Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

giới thiệu chung về hải quan – hải quan việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.69 KB, 86 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI CẢM ƠN
Sau gần 3 năm học tại trường Cao Đẳng Hải quan, với sự giảng dạy tận
tâm của thầy cô, đã giúp em trang bị được những kiến thức cơ bản nhất về các
lĩnh vực công tác nghiệp vụ của ngành Hải quan, cũng như việc rèn nhân cách
phẩm chất đạo đức và tác phong thái độ của một công dân trong xã hội và xa
hơn nữa là một cán bộ trong ngành.
Được sự sắp xếp của nhà trường, đặc biệt là với sự giúp đỡ nhiệt tình của
lãnh đạo, lãnh đạo các phòng, đội Cục Hải quan Lạng Sơn, lãnh đạo Chi cục
Hải quan cửa khẩu Chi Ma và những cán bộ hướng dẫn trực tiếp, đã tạo điều
kiện thuận lợi về mọi mặt trong thời gian em thực tập tại đây.
Với thời lương 2 tháng, tuy không nhiều nhưng với tinh thần hỗ trợ giúp
đỡ đó, em đã nỗ lực đem lý thuyết gắn kết với thực tiễn và tham gia vào công
tác thực tế của hoạt động Hải quan tại đơn vị. Nhờ vậy em đã rút ra được một
số kinh nghiệm về hoạt động nghiệp vụ Hải quan, đây sẽ là hành trang để em
tiếp bước trong thời gian sắp tới.
Lời đầu tiên trong bản báo cáo này em xin chân thành cảm ơn:
Lãnh đạo Trường Cao đẳng Hải quan, khoa Kiểm soát Hải quan và toàn
thể thầy cô giáo trong nhà trường.
Lãnh đạo Cục Hải quan Lạng Sơn, phòng tham mưu chống buôn lậu và
xử lý, Chi cục Hải quan cửa khẩu Chi Ma và tập thể cán bộ Hải quan cửa
khẩu Chi Ma.
Em xin chân thành cảm ơn các cô, chú anh chị tại các tổ, đội công tác đã
tận tình hướng dẫn, truyền đạt những kinh nghiệm thực tiễn quý báu trong
thời gian em thực tập và hoàn thành bản báo cáo này.
LỜI NÓI ĐẦU
Hải quan Việt Nam là một trong những công cụ quản lý đắc lực của nhà
nước, là lực lượng biên phòng trên mặt trận kinh tế, góp phần bảo vệ lợi ích
chủ quyền và an ninh quốc gia.
Được thành lập vào ngày 10/9/1945, trải qua 58 năm hình thành và phát
triển Hải quan Việt Nam ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng đáp


ứng kịp thời sự phát triển của nền kinh tế đất nước, trong giai đoạn mở cửa và
hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Việc mở rộng giao lưu buôn bán, trao đổi
hàng hoá quốc tế ngày càng phát triển mạnh kéo theo không ít tiêu cực, đặc
biệt là các lực lượng chuyên nghiệp luôn lợi dụng các chính sách, chế độ của
nhà nước, lợi dụng hàng hoá đa dạng, phức tạp, số lượng lớn để buôn lậu và
gian lận thương mại. Chính vì vậy một nhiệm vụ đặt ra cho ngành Hải quan là
phải làm sao hạn chế tối đa các hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại
nhưng phải bảo đảm cho hàng hoá thông quan nhanh gọn.
Để làm được việc đó, thì lực lượng điều tra chống buôn lậu đóng vai trò
quan trọng trong việc phân loại, sắp xếp, rà soát, quản lý địa bàn khu vực, đối
tượng, mặt hàng trọng điểm, có nhiều nghi vấn mới có thể phá, huỷ mạng
lưới của các bọn đầu nâu chủ chốt.
Trước bối cảnh đó, Việt Nam chúng ta đang đứng trước những thử thách
to lớn, đồng thời cũng tạo những cơ hội thuận lợi để đưa đất nước đi lên, và
tiến kịp với tốc độ phát triển kinh tế thế giới và khu vực. Nhận thức được tình
hình đó, Đảng và Nhà nước đã chủ động kịp thời vạch ra những chủ trương
đường lối về phát triển kinh tế đất nước trong những năm tới, đó là xây dựng
và phát triển. Nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước dựa vào
tiềm lực sẵn có, đồng thời chúng ta cũng mở cửa để thu hút, đón nhận sự hợp
tác, đầu tư nước ngoài.
Để thực hiện được các chủ trương đường lối đó một cách hiệu quả, Nhà
nước ta đã đưa ra các chính sách thông thoáng hơn: cải cách thủ tục đơn giản
hơn, đây vừa là điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư chân chính từ
nước ngoài vào nước ta, vừa là cơ hội để các phần tử xấu lợi dụng để buôn
lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép nhằm thu lợi bất chính và
cũng là cơ hội để các thế lực thù địch thực hiện âm mưu phá hoại đất nước ta.
Trước tình hình đó đã đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta, mà cụ thể là các
ngành các cấp một nhiệm vụ to lớn, làm thế nào tạo được sự thông thoáng để
hội nhập kinh tế thế giới, vừa bảo vệ được chủ quyền kinh tế đất nước và

ngăn chặn được âm mưu chống phá từ bên ngoài: Ngành Hải quan là một
trong những ngành đảm nhiệm nhiệm vụ đó, mỗi cán bộ chiến sĩ Hải quan
được xem là người lính gác cửa nền kinh tế đất nước.
Là một sinh viên của Trường Cao đẳng Hải quan, sau gần 3 năm theo
học tại trường và sau 2 tháng thực tập tại các đơn vị thuộc Cục Hải quan Lạng
Sơn, em đã tiếp thu được rất nhiều điều bổ ích từ hoạt động thực tiễn nghiệp
vụ Hải quan. Trên cơ sở lý thuyết đã học và được tìm hiểu thực tế qua kỳ
thực tập, em hoàn thành báo cáo này. Với kinh nghiệm còn thiếu và thời gian
thực tập có hạn nên báo cáo sẽ không tránh khỏi những sai sót nhất định. Rất
móng được sự giúp đỡ, góp ý của quý thầy cô, các anh chị, các cô chú tại Cục
Hải quan tỉnh Lạng Sơn cũng như các bạn để bản báo cáo được đầy đủ và
xúc tích hơn.
Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo cục Hải quan tỉnh Lạng Sơn,
cán bộ nhân viên phòng tham mưu chống buôn lậu và xử lý, các cô chú, các
anh chị thuộc Chi cục Hải quan cửa khẩu Chi Ma đã nhiệt tình giúp đỡ em
trong quá trình thực tập cũng như thực hiện bản báo cáo này.
PHẦN I
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HẢI QUAN – HẢI QUAN VIỆT NAM
1. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ HẢI QUAN
1.1. Đôi nét về lịch sử Hải quan thế giới.
Từ khi có trao đổi hàng hoá trên thị trường là có thuế đánh vào hàng hoá.
Sản xuất phát triển, hàng hoá trao đổi không chỉ trong phạm vi quốc gia mà
vượt biên giới ra nước ngoài, quan hệ ngoại thương được hình thành. Các
nước đều qui định về những biện pháp kiểm tra và thu thuế đánh vào hàng
hoá trao đổi qua biên giới, cùng các cơ quan làm nhiệm vụ này. Thể lệ Hải
quan ra đời. Sự tồn tại khu vực mậu dịch quốc tế đầu tiên ở Hy Lạp đã có thu
thuế “INFORIUM” ở các chợ và đánh vào các hoạt động buôn bán ở “A.ten”.
Cho đến nay, tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị,
nước nào cũng có đường lối kinh tế đối ngoại, một chính sách thuế xuất nhập
khẩu, cũng qui định thể lệ, thủ tục XK, NK hàng hoá và đặt ra cơ quan phụ

trách việc thi hành các thủ tục, thể lệ này đồng thời thu thuế xuất khẩu, nhập
khẩu (XK – NK). Thủ tục này gọi chung là thủ tục hải quan còn cơ quan phụ
trách thi hành thủ tục Hải quan tuy mỗi nước có tên gọi khác nhau: Trung
Quốc hiện gọi là Quan, nước gọi là Customs, Việt Nam là Hải quan nhưng
nội dung công tác thì giống nhau.
Hải quan là một từ Việt gốc Hán, du nhập vào Việt Nam từ năm 1955
trong từ Hải quan, hải có nghĩa là hải ngoại, Quan là cửa. Hải quan được dùng
theo nghĩa như sau: Hải quan là cơ quan do nhà nước thiết lập kiểm tra, kiểm
soát hàng hoá từ trong nước ra cửa khẩu ra nước ngoài và ngược lại. Hải quan
mang tính chất quốc tế, thủ tục hải quan ở mọi nước đều gồm: Khai báo –
kiểm tra – thuế. Ngày nay, trên thế giới ngoài cơ quan Hải quan của quốc gia
còn có các tổ chức Hải quan quốc tế như: Hội đồng hợp tác Hải quan quốc tế
(WCO), hội nghị Hải quan các nước nói tiếng Pháp.
1.2. Lịch sử Hải quan Việt Nam.
Trước cách mạng tháng 8: ở nước ta, theo nhà sử học Phan Huy Chú,
ngoài thuế ruộng tại Bắc Hà mãi đến thế kỷ thứ 18 mới đặt ra thuế quế, thuế
muối về sau, khi có thuyền buôn nước ngoài đến phố Hiến (Hưng Yên) mới
đặt ra thuế XK – NK nhưng còn rất sơ sài. Sau khi vua Gia Long lên ngôi
cũng có thu thuế nhưng càng rất sơ sài và chỉ nhằm vào mục đích tài chính
tuỳ theo nơi tàu lớn hoặc tàu nhỏ mà tính thuế nhiều hay ít. Trong thời kỳ
nước ta bị đế quốc Pháp đô hộ, để đảm bảo sự độc chiếm thuộc địa độc
quyền khai thác bóc lột nhân dân ta, bảo hộ quyền lợi của bọn thực dân, chính
quyền thuộc địa lập ra cơ quan thuế quan dùng hàng rào thuế quan để bảo hộ
việc buôn bán giữa chính quốc và thuộc địa và thu thuế cho ngân sách của bộ
máy thực dân thống trị.
Sau Cách mạng Tháng Tám: ngay sau ngày tuyên bố độc lập bằng sắc
lệnh số 27/SL ngày 10 tháng 9 năm 1945 Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân
chủ cộng hoà cho thành lập Sở thuế quan và thuế gián thu (sau đổi là Nha
Tổng giám đốc thuế quan và thuế gián thu). Với ba chức năng chính: thu thuế
XK, thuế NK hàng hoá vận chuyển qua biên giới, thu thuế gián thu vào muối,

rượu, thuốc lá ở nội địa; chống buôn lậu qua biên giới và chống buôn lậu
thuế gián thu. Năm 1951 cơ quan thuế quan được đổi tên là cơ quan thuế xuất
nhập khẩu. Ngày 6/4/1955 được đổi tên thành cơ quan Hải quan. Từ năm
1984 đến nay Tổng cục Hải quan, cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng (nay là
chính phủ) ra đời. Ngày 20 tháng 2 năm 1990 Hội đồng Nhà nước công bố
pháp lệnh Hải quan. Trước yêu cầu xây dựng, phát triển kinh tế xã hội, yêu
cầu về hội nhập kinh tế quốc dân hiện nay ngày 29/6/2001 Quốc hội nước
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 9 đã thông qua
Luật Hải quan. Đây là văn bản pháp lý cao nhất của Hải quan.
2. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA HẢI QUAN VIỆT NAM.
a. Chức năng: (điều 2 – chương I – Luật Hải quan).
Luật này quy định quản lý nhà nước về hải quan đối với hàng hoá được
xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, của tổ chức, cá nhân trong nước và nước
ngoài; về tổ chức và hoạt động của Hải quan.
b. Nhiệm vụ (Điều 11- Chương 2 – Luật Hải quan).
Hải quan Việt Nam có nhiệm vụ t hực hiện kiểm tra, giám sát hàng hoá,
phương tiện vận tải; phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá
qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hoá xuất
khẩu, nhập khẩu; kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải
quan, đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh
và chính sách thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
3. VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA HẢI QUAN TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY:
Cơ quan hải là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính và được tổ chức theo
nguyên tắc tập trung thống nhất. Ngành Hải quan cóvai trò bảo đảm thực hiện
chính sách của Nhà nước và phát triển quan hệ kinh tế văn hoá với nước
ngoài, góp phần tăng cường sự giao lưu và hợp tác quốc tế, bảo vệ lợi ích, chủ
quyền và an ninh quốc gia.
Nước ta đang từng bước hội nhập vào sự phát triển chung của thế giới,
kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì vai

trò của ngành Hải quan lại được chú trọng vì cơ quan Hải quan là cơ quan đại
diện cho Nhà nước để thực hiện việc quản lý Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế,
phải đảm bảo thu đúng, thu đủ cho ngân sách quốc gia, vừa kinh doanh,
chống buôn lậu gian lận thương mại, tạo sự cạnh tranh bình đẳng. Thật vậy,
“Ngành Hải quan là chiến sĩ gác cửa quốc gia và cũng là một trong những
binh chủng đặc biệt trên mặt trận kinh tế, chính trị, an ninh đối ngoại” (trích
lời phát biểu của đồng chí Lê Khả Phiêu với cán bộ chủ chốt ngành Hải quan
tại hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 1998 của toàn ngành Hải quan,
ngày 19 – 7 –1998).
II. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ CỤC HẢI QUAN LẠNG SƠN.
Lạng sơn là một tỉnh biên giới đất liền nằm ở phía Bắc của nước ta. Với
chiều dài giáp với biên giới Trung Quốc là 253 km từ cột mốc biên giới số 20
đến cột mốc biên giới số 60. Tỉnh Lạng Sơn có đường biên giới giáp với tỉnh
Quảng Tây: Trung Quốc, Lạng Sơn được xem là một trong những cửa ngõ
lớn của đất nước trong việc giao lưu kinh tế văn hoá với các nước qua các cửa
khẩu như: Hữu Nghị, Chi Ma, Tân Thanh, Cốc Nam, Ga đường sắt quốc tế.
Đồng Đăng, Binh Nghi. Do đó hoạt động trao đổi mua bán ở tuyến biên giới
này diễn ra thường ngày.
Để thực hiện tốt công tác quản lý xuất nhập khẩu và triển khai lực lượng
hải quan trong cả nước. Chi Sở Hải quan tỉnh Lạng Sơn được thành lập vào
ngày 21 tháng 2 năm 1955 theo Nghị định số 136 – BCT/KB/NĐ ngày 14 –
12- 1954 của Bộ Công thương, Chi sở trực thuộc Sở Hải quan thuộc Bộ Công
thương hoạt động trên cơ sở của điều lệ Hải quan và bắt đầu đi vào hoạt động
từ đầu năm 1956.
Ngày 17-6-1962 Bộ ngoại thương ra quyết định số 490/BNgT – QĐ đổi
tên Sở Hải quan thành Cục Hải quan thuộc Bộ Ngoại thương. Chi sở Hải quan
tỉnh Lạng Sơn được đổi tên thành Chi cục Hải quan Lạng Sơn.
Ngày 30 – 8-1984 Hội đồng Nhà nước ra Nghị quyết số 547/HĐBT phê
chuẩn việc thành lập Tổng cục Hải quan, cơ quan thuộc HĐBT (nay là Chính
phủ). Ngày 11 – 5 – 1985 Chi cục Hải quan Lạng Sơn đổi thành Cục Hải quan

Lạng sơn. Năm 2002 Tổng cục Hải quan cơ quan thuộc Bộ tài chính. Tên gọi
các Cục, Chi cục không có gì thay đổi.Qua 29 năm hình thành và phát triển
(1955 – 1984). Cục Hải quan tỉnh Lạng Sơn tập trung ổn định về tổ chức,
từng bước xây dựng và phát triển đội ngũ, tập trung đi sâu đào tạo bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ để có thể thực hiện tốt công tác chuyên môn nghiệp vụ, vượt
qua những khó khăn trước mắt để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Vào thời điểm này (chiến tranh biên giới phía Bắc chấm dứt) biên giới 2
nước được thông thương, cư dân 2 nước qua lại để trao đổi mua bán ngày
càng nhiều, nhiều cư dân Việt Nam sang Trung Quốc mua môt số hàng hoá
như: đầu điện tử, bát đĩa, ấm chén Trung Quốc nhập lậu về Việt Nam, các ổ
nhóm buôn lậu bắt đầu được hình thành và ngày càng nhiều. Trong khi đó lực
lượng kiểm soát chống buôn lậu của Hải quan Lạng Sơn còn rất mỏng cơ sở
vật chất còn thiếu và còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc trao đổi thông tin
giữa các đơn vị.
Với khó khăn như vậy, nhưng lực lượng kiểm soát chống buôn lậu hải
quan tỉnh Lạng Sơn đã nỗ lực, phấn đấu, khắc phục những khó khăn trước
mắt, lực lượng kiểm soát chống buôn lậu đơn vị cũng đã tăng cường tổ chức
nắm tình hình, sưu tra đối tượng, xây dựng mạng lưới cơ sở và được sự hỗ trợ
phối hợp của các lực lượng biên phòng và chính quyền địa phương nên đã
phát triển và bắt giữ được nhiều vụ buôn lậu có giá trị cao và vi phạm pháp
luật khác về hải quan.
Nhìn chung trong những năm 1963 đến 2000, hải quan tỉnh Lạng Sơn đã
kiện toàn về bộ máy tổ chức, thực hiện đúng theo quy trình và các qui định
của ngành, chuyên môn nghiệp vụ được nâng lên, thực hiện quản lý nghiêm
theo chế độ chính sách pháp luật của Nhà nước và của ngành, hoàn thành
nhiệm vụ của ngành tại địa phương, là đi đầu trong công tác đấu tranh chống
buôn lậu. Với tinh thần nỗ lực phấn đấu về mọi mặt trong công tác của toàn
thể đội ngũ cán bộ công chức. Cục Hải quan Lạng Sơn và các đơn vị trực
thuộc Cục, trong giai đoạn này Cục Hải quan tỉnh Lạng Sơn đã thu nộp ngân
sách nhà nước luôn đạt chỉ tiêu ngành giao, nổi bật là những năm: Năm 1991

tổng kim ngạch XNK mới chỉ là 22,689 triệu USD, đến 1992 đã đạt 62,256
triệu USD. Năm 1994, cả nước có 12.770 thương nhân làm hộ chiếu qua cửa
khẩu Lạng Sơn sang buôn bán với Trung Quốc tổng kim ngạch XK đạt
2.119,3 tỷ đồng. Năm 1999, nhờ những cải cách hành chính trong lĩnh vực
Hải quan được thực hiện thông thoáng, số doanh nghiệp kinh doanh XNK qua
địa bàn Lạng Sơn tăng hơn trước 34 doanh nghiệp, tổng kim ngạch XNK
cũng được tăng lên do thị trường Trung Quốc luôn ưa chuộng các sản phẩm
của Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu mang tính chiến lược luôn được duy
trì như nhóm hàng nông sản, hoa quả khô, hoa quả tươi, thủy hải sản và một
số mặt hàng tiêu dùng khác như xà phòng giặt, mỹ phẩm, bánh kẹo, hàng thủ
công mỹ nghệ 24.640 nhà doanh nghiệp của cả nước đã từ Lạng Sơn sang
Trung Quốc giao hàng, tổng kim ngạch XNK đạt 4.960,9 tỷ đồng. Những ưu
tiên đặc biệt về chính sách tài chính của Quyết định 748/TTg đã trở thành
động lực cho các hoạt động giao lưu kinh tế, thu hút ngày càng tăng lực lượng
thương nhân trong và ngoài nước tham gia hoạt động XNK. Nếu như năm
1991 chỉ có vài doanh nghiệp tham gia công ty XNK ở Lạng Sơn thì năm
1993 đã có 100 doanh nghiệp trong cả nước tham gia, làm cho hoạt động
thương mại qua biên giới Lạng Sơn càng trở nên sôi động và t hu được nhiều
kết quả. Nhờ vậy năm 1995 có 181 doanh nghiệp cả nước kinh doanh XNK
trên địa bàn Lạng Sơn tổng kim ngạch đạt 2.960 tỷ đồng nộp ngân sách đạt
169,1tỷ đồng. Từ tháng 4 – 2001, chính phủ ban hành quy chế XNK thời kỳ
2001- 2005 đây là bước chuyển biến mới, đồng thời cũng là bước ngoặt trong
quản lý XNK. Lần đầu tiên chúng ta có một cơ chế điều hành ổn định trong
thời gian dài, giúp Lạng Sơn hướng dẫn các doanh nghiệp có định hướng sản
xuất, kinh doanh lâu dài công tác XNK. Nếu như tổng kim ngạch XNK qua
địa bàn Lạng Sơn từ 1991 đến 1996 chỉ đạt 1.063,43 triệu USD trong đó kim
ngạch XK là 526,6 triệu USD, kim ngạch nhập khẩu 536,83 triệu USD.
Từ năm 1998 trở lại đây tổng kim ngạch XNK là 2.616 triệu USD, nhập
khẩu là 894 triệu trong đó kim ngạch XK là 1.722 triệu USD. Riêng năm
2000, tổng kim ngạch XNK đạt 782 triệu USD chiếm 26,4% tổng số kim

ngạch XNK toàn tuyến biên giới Việt – Trung.
Trong thời kỳ đất nước bước sang kỷ nguyên mới (giai đoạn 1999 –
2003) đây là giai đoạn mà nền kinh tế có nhiều chuyển biến mạnh mẽ trên thế
giới thì xu thế toàn dân hoá kinh tế đang ngày càng phổ biến, còn trong nước
đang đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mở cửa hội
nhập nền kinh tế quốc tế.
Trong giai đoạn này nhà nước ban hành nhiều cơ chế chính sách liên
quan trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu như: các chính sách về thuế xuất
nhập khẩu, thuế GTGT, thuế TTĐB theo hướng khuyến khích XK, mở rộng
liên doanh đầu tư nước ngoài nhằm thực hiện đúng theo tinh thần của các điều
ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia và từng bước hội nhập kinh tế
thế giới và khu vực.
Trong xu thế chung, Cục Hải quan Lạng Sơn luôn đầu tư tìm ra những
biện pháp thiết thực như: tổ chức họp mặt doanh nghiệp; công khai hoá thủ
tục hải quan; thực hiện cải cách thủ tục hành chính; đơn giản hoá thủ tục; lưu
thông hàng hoá nhanh, đúng pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
xuất nhập khẩu phát triển đúng hướng. Nhờ vậy, các doanh nghiệp trong và
ngoài tỉnh đến đăng ký và làm thủ tục Hải quan ngày càng nhiều. Bên cạnh
đó, Cục Hải quan Lạng Sơn luôn chú trọng công tác xây dựng lực lượng, ổn
định về mặt tổ chức, nâng cao chất lượng hiệu quả công tác của các cán bộ
công chức trong toàn đơn vị, đẩy mạnh thực hiện công tác thanh tra. Kiểm tra
ở các đơn vị trực thuộc Cục, tiếp tục tăng cường công tác đào tạo, cử cán bộ
đi học tại các trường Đại học, Cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, tham dự
các lớp tập huấn của ngành, của tỉnh tổ chức. Nhờ đó trình độ cán bộ công
chức ngày càng được nâng cao hơn so với những năm trước.
Sau cả một quá trình nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thử thách
từ những ngày đầu thành lập Cục cho đến nay, Cục Hải quan Lạng Sơn đã
trưởng thành về mọi mặt và luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ, xây dựng với sự
tin tưởng của Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Hiện nay, bộ máy tổ chức Cục Hải quan Lạng sơn, gồm có: 05 phòng

đội và 05 đơn vị Hải quan cửa khẩu, cụ thể:
* Khối văn phòng.
- Văn phòng cục
- Phòng tổ chức cán bộ và thanh tra
- Phòng nghiệp vụ
- Phòng tham mưu chống buôn lậu và xử lý
- Đội kiểm soát hải quan
* Khối Hải quan cửa khẩu:
- Chi cục HQCK Hữu Nghị
- Chi cục HQCK Chi Ma
- Chi cục HQ Ga đường sắt quốc tế Đồng Đăng.
- Chi cục HQ Cốc Nam
- Chi cục HQ Tân Thanh
Sơ đồ bộ máy tổ chức Cục Hải quan Lạng Sơn
Cục trưởng
Phó cục trưởng
Văn phòng Cục
Phòng TC – CB - TT
Phòng nghiệp vụ
Phòng TMCBL v xà ử

Đội kiểm soát
Chi cục HQCK Hữu nghị
Chi cục HQCK Chi Ma
Chi cục HQ Tân Thanh
Chi cục HQ Cốc Nam
Chi cục HQ Ga đường sắt
quốc tế Đồng Đăng
III. GIỚI THIỆU VỀ CHI CỤC HẢI QUAN CỬA KHẨU CHI MA
1. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH, SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

Cửa khẩu Chi Ma nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Lạng Sơn, phía Bắc giáp
với Trung Quốc, phía Đông giáp với tỉnh Quảng Ninh, phía Tây giáp
với và nằm trong địa bàn xã Yên Khoái, huyện Lộc Bình. Tổng số
hộ dân của xã Yên Khoái là 446 hộ với tổng số nhân khẩu là 2767 nhân khẩu,
trong đó có 123 hộ nghèo và còn nhiều hộ nằm trong diện ngưỡng nghèo. Xã
Yên Khoái được xếp là một trong những xã nghèo của huyện và có tình hình
buôn lậu phức tạp nhất trong huyện. Cửa khẩu Chi Ma là một cửa khẩu quốc
gia có địa hình khá phức tạp. Đường biên giới cửa khẩu Chi Ma giáp với
Trung Quốc có chiều dài khoảng 16,5km. Đối tác với cửa khẩu Chi Ma là cửa
khẩu Ái Điểm thuộc thị trấn Ái Điểm huyện Ninh Minh, tỉnh Quảng Tây,
Trung Quốc. Khu vực kiểm soát của Hải quan cửa khẩu Chi Ma là địa phận
xã Yên Khoái.
Là một cửa khẩu cách xa trung tâm thành phố Lạng Sơn khoảng 40km,
đường đi khó khăn hơn so với các tuyến đường dẫn vào cửa khẩu Hữu Nghị,
Tân Thanh, Cốc Nam nên lượng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện
xuất cảnh, nhập cảnh qua lại cửa khẩu Chi Ma cũng hạn chế hơn so với các
cửa khẩu khác của Lạng Sơn. Thường ngày cửa khẩu Chi Ma lượng hàng đã ít
rồi nay lại càng ít hơn, vì dịch bệnh "SARS". Trung bình mỗi ngày có khoảng
từ 10 đến 15 xe hàng xuất, nhập khẩu qua cửa khẩu Chi Ma, trong đó phần
lớn là các mặt hàng Trung Quốc. Hàng hoá xuất khẩu chính ngạch chủ yếu:
Nhân hạt điều đã chế biến, thùng tuốt lúa. Hàng chính ngạch nhập khẩu qua
cửa khẩu Chi Ma như: Nguyên liệu thuốc bắc, đá xẻ đã được đánh bóng một
mặt dùng trong xây dựng, cuốc xẻng, cân bàn cơ học, gạch ốp lát và thiết bị
dùng cho nhà vệ sinh. Hàng xuất khẩu tiểu ngạch chủ yếu: trăm tre nguyên
liệu, phế liệu tơ tằm, bông chít khô.
Bên cạnh công việc xuất, nhập khẩu qua cửa khẩu, cán bộ chiến sỹ Hải
quan cửa khẩu Chi Ma còn phải đối mặt với thực trạng buôn lậu và vận
chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới. Tại cửa khẩu Chi Ma, bọn
buôn lậu đã lợi dụng địa hình phức tạp của xã Yên Khoái và xã Tú Mịch là
đồi núi hiểm trở để vận chuyển hàng lậu qua biên giới. Đặc biệt là các đường

mòn ở hai bên cánh gà cửa khẩu và đường mòn nằm sâu trong các xã biên
giới. Với địa hình như vậy thuận lợi cho bọn buôn lậu thì nhiều và khó khăn
cho lực lượng hải quan và các cơ quan hữu quan trong việc chống buôn lậu
cũng không phải là ít. Thủ đoạn của bọn chúng hết sức tinh vi và xảo quyệt.
Chúng tìm mọi cách để tránh được sự kiểm soát của lực lượng chống buôn
lậu, sử dụng những cư dân biên giới và ột số ở dưới xuôi lên để gánh thuê cho
chúng.
Hàng mà bọn buôn lậu thường vận chuyển qua đường mòn chủ yếu là
nồi cơm điện Trung Quốc, thuốc muỗi, phích nước Trung Quốc, trứng gia
cầm Trung Quốc, tú lơ khơ và đồ sành sứ Trung Quốc.
Cửa khẩu Chi Ma được thành lập vào khoảng năm 1956 nhằm tăng
cường quan hệ hữu nghị Việt - Trung và mở rộng việc giao lưu kinh tế, văn
hoá giữa hai nước. Trong những năm đầu khi mới thành lập cửa khẩu, hàng
hoá chủ yếu phục vụ cho chiến tranh và cư dân biên giới hai nước. Tuy mới
những ngày đầu thành lập gặp vô vàn khó khăn nhưng được sự quan tâm của
Tổng cục Hải quan và của lãnh đạo Cục Hải quan Lạng Sơn nên đã dần dần
khắc phục được những khó khăn về mọi mặt như: cơ sở vật chất, tăng cường
lực lượng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Vào năm 1979, chiến tranh biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc nổ
ra, công tác xuất nhập khẩu tại cửa khẩu bị ngưng hoạt động. Lực lượng Hải
quan phải rút khỏi cửa khẩu và tham gia vào nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc và biên
giới.
Tháng 7 năm 1989 cửa khẩu Chi Ma được mở lại do đội liên ngành của
tỉnh đảm nhiệm gồm: lực lượng thuế, lực lượng Hải quan và Bộ đội biên
phòng.
Đến năm 1994 lực lượng thuế rút khỏi cửa khẩu, hệ thống liên ngành
không còn nữa. Lúc này lực lượng Hải quan hoàn toàn quản lý cửa khẩu.
Từ năm 1994 đến nay, trong điều kiện nền kinh tế mở cửa hội nhập với
các nước, quan hệ giữa Việt Nam và thế giới ngày càng được mở rộng, dẫn
tới sự hợp tác kinh tế và trao đổi hàng hoá với nước ngoài cũng ngày một phát

triển.
Qua 44 năm hoạt động, Hải quan cửa khẩu Chi Ma đã trưởng thành lên
rất nhiều. Từ khi luật Hải quan ra đời (12/7/2001) và bắt đầu có hiệu lực
(01/01/2002) Hải quan cửa khẩu Chi Ma được đổi tên thành Chi cục Hải quan
cửa khẩu Chi Ma. Mặc dù tên gọi có khác nhau nhưng Hải quan cửa khẩu Chi
Ma vẫn thực hiện đúng, đủ 4 nhiệm vụ theo luật định là: thực hiện việc kiểm
tra, giám sát hàng hoá, phương tiện vận tải, phòng chống buôn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới, tổ chức thực hiện pháp luật về thuế
đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, kiến nghị chủ trương biện pháp quản
lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh,
nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuê đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu.
Với những nhiệm vụ đó, Chi cục hải quan cửa khẩu Chi Ma dưới chỉ đạo
của Lãnh đạo cục Hải quan Lạng Sơn, đã tổ chức xây dựng một đội ngũ cán
bộ và cơ cấu các đội công tác nghiệp vụ để đáp ứng được yêu cầu thực tế
công việc cửa khẩu và ngày càng hoàn thiện tốt hơn về tất cả các mặt cho đội
ngũ cán bộ công chức trong chi cục. Về mặt đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình
độ, đơn vị đã cử nhiều cán bộ đương chức theo học tại các lớp tại chức Cao
đẳng Hải quan các khoá đào tạo ngắn hạn do Tổng cục Hải quan và do
Trường Cao đẳng Hải quan tổ chức và tại một số các trường Đại học khác.
Ngoài ra chi cục cũng cố gắng đảm bảo tốt nhất về điều kiện sinh hoạt và làm
việc cho cán bộ công chức tại đơn vị. Nhờ vậy trong những năm qua đội ngũ
cán bộ công chức Chi cục hải quan cửa khẩu Chi Ma đã đáp ứng được yêu
cầu thực tế công việc tại cửa khẩu và hoàn thành tốt nhiệm vụ cấp trên giao
phó.
2. TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ CÁN BỘ
Bất cứ một cơ quan nào cũng đòi hỏi phải có một bộ máy để điều hành
quản lý, bộ máy đó được tổ chức càng khoa học bao nhiêu thì hiệu quả hoạt
động càng cao bấy nhiêu. Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ và công tác tổ chức cán
bộ cũng hết sức quan trọng để góp phần xây dựng, tổ chức vững mạnh.

Chi cục hải quan cửa khẩu Chi Ma cũng đặc biệt chú trọng đến công tác
tổ chức và cán bộ.
Tổng số nhân viên toàn Chi cục hải quan cửa khẩu Chi Ma là 22 người:
* Trong đó: - Ban lãnh đạo: 2 người
- Đội tổng hợp: 3 người
- Đội nghiệp vụ: 14 người
* Về trình độ học vấn chuyên môn của cán bộ nhân viên
+ Đại học: 8 người
+ Cao đẳng, trung cấp: 10 người
+ Phổ thông trung học và dưới PTTH: 5 người
* Về ngạch lương của CBNV:
- Kiểm tra viên chính: 0 - Kiểm tra viên: 8 người
- Kiểm tra viên trung cấp: 5 người
- Nhân viên: 5 người
- Phục vụ: 4 người
* Trong đó:
- Đảng viên: 9 người - Đoàn viên: 1 người
- Cán bộ nhân viên nữ: 2 người
Chi cục hải quan cửa khẩu Chi Ma bao gồm 2 đội công tác, mỗi đội
thường có một đội trưởng và một đội phó. Tất cả các đội và tổ đều chịu sự chỉ
đạo trực tiếp của lãnh đạo cửa khẩu, có 2 đồng chí lãnh đạo cửa khẩu:
Chi cục trưởng: Vũ Tuấn Bình
Phó Chi cục trưởng: Vũ Văn Toàn
Chi cục trưởng chịu trách nhiệm quản lý chung về các mặt công tác
nghiệp vụ tại cửa khẩu, trực tiếp chỉ đạo thực hiện một số công việc cụ thể và
chịu trách nhiệm trước cục trưởng.
Phó chi cục trưởng giúp việc cho chi cục trưởng, thay mặt chi cục trưởng
thực hiện một số việc khi chi cục trưởng đi vắng và chịu trách nhiệm trước
chi cục trưởng.
Sơ đồ bộ máy tổ chức Chi cục hải quan cửa khẩu Chi Ma

3. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ VÀ MỐI QUAN HỆ
Chi cục hải quan cửa khẩu Chi Ma có đầy đủ chức năng nhiệm vụ được
quy định trong Luật Hải quan bên cạnh đó tuỳ theo thực tế mỗi đội công tác
có những chức năng, nhiệm vụ riêng cụ thể như sau:
A. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ
* Đội tổng hợp (3 người): có nhiệm vụ tham mưu giúp việc cho lãnh đạo
cửa khẩu về công tác sau:
Chi cục trưởng
Phó Chi cục trưởng
Đội nghiệp vụ Tổ kiểm soátĐội tổng hợp
Phúc tập Kế toán Tổ tiếp
nhận
Tổ kiểm
hoá
Tổ tính
thuế
+ Phúc tập (1 người): xem xét hồ sơ xuất nhập khẩu tính thuế lại nhằm
phát hiện kịp thời những sai sót làm thất thu thuế. Tham mưu cho lãnh đạo,
giải quyết những vướng mắc trong công tác kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu,
đề xuất biện pháp xử lý các hành vi vi phạm chính sách, chế độ về thuế.
+ Kế toán (1 người): Báo cáo hàng tháng, hàng quý về toàn bộ hoạt động
xuất khẩu, nhập khẩu và đề ra các phương hướng những tháng tiếp theo. Quản
lý, theo dõi và cấp phát các loại ấn chỉ, lượng tiền mặt. Quản lý, lưu trữ công
văn, chi trả lương cho cán bộ nhân viên trong toàn chi cục.
* Đội nghiệp vụ (10 người): giám sát quản lý, thuế xuất nhập khẩu và
thủ tục Hải quan.
+ Tổ tiếp nhận: (1 người): làm công tác tiếp nhận hồ sơ khi chủ hàng đưa
đến, xem đã đầy đủ chưa. Bên cạnh đó còn kiểm tra tính hợp pháp của các
giấy tờ trong hồ sơ. Xem xét song không có gì thiếu sót chuyển cho các khâu
tiếp theo.

+ Tổ tính thuế: kiểm tra bộ hồ sơ, đối chiếu các biểu thuế, viết biên lai,
đối chiếu kết quả kiểm hoá với chứng từ hải quan.
+ Tổ kiểm hoá: làm công tác kiểm tra lô hàng xuất nhập khẩu có đúng
với khai báo hay không. Rồi đề xuất biện pháp xử lý, khi chủ hàng khai báo
gian dối. Nhằm phát hiện những gian lận trong hoạt động xuất nhập khẩu.
+ Tổ kiểm soát (4 người): tổ chức thực hiện công tác phòng ngừa, đấu
tranh chống buôn lậu, chống gian lận thương mại, vận chuyển trái phép hàng
hoá, tiền Việt Nam, đồ cổ và các chất ma tuý qua biên giới, cửa khẩu và khu
vực kiểm soát hải quan theo quy định của pháp luật.
Tổ chức nắm tình hình, sưu tra đối tượng buôn lậu trên các địa bàn hoạt
động, xây dựng kế hoạch, phương án chung cho công tác đấu tranh chống
buôn lậu, chống gian lận thương mại.
Tiến hành điều tra, lập hồ sơ phân loại đối tượng, xác định chuyên án,
lập phương án, xây dựng cơ sở bí mật.
Tổ chức tuần tra, kiểm soát, phục kích để phát hiện các ổ, nhóm, đường
dây hoạt động buôn lậu.
Tổng hợp tình hình, thống kê báo cáo về kết quả thực hiện các vụ việc,
về đối tượng, địa bàn hoạt động buôn lậu để kịp thời đề xuất biện pháp với chi
cục.
B. MỐI QUAN HỆ
* Giữa Chi cục hải quan cửa khẩu Chi Ma với các ngành có liên quan
Chi cục hải quan cửa khẩu Chi Ma là chi cục thuộc Cục Hải quan tỉnh
Lạng Sơn quản lý. Đường sá đi lại gặp rất nhiều khó khăn, không giống với
các tuyến đường đi vào cửa khẩu Cốc Nam, Tân Thanh, Hữu Nghị. Cửa khẩu
Chi Ma có đường biên giới với Trung Quốc dài khoảng 16,5km là một trong
những cửa khẩu quan trọng của tỉnh Lạng Sơn. Mà Lạng Sơn là cửa ngõ xuất
nhập khẩu hàng hoá trong quá trình hội nhập kinh tế. Do đó, việc phối kết hợp
giữa Chi cục hải quan cửa khẩu Chi Ma (Lạng Sơn) với các chi cục khác của
tỉnh bạn là vấn đề quan trọng và phải luôn được duy trì.
Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ do Cục Hải quan tỉnh, Tổng cục

Hải quan giao phó, Chi cục hải quan cửa khẩu Chi Ma không thể tự mình
hoàn thành được mà phải cần có sự phối kết hợp một cách nhịp nhàng, đồng
bộ với các cơ quan chức năng, các ban ngành khác như:
+ Kết hợp với chi cục, Cục Hải quan Hải Phòng, Cục Hải quan Thanh
Hoá để giám sát hàng hoá xuất nhập khẩu chuyển tiếp, làm thủ tục chuyển
tiếp cho hàng hoá xuất nhập khẩu.
+ Phối kết hợp với kho bạc, thuế tỉnh để theo dõi tình hình thu nộp thuế.
+ Chủ động phối kết hợp với các cơ quan chức năng liên quan đóng trên
địa bàn như: Bộ đội biên phòng, kiểm dịch, Chính quyền địa phương để
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về Hải quan được giao.
+ Đối với công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương, Chi cục
hải quan cửa khẩu Chi Ma (Lạng Sơn) đã phối kết hợp với công an, bộ đội
biên phòng trong quá trình ngăn chặn, khám xét, bắt hàng.
Trên đây là những mối quan hệ mang tính hỗ trợ, kết hợp giữa Chi cục
hải quan cửa khẩu Chi Ma với các cơ quan ban ngành khác đóng trên địa bàn.
Riêng mối quan hệ dọc giữa Chi cục và Cục Hải quan tỉnh, giữa các đội, tổ
trong nội bộ cơ quan là quan hệ tất yếu phải được thiết lập mà không có sẽ
không đạt được hiệu quả công việc, cũng như sẽ đi chệch với đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước.
* Giữa các đội, tổ trong Chi cục
Trong quá trình tiến hành các công việc được giao, giữa các đội, tổ luôn
có sự phối hợp chặt chẽ với nhau và có mối quan hệ mật thiết, vừa góp phần
kiểm tra, giám sát lẫn nhau, vừa tạo điều kiện để cùng nhau hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao.
Ví dụ; Trong quá trình kiểm tra, giám sát nếu phát hiện các hành vi trốn
lậu thuế, gian lận thương mại và các vi phạm pháp luật Hải quan thì tiến hành
lập biên bản và bàn giao cho bên chống buôn lậu và gian lận thương mại để
xử lý.
Các công việc của tổ kiểm hoá vừa là căn cứ để đội thuế áp giá tính thuế
và xác định số thuế phải nộp. đồng thời tổ thuế cùng tiến hành kiểm tra lại kết

quả kiểm hoá, áp mã của đội kiểm hoá.
Chính vì vậy mà giữa các đội, giữa các khâu nghiệp vụ hải quan có mối
quan hệ qua lại với nhau, giàng buộc, phụ thuộc lẫn nhau và hỗ trợ tạo điều
kiện cho nhau.
* Giữa Chi cục hải quan cửa khẩu Chi Ma với Cục Hải quan tỉnh Lạng
Sơn. Chi cục hải quan cửa khẩu Chi Ma thường xuyên báo cáo với Cục Hải
quan tỉnh Lạng Sơn về tình hình hoạt động xuất nhập khẩu cũng như công tác
chống buôn lậu tại đây. Cung cấp những thông tin cần thiết, kịp thời về những
mặt hàng mới với sự chênh lệch giá giữa bảng giá tối thiểu Nhà nước quy
định và giá thực tế tại cửa khẩu, đồng thời đề xuất phương hướng giải quyết
cho phù hợp. Thường xuyên giao nộp hồ sơ xuất nhập khẩu hàng hoá tại cửa
khẩu Chi Ma. Và nhận ấn chỉ Hải quan, niêm phong, kẹp chì từ Cục Hải quan
tỉnh Lạng Sơn. Báo cáo công tác chống buôn lậu, phương thức thủ đoạn, bọn
buôn lậu thường sử dụng cũng như những phương thức thủ đoạn mới, mặt
hàng mới xuất hiện tại địa bàn. Trong quá trình kiểm hoá nếu phát hiện ra
những vụ gian lận thương mại vượt thẩm quyền giải quyết của cửa khẩu thì
bàn giao cho Cục Hải quan tỉnh Lạng Sơn xử lý.
Lãnh đạo Cục Hải quan Lạng Sơn thường xuyên nắm bắt tình hình, đến
thăm khảo sát thực tế tại đơn vị, tham dự các buổi họp toàn đơn vị, các buổi
họp chi bộ của đơn vị từ đó đề ra các phương hướng chỉ đạo đúng đắn phù
hợp với tình hình thực tế tại cửa khẩu Chi Ma.
* Giữa Chi cục hải quan cửa khẩu Chi Ma với các cửa khẩu khác của
Cục Hải quan tỉnh Lạng Sơn:
Trong quá trình cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, các cửa
khẩu thi đua hoàn thành các chỉ tiêu được giao, đồng thời phối kết hợp với
nhau trong công tác. Thường xuyên cung cấp những thông tin cần thiết về loại
hàng hoá mới phương thức, thủ đoạn buôn lậu và gian lận thương mại xuất
hiện tại địa bàn của mình. Trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Thường
xuyên tổ chức giao lưu văn hoá, thể thao giữa các đơn vị, tham dự các buổi
họp đơn vị của cửa khẩu khác.

* Quan hệ giữa Chi cục hải quan cửa khẩu Chi Ma với Hải quan cửa
khẩu Ái Điểm - Trung Quốc
Căn cứ vào Điều 2 của Hiệp định về mua bán hàng hoá ở vùng biên giới
giữa chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Chính phủ
nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ngày 19 tháng 10 năm 1998 quy định:
"Hai bên ký kết khuyến khích, thúc đẩy hoạt động mua bán hàng hoá ở vùng
biên giới phát triển lành mạnh, liên tục, ổn định và có biện pháp tăng cường
phối hợp chống buôn lậu, gian lận thương mại.
Hai bên thường xuyên qua lại, thăm hỏi và chúc mừng lẫn nhau trong
các ngày lễ lớn của mỗi nước nhằm thắt chặt tình đoàn kết hữu nghị giữa hai
quốc gia.
PHẦN II
TÌNH HÌNH BUÔN LẬU VÀ CÔNG TÁC KIỂM SOÁT CHỐNG
BUÔN LẬU TẠI CHI CỤC HẢI QUAN CỬA KHẨU CHI MA.
I. THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH BUÔN LẬU VÀ VẬN CHUYỂN
TRÁI PHÉP HÀNG HOÁ QUA BIÊN GIỚI.
1- CƠ SỞ LÝ LUẬN
Theo tình thân chỉ thị 853/TTg của Thủ tướng chính phủ về tăng cường
công tác chống buôn lậu (CBL) trong tình hình mới và chỉ thị số 01/1998/CT-
TCHQ về tăng cường công tác chống buôn lậu - gian lận thương mại (GLTM)
ngành Hải Quan nói chung và chi cục Hải Quan cửa khẩu Chi Ma nói riêng đã
đề ra nhiều chủ trương biện pháp CBL, tăng cường việc phối kết hợp với các
lực lượng chức năng có liên quan trong công tác kiểm soát, CBL tại điạ bàn.
Chỉ thị số 19/2000/CT-TTg ngày 28/9/2000 của Thủ tướng Chính phủ về
việc tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, CBL và GLTM tại các cửa
khẩu.
Để tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, CBL và GLTM, chính phủ
đã ban hành Nghị định số 16/CP ngày 20/3/1996, Nghị định số 54/1998/NĐ-
CP, ngày 21/7/1998 và Nghị định số 58/2000/NĐ-CP ngày 24/10/2000 sửa
đổi bổ sung Nghị định số 16/CP va 54/CP quy định việc xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về HQ.
Thông tư số 08/2000/TT-TCHQ ngày 20/11/2000 của Hải Quan hướng
dẫn thi hành Nghị định của chính phủ quy định việc xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về Hải Quan.
Quyết định số 681/2000/QĐ ngày 13/12/2000 của Tổng cục trưởng
TCHQ sửa đổi bổ sung mẫu ấn chỉ và bản quy định sử dụng mẫu ấn chỉ xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nứơc về Hải Quan.
Thế kỷ 21 đã bắt đầu, thế kỷ mà thế thế giới có nhiều thay đổi to lớn. Xu
hướng toàn cầu hoá kinh tế đã trở nên phổ biến, hội nhập kinh tế quốc tế là
yêu cầu tốt yếu của mỗi đất nước nếu muốn tồn tại và phát triển. Buôn lậu và
gian lận thương mại ngày càng phức tạp hơn và đặt ra những thách thức lớn
đối với đất nước ta. Buôn lậu và gian lận thương mại đã và đang gây ra những
hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế đất nước, gây thất thu ngân sách
Nhà nước, phá hoại nền sản xuất trong nước. Bên cạnh đó, buôn lậu còn gây
ảnh hưởng xấu đến nền văn hoá, chính trị của đất nước. Tác hại của buôn lậu
là rất lớn và là tác hại lâu dài. Vì vậy cuộc đấu tranh chống buôn lậu là cuộc
đấu tranh thường xuyên và lâu dài và cần sự nỗ lực phấn đấu của mọi cấp,
mọi ngành. Trong đó lực lượng chuyên trách về kiểm soát chống buôn lậu
phải đi tiên phong trong công tác này.
Luật Hải Quan định nghĩa "kiểm soát chống buôn lậu là các biện pháp
tuần tra, điều tra, hoặc biện pháp nghiệp vụ khác do cơ quan Hải quan áp
dụng để phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá biên giới và
các hành vi khác vi phạm pháp luật Hải quan"
Nhận thức được tác hại của buôn lậu trên tinh thần của luật Hải quan và
các văn bản, chỉ thị của chính phủ, của TCHQ, lãnh đạo cục Hải Quan Lạng
Sơn, và lãnh đạo các đơn vị trực thuộc đã đưa ra các kế hoạch phương án
kiểm soát chống buôn lậu và tổ chức chỉ đạo, quán triệt đến từng cán bộ
chiến sĩ Hải quan trong các đơn vị nhằm triển khai các phương án kiểm soát
chống buôn lậu, ngăn ngừa các hành vi buôn lậu gian lận thương mại và vận
chuyển trái phép hàng hoá vào nước ta.

Chỉ cục Hải quan cửa khẩu Chi Ma được lãnh đạo cục Hải quan Lạng
Sơn giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện công tác kiểm soát chống buôn lậu và
phối hợp công tác với các lực lượng chức năng đóng trên địa bàn kiểm soát
các khu vực biên giới thuộc phạm vi quản lý.
Cơ sở pháp lý hoạt động kiểm soát chống buôn lậu.
- Các điều khoản thuộc chương IV luật Hải quan.
- Điều 153 Bộ luật hình sự quy định về tội buôn lậu.
- Điều 93 bộ luật tố tụng hình sự quy định về thẩm quyền điều tra của cơ
quan Hải Quan.
- Điều 28 pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự.
- Một số công văn chỉ thị của chính phủ và TCHQ. Quyết định số
1593/QĐ-ĐT ngày 20/6/2002 của TCHQ, chỉ thị số 853/CT-TTg của thủ
tướng chính phủ và một số văn bản khác có liên quan.
2- KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ BUÔN LẬU, GIAN LẬN THƯƠNG MẠI; KIỂM
SOÁT HẢI QUAN.
* Buôn lậu là hành vi buôn bán mang hàng cấm hoặc hàng hoá ngoại hối
qua biên giới không khái báo và trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của Hải
quan hoặc các cơ quan quản lý biên giới (nơi không có tổ chức Hải quan).
Đặc trưng chủ yếu của buôn lậu dễ nhận biết là ngược thực hiện hành vi tội
phạm thường lén lút, hoạt động bí mật chúmg cũng dùng nhiều thủ đoạn để
thực hiện hành vi nhưng chủ yếu là cac thủ đoạn ngụy trang, che dấu, thậm
chí liều lĩnh tấn công lực lượng kiểm tra, kiểm soát hoặc lung đoạn đọn nội
bộ, mua chuộc cán bộ khi bị phát hiện.
* Kiểm soát Hải quan: là các biện pháp tuần tra, điều tra hoặc biện pháp
nghiệp vụ khác do cơ quan Hải quan áp dụng đề phòng, chống buôn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới và các hành vi khác vi phạm pháp
luật hải quan.
* Gian lận thương mại thuộc lĩnh vực Hải quan là hành vi phạm pháp
Hải quan do người có hành vi gian dối và có những thủ đoạn che dấu sự gian
dối này nhằm trốn tránh toàn bộ hoặc một phần thuế suất nhập khẩu phải nộp

hoặc trốn tránh sự ngăn cấm và hạn chế xuất nhập khẩu do pháp luật Hải quan
quy định hoặc tìm cách để đạt được những lợi ích trái pháp luật Hải quan.
Gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan là bất cứ hành vi nào trái
với luật lệ quy định của lĩnh vực quản lý nhà nước về Hải quan nhằm mục
đích:
+ Trốn tránh nghĩa vụ hoặc đang tìm cách để trốn tránh nghĩa vụ phải
nộp thuế, lệ phí và các khoản phí khác đối với hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hoá thương mại.
+ Trốn tránh nghĩa vụ hoặc đang tìm cách để trốn tránh những nghĩa vụ
phải chấp hành bất cứ quy định nào, cấm hoặc hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu
đang áp dụng đối với hàng hoá thương mại.
+ Thu thập hoặc tìm cách thu nhận lại bất cứ sự hoàn thuế, lệ phí và các
khoản phí khác đã nộp cho cơ quan Hải quan mà các khoản thu nhận lại này
là không hợp lệ
+ Đạt được hoặc tìm cách để đạt được những ưu đãi bất chính về thương
mại làm tổn hại đến nguyên tác và tập quán của hoạt động kinh doanh thương
mại chân chính.
3- ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH.
Tình hình buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới tại điạ
bàn cửa khẩu Chi Ma diễn ra rất phức tạp, các đối tượng buôn lậu đã lợi dụng
địa hình đồi nói có nhiều đường mòn lối tắt qua biên giới, nên công tác kiểm
soát gặp nhiều khó khăn. Do nhu cầu, sở thích của khách hàng trong nước là
dùng hàng Trung Quốc vừa rẻ và đẹp nên những người buôn lậu ở bên Trung
Quốc đã thành lập, nhiều bãi nhiều kho, chứa hàng sát với đường biên giới
của Việt Nam. Họ móc ngoặc với các thương nhân Việt Nam tìm mọi cách để
vận chuyển hàng của họ vào Việt Nam.
Tại khu vực biên giới cửa khẩu Chi Ma giáp với cửa khẩu Ái Điểm -
Trung Quốc hiện có khoảng từ 3 đến 6 kho để chứa hàng nhằm vận chuyển
lâu vào Việt Nam. Chi cục Hải quan cửa khẩu Chi Ma. Kiểm soát cùng lúc ở
cửa khẩu và hai bên cách gà của cửa khẩu. Với số người tham gia mang vác

hàng khác đông, trung bình ban ngày có khoảng từ 15 đến 50 người. Còn ban
đêm trung bình khoảng từ 100 đến 150 người. Các mặt hàng hay mang là: Nồi
cơm điện, Mô tơ điện, hàng sành sứ, đèn pin các loại, phụ tùng xe đạp, mũ
bảo hiểm xe máy, săm lốp ô tô, thuốc sịt mỗi. Tính đến ngày 20 tháng 5 năm

×