luận: CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
đức. Trong đó, tư tưởng duy vật của Phoi-ơ-bắc có ảnh hưởng to lớn đối với thế giới
quan triết học của Mác và Ăng-ghen lúc bấy giờ và “là khâu trung gian” giữa triết học
của Hêghen và triết học của hai ông.
2.2 Những hạn chế
Mặc dù được xem là một nhà triết học vĩ đại nhưng Phoiơbắc cũng đã không
trách khỏi một số sai lầm trong những luận điểm của mình.
2.2.1 Phủ nhận tính đúng đắn của phép biện chứng, chưa thể vượt ra khuôn khổ
của chủ nghĩa duy vật siêu hình
Một trong những công lao to lớn của Phoiơbắc là phê phán chủ nghĩa duy tâm
của Hêghen nhưng khi đưa ra những lý luận như vậy ông lại mang một thiếu sót lớn -
đó là không biết kế thừa “hạt nhân hợp lý” của triết học Hêghen, tức là kế thừa
phương pháp biện chứng. Như Ăngghen đã đưa ra nhận định: “Phoi-ơ-bắc đã đập tan
hệ thống Hêghen và chỉ đơn giản gạt nó ra một bên thôi. Song chỉ tuyên bố một triết
học nào đó là sai lầm thì chưa có nghĩa là thắng được nó”, [6,20]. Ông cũng đòi hỏi
“phải tiêu diệt hình thức của nó bằng phê bình, nhưng cứu lấy nội dung mới mà nó đã
đạt được”.

Phoiơbắc xuất phát tử những khiếm khuyết của chủ nghĩa duy vật ở những thế
kỷ trước để phủ nhận các giá trị thực sự của nó trong lịch sử, hay nói cách khác, ông
quy hiện tượng nhất thời của một khuynh hướng thế giới về bản chất của nó, tức "thấy
cây mà không thấy rừng". Ông nói nhiều đến vận động, phát triển, song không lý giải
một cách đúng đắn động lực của phát triển. Vẫn còn mang nặng tư tưởng siêu hình ở
chỗ coi vật chất như là một cái gì thuần nhất; thừa nhận vật chất vận động nhưng chưa
lý giải được nguồn gốc, động lực, hình thức của vận động. Trọng tâm phân tích của
Phoiơbắc là làm sáng tỏ tính khách quan của tự nhiên, chứ không phải tính biến đổi,
tính quy luật, tính tất yếu khách quan và tính lịch sử của nó. Với những diều vừa nêu,
có thể thấy rằng Phoiơbắc chưa thể vượt qua khuôn khổ của chủ nghĩa duy vật siêu
hình.
2.2.2 Đề cao vai trò của con người nhưng chỉ là con người trừu tượng, phi lịch sử
Xác định vấn đề con người giữ vị trí trung tâm của triết học, Phoiơbắc trở thành
đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa duy vật nhân bản. Đây là mặt tiến bộ so với các nhà
triết học trước đây. Tuy nhiên, ông đã không thấy được phương diện xã hội của con
GHVD: TS. Bùi Văn Mưa 11 Thực hiện: Lê Thị Cẩm Nhung
Tiểu luận: CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
người. Con người mà ông quan niệm là con người bị tách khỏi điều kiện kinh tế - xã
hội và lịch sử.
Ăngghen đã từng nhận xét trong tác phẩm “L. Phoiơbắc và sự cáo chung của
triết học cổ điển Đức” : “Lấy con người làm xuất phát điểm, song ông hoàn toàn
không nói đến thế giới trong đó con người ấy sống. Vì vậy con người mà ông nói luôn
là con người trừu tương… con người đó không ra đời từ trong bụng mẹ, mà lại sinh ra
từ các ông thần của các tôn giáo độc thần con người đó cũng không sống trong thế
giới hiện thực”. Như vậy, ông hiểu con người một cách trừu tượng, phi lịch sử, không
thấy được con người là sản phẩm của xã hội, của lịch sử và càng không thấy được con
người là chủ thể của hoạt động. Ông “bám chặt lấy giới tự nhiên và con người; song
đới với ông, cả tự nhiên và con người vẫn chỉ là những danh từ ma thôi. Ông không
biết nói với chúng ta một cái gì chính xác về tự nhiên hiện thực, cũng như về con
người hiện thực.” Ông không nhận thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn lên sự

phát triển của con người, rằng chỉ có lao động sản xuất con người mới tạo ra cho mình
các phương tiện sống, hoàn thiện bản năng. Và cũng trong quá trình sản xuất đó, con
người khám phá ra sức mạnh tự nhiên, chuyển nó thành lực lượng lao động xã hội, tạo
nên nội dung của lịch sử thế giới.
2.2.3 Phủ nhận vai trò của thực tiễn và sa vào chủ nghĩa duy tâm
Xét theo điều kiện kinh tế-chính trị-xã hội Đức thời bấy giờ, có thể hiểu vì sao
chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là không biện chứng và về xã hội cũng không thoát
khỏi chủ nghĩa duy tâm cổ truyền. Chủ nghĩa duy tâm của Phoiơbắc hiện diện rõ nhất
trong những lý luận về tôn giáo của ông. Nhà triết học duy vật nhân bản Đức không
muốn xóa bỏ hoàn toàn tôn giáo; ông muốn hoàn thiện tôn giáo. Bản thân triết học
cũng phải hòa vào tôn giáo.
Ông coi mối quan hệ thuần túy giữa người với người là tôn giáo. "Chủ nghĩa
duy tâm thực sự của Phoiơbắc - Ăngghen viết - là ở chỗ ông xét các mối quan hệ giữa
người và người dựa trên cảm tình đối với nhau, như tình yêu nam nữ, tình bạn, lòng
thương xót, tinh thần tự hy sinh Phoiơbắc cho rằng, những quan hệ ấy chỉ có giá trị
đầy đủ, khi người ta đem lại cho chúng một sự tôn phong tối cao bằng cái tên là tôn
giáo”. Trong khái niệm tôn giáo mới đó, ông coi bản tính con người là tình yêu, tôn
giáo cũng là một tình yêu. Do vậy, thay thế cho một tôn giáo sùng một vị Thượng đế
siêu nhiên cần xây dựng một tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con người. Ông
GHVD: TS. Bùi Văn Mưa 12 Thực hiện: Lê Thị Cẩm Nhung
Tiểu luận: CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
cho rằng càn phải biến tình yêu thương của con người thành quan hệ chi phối mọi
quan hệ xã hội khác, thành lý tưởng xã hội.
Từng mạnh mẽ phê phán chủ nghĩa duy tâm, coi nó là tự biện, trừu tượng
nhưng sang địa hạt lịch sử ông xem xét con người, xã hội cũng trừu tượng không kém.
Cho nên, Phoiơbắc là nhà duy vật ở nửa dưới, còn nửa trên ông lại là nhà duy tâm.
GHVD: TS. Bùi Văn Mưa 13 Thực hiện: Lê Thị Cẩm Nhung
Tiểu luận: CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
KẾT LUẬN
Nhìn chung, đóng góp của Phoiơbắc trong tiến trình hoàn thiện của triết học nói

chung và chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng là không gì có thể phủ nhận. Những
tư tưởng triết học duy vật nhân bản của ông là một trong hai trụ cột hình thành chủ
nghĩa duy vật biện chứng có giá trị đến tận ngày nay.
Ông đã can đảm chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo; đồng thời phê phán
cả những tư tưởng của những người theo chủ nghĩa hoài nghi và thuyết không thể biết.
Với ông, triết học mới phải đặt con người lên vị trí trung tâm nghiên cứu. Con người
ấy có đầy đủ tư duy, lý trí và tình cảm; con người ấy là chủ thể của nhận thức và có
thể nhận thức được giới tự nhiên. Bên cạnh đó, con người cũng góp phần hình thành
nên tôn giáo mới – tôn giáo tình yêu. Tình yêu vừa là phương tiện, mục đích sống hòa
hợp giữa các con người trong xã hội; vừa là động lực tiến bộ của xã hội. Ông cũng
vạch được mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Tuy nhiên, đôi chỗ trong lý
luận của mình, Phoiơbắc vẫn thể hiện là một nhà duy tâm chủ nghĩa và vẫn còn mang
tư duy siêu hình trong xem xét các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Điển hình là con
người mà ông xây dựng trong học thuyết của mình là con người phi lịch sử bởi con
người ấy nằm ngoài điều kiện xã hội, không chịu sự tác động của lịc sử.
Tuy vậy, chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc, sau khi loại bỏ những quan
niệm sai lầm, vẫn là một trong những hệ thống triết học ưu việt, cần phải có sự đào sâu
nghiên cứu hơn nữa, có sự ứng dụng vào trong chính thực tiễn cuộc sống để góp phần
thức đẩy sự phát triển của lĩnh vực triết học nói riêng và đời sống xã hội nói chung.
GHVD: TS. Bùi Văn Mưa 14 Thực hiện: Lê Thị Cẩm Nhung

×