Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.74 KB, 15 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN PHOIƠBẮC VÀ
NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Tp. HCM, năm 2012
Giáo viên hướng dẫn: TS. Bùi Văn Mưa
Người thực hiện: Đỗ Trọng Tấn Phát
STT: 120
Lớp: Cao học QTKD – Đêm 5
Khóa: K21
MỤC LỤC
PHẦN
Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng Tây
Âu và thế giới vào cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh cao của thời kỳ
triết học cổ điển phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn đến triết học hiện đại và
trở thành nguồn gốc chủ nghĩa Mác. Một trong những nhà duy vật nổi tiếng của triết
học cổ điển Đức, bậc tiền bối của triết học Mác, đó là Phoiơbắc – đại biểu cuối cùng
của một trào lưu triết học đặc sắc, người đã viết chương cuối cùng hùng tráng trên cơ
sở của chủ nghĩa duy vật và vô thần để kết thúc bản giao hưởng triết học cổ điển Đức.
1
Chương I: Những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc 1
Chương II: Những giá trị và hạn chế của triết học Phoiơbắc 1
PHẦN NỘI DUNG 2
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
PHẦN MỞ ĐẦU
Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng
Tây Âu và thế giới vào cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh cao của thời


kỳ triết học cổ điển phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn đến triết học hiện đại
và trở thành nguồn gốc chủ nghĩa Mác. Một trong những nhà duy vật nổi tiếng của
triết học cổ điển Đức, bậc tiền bối của triết học Mác, đó là Phoiơbắc – đại biểu cuối
cùng của một trào lưu triết học đặc sắc, người đã viết chương cuối cùng hùng tráng
trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật và vô thần để kết thúc bản giao hưởng triết học cổ
điển Đức.
Phoiơbắc (1804 - 1872) là một trong những nhà triết học vĩ đại của lịch sử tư
duy phương Tây. Triết học Phoiơbắc đã khôi phục và phát triển rực rở chủ nghĩa duy
vật. Phoiơbắc đã viết nhiều tác phẩm triết học, trong đó có những tác phẩm lớn như:
"Phê phán triết học Hêghen" (1839); "Bản chất của đạo đức thiên chúa", "Luận
cương sơ bộ về cải cách triết học" (1842), "Những nguyên lý của triết học tương lai"
(1843), "Bản chất của tôn giáo", v.v. Học thuyết triết học của ông là triết học nhân
bản, lấy con người là đối tượng chính để nghiên cứu triết học.
Mặc dù còn có một số hạn chế, song khi xem xét con người dưới góc độ của
nguyên lý nhân bản, Phoiơbắc đã có những đóng góp thực sự cho việc phát triển
triết học văn hoá, ảnh hưởng to lớn đối với thế giới quan triết học của Mác và
Ăngghen lúc bấy giờ và “là khâu trung gian” giữa triết học của Hêghen và triết học
của Mác và Ăngghen.
Tìm hiểu về triết học Phoiơbắc giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện về triết học
cổ điển Đức, quan niệm về con người trong triết học, những giá trị và hạn chế của
ông.
Bài tiểu luận “Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và những giá trị, hạn chế
của nó” gồm 2 chương:
 Chương I: Những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa duy vật nhân bản
Phoiơbắc.
 Chương II: Những giá trị và hạn chế của triết học Phoiơbắc.
Khóa 21 – Đêm 5 1 Học viên: Đỗ Trọng Tấn Phát
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
PHẦN NỘI DUNG
Chương I: NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT

NHÂN BẢN PHOIƠBẮC
1. Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc.
Có thể nói triết học của Phoiơbắc đã bắt nguồn từ triết học của Hêghen, cũng
giống như Hêghen, Phoiơbắc tin rằng tôn giáo, các khái niệm của tinh thần tuyệt đối
thống trị thế giới hiện thực nhưng về sau chịu ảnh hưởng của các nhà khai sáng Pháp
thế kỷ XVIII, Phoiơbắc quay sang phê phán người thầy của mình và ngã sang lập
trường duy vật. Hạn chế cơ bản nhất của triết học Hêghen, theo Phoiơbắc là bởi tính
duy tâm của nó trong việc giải quyết vấn đề quan hệ giữa con người và tự nhiên, coi
toàn bộ thế giới hiện thực chỉ là hiện thân của tinh thần tuyệt đối được hiểu như một
lực lượng siêu nhiên.
Phoiơbắc cho rằng con người không phải là nô lệ của thượng đế hay tinh thần
tuyệt đối, mà là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của quá trình phát triển của tự
nhiên, là cái cao quý nhất mà giới tự nhiên có được.
Phoiơbắc cũng cho rằng ông có sứ mạng phải xây dựng một nền Triết học mới
– triết học về chính con người, nghiên cứu các vấn đề về con người để làm sáng tỏ
bản chất con người đang tồn tại và giải quyết vấn đề “quan hệ tư duy & tồn tại” là
tạo cho con người một cuộc sống thật sự hạnh phúc trên trần gian. Phoiơbắc lấy con
người làm đối tượng nghiên cứu của triết học mới và khoa học nghiên cứu về bản
chất của con người là nhân bản học nên triết học mới đó phải là triết học nhân bản
hay nhân bản học phải là khoa học cơ sở và chung nhất cho mọi ngành khoa học.
Triết học mới mà Phoiơbắc đã xây dựng là triết học duy vật nhân bản.
Nguyên lý nhân bản của triết học Phoiơbắc nằm ở tính thống nhất của bản chất
con người, tinh thần và thể xác, trong đó thể xác là bộ phận của thế giới khách quan,
và ở chừng mực nào đó nó bao hàm cả tồn tại của thế giới ấy. Triết học mới –
Phoiơbắc viết: “Biến con người, gồm cả tự nhiên với tư cách cơ sở của con người,
thành đối tượng duy nhất, phổ quát và cao nhất của triết học và do đó, biến thuyết
nhân bản, trong đó có triết học, thành khoa học phổ quát”.
2. Quan điểm Phoiơbắc về con người.
Khóa 21 – Đêm 5 2 Học viên: Đỗ Trọng Tấn Phát
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Phoiơbắc đã xây dựng quan điểm về con người trên cơ sở suy ngẫm và phê phán
các tư tưởng trước đó. Triết học Phoiơbắc là triết học nhân bản lấy con người làm
trung tâm, làm mục đích. Con người phải là chủ nhân đích thực của thế giới này.
Phoiơbắc đã đi sâu vào việc nghiên cứu bản chất con người bắt đầu từ việc truy tìm:
Mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên; mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại;
mối quan hệ giữa người và người để từ đó ông đi đến kết luận về mối quan hệ giữa
người và thần.
2.1. Mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên.
Xuất phát từ luận điểm: "Quan hệ thực sự của tư duy với tồn tại là: tồn tại –
chủ thể; tư duy – thuộc tính" Phoiơbắc bảo vệ và chứng minh những nguyên lý duy
vật của mình. Ông quan niệm, vật chất có trước, ý thức có sau, tồn tại vô cùng đa
dạng, phong phú và tự nó; không gian thời gian và vận động là thuộc tính cố hữu, là
phương thức tồn tại của vật chất – giới tự nhiên; không gian và thời gian tồn tại
khách quan, không có vật chất tồn tại vận động bên ngoài không gian và thời gian.
Ông thừa nhận sự tồn tại khách quan của các quy luật tự nhiên, của quan hệ nhân
quả; thừa nhận sự vận động và phát triển của giới tự nhiên diễn ra một cách khách
quan và tất cả điều đó dẫn đến sự vận động và phát triển của thế giới tự nhiên và cuối
cùng là con người xuất hiện.
Giới tự nhiên tồn tại không lệ thuộc vào ý thức, nó là cơ sở của tồn tại của con
người; ngoài tự nhiên và con người thì không có gì cả, bản chất của Thượng đế
chẳng qua là sự phản ánh hư ảo bản chất con người. Giới tự nhiên không do ai sáng
tạo ra, nó tồn tại và vận động nhờ những cơ sở bên trong nó.
Phoiơbắc cho rằng, con người không phải là sản phẩm của thượng đế như các
nhà thần học quan niệm, nó cũng không phải là sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối như
Hêghen nói, mà con người là sản phẩm tất yếu cao nhất của giới tự nhiên.
Như vậy rõ ràng, con người và giới tự nhiên có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Con người chỉ có thể tồn tại trong giới tự nhiên, trong sự tiếp xúc với thế giới
khách quan bên ngoài của nó để thỏa mãn các nhu cầu trong cuộc sống, và cũng
chính thế giới này quy định sự tồn tại và phát triển của các giác quan con người chứ
không phải ngược lại như chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định.

Khóa 21 – Đêm 5 3 Học viên: Đỗ Trọng Tấn Phát
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Ở đây, Phoiơbắc chưa khắc phục được hạn chế của duy vật siêu hình, coi vật
chất như là một cái gì thuần nhất. Tuy thừa nhận vật chất vận động nhưng chưa lý
giải được nguồn gốc, động lực, hình thức của vận động.
2.2. Mối quan hệ giữa con người với con người.
Phoiơbắc phê phán Hêghen đã quan niệm con người một cách trừu tượng và
thần bí coi đó như một lực lượng siêu tự nhiên; đây là một quan niệm sai. Do vậy,
theo ông phải xây dựng một quan niệm mới về con người. Phoiơbắc đã trả lời câu
hỏi con người là gì?
- Con người là sản phẩm tất yếu cao nhất của giới tự nhiên, sống dựa vào giới
tự nhiên chịu ảnh hưởng bởi tự nhiên. Và con người rất đa dạng và ông đề cao chủ
nghĩa cá nhân. Con người có cảm giác, biết tư duy, có ham muốn, có ước mơ, có tình
yêu thương. Đó là bông hoa rực rở của giới tự nhiên ban tặng riêng cho con người,
để tôn vinh con người, giúp con người quay lại nhận thức chính mình và giới tự
nhiên.
- Con người phải nhận thức được thế giới. Con người là con vật duy nhất nhận
thức được chính mình và giới tự nhiên làm cho thế giới tự nhiên trở thành thế giới tự
nhiên tự nhận thức. Con người của Phoiơbắc vừa mang tính cá nhân vừa mang tính
cộng đồng và nó tiềm tàng một năng lực sáng tạo với bản chất là yêu:
+ Bản tính cá nhân: Phoiơbắc là nhà tư tưởng của giai cấp tư sản nên không
thể không bàn về tính cá nhân. Mỗi con người là một cá thể sinh học đặc biệt có lý
trí, có ý chí, có trái tim… của riêng mình để nhận thức. Với bản tính cá nhân, mỗi
người họ đều tiềm tàng một năng lực sáng tạo kỳ vĩ, chứ không phải xuất phát từ
Thượng đế.
+ Bản tính cộng đồng: Con người được sống, ràng buộc với con người. Mỗi
cá nhân này ràng buộc với cá nhân khác, hạnh phúc của cá nhân chỉ có được khi hòa
hợp với cộng đồng. Từ đây, Phoiơbắc lý giải trong con người có bản tính ích kỷ
nhưng hợp lý, tức là sống vì mình nhưng cũng phải hướng đến cộng đồng, chứ không
phải chà đạp lên cộng đồng, bởi vì sống ngoài cộng đồng thì con người không bao

giời tìm được hạnh phúc. Mỗi con người tiềm tàng một năng lực sáng tạo kỳ mĩ vì
bản tính cá nhân là nguồn gốc sinh ra quyền sáng tạo của con người và nó chứa một
tình yêu mênh mông giành cho con người. Con người sống phải biết yêu. Tình yêu là
Khóa 21 – Đêm 5 4 Học viên: Đỗ Trọng Tấn Phát
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
phương tiện, là mục đích sống, hòa hợp các con người trong xã hội, được tiến bộ
trong xã hội con người và tình yêu chỉ là một. Một đứa trẻ chỉ trở thành người lớn
khi nó biết yêu. Tình yêu phụ nữ là tình yêu phổ quát, ai không yêu phụ nữ thì kẻ đó
không phải là con người, nhưng trong biển trời mênh mông của tình yêu thì tình yêu
của đàn ông và đàn bà là tình yêu mẫu mực.
Triết học Phoiơbắc đầy quan điểm về đạo đức thể hiện rõ nhân bản dành cho
con người, vì con người. Con người sống phải yêu nhau, đấu tranh trong tình yêu
không mang tính giai cấp, không mang tính phụ nợ. Tình yêu phải xóa đi hận thù đó
mới là tình yêu, yêu mà còn hận thù thì không phải là yêu. Đó là triết lý của ông ta,
bởi vì: Ông sống trong xã hội tư bản chủ nghĩa, cá lớn nuốt cá bé, con người chèn ép
con người nên ông ta muốn dùng triết lý tình yêu để xóa đi những bi đát của thời đại,
đó là thực hiện đơn đặt hàng của thời đại của lịch sử, thời đại hận thù phải chữa bằng
tình yêu.
2.3. Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại.
Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn
đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại. Phoiơbắc cho rằng, con người là một sinh vật có
hình thể vật lý – sinh lý ở trong không gian và thời gian, nhờ vậy nó có năng lực
quan sát và suy nghĩ vượt trội các loài sinh vật khác. Bản chất con người là một cái
gì đó thống nhất toàn vẹn giữa hai phương diện thể xác (tồn tại) và tinh thần (tư duy).
Sự thống nhất toàn vẹn này đảm bảo cho con người có thể tồn tại và phát triển như
một sinh vật cao nhất, hoàn thiện nhất trong mọi sinh vật hiện có.
Phê phán những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa nhị
nguyên trong việc tách đôi thể xác và tinh thần, tồn tại và tư duy, Phoiơbắc đã thừa
nhận một cách dứt khoát rằng quan hệ thực sự của tồn tại đối với tư duy là tồn tại –
chủ thể, tư duy – thuộc tính. Tư duy xuất phát từ tồn tại, chứ không phải tồn tại xuất

phát từ tư duy… Cơ sở của tồn tại nằm ngay trong tồn tại chính là cảm tính, là
nguyên lý trí tuệ, là sự tất yếu và chân lý… Bản chất của tồn tại với tư cách một tồn
tại chính là bản chất của giới tự nhiên.
Không phải là người nghiên cứu sâu về sinh lý học, song Phoiơbắc cũng nhận
thấy rằng, mỗi con người cụ thể bằng xương bằng thịt đang sống và hoạt động là
những bằng chứng sinh động về sự thống nhất giữa thể xác và tinh thần, giữa phương
Khóa 21 – Đêm 5 5 Học viên: Đỗ Trọng Tấn Phát
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
diện vật lý và phương diện tâm lý. Sự thống nhất này phản ánh sự thống nhất giữa
cấu trúc và chức năng, giữa giải phẫu học và sinh lý học. Và cũng từ đó ông dễ dàng
rút ra một kết luận triết học duy vật rằng, tư duy, ý thức của con người không là cái
gì khác như là thuộc tính vốn có của một dạng vật chất có tổ chức cao – bộ óc con
người. Chính ở đây, ông đã phần nào phỏng đoán được nội dung vấn đề cơ bản của
triết học, điều mà suy nghĩ này, Ăngghen đã phát biểu một cách rõ ràng hơn trong tác
phẩm “Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”.
Sau khi công nhận một cách dứt khoát rằng, tồn tại của chủ thể, tư duy là
thuộc tính, ý thức là sản phẩm của bộ óc con người, Phoiơbắc đi đến việc tìm hiểu
sâu hơn bản chất tự nhiên – sinh học của con người. “Bản chất chung của con người
là gì? Những nhân tính cơ bản trong con người là gì? Đó là lý tính, ý chí và trái tim.
Con người hoàn thiện có năng lực tư duy, sức mạnh ý chí và nguồn lực tình cảm.
Năng lực tư duy chính là ánh sáng của nhận thức, sức mạnh của ý chí chính là năng
lượng của tính cách, nguồn lực tình cảm chính là tình yêu… Qua đó, Phoiơbắc muốn
chứng minh rằng, bản chất chung của con người là tổng hoà mọi khát vọng chính trị,
mọi năng lực nhận thức và nhu cầu tự nhiên – sinh học đã trầm tích trong quá trình
phát triển lịch sử lâu dài của nó.
Mọi mong muốn, khát vọng tự nhiên của con người theo quan điểm của
Phoiơbắc không phải xuất phát từ tư tưởng thuần tuý mà chúng phản ánh đời sống
hiện thực của con người và do đời sống đó quy định. Nói cách khác, trong con người,
cái sinh lý quy định cái tâm lý, cái tự nhiên – sinh học quy định cái xã hội, nhu cầu
vật chất quy định hành động xã hội. “Điều ác xuất hiện không phải trong đầu óc,

trong trái tim – Phoiơbắc viết – mà xuất hiện chính trong dạ dày con người”. Quan
điểm này của Phoiơbắc đã làm cho Ăngghen rất chú ý. Trong tác phẩm “Lutvich
Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, Ăngghen đánh giá cao luận
điểm của Phoiơbắc: “Trong một cung điện, người ta suy nghĩ khác trong một túp lều
tranh”. “Nếu như vì đói, vì nghèo mà trong cơ thể không có chất dinh dưỡng, thì
trong đầu óc anh, trong tình cảm và trong trái tim anh cũng không có chất nuôi đạo
đức”. Đây là luận điểm hoàn toàn mới so với đương thời, vì theo quan điểm này thì
điều kiện sinh hoạt vật chất của con người quy định suy nghĩ và tư tưởng của nó. Tuy
nhiên, Phoiơbắc chưa có khả năng nhìn nhận con người với tư cách là một cá thể của
Khóa 21 – Đêm 5 6 Học viên: Đỗ Trọng Tấn Phát
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
loài, với tư cách là một thành viên xã hội, mà ông chỉ mới dừng lại ở con người cụ
thể “theo ý kiến tôi thì chính cá thể đã bao quát toàn bộ bản chất con người, bản chất
con người chỉ có một – đó là bản chất cá thể”.
3. Quan niệm Phoiơbắc về tôn giáo.
Phoiơbắc bàn về tôn giáo rất nhiều, triết lý ông ta gắn liền với triết lý tôn giáo.
Phoiơbắc cho rằng, tôn giáo là sản phẩm nhận thức và tâm lý của con người, nó
không đơn giản là những ảo tưởng phi lý, hoang đường mà còn là những mơ ước,
khát vọng đời thời của con người. Tôn giáo chỉ là sự tha hóa bản chất của con người.
Còn Thượng đế chỉ là sự tập hợp những giá trị, mơ ước khát vọng mà con người
muốn có. Theo Phoiơbắc, không phải Thượng đế sinh ra con người mà chính con
người đã sinh ra Thượng đế.
Phoiơbắc cho rằng, tôn giáo và niềm tin vào Thượng đế đã chia cắt thế giới
cùng con người thành thế giới trần tục và thế giới thiên đường, tôn giáo làm tha hóa
con người để dễ dàng thống trị nó. Tôn giáo không chỉ kiềm hãm mà còn tước đi con
người tính năng động sáng tạo, sự tự do và năng lực độc lập phán xét. Ông đòi hỏi
phải lựa chọn: hoặc là tôn giáo - tín ngưỡng - thượng đế, hoặc là khoa học nhân bản
– tình yêu – con người.
Phoiơbắc phê phán mạnh mẽ tôn giáo, đặc biệt tác phẩm “Bản chất của đạo
Cơ đốc” (1841). Ông đã vạch ra mọi xấu xa đê hèn, nhơ nhuốt của Thiên chúa giáo

nhưng sao khi vạch ra bản chất xấu xa của Thiên chúa giáo thay vì xóa bỏ tôn giáo
thì Phoiơbắc cảm thấy rằng nếu trên đời không có tôn giáo thì con người không sống
được vì con người sống cần phải có niềm tin và tôn giáo là một trong những nguồn
gốc, cơ sở để mang lại cho con người niềm tin để sống. Do vậy, Phoiơbắc đi xây
dựng một tôn giáo mới thay thế cho Thiên chúa giáo đó là tôn giáo của tình yêu, biến
tình yêu thành tín ngưỡng, niềm tin và thành Thượng đế để con người ai ai cũng yêu
và sống trong tình yêu. Tình yêu vừa là cơ sở, vừa là cứu cánh của con người để con
người thật sự sống đúng như bản tính của mình, nhằm biến trần gian thành thiên
đàng trên mặt đất.
Phoiơbắc là người đầu tiên vạch rỏ bản chất tôn giáo, nguồn gốc của tôn giáo
nhưng ông không chủ trương xóa bỏ tôn giáo, ông còn sa vào chủ nghĩa duy tâm mà
sau này Mác cho rằng Phoiơbắc không triệt để về tôn giáo.
Khóa 21 – Đêm 5 7 Học viên: Đỗ Trọng Tấn Phát
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Phoiơbắc cho rằng, lịch sử nhân loại là lịch sử tôn giáo, các thời đại khác nhau
là khác nhau tôn giáo. Vì vậy, muốn một thời đại mới xuất hiện phải tạo ra một tôn
giáo mới. Thời đại mới là thời đại của con người giành cho con người, tôn giáo của
tình yêu. Trong khi đó, Mác cho rằng các thời đại khác nhau là khác nhau ở phương
thức sản xuất, vì vậy muốn một thời đại mới xuất hiện thì phải tạo ra phương thức
sản xuất mới”.
4. Quan niệm Phoiơbắc về nhận thức.
Đứng trên quan điểm duy vật Phoiơbắc đã phê phán hệ thống duy tâm khách
quan của Hêghen ở chỗ, coi đối tượng tư duy không có gì khác với bản chất của tư
duy. Từ đó ông khẳng định, đối tượng nhận thức nói chung và của triết học nói riêng
là giới tự nhiên và con người. Ông kêu gọi: Hãy quan sát giới tự nhiên đi, hãy quan
sát con người đi! Bạn sẽ thấy ở đấy, trước mắt bạn, những bí mật của triết học.
Phoiơbắc cho rằng, giới tự nhiên và con người chứ không phải lý tính logic trừu
tượng hay Thượng đế là khách thể của nhận thức. Chủ thể nhận thức cũng không
phải là lý tính logic trừu tượng mà là con người sống động, tồn tại trong thực tế, có
cảm giác và lý trí. Cảm tính trực quan là nguồn gốc của tư duy lý luận, còn tư duy lý

luận xử lý tài liệu cảm tính để kiểm tra khám phá ra chân lý. Chân lý là sự phù hợp
giữa tư tưởng trong chủ thể đối tượng được tư tưởng – khách thể. Nhờ vào năng lực
của cảm giác và lý trí mà con người có khả năng nhận thức đầy đủ giới tự nhiên,
nhưng là một quá trình lâu dài, thông qua các cá nhân và các thế hệ khác nhau.
Phoiơbắc cũng đã xác định được mối quan hệ giữa hình thức nhận thức cảm tính
với lý tính, nhưng khi tiến lên giai đoạn tư duy lý tính thì ông không rút ra được kết
luận rõ ràng.
Như vậy, Phoiơbắc đã xây dựng quan điểm duy vật về nhận thức; đã khẳng định,
con người có khả năng nhận thức. Nhưng trong lý luận nhận thức đã bộc lộ hạn chế ở
chỗ, chưa hiểu được quá trình phát triển biện chứng của nhận thức, vai trò của hoạt
động thực tiễn đối với nhận thức. Cho nên, quan điểm nhận thức của Phoiơbắc vẫn
nằm trong khuôn khổ của phương pháp suy nghĩ siêu hình.
Khóa 21 – Đêm 5 8 Học viên: Đỗ Trọng Tấn Phát
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Chương II: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ TRIẾT HỌC PHOIƠBẮC
1. Những giá trị.
1.1. Khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật thời kỳ cận đại.
Phoiơbắc đã khôi phục chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVIII trong hoàn cảnh chủ
nghĩa duy tâm thống trị đời sống tinh thần ở Phương Tây, và phát triển chủ nghĩa duy
vật thêm một bước. Ông đã trình bày sáng rõ nhiều quan điểm duy vật; ông biết đặt
con người vào đúng tâm điểm phân tích triết học. Tư tưởng duy vật của Phoiơbắc có
ảnh hưởng lớn đến thế giới quan triết học Mác và Ăngghen lúc bấy giờ.
1.2. Nâng tầm quan trọng của con người trong phân tích triết học.
Triết học Phoiơbắc là triết học nhân bản, vì thế vấn đề con người luôn được
ông đề cao trong triết học của mình. Triết học Phoiơbắc đầy quan điểm về đạo đức
thể hiện rõ nhân bản dành cho con người, vì con người.
Phoiơbắc khẳng định con người là sự kết tinh toàn bộ giá trị người, mà những
giá trị người đó được tích luỹ trong quá trình vươn đến tự do, và được thể hiện trong
tư tưởng của các vĩ nhân lý trí (triết gia). Bản chất con người là tổng thể những khát
vọng, nhu cầu và cả khả năng tưởng tượng của anh ta.

Phoiơbắc đề cao tính cá thể của con người, nhấn mạnh sự năng động và sáng
tạo, lợi ích, nhu cầu của con người, thể hiện nguyện vọng của giai cấp tư sản tiến bộ
muốn giải phóng con người khỏi mọi quan hệ phong kiến bảo thủ ở Đức.
1.3. Phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và đạo Cơ đốc.
Triết học Phoiơbắc phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và Cơ đốc giáo, đặc
biệt là quan niệm về Thượng đế. Ông chủ trương xóa bỏ sự tách rời giữa tinh thần và
thể xác do triết học duy tâm và triết học nhị nguyên tạo ra. Trái với các quan niệm tôn
giáo và thần học cho rằng Thượng đế tạo ra con người, ông khẳng định chính con
người tạo ra Thượng đế. Phoiơbắc cho rằng, Hêghen đã thêu dệt nên cả một huyền
thoại về lý trí, duy lý hoá niềm tin vào Thượng đế thậm chí xem lịch sử tôn giáo là
lịch sử vận động của ý thức phản tỉnh. Ngược lại, Phoiơbắc đưa bản chất tôn giáo về
bản chất con người, loại Thượng đế ra khỏi đối tượng nghiên cứu của triết học, đưa
hình ảnh đó về đúng vị trí của nó - thần học.
1.4. Cùng với Hêghen, triết học Phoiơbắc là tiền đề lý luận của triết học Mác.
Triết học cổ điển Đức không chỉ là thành tựu to lớn của tư tưởng nhân loại mà
nó còn là tiền đề lý luận của triết học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung.
Khóa 21 – Đêm 5 9 Học viên: Đỗ Trọng Tấn Phát
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Phương pháp biện chứng duy vật – linh hồn chủ nghĩa Mác – là kết quả cải biến chủ
nghĩa duy vật của Phoiơbắc và phép biện chứng của Hêghen.
2. Những hạn chế.
Triết học Phoiơbắc không sâu, còn nhiều quan niệm siêu hình, phiến diện trong lý
giải đối tượng triết học, trong việc phân tích bản chất con người, trong việc tìm hiểu
thực tiễn và xác định vai trò của nó trong nhận thức và cuộc sống… Đặc biệt, trong
việc xác định nguồn gốc, động lực phát triển và phương tiện cải tạo xã hội, quan
điểm của Phoiơbắc còn đầy tính duy tâm. Thái độ đối với tôn giáo của ông không
nhất quán… Điều này thể hiện như sau:
2.1. Phủ nhận phép biện chứng Hêghen.
Do phủ nhận hệ thống duy tâm của triết học Hêghen nên ông phủ nhận luôn
phép biện chứng; hơn nữa, ông hiểu biện chứng rất hời hợt – phép biện chứng chứ

không phải là sự độc thoại của một nhà tư tưởng với bản thân mình mà là sự đối
thoại giữa Tôi và Anh… Phoiơbắc đã không biết kế thừa hạt nhân hợp lý của triết
học Hêghen là phép biện chứng. Ông đã đập tan hệ thống triết học Hêghen và chỉ
đơn giản gạt nó ra một bên thôi.
Vượt xa Phoiơbắc, trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật, Mác đã phê phán chủ
nghĩa duy tâm của Hêghen, nhưng kế thừa hạt nhân hợp lý của triết học Hêghen là
phép biện chứng, cải tạo nó và biến nó thành phép biện chứng duy vật, biến chủ
nghĩa duy vật thành chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
2.2. Đề cao con người nhưng quan niệm con người của ông rất hời hợt.
Phoiơbắc xây dựng quan niệm con người trên nền tảng duy vật, đề cao tính cá
thể của con người, nhấn mạnh sự năng động và sáng tạo, lợi ích, nhu cầu của con
người, thể hiện nguyện vọng của giai cấp tư sản tiến bộ muốn giải phóng con người
khỏi mọi quan hệ phong kiến bảo thủ ở Đức. Nhưng Phoiơbắc không nhận thấy bản
chất xã hội của con người, không coi trọng một thực tế là mỗi người tuy là cá thể
nhưng lại sinh ra trong một hoàn cảnh xã hội nhất định, thuộc một giai cấp hay một
tầng lớp xã hội, một dân tộc và một thời đại lịch sử nhất định. Vì vậy, theo Ăngghen,
con người của Phoiơbắc là con người phi lịch sử, phi giai cấp, cực kì trừu. Phoiơbắc
là nhà duy vật tầm thường trong vấn đề nhận thức.
2.3. Phủ nhận vai trò thực tiển và sa vào chủ nghĩa duy tâm.
Khóa 21 – Đêm 5 10 Học viên: Đỗ Trọng Tấn Phát
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Do bỏ qua hoạt động thực tiễn nên Phoiơbắc coi nhận thức là một quá trình
tĩnh tại, thụ động của chủ thể tiếp nhận hình ảnh của khách thể mà không phải là một
quá trình mang tính thực tiễn năng động, sáng tạo của con người – chủ thể nhận thức.
Phoiơbắc không chỉ không thấy được vài trò của thực tiễn đối với nhận thức mà ông
cũng không thấy được vai trò to lớn của thực tiễn đối với sự hoàn thiện con người,
thúc đẩy phát triển sản xuất nói riêng, xã hội nói chung. Vì không thấy trong thực
tiễn động lực phát triển xã hội nên ông cố tìm nó trong tình yêu. Do không xuất phát
từ quan điểm thực tiễn mà trong lĩnh vực xã hội, Phoiơbắc cũng như mọi nhà tư
tưởng trước Mác đều sa vào chủ nghĩa duy tâm, quá đề cao sức mạnh tinh thần, trước

hết là giáo dục, đạo đức, pháp luật… mà không thấy được vai trò của nền sản xuất
vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
2.4. Phoiơbắc coi các thời đại của loài người chỉ khác nhau bởi những thay đổi về
phương diện tôn giáo.
Phoiơbắc không đặt ra vấn đề xoá bỏ tôn giáo, mà muốn hoàn thiện nó triết
học cũng phải hoà vào tôn giáo. Tôn giáo theo ông là ở mối quan hệ thương yêu giữa
người với người và tình yêu nam nữ là hình thức cao nhất. Chủ nghĩa duy tâm của
Phoiơbắc, theo Ăngghen là ở chỗ ông coi mối quan hệ thuần túy giữa người với
người là tôn giáo.
2.5. Phoiơbắc hoàn toàn duy tâm trong vấn đề đạo đức.
Phoiơbắc coi lòng mong muốn hạnh phúc là bẩm sinh của con người, do đó,
nó phải là cơ sở của mọi đạo đức. Học thuyết của Phoiơbắc về đạo đức thì cũng
giống như tất cả những học thuyết trước đó hết sức nghèo nàn.
Khóa 21 – Đêm 5 11 Học viên: Đỗ Trọng Tấn Phát
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
PHẦN KẾT LUẬN
Triết học Phoiơbắc là triết học nhân bản, lấy con người làm trung tâm lý giải mọi
sự vận động của giới tự nhiên. Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc đã giáng một
đòn mạnh vào chủ nghĩa duy tâm Hêghen, “đưa một cách không úp mở chủ nghĩa
duy vật trở lại ngôi vua”, ông khẳng định một cách dứt khoát rằng “tự nhiên tồn tại
độc lập đối với mọi triết học”. Nhưng triết học nhân bản của Phoiơbắc là chủ nghĩa
nhân đạo trừu tượng và chủ nghĩa duy tâm về lịch sử “lấy con người làm xuất phát
điểm, song ông hoàn toàn không nói đến thế giới trong đó con người ấy sống.
Phoiơbắc có công lao trong phê phán chủ nghĩa duy tâm của triết học Hêghen,
song Phoiơbắc đã vứt bỏ luôn phép biện chứng của Hêghen. Cũng như các nhà triết
học giai đoạn trước Mác, Phoiơbắc rơi vào duy tâm khi giải quyết các vấn đề xã hội.
Mặc dù triết học của Phoiơbắc có những hạn chế, nhưng cuộc đấu tranh của ông
chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung đã có ý nghĩa lịch sử to lớn. Vì vậy,
triết học của Phoiơbắc trở thành một trong những nguồn gốc lý luận, tiền đề triết học
Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung. Phương pháp biện chứng duy vật – linh hồn

của chủ nghĩa Mác – là kết quả cải biến chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc và phát triển
phép biện chứng Hêghen.
Khóa 21 – Đêm 5 12 Học viên: Đỗ Trọng Tấn Phát
Tiểu luận Triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết học, phần I, Đại cương về lịch sử Triết
học (dùng cho học viên cao & nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành
triết học), Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM, 2011.
[2]. Ph.Ăngghen, Lút vích phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức,
1888.
[3]. Hệ tư tưởng Đức, Nxb Sự thật, 1977.
a. TS Nguyễn Huy Hoàng, Quan điểm của L.Phoiơbắc về văn hóa và con
người, Tạp chí Triết học số 5 (180) năm 2006
/>vientriet=articles_deltails&id=543&cat=48&pcat=
b. Phó giáo sư – TS Đặng Hữu Toàn, “hệ tư tưởng Đức” – tác phẩm đánh
dấu sự ra đời một thế giới quan mới, một quan niệm duy vật về lịch sử,
Tạp chí Triết học số 1 (176) năm 2006
/>vientriet=articles_deltails&id=766&cat=48&pcat=
c. TS Lê Công Sự, Đánh giá của C.Mác và ph.Ăngghen về vấn đề con
người trong triết học L.Phoiơbắc qua “hệ tư tưởng Đức”, Tạp chí Triết
học số 11 (186) năm 2006 />vientriet=articles_deltails&id=364&cat=48&pcat=
[4]. C.Mác, Luận cương về Phoiơbắc, 1845.
[5]. Phoiơbắc sự đối lập giữa quan điểm duy vật chủ nghĩa và quan điểm duy
tâm chủ nghĩa, Nxb Sự thật, 1977.
Khóa 21 – Đêm 5 13 Học viên: Đỗ Trọng Tấn Phát

×