Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận Triết học Sự ra đời của Triết học Mác là bước ngoặc cách mạng trong lịch sử Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.14 KB, 17 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC








TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI: SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC
MÁC LÀ BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG
TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Giáo viên hướng dẫn : TS. BÙI VĂN MƯA
Sinh viên thực hiện : TRẦN VĂN TRUNG
Số thứ tự : 05
Lớp : ĐÊM 5
khóa : K20
TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2012
2
MỤC LỤC
Mở đầu 1
Chương 1: Hoàn cảnh ra đời của triết học Mác.
1.1 Tiền đề, điều kiện ra đời của triết học Mác 2
1.1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội 2
1.1.2 Tiền đề lý luận 3
1.1.3 Tiền đề khoa học tự nhiên 4
1.2 Những giai đoạn chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác-


Lênin 4
1.2.1 Giai đoạn Mác – Angghen 4
Chương 2: Sự ra đời của triết học Mác là “bước ngoặt cách mạng” trong lịch
sử triết học.
2.1 Sụ thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng 9
2.2 Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử 11
2.3 Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn 12
2.4 Thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng 12
2.5 Xác định mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể 13
Kết luận……………………………………………………………………………14
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng hoàn
chỉnh, là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc
3
đấu tranh để nhận thức và cải tạo thế giới. Hiện nay, cuộc đấu tranh tư tưởng và
thực tiễn mới xây dựng đất nước đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu và nhận thức lại
những giá trị đích thực của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có việc nghiên cứu và
quán triệt những nguyên lý cơ bản của triết học duy vật biện chứng, để phát triển và
vận dụng học thuyết cách mạng vào khoa học đó một cách sáng tạo trong hoạt động
thực tiễn. Vì vậy, việc khôi phục và bảo vệ những giá trị của triết học mácxít cũng
như toàn bộ chủ nghĩa Mác - Lênin, khẳng định vị trí và vai trò của triết học mácxít
trong lịch sử triết học cũng như trong cuộc sống, trở thành một nhiệm vụ bức thiết.
Trong bài tiểu luận ngắn này em xin trình bày một cách ngắn gọn và sơ lược quá
trình hình thành và ra đời của triết học duy vật biện chứng mácxít: “Sự ra đời của
triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử Triết học”. Vì thời gian và
trình độ có hạn, bài tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong được
sự chỉ bảo của các thầy và những ai quan tâm đến vấn đề này.
4
CHƯƠNG 1
HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC

Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỉ XIX. Sự ra đời của triết
học Mác không phải là ngẫu nhiên mà là sự kết tinh có tính quy luật của sự phát
triển của lịch sử tư tưởng triết học nhân loại và trên cơ sở các điều kiện kinh tế- xã
hội cũng như trình độ phát triển của khoa học tự nhiên ở thế kỉ XIX.
1.1 Tiền đề, điều kiện ra đời của triết học Mác.
1.1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội.
Giữa thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển mạnh ở các nước Tây Âu,
nhất là ở Anh, Pháp và một phần ở Đức. Vượt qua thời kì phong kiến, sự phát triển
mạnh mẽ của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã chứng minh tính ưu việt
của nó so với các chế độ xã hội khác trong lịch sử.
Triết học Mác ( chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa vật lịch sử) là bộ
phận cấu thành đồng thời là cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác, là chìa khoá để giải
thích trên cơ sở khoa học quá trình phát triển của tư tưởng nhân loại.
Trong thời kỳ này, phong trào của giai cấp vô sản đã phát triển mạnh mẽ.
Cuộc đầu tranh của giai cấp vô sản ở nhiều nơi đã trở thành các cuộc khởi nghĩa với
những yêu sách giai cấp rõ ràng. Cuộc khởi nghĩa của công nhân Liông (Pháp) năm
1831 và năm 1834, cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở Xilêdi (Đức) năm 1834 và phong
trào Hiến chương ở Anh vào cuối những năm 30 đầu những năm 40 của thế kỷ XIX
đã thu hút được sự chú ý của các đại biểu tiên tiến của các tầng lớp tri thức tư sản
tiến bộ, trước hết là C. Mác và Ph.Ăngghen tới vấn đề nguyên nhân, bản chất của
các cuộc đấu tranh giai cấp - xã hội và những triển vọng của các cuộc đấu tranh giai
cấp ấy. Rõ ràng những cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến
ở châu Âu những năm 30 - 40 của thế kỷ XIX là nhân tố khách quan chứng tỏ rằng
đã có những tiền đề xã hội - giai cấp và những điều kiện để xuất hiện chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, là chứng cứ để nói rằng nhu cầu xã hội
đã chín muồi để xuất hiện một thế giới quan triết học mới - triết học mácxít.
5
Mặt khác lý luận chủ nghiã xã hội không tưởng của Xanh Ximong, Phuriê ,
Về bản chất, không đáp ứng được yêu cầu, lợi ích và sứ mệnh lịch sử của giai cấp
vô sản. Chỉ có triết học Mác ra đời mới đáp ứng được nhu cầu là vũ khí tinh thần

của giai cấp vô sản cũng như giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của triết học Mác,
bởi vì chỉ có triết học Mác mới có khảo năng cải tạo chủ nghĩa xã hội không tưởng
thành chủ nghĩa xã hội khoa học
1.1.2 Tiền đề lý luận.
Tiên đề về lý luận của triết học Mác là biểu hiện quá trình tiếp nhận, trên tinh
thần phê phán những giá trị nổi bật trong triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học
Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Sự ra đời của triết học Mác không phải là hiện tượng biệt lập, tách rời lịch sử
nhân loại, mà là kết quả của toàn bộ quá trình đó.
Một trong những đại biểu lớn nhất của triết học cổ điển Đức là Phoiơbắc.
Ông là nhà triết học duy vật, chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là chủ nghĩa duy vật
nhân bản. Ông coi con người với tư cách là một thực thể của tự nhiên- là đối tượng
nghiên cứu của triết học. C.Mác và Ăngghen đã đánh giá cao chủ nghĩa duy vật của
Phoiơbắc nhưng đồng thời cũng phê phán tư duy siêu hình và duy tâm về lịch sủ
của ông .Chính C.Mác và Ăngghen là những người nhận thức một cách chính xác
đóng góp và hạn chế của Phoiơbắc, làm tiền đề cho sự hình thành và phát triển của
thế giới quan duy vật biện chứng của mình.
Xét trong tiến trình phát triển của lịch sử triết học, sự ra đời cuả triết học
Mác còn là sự tiếp nhận tinh thần phê phán tinh hoa của lịch sử triết học nhân loại.
Những học thuyết đó là những đỉnh cao của sự phát triển tư tưởng lý luận xã hội
của loài người trong tại kỳ trước Mác. Sự phát triển hơn nữa về kinh tế chính trị
học, lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học và triết học chỉ có thể có được với sự ra
đời của phép biện chứng duy vật. Song rõ ràng, những thành tựu đã đạt tới của nhân
loại lại là những tiền đề lý luận tất yếu về mặt lịch sử; và là nguồn góc của chủ
nghĩa Mác nói chung và của triết học mácxít nói riêng.
6
1.1.3 Tiền đề khoa học tự nhiên.
Sự phát triển mạnh mẽ của hoa học tự nhiên, nhất là trên lĩnh vực vật lý học
và sinh học đã làm thay đổi quan niệm siêu hình về thế giới tự nhiên; đồng thời
khẳng định tính biện chứng khách quan của mọi quá trình trong sự vận động và phát

triển của thế giới. Khoa học tự nhiên mang tính chất lý luận trong giai đoạn này là
tiền đề cho sự ra đời của triết học Mác; cũng như những khái quát của triết học Mác
đặt cơ sở về thế giới quan và phương pháp luận cho các lĩnh vực khoa học cụ thể
trong việc nhận thức thế giới khách quan.
Chủ nghĩa Mác ra đời trong bối cảnh ấy và nó là sản phẩm mang tính quy
luật của khoa học và triết học mà nhân loại đã đạt tới, nó được hình thành như là kết
quả của các phát hiện của Mác và Ăngghen về những quy luật chung nhất của sự
phát triển thế giới. Chủ nghĩa Mác do Mác và Ăngghen sáng lập là một học thuyết
thống nhất, hoàn chỉnh, gồm ba bộ phận cấu thành: triết học mácxít, kinh tế chính
trị học mácxít và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Sự hình thành thế giới quan duy vật của Mác và Ăngghen cũng đồng thời là
quá trình nghiên cứu những cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng của các ông
diễn ra trong nửa đầu của những năm 40 thế kỷ XIX dưới ảnh hưởng trực tiếp của
phong trào công nhân và những phát minh về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội,
trong quá trình đấu tranh chống phép biện chứng duy tâm của Hêghen và phê phán
chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc.
1.2 Những giai đoạn chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của triết học
Mác-Lênin.
1.2.1 Giai đoạn Mác- Angghen
Các Mác sinh ngày 5 - 5 - 1818 tại Tơria, vùng Ranh của nước Đức. Ngay từ
lúc còn học trung học, Mác đã thể hiện là một thanh niên tài năng, biết gắn hạnh
phúc của mình với hạnh phúc của mọi người.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu ở Đại học Bon và Béclin, Mác rất khao
khát học tập, nghiên cứu triết học, vì theo ông, không có triết học thì không thể xâm
nhập được vào sự vật. Mác say sưa đọc các tác phẩm của Căng, Vônte, Rútxô và
7
đặc biệt là của Hêghen. Càng nghiên cứu triết học, Mác càng khao khát tìm câu trả
lời về các vấn đề có ý nghĩa của con đường lịch sử loài người. Và ở Hêghen. Nét
nổi bật nhất của Mác nhận thấy ở Hêghen là phương pháp tư duy của ông, là phép
biện chứng và tư tưởng phát triển. Phép biện chứng Hêghen vạch rõ rằng các trạng

thái của lịch sử chỉ là những bước phát triển nhất thời, chỉ là những giai đoạn trong
tiến trình phát triển vô tận từ thấp đến cao của xã hội loài người. Cái mà hôm qua
vẫn còn tồn tại một cách hợp lý, thì hôm nay lại đang tiêu vong, thay vào đó là một
hiện thực mới, cao hơn, đi vào lịch sử xã hội loài người. Nhưng Hêghen là nhà duy
tâm. Ông đã coi cơ sở của mọi cái hiện tồn là sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối”
của cái “tinh thần thế giới”. Ý niệm tuyệt đối của Hêghen như ông đã khẳng định -
đã đạt tới điểm cuối cùng của nó, và sẽ đạt tới đỉnh hoàn thiện trong một nhà nước
Phổ cải cách và trong một nền quân chủ lập hiến. Như vậy quan điểm đó lại là một
quan điểm bảo thủ, trái với phép biện chứng của ông, trái với phương pháp không
hề biết đến trạng thái tĩnh và chân lý tuyệt đối.
Mâu thuẫn đó phản ánh sự bất đồng trong giai cấp tư sản, là giai cấp muốn
thoát khỏi những xiềng xích của chế độ phong kiến, nhưng do sợ hãi nhân dân nên
đã tìm cách thoả hiệp với chế độ quân chủ Phổ và giới quý tộc phong kiến. Mặc dù
có những mâu thuẫn đó và còn mang tính chất nửa vời; nhưng triết học Hêghen vẫn
là một bước tiến lớn trong lịch sử tư duy của con người. Chính vì thế nên Mác
chuyển sang nghiên cứu Hêghen, tiếp thu phép biện chứng của Hêghen.
Khoảng giữa tháng 4 - 1841 Mác từ Béclin trở về Tơria, dự định xin làm một
giảng viên trường Đại học, nhưng không thực hiện được. Giữa lúc đang tìm kiếm
một môi trường hoạt động thích hợp thì Mác đọc được một cuốn sách mà suốt thời
gian sau đó khiến ông bận tâm rất nhiều - đó là cuốn Bản chất đạo Cơ đốc của Lút
vích Phoiơbắc. Mác say sưa với cuốn sách vì ông nhận thấy ở đây xuất hiện một
nhà triết học không chỉ phê phán gay gắt hệ tư tưởng tôn giáo của các tầng lớp
phong kiến mà còn tiếp tục phát triển một cách có phê phán một số mặt riêng biệt
của triết học Hêghen. Trong tác phẩn này, tác giả đã vứt bỏ mọi thứ tôn giáo cũng
như toàn bộ chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, coi chúng là trái ngược với bản chất
8
thực sự của thế giới và với phẩm giá con người và thay vào đó bằng chủ nghĩa duy
vật triết học. Phoiơbắc tuyên bố rằng, để tồn tại thì thế giới cũng như con người
chẳng cần một vị thần hay một “ý niệm tuyệt đối” nào của Hêghen cả. Con người
tồn tại được chỉ là nhờ tự nhiên và là một sản phẩm của sự phát triển tự nhiên. Tự

nhiên, tồn tại là cái có trước và chúng tồn tại độc lập đối với con người và đối với ý
thức của con người. Ngoài con người và tự nhiên ra không còn có cái gì khác,
không có thần. Tôn giáo là một sản phẩm của con người.
Những nhận thức đó của Phoiơbắc đã đánh tan sự hấp dẫn của chủ nghĩa duy
tâm của Hêghen. Những tư tưởng duy vật, vô thần và nhân đạo chủ nghĩa của Ông
đã gây ấn tượng mạnh mẽ trong giới tri thức tiến bộ ở Đức. Song chẳng bao lâu, với
cách nhìn phê phán, Mác đã bắt đầu nhận thấy những điểm yếu trong học thuyết của
Phoiơbắc, trước hết là cái khuyết điểm không coi con người là một thực thể có tính
lịch sử và do xã hội quy định. Điều đó đã cản trở Phoiơbắc vận dụng chủ nghĩa duy
vật để xem xét xã hội loài người và lịch sử của xã hội loài người. Nhưng ngay cả
Mác cũng phải dân dần mới có được những nhận thức ấy.
Những năm 1843 đến 1844 là thời kỳ chuyển biến mạnh mẽ của Mác từ lập
trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa, từ duy tâm sang duy
vật biện chứng. Điều đó được thể hiện trong các bài viết của ông đăng trên tờ báo
Niên giám Pháp - Đức, đặc biệt là trong lời nói đầu của tác phẩm góp phần phê
phán của triết học pháp quyền của Hêghen đăng trong tờ Niên giám trên, số tháng 2
năm 1844 tại Pari. Trong lời nói đầu của tác phẩm này, Mác đã khẳng định: những
quan hệ pháp quyền cũng như các hình thức của Nhà nước, không thể hiểu từ bản
thân chúng, từ cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần con người, mà ngược lại,
chúng có nguồn gốc từ những quan hệ vật chất của đời sống.
Khi phê phán triết học của Hêghen về mặt Nhà nước và pháp quyền, Mác
cũng đồng thời đã thực hiện một thể nghiệm bước đầu đặc biệt có kết quả là mở
rộng chủ nghĩa duy vật sang lĩnh vực các hiện tượng xã hội. Lần đầu tiên trong lịch
sử, ông chỉ ra sức mạnh và hiệu lực của phép biện chứng duy vật là phương pháp
tạo ra khả năng phát hiện các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, cho phép
9
giải quyết một cách triệt để những nhiệm vụ nhận thức và cải tạo cách mạng đối với
thế giới. Rõ ràng ở đây Mác đã đặt cơ sở cho một thế giới quan mới để nhìn nhận sự
vật, khác về chất so với phép biện chứng của Hêghen. Phép biện chứng của Hêghen
chỉ là phép biện chứng của ý niệm và ông mới chỉ phỏng đoán phép biện chứng của

khái niệm. Ngược lại, đối với Mác, phép biện chứng của khái niệm chỉ là sự phản
ánh trong ý thức của con người đối với phép biện chứng của thế giới khách quan
C.Mác cũng đã vạch ra bản chất và nguồn gốc của tôn giáo trong mối quan
hệ với đời sống hiện thực và nhu cầu tinh thần, tình cảm của con người. Tôn giáo là
kết quả của các điều kiện kinh tế- xã hội trong từng thời kì lịch sử. C.Mác viết: “ Sự
nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn về hiện thực, vừa là sự
phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng
sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh
thần của trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Đây là
luận điểm có ý nghĩa khoa học sâu sắc, làm cơ sở cho việc nhận thức và giải quyết
vấn đề tôn giáo trong thực tiễn.
Tháng 8 năm 1844, trên đường từ Anh về Đức, Ph.Ăngghen đã gặp Mác tại
Pari, thủ đô của Pháp. Hai ông đã có một tình bạn, tình đồng chí vĩ đại và cảm động
trong suốt cả cuộc đời để sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác.
Trong thời gian Mác ở Pari thì Ăngghen sống và làm việc tại Anh, hoạt động
thực tiễn trong phong trào công nhân và nghiên cứu lý luận độc lập với Mác, nhưng
cũng đã rút ra những kết luận cơ bản phù hợp với quan điểm của Mác trên các vấn
đề về triết học và về chính trị - xã hội.
Ph. Ăngghen sinh ngày 28 - 11- 1820 tại Bácmen, thuộc tỉnh Anh. Vốn là
con người yêu thích tự do, có tinh thần dân chủ cách mạng, Ăngghen đã kiên trì tự
học, hăng hái tham gia hoạt động khoa học và chính trị.
Tại Anh ông đã có điều kiện nghiên cứu tình cảnh của giai cấp công nhân,
giao thiệp với phái Hiến Chương và bắt đầu nghiên cứu kinh tế chính trị học cổ điển
Anh. Những kết quả nghiên cứu về bộ môn này được ông thể hiện trong tác phẩm
10
lược thảo phê phán khoa Kinh tế chính trị đăng trong tờ Niên giám Pháp - Đức số
tháng 2 - 1844. Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Ăngghen với Mác diễn ra vào tháng 11 -
1842 khi Mác còn làm biên tập viên cho tờ Nhật báo tỉnh Ranh. Tháng 8 - 1844,
trên đường từ Anh về Đức tại Pari đã diễn ra cuộc gặp gỡ thứ hai giữa Mác và

Ăngghen. Và từ đó hai ông đã có mối quan hệ bền chặt, gắn bó trong suốt cộc đời,
cùng làm việc để sáng tạo lên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, sáng tạo ra kinh tế chính trị học mácxít và lý luận của chủ nghĩa cộng sản
khoa học.
Như vậy, đến đây Mác và Ăngghen đã chuyển biến hoàn toàn từ những
người đứng trên lập trường dân chủ cách mạng và duy tâm biện chứng sang lập
trường cộng sản chủ nghĩa và duy vật biện chứng. Quá trình hình thành và phát
triển trong thế giới quan của hai ông không phải là quá trình giản đơn mà là một quá
trình phức tạp, gắn với sự phát triển của Khoa học và thực tiễn chính trị xã hội. Đó
là một quá trình thống nhất hai mặt, vừa cải biến theo chủ nghĩa duy vật cái nội
dung hợp lý trong phép biện chứng duy tâm của Hêghen, vừa giải thích theo phép
biện chứng cách giải quyết duy vật vấn đề cơ bản của triết học, khắc phục quan
điểm siêu hình. Mác và Ăngghen thực sự làm một cuộc cách mạng trong triết học:
đồng thời khắc phục phép biện chứng duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình, đặt
nền móng cho một thế giới quan triết học hoàn toàn mới, khác về chất so với triết
học cũ - đó là triết học duy vật biện chứng mácxít. Trong triết học Mác chủ nghĩa
duy vật và phép biện chứng gắn bó chặt chẽ thống nhất với nhau, quy định lẫn nhau,
trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế
giới. Bắt đầu từ đây Mác và Ăngghen bắt tay vào khởi thảo những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, cùng xây dựng và
hoàn thiện các bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác.
11
CHƯƠNG 2
SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÀ “BƯỚC NGOẠT CÁCH MẠNG”
TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC.
Triết học Mác ra đời là một bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử
triết học nhân loại. Toàn bộ hệ thống triết học do C.Mác và Ăngghen thực hiện đã
chứng minh một cách bản chất và sinh động giá trị lý luận và thực tiễn lớn lao của
học thuyết Mác.
2.1 Thứ nhất :Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng.

Trong lịch sử triết học trước C.Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
tách rời nhau. Các nhà duy vật dù đã thể hiện những tư tưởng biện chứng, nhưng
suy cho cùng do hạn chế bởi điều kiện lịch sử xã hội và khoa học cho nên họ vẫn bị
chi phối bơi phương pháp tư duy siêu hình. Tư tưởng bịên chứng đã đạt được những
thành tựu lớn lao trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học Hêghen, nhưng nó
lại phát triển trong hệ thồng triết học duy tâm thần bí. Do đó, nhìn chung, lịch sử
triết học trước Mác thể hiện thế giới quan duy vật trong mối quan hệ với phương
pháp nhận thức siêu hình, hoặc là thế giới duy tâm trong mối quan hệ với phương
pháp nhận thức biện chứng.
Phép biện chứng duy vật ra đời trong điều kiện phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa đang phát triển, cuộc đấu tranh giai cấp giữa vô sản và tư sản đã cung cấp
thực tiễn cho C.Mác và Ph.Ănghen để đúc kết và kiểm nghiệm lý luận về phép biện
chứng. Dựa trên cơ sở thành tựu khoa học tự nhiên (cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ
XIX) đi vào hệ thống hoá tài liệu khoa học thực nghiệm. Đây là hai tiền đề thực tiễn
rất quan trọng cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật.
Tiền đề lý luận của phép biện chứng duy vật chính là phép biện chứng duy
tâm của Hêghen. Các ông đã tách ra cái hạt nhân hợp lý vốn có của nó là phép biện
chứng và vứt bỏ cách giải thích hiện tượng tự nhiên xã hội và tư duy một cách thần
thánh hoá tư duy, nói cách khác các ông đã cải tạo một cách duy vật phép biện
chứng duy tâm Hêghen.
12
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép
biện chứng, trong khi đó các học thuyết triết học trước đây duy vật nhưng siêu hình
(Triết học cận đại) hoặc biện chứng nhưng duy tâm (cổ điển Đức). Phép biện chứng
duy vật không chỉ duy vật trong tự nhiên mà đi đến cùng trong lĩnh vực xã hội, do
đó các ông đã xây dựng sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Theo C.Mác: Biện chứng khách quan là cái có trước, còn biện chứng chủ
quan (tư duy biện chứng) là cái có sau và là phản ánh của biện chứng khách quan,
đây là sự khác nhau giữa phép biện chứng duy vật của ông với phép biện chứng duy
tâm của Hêghen. C.Mác cho rằng ông chỉ làm cái công việc là đặt phép biện chứng

duy tâm của Hêghen "đứng trên hai chân của mình" tức là đứng trên nền tảng duy
vật.
Theo C.Mác thì phép biện chứng chính là "khoa học về mối liên hệ phổ biến
trong tự nhiên xã hội và tự nhiên, trong tư duy". Theo Lênin thì phép biện chứng là
"học thuyết về sự phát triển đầy đủ, sâu sắc và toàn diện nhất, học thuyết về tính
tương đối của sự vật".
Ba mối liên hệ chủ yếu trong phép biện chứng duy vật là: 1. Mối liên hệ cùng
tồn tại và phát triển; 2. Mối liên hệ thâm nhập lẫn nhau tuy có sự khác nhau nhưng
vẫn có sự giống nhau; 3. Mối liên hệ về sự chuyển hoá vận động và phát triển. Các
mối liên hệ được khái quát thành các cặp phạm trù như( phần tử - hệ thống, nguyên
nhân - kết quả, lượng - chất) và các quy luật (quy luật lượng - chất, quy luật đấu
tranh và thống nhất của các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ định).
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã công khai tính giai cấp của để
bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Trong khi đó
các nền triết học trước Mác che dấu lợi ích của nó, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống
trị, của một nhóm người thiểu số trong xã hội.
Tóm lại, phép biện chứng duy vật Mác - xít là kết quả của sự chín muồi về
mặt lịch sử của nhận thức khoa học và của thực tiễn xã hội. Sự ra đời của nó đáp
ứng nhu cầu về mặt lý luận của giai cấp công nhân. Giai đoạn mới trong sự phát
triển của phép biện chứng gắn với tên tuổi của V.I.Lênin đã vận dụng thành công
13
phép biện chứng Mác-xít trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga
năm 1917. Sự phát triển của V.I.Lênin về phép biện chứng duy vật thể hiện trong lý
luận cách mạng xã hội chủ nghĩa như là một công cụ sắc bén để cải tạo thế giới một
cách cách mạng nhất.
Triết học Mác ra đời đã chứng minh tính thống nhất giữa thế giới quan và
phưng pháp luận: thế giới quan duy vật biện chứng trong sự thống nhất hữu cơ với
phương pháp biện chứng duy vật. Kế thừa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
trong triết học cổ điển Đức, C.Mác đã xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng, hình
thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lich sử triết học và phép biện

chứng duy vật với tính cách là khoa học về sự phát triển của thế giới tự nhiên, lịch
sử xã hội loài người và tư duy.
2.2 Thứ hai: Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Một đặc điểm có ý nghĩa to lớn của cuộc cách mạng trong triết học là mở
rộng chue nghĩa duy vật sang xã hội loài người, hình thành nên chủ nghĩa duy vật
lịch sử .V.I.Lenin đánh giá rằng : “ Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ
nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa ra học thuyết đó tới chõ hoàn bị và mở rộng
nhận thức ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chõ nhận thức xã hội loài người.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học.
Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự tuỳ tiện, vẫn
ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị ”
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác đã chỉ ra quy luật vận động của
lịch sử xã hội loài người, sự thay thế các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình
lịch sử – tự nhiên. Trong các quy luật của lịch sử xã hội, quy luật biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có vai trò quyết định. Các quan hệ về kinh tế
quyết định các quan hệ về kiến trúc thượng tầng. Triết học lịch sử cũng đã phát hiện
vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là người “đào huyệt chôn chủ nghĩa
tư bản” thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, hướng tới mục tiêu giải phóng con
người. Với bản chất duy vật triệt để trong lĩnh vực xã hội, triết học Mác trở thành
14
công cụ vĩ đại để nhận thức và cải tạo thế giới, tạo ra bước phát triển mới về chất,
một bước nhảy vọt so với các hệ thống triết học khác trong lịch sử.
2.3 Thứ ba: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Triết hoc Mác không chỉ là lý luận khoa học phản ánh bản chất, quy luật của
sự vận động và phát triển của thế giới, mà quan trọng hơn, đó là học thuyết nhằm
mục đích cải tạo thế giới.Vì vậy sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
là một nguyên tắc cơ bản của triết học Mác.
Trong lịch sử các hệ thống triết học trước Mác, kể cả các hệ thống triết học
tiến bộ, đều chưa thấy vai trò của thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận
thức và tiêu chuẩn của chân lý, chưa nhận thức hết ý nghĩa thực tiễn cao nhất của

triết học là hướng đến phát triển xã hội và giải phóng con người. Vì vậy tách rời
giữa lý luận và thực tiễn là đặc điểm vốn có của triết học trước Mác.
Chỉ khi triết học Mác ra đời, vai trò thực tiễn và sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn mới được xem là một nguyên tắc cơ bản, chi phối mọi hoạt động.
2.4 Thứ tư: Thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng.
Bản chất khoa học của triết học Mác đã bao hàm tính cách mạng. tính khao
học càng sâu sắc, càng phản ánh đúng quy luật của sự phát triển thế giới thì tính
cách mạng càng cao, càng triệt để.
Triết học Mác biểu hiện tính cách mạng ở từng bản chất khoa học của học
thuyết, trong mục đích cải tạo thế giới, trong vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp
vô sản. Triết hoc Mác đã chứng minh, bằng sức mạnh của phương pháp biện chứng,
sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chế độ xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử.
“Chỉ có chủ nghĩa duy vật triết học của Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản con đường
phải đi theo để thoát khỏi chế độ nô lệ về mặt tinh thần, trong đó tất cả các giai cấp
bị áp bức đã sống lay lắt từ trước tới nay”. Triết học Mác là vũ khí tinh thần của giai
cấp vô sản, còn giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của triết học Mác trong cuộc đấu
tranh vì xã hội tương lai.
Tính cách mạng của triết học Mác biểu hiện ở bản chất khoa học và cách
mạng của phép biện chứng. C.Mác cho rằng : “ Dưới dạng hợp lý của nó, phép biện
15
chứng chỉ đem lại sự giận giữ và kinh hoàng cho cho giai cấp tư sản và bọn tư
tưởng gia giáo điều của chúng mà thôi, vì trong tính tích cực của cái hiện đang tồn
tại, phép biện chứng bao đồng thời bao hàm cả quan niệm về sự phủ định cái hiện
đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó; Vì mỗi hình thái đã hình thành đều
được phép biện chứng xét trong sự vận động, tức là xét cả mặt tức thời trong sự vận
động hình thái đó; vì phép biện chứng không khuất phục trước một cái gì cả, và về
thực chất thì nó có tính phê phán và tính cách mạng”.
2.5 Thứ năm: Xác định mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Quan niệm truyền thống trong lịch sử triết học trước C.Mác coi : “ triết học
là khoa học của mọi khoa học”. Triết học Mác ra đời đã chấm dứt quan niệm đó,

đồng thời xác định tính đúng đối tượng của triết học là nghiên cứu những quy luật
chung nhất của tự nhiên , xã hội và tư duy. Vì vậy không những không tách rời mà
trái lại triết học Mác càng có mối quan hệ thống nhất và độc lập với các chuyên
ngành. Sự phát triển của các khoa học khác nhau trong nghiên cứu thế giới tự nhiên
và xã hội đặt cơ sở cho những khái quát mang tính phổ biến của triết học. Mặt khác
những kết luận của triết học trở thành thế giới quan khoa học và phương pháp luận
chung nhất cho sự phát triển của của các lĩnh khoa học. Thực tiễn khoa học đã
chứng minh rằng, những thành tựu nghiên cứu khoa học của tự nhiên và xã hội là
tiền đề cho hệ thống phạm trù, quy luật triết học ngày càng vận động, phát triển,
đồng thời, ngược lại, hệ thống phạm trù, quy luật triết học định hướng cho sự phát
triển hợp quy luật của các lĩnh vực khoa học khác nhau. Không có triết học duy vật
biện chứng, khoa học hiện đại không thể tiến lên. Ph.Ăngghen viết: “ Sinh lý học,
-tế bào( quá trình phát triển hữu cơ của một cá thể riêng lẻ cũng như của các loài,
giống bằng con đường phân hoá là chứng cớ hiển nhiên nhất của phép biện chứng
hợp lý); và cuối cùng, sự đồng nhất giữa lực lượng của tự nhiên và sự chuyển hoá
lẫn nhau giữa chúng chấm dứt tính cố định của các phạm trù phép biện chứng trở
thành một sự cần thiết tuyệt đối cho khoa học tự nhiên ”. Sự phát triển của khoa
học hiện đại ngày nay càng chứng minh cho mối quan hệ thống nhất giữa khoa học
với triết học Mác trên con đường nhận thức và cải tạo thế giới.
16
KẾT LUẬN
Bằng việc trình bày sự ra đời của triết học Mác cùng với bước ngoặt vĩ đại
trong triết học, có thể khẳng định:Học thuyết Mác – Lênin là hệ tư tuởng cách
mạng nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Học thuyết đó là khối
thống nhất vững chắc của ba bộ phận cấu thành là Triết học, Kinh tế chính trị
học, chủ nghĩa xã hội khoa học trong đó Triết học đóng vai trò thế giới quan và
phương pháp luận nói chung. Triết học Mác-Lênin là thế giới quan và phương
pháp luận khọa học nhất, cách mạng nhất; là thành quả vĩ đại của triết học thế
giới.
Hiện nay, đất nước ta đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành

công nghiệp hoá - hiện đại hoá, thì việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác- Lênin một cách
có hệ thống, nhất là việc nắm vững các nguyên tắc và vận dụng những nguyên tắc
cơ bản của phép biện chứng duy vật là một yêu cầu bức thiết để đổi mới tư duy, là
định hướng tư tưởng và mang lại cho chúng ta công cụ tư duy sắc bén để đấu tranh
chống lại tư duy siêu hình, bảo thủ lạc hậu và thực hiện thắng lợi mục tiêu XHCN
của cách mạng nước ta.
Nghiên cứu triết học Mác- Lênin là một vấn đề rất lớn trong triết học, đòi
hỏi có nhiều công sức của các nhà triết học với nhiều công trình khảo cứu sâu sắc.
Trong khuôn khổ một bài viết nhỏ không thể đề cập được hết các khía cạnh của một
vấn đề lớn như vậy, do đó em rất mong sự đóng góp ý kiến khoa học của các thầy
cô giáo và các bạn học viên để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS. TS. Lê Doãn Tá, Triết học Mácxít quá trình hình thành và phát triển
(giai đoạn Mác Ăngghen và Lênin)
2. NXB chính trị quốc gia (2002), Giáo trình triết học Mác – Lênin, Giáo trình
dùng trong các trường Đại học, Cao đẳng.
3. TS. Bùi Văn Mưa, TS.Trần Nguyên Ký, PGS TS. Lê Thanh Sinh, TS.
Nguyễn Ngọc Thu, TS. Bùi Bá Linh, TS. Bùi Xuân Thanh (2010), Phần I
triết học– Đại cương về lịch sử triết học.
4. TS. Bùi Văn Mưa, TS.Trần Nguyên Ký, PGS TS. Lê Thanh Sinh, TS.
Nguyễn Ngọc Thu, TS. Bùi Bá Linh, TS. Bùi Xuân Thanh (2010), Phần II
triết học – Các chuyên đề về triết học Mác-Lênin
5. NXB chính trị Quốc gia, Triết học dùng cho nghiên cứu sinh và cao học
thuộc ngành không chuyên triết học tập I, II, III.

×