Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.46 KB, 18 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI
CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Giảng viên hướng dẫn
TS. BÙI VĂN MƯA
Người thực hiện
STT: 117
Họ tên: NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
Lớp: Cao học đêm 5
Khóa: K21
TP. HCM, tháng 2 năm 2012
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
CHƯƠNG 1: NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY
VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC 2
1.1. Nguyên lý nhân bản của triết học Phoiơbắc: 2
1.2. Quan điểm của Phoiơbắc về con người: 3
1.2.1.Quan niệm về thế giới: 7
1.2.2.Quan niệm về xã hội: 7
1.2.3.Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại: 8
1.3.Quan niệm của Phoiơbắc về tôn giáo: 10
1.4.Quan niệm của Phoiơbắc về nhận thức: 10


CHƯƠNG 2 NHẬN XÉT CHUNG VỀ HỆ THỐNG TRIẾT HỌC
PHOIƠBẮC 12
2.1. Ưu điểm: 12
Phơiơbắc đã khôi phục & phát triển thêm CN duy vật thế kỷ 18 trong hoàn
cảnh CN duy tâm thống trị ở Phương Tây. 12
Ông trình bày sáng rõ nhiều quan điểm duy vật & phê phán triệt để CN duy
tâm & Cơ đốc giáo 12
Ông biết đặt con người vào đúng tâm điểm phân tích triết học. 12
Triết học của ông chất chứa đầy tính DV & nhân bản, nó là một cội nguồn
tư tưởng của Triết học Mác 12
2.2. Hạn chế: 12
KẾT LUẬN 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó
MỞ ĐẦU
Phoiơbắc (1804 - 1872) là một trong những nhà triết học duy vật lớn nhất
thời kỳ trước C.Mác. Công lao vĩ đại của Phoiơbăc là ở chỗ trong cuộc đấu tranh
chống lại chủ nghiã duy tâm và thần học, ông đã khôi phục lại địa vị xứng đáng
của triết học duy vật; đã giáng một đòn rất nặng vào triết học duy tâm của
Hêghen và chủ nghĩa duy tâm nói chung.
Phoiơbắc chứng minh rằng, thế giới vật chất, giới tự nhiên không do ai
sáng tạo ra, nó tồn tại độc lập với ý thức con người và không phụ thuộc vào bất
cứ thứ triết học nào. Do đó cơ sở tồn tại của giới tự nhiên nằm ngay trong giới tự
nhiên. Chống lại hệ thống duy tâm của Hêghen - hệ thống coi giới tự nhiên là sự
tồn tại khác của tinh thần. Phoiơbắc chỉ ra rằng triết học mới này phải có tính
chất nhân bản, phải kết hợp với khoa học tự nhiên. Vấn đề cải cách triết học được
ông bàn đến hầu hết ở các tác phẩm của ông, nổi bật nhất là trong ba tác phẩm kế
tiếp nhau: gồm Bản chất của Cơ đốc giáo (1841), Sơ thảo luận cương về cải cách
triết học (1842), Những nguyên lý cơ bản của triết học về tương lai (1843). Ba
tác phẩm này có sức thu hút lớn đối với Mác thời trẻ bởi tính kiên định, phân

minh về thế giới quan và thiên hướng chính trị dân chủ, nhân văn của chúng.
Để hiểu rõ hơn về nhà triết học Phoiơbắc , tác giả thông qua tác phẩm
“Lút-vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” để làm rõ
hơn vấn đề này.
Nguyễn Thị Hồng Nhung, STT: 117, Lớp: K21 – đêm5 Trang 1
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC
1.1. Nguyên lý nhân bản của triết học Phoiơbắc:
Nguyên lý nhân bản của triết học Phoiơbắc là xoá bỏ sự tách rời giữa tinh
thần và thể xác do triết học duy tâm và triết học nhị nguyên tao ra. Mặt tích cực
trong triết học nhân bản của Phoiơbắc còn ở chỗ ông đấu tranh chống các quan
niệm tôn giáo chính thống của đạo thiên chúa, đặc biệt là quan niệm về Thượng
đế. Trái với các quan niệm tôn giáo và thần học cho rằng Thượng đế tạo ra con
người, ông khẳng định chính con người tạo ra Thượng đế. Khác với Hêghen nói về
sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối. Phoiơbắc nói về sự tha hoá của bản chất con
người vào Thượng đế. Ông lập luận rằng bản chất tự nhiên của con người là muốn
hướng tới cái chân, cái thiện nghĩa là hướng tới cái gì đẹp nhất trong một hình
tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế những cái đó con người không
đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình tượng Thượng đế; Từ
đó, ông phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị Thượng đế siêu nhiên
đứng ngoài sáng tạo ra con người, chi phối cuộc sống con người.
Tuy nhiên, triết học nhân bản của Phoiơbắc cũng bộc lộ những hạn chế.
Khi ông đòi hỏi triết học mới - triết học nhân bản - phải gắn liền với tự nhiên thì
đồng thời đã đứng luôn trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi
hiện tượng thuộc về con người và xã hội. Con người trong quan niệm của
Phoiơbắc là con người trừu tượng, phi xã hội, mang những đặc tính sinh học bẩm
sinh. Triết học nhân bản của ông chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa duy tâm.
Ông nói rằng bản tính con người là tình yêu, tôn giáo cũng là một tình yêu. Do

vậy, thay thế cho một tôn giáo sùng một vị Thượng đế siêu nhiên cần xây dựng
một tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con người. Ông cho rằng cần phải
biến tình yêu thương của con người thành quan hệ chi phối mọi quan hệ xã hội
khác, thành lý tưởng xã hội. Trong điều kiện của xã hội tư sản Đức thời đó, với
sự phân chia giai cấp thì chủ nghĩa nhân đạo về tình yêu thương con người trở
thành chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng, duy tâm.
Nguyễn Thị Hồng Nhung, STT: 117, Lớp: K21 – đêm5 Trang 2
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó
Công lao to lớn của Phoiơbắc còn ở chỗ ông không chỉ đấu tranh chống
chủ nghĩa duy tâm mà còn đấu tranh chống lại những người duy vật tầm thường.
Ông đã có quan niệm đúng đắn là không thể quy các hiện tượng tâm lý về các
quá trình lý – hoá; công nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới.
Ông đã kịch liệt phê phán những người theo chủ nghĩa hoài nghi và thuyết không
thể biết. Trong sự phát triển lý luận nhận thức duy vât, Phoiơbắc đã biết dựa vào
thực tiễn là tổng hợp những yêu cầu về tinh thần, về sinh lý mà chưa nhận thức
được nội dung cơ bản của thực tiễn là hoạt động vật chất của con người, là lao
động sản xuất vật chất, đấu tranh giai cấp và hoạt động thực tiễn của nó là cơ sở
của nhận thức cảm tính và lý tính.
Như vậy, Phoiơbắc đã có những đóng góp xuất sắc vào lịch sử đấu tranh
của chủ nghĩa duy vật chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Ông đã vạch ra
mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, chỉ ra sự cần thiết phải đấu trnah
loại bỏ tôn giáo hữu thần, coi đó là sự tha hoá bản chất của con người. Ông đã có
công khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII, XVIII.
Tuy nhiên trong lúc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của triết học
Hêghen, Phoiơbắc lại vứt bỏ luôn phép biện chứng của Hêghen. Cũng như các
nhà triết học giai đoạn trước Mác, Phoiơbăc rơi vào duy tâm khi giải quyết các
vấn đề xã hội.
Mặc dù, triết học của Phoiơbắc có những hạn chế, nhưng cuộc đấu tranh của
ông chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung đã có ý nghĩa lịch sử to lớn.
Vì vậy, triết học của Phoiơbắc trở thành một trong những nguồn gốc lý luận của chủ

nghĩa Mác.
1.2. Quan điểm của Phoiơbắc về con người:
Phoiơbắc phê phán Hêghen đã quan niệm con người một cách trừu tượng
và thần bí coi đó như một lực lượng siêu tự nhiên; đây là một quan niệm sai. Do
vậy, theo ông phải xây dựng một quan niệm mới về con người.
Phoiơbắc quan niệm con người như một thực thể sinh vật có cảm giác,
biết tư duy, có ham muốn, có ước mơ, có tình yêu thương; lòng yêu thương vốn
là bản chất của con người. Trong con người có sự thống nhất giữa cơ thể với tư
duy. Con người không phải là nô lệ của thượng đế hay tinh thần tuyệt đối mà là
sản phẩm của tự nhiên, là kết quả phát triển của tự nhiên.
Nguyễn Thị Hồng Nhung, STT: 117, Lớp: K21 – đêm5 Trang 3
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó
Thế nhưng trong xã hội con người bị kìm hãm trói buộc bởi giáo lý tôn
giáo và bởi các quy định của xã hội. Cho nên, cần phải giải phóng con người
khỏi sự ràng buộc đó; nhằm đem lại cho con người một quan niệm mới về chính
mình, tạo điều kiện để con người trở nên hạnh phúc. Theo ông, đây cũng là
nhiệm vụ của các nhà triết học.
Xác định vấn đề con người giữ vị trí trung tâm của triết học Phoiơbắc trở
thành đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa duy vật nhân bản. Đây là mặt tiến bộ so
với các nhà trước học trước ông. Tuy nhiên ông đã không thấy được phương diện
xã hội của con người. Con người mà ông quan niệm là con người bị tách khỏi
điều kiện kinh tế - xã hội và lịch sử. Do vậy, về lĩnh vực này ông chưa thoát khỏi
ảnh hưởng của quan điểm duy tâm.
Trong Những trích đoạn đặc trưng cho tiểu sử triết học của tôi,
L.Phoiơbắc tuyên bố rằng, “Phương pháp của tôi nằm ở chỗ (…) đưa tất cả
những cái siêu tự nhiên về với tự nhiên nhờ có con người và đưa tất cả những cái
siêu nhân về với con người nhờ có tự nhiên, nhưng thường xuyên chỉ dựa vào
những sự kiện lịch sử, kinh nghiệm, trực quan. Trecnưsepxki cũng đã từng trình
bày phương pháp duy vật nhất nguyên của mình một cách tương tự như vậy khi
cho rằng, nguyên tắc nhân bản chính là việc nhìn nhận con người như một thực

thể thống nhất, chỉ có một bản tính chứ không phải phân chia cuộc sống con
người thành hai nửa thuộc về những bản tính khác nhau. Theo sự giải thích của
L.Phoiơbắc, con người là một sinh vật có hình thể, vật chất, ở trong không gian
và thời gian và chỉ như vậy, nó mới có năng lực quan sát và suy nghĩ. Chủ nghĩa
duy tâm đem tách cái sinh vật nguyên vẹn ấy ra làm đôi, tạo nên sự xung đột
giữa linh hồn với thể xác hoặc đem đồng nhất bản chất con người với tư duy, với
ý thức. Triết học nhân bản khẳng định bản chất con người là một cái gì thống
nhất. Vậy, theo L.Phoiơbắc, bản chất con người là gì?
Trong chương mở đầu cuốn Bản chất đạo Thiên Chúa giáo – tác phẩm chủ
yếu của L.Phoiơbắc, ông đã bàn về bản chất chung của con người. Trước những
câu hỏi: bản chất con người là gì? Đâu là những dấu hiệu người thực sự trong
mỗi con người? L.Phoiơbắc đã trả lời rằng, đó chính là lý trí, ý chí và trái tim.
Nguyễn Thị Hồng Nhung, STT: 117, Lớp: K21 – đêm5 Trang 4
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó
Ông khẳng định: “Con người hoàn thiện có sức mạnh của tư duy, sức mạnh của ý
chí và sức mạnh của tình cảm. Sức mạnh của tư duy là ánh sáng của sự nhận
thức, sức mạnh của ý chí – năng lực của tính cách, sức mạnh của tình cảm – tình
yêu. Lý trí, tình yêu và sức mạnh của ý chí - đó là những hoàn thiện. Bản chất
tuyệt đối và cao quý của con người như nó vốn có và là mục đích cho sự tồn tại
của nó nằm ở trong ý chí, tư duy và cảm xúc. Con người tồn tại để nhận thức,
yêu thương và ham muốn. Nhưng mục đích của lý trí là như thế nào? – Lý trí.
Của tình yêu? – Tình yêu. Của ý chí? – Tự do ý chí. Chúng ta nhận thức để nhận
thức, yêu thương để yêu thương, mong muốn để ham muốn, nghĩa là tự do. Thực
thể chân chính là thực thể biết tư duy, biết yêu thương và biết hy vọng nhờ ý chí.
Cái hoàn thiện thực sự, thần thánh thực sự chỉ là cái tồn tại vì chính bản thân
mình. Tình yêu, lý trí và ý chí là những cái như thế. “Ba ngôi” thần thánh được
biểu hiện trong con người và thậm chí ở trên những con người cá nhân trong sự
thống nhất của lý trí, tình yêu và ý chí”.
Thực ra, mong muốn xem xét và nhìn nhận những nét đặc trưng cơ bản
của con người hay các năng lực chủ yếu của nó trong sự thống nhất và hài hòa

cũng không phải là vấn đề mới trong lịch sử triết học và văn hoá. Các nhà triết
học thời đại Phục hưng đã có ý định xây dựng một học thuyết nhất nguyên về
con người và cho rằng, các giá trị Chân, Thiện, Mỹ trong hoạt động của con
người không tách rời nhau và về thực chất, chúng chỉ là một. Tuy nhiên, ngay
sau đó, các nhà triết học tư sản đã xa rời lý tưởng Phục hưng về con người. Trong
các học thuyết của họ, con người được hình dung và xem xét chỉ ở những nét đặc
trưng riêng biệt này hay nét đặc trưng riêng biệt khác. Không phải ngẫu nhiên mà
từ hướng tiếp cận đó đã xuất hiện một loạt các chủ nghĩa khác nhau, như chủ
nghĩa duy cảm, chủ nghĩa duy lý, ý chí luận, chủ nghĩa khoái lạc, chủ nghĩa phi

Vượt ra khỏi sự hạn chế của tư duy siêu hình, mong muốn dung hoà chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy cảm và chủ nghĩa duy lý
trong một học thuyết, I.Cantơ đã xây dựng một hệ thống triết học độc đáo. Con
người cùng với những năng lực của nó, hay nói rộng hơn là cùng với trường văn
Nguyễn Thị Hồng Nhung, STT: 117, Lớp: K21 – đêm5 Trang 5
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó
hoá của nó, trở thành đối tượng suy ngẫm của I.Cantơ. Trong triết học tiên
nghiệm của ông, ba năng lực cơ bản của con người có sự liên kết hữu cơ với
nhau. Bộ ba tác phẩm phê phán của ông chính là sự phản tư văn hoá của nhân
loại theo ba véctơ định hướng Chân, Thiện, Mỹ. Chính vì thế mà hiện nay, không
ít nhà triết học đã cho rằng, I.Cantơ là người đầu tiên đặt nền móng cho triết học
văn hoá.
L.Phoiơbắc không chỉ muốn học hỏi cách tiếp cận độc đáo của I.Cantơ,
mà còn muốn phát triển đường hướng đó. Quan điểm của L.Phoiơbắc về con
người là một trong những thành tựu của triết học trước Mác. Nhận xét về công
lao của L.Phoiơbắc trong việc nghiên cứu vấn đề con người, C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng, L.Phoiơbắc đã làm cho chủ nghĩa duy vật được đồng nhất
với chủ nghĩa nhân đạo. Nhà triết học duy vật Đức vĩ đại này đã xây dựng quan
điểm về con người trong trường văn hoá trên cơ sở suy ngẫm và phê phán các di
sản tư tưởng trước đó. Hơn ai hết, ông hiểu rõ tính phiến diện, tính hạn chế của

hàng loạt các chủ nghĩa khác nhau, như chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa duy
cảm, chủ nghĩa duy lý. Những công trình về lịch sử triết học được ông viết từ
năm 1833 tới năm 1838 đã minh chứng điều đó. L.Phoiơbắc đã phê phán triết
học phi lý của Sôphenhaoơ - người đã tuyên bố rằng ý chí “là khởi nguyên tuyệt
đối của mọi tồn tại”.
Trong việc xác định và làm sáng tỏ mối quan hệ tương hỗ giữa các năng
lực bản chất của con người, L.Phoiơbắc đã sử dụng phép biện chứng với tư cách
là công cụ nhận thức và khám phá bản chất của hiện tượng. Đối với L.Phoiơbắc,
ý chí, tư duy và cảm xúc không chỉ là những năng lực cơ bản của con người, mà
còn là những sức mạnh bị chế định bởi chính bản chất của con người, là mục tiêu
và phương tiện tồn tại của con người: “Chúng là những thành tố cơ bản luận
chứng cho bản chất của con người Đó là những sức mạnh sống động, quyết
định và thống trị, đó là những sức mạnh thần thánh, tuyệt đối mà con người
không thể nào phản kháng được”. Việc nhìn nhận bản chất con người trong sự
thống nhất biện chứng của ý chí, tư duy và cảm xúc đã cho phép L.Phoiơbắc đi
sâu nghiên cứu, phân tích chi tiết từng năng lực người riêng biệt với tư cách là
Nguyễn Thị Hồng Nhung, STT: 117, Lớp: K21 – đêm5 Trang 6
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó
những thành tố cơ bản của văn hoá qua lý luận nhận thức, đạo đức học và mỹ học
của ông.
1.2.1.Quan niệm về thế giới:
Xuất phát từ luận điểm: "Quan hệ thực sự của tư duy với tồn tại là: tồn tại,
chủ thể; tư duy, thuộc tính" Phoiơbắc bảo vệ và chứng minh những nguyên lý
duy vật của mình. Ông quan niệm, vật chất có trước, ý thức có sau, tự nhiên tự nó
tồn tại và người ta chỉ có thể giải thích tự nhiên xuất phát từ bản thân nó. Ý thức
không tự nó tồn tại được vì nó chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất.
Nếu như Cantơ quan niệm không gian và thời gian là hình thức "tiên
nhiên" thì Phoiơbắc quan niệm, không gian và thời gian tồn tại khách quan,
không có vật chất tồn tại vận động bên ngoài không gian và thời gian. Ông thừa
nhận sự tồn tại khách quan của các quy luật tự nhiên, của quan hệ nhân quả; thừa

nhận sự vận động và phát triển của giới tự nhiên diễn ra một cách khách quan, từ
đó dẫn tới sự xuất hiện của đời sống hữu cơ, con người.
Ở đây, Phoiơbắc chưa khắc phục được hạn chế của duy vật siêu hình, coi
vật chất như là một cái gì thuần nhất. Tuy thừa nhận vật chất vận động nhưng
chưa lý giải được nguồn gốc, động lực, hình thức của vận động.
1.2.2.Quan niệm về xã hội:
Trong quan niệm về tự nhiên, Phoiơbắc là nhà duy vật; còn trong quan
niệm về xã hội ông lại thể hiện quan điểm duy tâm. Ông khẳng định những thời
kỳ lịch sử loài người sở dĩ khác nhau chỉ do những thay đổi các hình thức tôn
giáo; thay thế tôn giáo cũ bằng tôn giáo mới sẽ làm cho xã hội tiến lên. Ở đây,
Phoiơbắc chưa thấy được vai trò của thực tiễn xã hội quyết định sự vận động
phát triển của xã hội loài người.
Khi bàn đến tôn giáo, Phoiơbắc cho rằng, tôn giáo là sản phẩm tất yếu của
tâm lý cá nhân và của sự tưởng tượng của con người. Tôn giáo thể hiện sự mềm
yếu, bất lực của con người trước sức mạnh tự nhiên và điều kiện của xã hội.
Chính con người đã bày đặt ra thần thánh bằng cách trìu tượng hóa bản chất con
người. Do vậy, cần thay thế tôn giáo cũ bằng thứ tôn giáo mới không cần có thần
thánh, chúa trời mà lấy tình yêu giữa người với người làm nền tảng.
Nguyễn Thị Hồng Nhung, STT: 117, Lớp: K21 – đêm5 Trang 7
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó
Những quan điểm trên đây của Phoiơbắc về cơ bản vạch ra được nguồn
gốc tâm lý con người đối với tôn giáo. Tuy nhiên, ông chưa chỉ rõ nguồn gốc
thực sự của tôn giáo, chưa đề cập đến những cơ sở kinh tế - xã hội của vấn đề.
Mặc dù còn những hạn chế siêu hình trong quan điểm về tự nhiên duy tâm
trong quan điểm về xã hội, chưa có quan điểm duy vật triệt để về con người
nhưng Phoiơbắc đã có công lao trong việc khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy
vật chống lại quan điểm duy tâm và tôn giáo. Vì thế, quan điểm duy vật của
Phoiơbắc cùng với tư tưởng biện chứng của Cantơ và phép biện chứng của
Hêghen trở thành tiền đề lý luận hình thành triết học Mác – Lênin.
1.2.3.Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại:

Phoiơbắc cho rằng, con người là một sinh vật có hình thể vật lý – sinh lý ở
trong không gian và thời gian. Nhờ vậy, nó có năng lực quan sát và suy nghĩ
vượt trội các loài sinh vật khác. Bản chất con người là một cái gì đó thống nhất
toàn vẹn giữa hai phương diện thể xác (tồn tại) và tinh thần (tư duy). Sự thống
nhất toàn vẹn này đảm bảo cho con người có thể tồn tại và phát triển như một
sinh vật cao nhất, hoàn thiện nhất trong mọi sinh vật hiện có. Sai lầm của chủ
nghĩa duy tâm là sự toan tính thủ tiêu sự thống nhất toàn vẹn đó của con người,
tách tư duy con người khỏi tồn tại của nó, biến tư duy con người thành một thực
thể siêu tự nhiên có khả năng sáng tạo nên thế giới vật chất. Sai lầm của chủ
nghĩa nhị nguyên là đánh đồng tư duy và tồn tại, coi chúng như những thực thể
tồn tại độc lập bên cạnh nhau, đó là một sự khẳng định vòng vo, nửa vời, trái
ngược.
Phê phán những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa
nhị nguyên trong việc tách đôi thể xác và tinh thần, tồn tại và tư duy, Phoiơbắc
đã thừa nhận một cách dứt khoát rằng quan hệ thực sự của tồn tại đối với tư duy
là tồn tại – chủ thể, tư duy – thuộc tính. Tư duy xuất phát từ tồn tại, chứ không
phải tồn tại xuất phát từ tư duy. Cơ sở của tồn tại nằm ngay trong tồn tại chính là
cảm tính, là nguyên lý trí tuệ, là sự tất yếu và chân lý. Bản chất của tồn tại với tư
cách một tồn tại chính là bản chất của giới tự nhiên. Tại sao tồn tại là chủ thể,
còn tư duy là thuộc tính (của chính chủ thể đó)? Để trả lời câu hỏi này, theo
Nguyễn Thị Hồng Nhung, STT: 117, Lớp: K21 – đêm5 Trang 8
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó
Phoiơbắc, chúng ta cần đến từ đâu, bộ óc từ đâu đến, cơ quan cơ thể từ đâu đến,
thì tinh thần cũng đến từ đấy, ngay cả hoạt động tinh thần cũng là việc làm của
cơ thể, của đầu óc con người, hoạt động đó khác với các hoạt động khác ở chỗ,
nó là hoạt động của đầu óc.
Phoiơbắc cho rằng mỗi con người cụ thể bằng xương bằng thịt đang sống
và hoạt động là những bằng chứng sinh động về sự thống nhất giữa thể xác và
tinh thần, giữa phương diện vật lý và phương diện tâm lý. Sự thống nhất này
phản ánh sự thống nhất giữa cấu trúc và chức năng, giữa giải phẫu học và sinh lý

học.
Sau khi công nhận một cách dứt khoát rằng, tồn tại của chủ thể, tư duy là
thuộc tính, ý thức là sản phẩm của bộ óc con người, Phoiơbắc đi đến việc tìm
hiểu sâu hơn bản chất tự nhiên-sinh học của con người. “Bản chất chung của con
người là gì? Những nhân tính cơ bản trong con người là gì? Đó là lý tính, ý chí
và trái tim. Con người hoàn thiện có năng lực tư duy, sức mạnh ý chí và nguồn
lực tình cảm. Năng lực tư duy chính là ánh sáng của nhận thức, sức mạnh của ý
chí chính là năng lượng của tính cách, nguồn lực tình cảm chính là tình yêu…
Trong ý chí, tư duy và tình cảm luôn chứa đựng bản chất tối cao, tuyệt đối của
con người là mục đích tồn tại của nó… con người tồn tại để nhận thức, yêu
thương và mong muốn.Nhưng mục đích của lý tính, của ý chí, của tình yêu là gì?
Là để làm cho con người trở thành người tự do. Qua những lời lẽ đó, nhà triết
học cổ điển Đức muốn chứng minh rằng, bản chất chung của con người là tổng
hoà mọi khát vọng chính trị, mọi năng lực nhận thức và nhu cầu tự nhiên-sinh
học đã trầm tích trong quá trình phát triển lịch sử lâu dài của nó.
Tuy nhiên, L.Phoiơbắc cũng không tránh khỏi một số hạn chế nhất định
sau khi phê phán và loại bỏ quan điểm duy tâm trong việc lý giải văn hoá và con
người cũng như việc thực thể hoá lý trí của Hêghen, L.Phoiơbắc lại đi thực thể
hoá cảm xúc trong triết học văn hoá của ông. Những hạn chế ấy của L.Phoiơbắc
sau này được C.Mác, Ph.Ăngghen khắc phục và vượt qua.
Nguyễn Thị Hồng Nhung, STT: 117, Lớp: K21 – đêm5 Trang 9
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó
1.3.Quan niệm của Phoiơbắc về tôn giáo:
Phoiơbắc cho rằng người ta vẫn cần 1 thứ tôn giáo khác thay thế: “tôn
giáo tình yêu” để xóa bỏ áp bức, bất công trong xã hội, không muốn xóa bỏ tôn
giáo, muốn hoàn thiện tôn giáo. Và ông cũng cho rằng tôn giáo là sản phẩm tất
yếu của tâm lý cá nhân và của sự tưởng tượng của con người.
Ông đã chống lại quan niệm tôn giáo chính thống của đạo Thiên chúa; ông
cho rằng chính con người tạo ra Thượng đế, phủ nhận Thượng đế sáng tạo ra con
người, chi phối cuộc sống con người. Và cho rằng tôn giáo hữu thần là sự tha hóa

bản chất của con người, là mối quan hệ yêu thương giữa người với người.
Tuy nhiên, ông chưa chỉ ra được bản chất thật sự của tôn giáo, chưa thoát
khỏi quan điểm duy tâm khi chỉ phê phán tôn giáo hiện thời chứ không phê phán
tôn giáo nói chung, chưa thấy được vai trò của thực tiễn xã hội quyết định sự vận
động phát triển của xã hội loài người.
Quan niệm về đạo đức của ông cũng khác với Hêghen: Hêghen cho rằng
đạo đức gồm: gia đình, xã hội công dân và Nhà nước. Còn Phoiơbắc chỉ quan
tâm con người.
Tinh thần, theo Phoiơbắc, chỉ thể hiện mình ở nơi có sự vận động, ưu tư,
hưng phấn, lòng nhiệt thành và xúc cảm. Nơi đó là tồn tại chân chính, con người,
với “các tố chất người", hợp nên “bản chất cộng đồng" mà thiếu nó, đời sống của
mỗi cá nhân sẽ trở nên vô nghĩa.
Phoiơbắc đưa bản chất tôn giáo về bản chất con người, loại Thượng đế ra
khỏi đối tượng nghiên cứu của triết học, đưa hình ảnh đó về đúng vị trí của nó -
thần học. C.Mác nhận ra sự "nổi loạn" này ngay trong thời kỳ đang còn chịu ảnh
hưởng của triết học Hêgen. Sự nhận thức lại cung đồng thời là sự cải cách, là
"suối lửa”, mở ra con đường cho triết học thực tiễn đúng nghĩa, triết học cải tạo
thế giới, gắn với tên tuổi của C.Mác và Ph.Ăngghen.
1.4.Quan niệm của Phoiơbắc về nhận thức:
Phoiơbắc phê phán hệ thống duy tâm khách quan của Hêghen ở chỗ, coi
đối tượng tư duy không có gì khác với bản chất của tư duy. Từ đó ông khẳng
Nguyễn Thị Hồng Nhung, STT: 117, Lớp: K21 – đêm5 Trang
10
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó
định, đối tượng nhận thức nói chung và của triết học nói riêng là giới tự nhiên và
con người. Ông kêu gọi: Hãy quan sát giới tự nhiên đi, hãy quan sát con người
đi! Bạn sẽ thấy ở đấy, trước mắt bạn, những bí mật của triết học. Phoiơbắc cho
rằng, chủ thể nhận thức không phải trừu tượng mà là con người cụ thể, con người
có khả năng nhận thức được giới tự nhiên, một người thì không thể nhận thức
được hoàn toàn thế giới tự nhiên, nhưng toàn bộ loài người thông qua các thế hệ

thì có thể nhận thức được. Con người nhận thức được thế giới trước hết thông
qua cảm giác; "Bí quyết của sự hiểu biết trực tiếp tập trung trong tính cảm giác".
Phoiơbắc cũng đã xác định được mối quan hệ giữa hình thức nhận thức
cảm tính với lý tính, nhưng khi tiến lên giai đoạn tư duy lý tính thì ông không rút
ra được kết luận rõ ràng.
Như vậy, Phoiơbắc đã xây dựng quan điểm duy vật về nhận thức; đã
khẳng định, con người có khả năng nhận thức. Nhưng trong lý luận nhận thức đã
bộc lộ hạn chế ở chỗ, chưa hiểu được quá trình phát triển biện chứng của nhận
thức, vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức. Cho nên, quan điểm nhận
thức của Phoiơbắc vẫn nằm trong khuôn khổ của những phương pháp suy nghĩ
siêu hình.
Nguyễn Thị Hồng Nhung, STT: 117, Lớp: K21 – đêm5 Trang
11
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó
CHƯƠNG 2 NHẬN XÉT CHUNG VỀ HỆ THỐNG
TRIẾT HỌC PHOIƠBẮC
2.1. Ưu điểm:
Phơiơbắc đã khôi phục & phát triển thêm CN duy vật thế kỷ 18 trong
hoàn cảnh CN duy tâm thống trị ở Phương Tây.
Ông trình bày sáng rõ nhiều quan điểm duy vật & phê phán triệt để CN
duy tâm & Cơ đốc giáo.
Ông biết đặt con người vào đúng tâm điểm phân tích triết học.
Triết học của ông chất chứa đầy tính DV & nhân bản, nó là một cội nguồn
tư tưởng của Triết học Mác.
2.2. Hạn chế:
Do điều kiện lịch sử mà chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc còn mang
tính máy móc, siêu hình, duy tâm về xã hội.
Phoiơbắc đã quan niệm một cách máy móc, siêu hình về thế giới. Khi
phê phán triết học Hêghen, Phoiơbắc đã phủ nhận luôn cả phương pháp biện
chứng, thành tựu vĩ đại nhất của Hêghen. Phoiơbắc đã tầm thường hoá phương

pháp biện chứng thành mối quan hệ giao tiếp thông thường giữa người với
người trong xã hội.
Lý luận nhận thức của Phoiơbắc là “tĩnh quan”. Ông không hiểu được
vai trò thực tiễn đối với nhận thức, coi thực tiễn như một “con buôn bẩn thỉu”.
Phoiơbắc là nhà triết học duy tâm về xã hội: Khi ông nghiên cứu về xã
hội thì ông không còn là duy vật, khi ông là nhà duy vật ông không nghiên cứu
lịch sử, luôn đứng trên lập trường duy tâm để xem xét mọi hiện tượng thuộc về
con người và xã hội.
Triết học nhân bản của Phoiơbắc thể hiện rõ lập trường duy tâm.
Phoiơbắc không thấy bản chất xã hội của con người. Con người trong triết học
nhân bản là con người trừu tượng, phi lịch sử, mang những thuộc tính sinh học,
bẩm sinh, không gắn với hoạt động thực tiễn. Ông cho rằng tình yêu là yếu tố
quyết định con người. Phoiơbắc đã đề cập tới vấn đề thực tiễn trong lý luận nhận
Nguyễn Thị Hồng Nhung, STT: 117, Lớp: K21 – đêm5 Trang
12
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó
thức duy vật, tuy nhiên ông mới hiểu thực tiễn là tổng hợp những yêu cầu của
con người về tinh thần, về sinh lý.
Phoiơbắc cho rằng các thời đại khác nhau là do sự khác nhau về tôn
giáo, cho nên, muốn thay đổi xã hội cũ bằng xã hội mới tốt đẹp chỉ cần thay
đổi tôn giáo cũ bằng một tôn giáo mới - thay thế thứ tôn giáo sùng bái Thượng
đế để xây dựng một tôn giáo mới - tôn giáo tình yêu.
Cách tiếp cận giá trị luận về con người là cần thiết, nhưng chưa đủ cơ sở
đề giải thích bản chất thực sự của con người. Chính vì thế mà trong thời kỳ xác
lập những tư tưởng nền tảng của triết học mới, C.Mác đã nêu ra hai phạm trù lớn
trong một tuyên ngôn triết học của mình - phạm trù thực tiễn và phạm trù bản
chất con người. Thống nhất hai phạm trù đó sẽ hiểu được điểm xuất phát và mục
đích cuối cùng của triết học Mác. Cái cần có trong triết học mang tính cải cách
của Phoiơbắc chỉ dừng lại ở những nét phác thảo đơn giản, sơ lược và đầy mâu
thuẫn. Đóng góp lớn nhất của Phoiơbắc chính là ở chỗ, ông đã vượt qua một thói

quen tư duy để hình thành cách suy nghĩ mới, cả trong quan niệm về tự nhiên, về
l. luận nhận thức lẫn trong cách hiểu về con người. "Triết học hiện đại từ bỏ tư
tưởng kinh viện " tuyên bố đó của Phoiơbắc trong Những nguyên nhân cơ bản
của triết học về tương lai tự nó đã thể hiện thiên hướng cải cách tích cực của ông.
Triết học cần từ bỏ tính sách vở, những biện luận thuần tu. của tư duy để đến với
cuộc sống, được vật chất hoá trong hoạt động thực tiễn của con người. Cái cần có
trong dự án cải cách triết học của Phoiơbắc - sự kết hợp giữa chủ nghĩa duy vật
và thuyết nhân bản đã được hiệu chỉnh, hoàn thiện, phát triển lên trình độ cao,
trình độ của chủ nghĩa duy vật
biện chứng triệt để và khoa học.
Nguyễn Thị Hồng Nhung, STT: 117, Lớp: K21 – đêm5 Trang
13
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó
KẾT LUẬN
Tóm lại, tiến trình của Phoi-ơ-bắc là tiến trình của một môn đồ của Hê-
ghen - đành rằng, chẳng bao giờ là một môn đồ hoàn toàn chính thống- hướng tới
chủ nghĩa duy vật. Tiến trình đó, đến một giai đoạn nhất định, nhất thiết phải dẫn
tới sự đoạn tuyệt hoàn toàn với hệ thống duy tâm chủ nghĩa của vị tiền bối của
ông. Cuối cùng, với một sức mạnh không gì cưỡng lại được, Phoi-ơ-bắc buộc
phải đi đến chỗ thừa nhận rằng cái mà Hê-ghen đã nói tới: sự tồn tại của “ý niệm
tuyệt đối” trước khi có thế giới, sự “tồn tại từ trước của những phạm trù lô-gích”
trước khi có thế giới, không phải là cái gì khác, mà chỉ là tàn dư hư ảo của lòng
tin vào một đấng sáng tạo siêu phàm; rằng thế giới vật chất, cảm thấy được bằng
giác quan, thế giới mà bản thân chúng ta cũng thuộc vào đấy, là hiện thực duy
nhất; rằng ý thức, cũng như tư duy của chúng ta, dù có vẻ siêu cảm giác như thế
nào đi chăng nữa, cũng chỉ là sản vật của một khí quan vật chất, nhục thể, tức là
bộ óc. Vật chất không phải là sản phẩm của tinh thần, mà chỉ có bản thân tinh
thần mới là sản phẩm tối cao của vật chất. Đó dĩ nhiên là chủ nghĩa duy vật thuần
túy. Nhưng đạt tới điểm đó rồi thì đột nhiên Phoi-ơ-bắc dừng lại. Ông không thể
khắc phục được thành kiến triết học thông thường, tức là thành kiến không phải

đối với thực chất của vấn đề, mà đối với từ “chủ nghĩ duy vật”.
Như vậy, Phoiơbắc đã có những đóng góp xuất sắc vào lịch sử đấu tranh
của chủ nghĩa duy vật chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Ông đã vạch ra
mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, chỉ ra sự cần thiết phải đấu trnah
loại bỏ tôn giáo hữu thần, coi đó là sự tha hoá bản chất của con người. Ông đã có
công khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII, XVIII.
Tuy nhiên trong lúc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của triết học
Hêghen, Phoiơbắc lại vứt bỏ luôn phép biện chứng của Hêghen. Cũng như các
nhà triết học giai đoạn trước Mác, Phoiơbăc rơi vào duy tâm khi giải quyết các
vấn đề xã hội.
Nguyễn Thị Hồng Nhung, STT: 117, Lớp: K21 – đêm5 Trang
14
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó
Mặc dù triết học của Phoiơbắc có những hạn chế, nhưng cuộc đấu tranh của
ông chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung đã có ý nghĩa lịch sử to lớn.
Vì vậy, triết học của Phoiơbắc trở thành một trong những nguồn gốc lý luận của chủ
nghĩa Mác.
Nguyễn Thị Hồng Nhung, STT: 117, Lớp: K21 – đêm5 Trang
15
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế của nó
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. TS Bùi Văn Mưa, Triết học (phần I) “Đại cương về lịch sử Triết học” -
Dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không thuộc chuyên ngành
Triết học – trang 209, xuất bản năm 2011.
[2]. Ph.Ăngghen, Lút vích phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức,
1888.
[3]. Hệ tư tưởng Đức – Nhà xuất bản sự thật - năm 1977.
a.TS Nguyễn Huy Hòang, Quan điểm của L.PHOIƠBẮC về văn hóa và con
người, Tap chí Triết học số 5 (180) năm 2006
/>vientriet=articles_deltails&id=543&cat=48&pcat=

b. Phó giáo sư – TS Đặng Hữu Tòan, “hệ tư tưởng Đức” – tác phẩm đánh
dấu sự ra đời một thế giới quan mới, một quan niệm duy vật về lịch sử, Tạp
chí Triết học số 1 (176) năm 2006 />vientriet=articles_deltails&id=766&cat=48&pcat=
c.TS Lê Công Sự, Đánh giá của C.Mác và ph.Ăngghen về vấn đề con người
trong triết học L.Phoiơbắc qua “hệ tư tưởng Đức”, Tạp chí Triết học số 11
(186) năm 2006 />vientriet=articles_deltails&id=364&cat=48&pcat=
[4]. C.Mác, Luận cương về Phoiơbắc, 1845.
[5]. Lút-vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức.
[6]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Triết học (tập 1, 2, 3) - Dùng cho Nghiên cứu sinh
và Học viên cao học không thuộc chuyên ngành Triết học. NXB Chính trị
Quốc gia – năm 2001.
[7]. Phoi-ơ-bắc sự đối lập giữa quan điểm duy vật chủ nghĩa và quan điểm duy
tâm chủ nghĩa-Nhà xuất bản sự thật- năm 1977.
Nguyễn Thị Hồng Nhung, STT: 117, Lớp: K21 – đêm5 Trang
16

×