Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

nghiên cứu đặc điểm tái sinh của các trạng thái rừng tại khu rừng đặc dụng xã quân khê, huyện hạ hòa, tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (631.56 KB, 79 trang )


Số hóa bởi trung tâm học liệu
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



PHẠM THỊ PHƢƠNG THUÝ







NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM TÁI SINH CỦA CÁC TRẠNG THÁI
RỪNG TẠI KHU RỪNG ĐẶC DỤNG XÃ QUÂN KHÊ,
HUYỆN HẠ HÒA, TỈNH PHÚ THỌ











LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP









Thái Nguyên, năm 2013

Số hóa bởi trung tâm học liệu
i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích
dẫn và số liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác
cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Phú Thọ, ngày 10 tháng 9 năm 2013
Tác giả luận văn



Phạm Thị Phương Thúy


















Số hóa bởi trung tâm học liệu
ii
LỜI CẢM ƠN

Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân và được sự nhất trí của Ban chủ
nhiệm khoa Sau Đại học trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên tôi tiến hành
nghiên cứu tại xã Quân Khê huyện Hạ Hòa tỉnh Phú Thọ. Để thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu đặc điểm tái sinh của các trạng thái rừng tại khu rừng đặc
dụng xã Quân Khê, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ”.
Sau một thời gian làm việc đến nay bản luận văn của tôi đã hoàn thành.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy giáo hướng dẫn
Tiến sỹ Lê Đồng Tấn, Viện trưởng Viện nghiên cứu khoa học Tây Bắc là
người tận tâm hướng dẫn tôi trong thời gian thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo phòng quản lý đào tạo Sau
Đại học, khoa Lâm nghiệp những người đã truyền thụ cho tôi những kiến thức
và phương pháp nghiên cứu quý báu trong thời gian tôi theo học tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ nhân viên Hạt Kiểm lâm Hạ
Hòa, UBND xã cùng toàn thể nhân dân xã Quân Khê đã nhiệt tình tạo điều

kiện giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu.
Và cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc nhất tới gia đình, bạn bè
và những người luôn quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp đỡ trong thời
gian tôi học tập và nghiên cứu vừa qua.
Do lần đầu làm quen với nghiên cứu khoa học, nên bản luận văn không
tránh được những thiếu sót. Vì vậy, tôi kính mong được sự đóng góp ý kiến
quý báu của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để bản luận văn của tôi
thêm phong phú và hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, 10 tháng 9 năm 2013
Tác giả luận văn


Phạm Thị Phương Thúy

Số hóa bởi trung tâm học liệu
iii
MỤC LỤC

MỤC LỤC iii
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 3
3. Đối tượng nghiên cứu 3
4. Ý nghĩa của đề tài 3
Chƣơng 1 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
1.1. Khái niệm liên quan 4
1.1.1. Khái niệm rừng đặc dụng 4
1.1.2. Khái niệm về tái sinh rừng 8
1.2. Những nghiên cứu trên thế giới 9

1.2.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng 9
1.2.2. Nghiên cứu về tái sinh rừng 12
1.3. Những nghiên cứu ở Việt Nam 13
1.3.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng 13
1.3.2. Nghiên cứu về tái sinh rừng 14
1.3.3. Nghiên cứu về điều tra, đánh giá tái sinh tự nhiên 16
1.4. Tổng quan khu vực nghiên cứu 17
1.4.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu 17
1.4.2. Đặc điểm kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu 20
Chƣơng 2 NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25
2.1. Nội dung nghiên cứu 25
2.1.1. Nghiên cứu một số đặc điểm của tầng cây gỗ 25
2.1.2. Nghiên cứu đặc điểm tái sinh dưới tán rừng 25
2.1.3. Nghiên cứu một số nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tái sinh tự
nhiên dưới tán rừng tại khu rừng đặc dụng xã Quân Khê 25

Số hóa bởi trung tâm học liệu
iv
2.1.4. Đề xuất một số giải pháp nhằm xúc tiến khả năng tái sinh tự nhiên
dưới tán rừng tại khu rừng đặc dụng xã Quân Khê 26
2.2. Phương pháp nghiên cứu 26
2.2.1. Phương pháp ngoại nghiệp 26
2.2.2. Phương pháp nội nghiệp 31
Chƣơng 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 34
3.1. Một số đặc điểm của tầng cây gỗ khu vực rừng đặc dụng Núi Nả tại xã
Quân Khê 34
3.1.1. Đặc điểm tầng cây cao ở trạng thái rừng tự nhiên (IIB) 34
3.1.2. Đặc điểm tầng cây cao ở trạng thái rừng trồng khu vực rừng đặc
dụng Núi Nả xã Quân Khê 34
3.1.3. Đánh giá chung. 35

3.2. Đặc điểm tái sinh dưới tán rừng 36
3.2.1. Đặc điểm tái sinh dưới tán rừng tự nhiên 36
3.2.2. Đặc điểm tái sinh dưới tán rừng trồng 39
3.2.3. Đánh giá chung 42
3.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tái sinh tự nhiên dưới tán rừng
tại khu vực rừng đặc dụng Núi Nả xã Quân Khê. 43
3.3.1. Nhân tố ánh sáng 43
3.3.2. Nhân tố đất đai, địa hình 45
3.3.3. Nhân tố cây mẹ, cây bụi thảm tươi 54
3.3.4. Nhân tố động vật, con người 55
3.4. Đề xuất một số giải pháp nhằm xúc tiến khả năng tái sinh tự nhiên dưới tán
rừng trồng ở khu vực xã Quân Khê, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ 57
3.4.1. Giải pháp về kỹ thuật 57
3.4.2. Giải pháp về tuyên truyền, giáo dục 59
3.4.3. Giải pháp về xã hội 60
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 61

Số hóa bởi trung tâm học liệu
v
1. Kết luận 61
1.1. Về đặc điểm của tầng cây cao 61
1.2. Về đặc điểm của tầng cây tái sinh 61
1.3. Về các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tái sinh dưới tán rừng ở khu
vực rừng đặc dụng Quân Khê 61
2. Tồn tại 62
3. Đề nghị 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO 63






Số hóa bởi trung tâm học liệu
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Bảng 1.1. Hiện trạng sử dụng đất xã Quân Khê huyện Hạ Hòa,
tỉnh Phú Thọ 22
Bảng 1.2. Diện tích rừng và đất lâm nghiệp xã Quân Khê huyện Hạ
Hòa, tỉnh Phú Thọ 23
Bảng 2.1. Ký hiệu độ nhiều của tầng thảm tươi theo Drubs 29
Bảng 3.1. Một số đặc điểm của tầng cây gỗ khu vực rừng đặc dụng
Núi Nả 35
Bảng 3.2. Tổ thành lớp cây tái sinh dưới tán rừng tự nhiên tại rừng đặc
dụng Núi Nả xã Quân Khê 37
Bảng 3.3. Chất lượng và nguồn gốc cây tái sinh dưới tán rừng tự nhiên
tại rừng đặc dụng Núi Nả xã Quân Khê 38
Bảng 3.4. Phân bố số cây theo cấp chiều cao dưới tán rừng tự nhiên (IIB) 38
Bảng 3.5. Tổ thành lớp cây tái sinh dưới tán rừng trồng thuần loài Keo 39
tại rừng đặc dụng Núi Nả xã Quân Khê 39
Bảng 3.6. Tổ thành lớp cây tái sinh dưới tán rừng trồng thuần loài Bồ
đề tại rừng đặc dụng Núi Nả xã Quân Khê 40
Bảng 3.7. Chất lượng và nguồn gốc cây tái sinh dưới tán rừng trồng
thuần loài tại khu rừng đặc dụng Núi Nả xã Quân Khê 41
Bảng 3.8. Phân bố số cây theo cấp chiều cao dưới tán rừng trồng thuần
loài Keo 41
Bảng 3.9. Phân bố số cây theo cấp chiều cao dưới tán rừng trồng thuần
loài Bồ đề tại rừng đặc dụng Núi Nả 42
Bảng 3.10. Ảnh hưởng của độ tàn che đến số lượng và chất lượng cây
tái sinh tự nhiên dưới tán rừng tại rừng đặc dụng Núi Nả xã

Quân Khê 43
Bảng 3.11. Số lượng và chất lượng cây tái sinh theo hướng phơi 45
Bảng 3.12. Hình thái phẫu diện đất ở các trạng thái rừng đặc dụng xã
Quân Khê 46
Bảng 3.13. Số lượng và chất lượng cây tái sinh theo vị trí địa hình 48
Bảng 3.14. Số lượng và chất lượng cây tái sinh theo cấp độ dốc 50
Bảng 3.15. Số lượng và chất lượng cây tái sinh theo mức độ thoái hoá đất 53

Số hóa bởi trung tâm học liệu
1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết
Rừng là một bộ phận không thể thay thế được của môi trường sinh thái,
nó giữ vai trò cực kỳ quan trọng đối với đời sống con người. Ngoài việc cung
cấp gỗ, củi và các lâm sản khác cho con người, rừng còn có vai trò to lớn
trong việc phòng hộ, duy trì môi trường sống cho con người như điều hòa khí
hậu, điều tiết nguồn nước, hạn chế xói mòn, rửa trôi và hạn chế bão lụt, hấp
thụ cacbon, duy trì và bảo tồn đa dạng sinh học…
Ở nước ta rừng và đất rừng chiếm 3/4 tổng diện tích lãnh thổ, song thực
tế các khu rừng nguyên sinh của chúng ta còn rất ít, chủ yếu là rừng thứ sinh
ở mức độ thoái hóa khác nhau. Nguyên nhân chủ yếu của sự suy giảm chất
lượng rừng là do các hoạt động của con người tác động vào như: do chiến
tranh, do đốt nương làm rẫy, cháy rừng, sự di dân tự do, khai thác quá mức,
sự mở rộng đất nông nghiệp… Theo số liệu thống kê của Cục Kiểm lâm độ
che phủ rừng của nước ta cao nhất vào năm 1943 là 43,7%, sau đó do bị tàn
phá nặng nề diện tích rừng bị suy giảm nhanh chóng có thời điểm độ che phủ
của rừng trên cả nước chỉ còn 28,4% vào những năm 1990 và đang có xu
hướng tăng dần những năm gần đây năm 2011 độ che phủ là 40,2% [2]. Điều
đáng nói là độ che phủ tăng lên nhờ vào khả năng tái tạo của rừng tự nhiên

song phải kể đến là diện tích rừng trồng cũng tăng khá mạnh nhưng tính đa
dạng sinh học của các hệ sinh thái không cao, nói đúng hơn là chất lượng
rừng còn hạn chế, đơn điệu.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm chú trọng đến
vấn đề bảo vệ và phát triển rừng, thông qua hàng loạt các dự án trồng rừng mới,
khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng, khoanh nuôi bảo vệ rừng nhờ đó mà diện tích
rừng đã tăng lên đáng kể.

Số hóa bởi trung tâm học liệu
2
Rừng ở khu vực xã Quân Khê, huyên Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ có diện tích là
1466,28ha, trong đó được phân chia thành ba loại rừng bao gồm: rừng phòng hộ
có diện tích 41,2ha, rừng đặc dụng có diện tích 670 ha, còn lại là 755,08 ha rừng
sản xuất [3]. Rừng đặc dụng ở xã Quân Khê có khoảng 1/3 diện tích là rừng trồng
các loài cây chủ yếu như các loại keo, bồ đề, muồng cánh gián… nên cấu trúc
rừng còn đơn điệu, chất lượng rừng không cao, tính đa dạng sinh học còn hạn chế.
Rừng đặc dụng ở đây còn có một vị trí vô cùng quan trọng trong công tác phòng
chống xói mòn, bảo vệ đất, bảo vệ nguồn nước, tạo cảnh quan môi trường… Nói
một cách thực tế là rừng đặc dụng ở khu vực xã Quân Khê đã và đang phát huy
vai trò chức năng của khu rừng là đem lại nhiều lợi ích trực tiếp và gián tiếp khác
nhau cho người dân trong xã. Tuy nhiên, để khu rừng đặc dụng ở khu vực xã
Quân Khê đáp ứng được mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học gắn liền với du lịch
sinh thái thì chúng ta đã và đang gặp phải một số khó khăn nhất định như tổ thành
loài cây trồng đơn giản, tính đa dạng sinh học còn thấp, chất lượng rừng không
cao, cây sinh trưởng phát triển chậm, dễ bị sâu bệnh hại cùng với những biện pháp
kỹ thuật lâm sinh tác động chưa hợp lý nên cấu trúc rừng đặc dụng ở đây vẫn còn
rất đơn điệu.
Thực tế dưới tán rừng trồng đặc dụng ở khu vực xã Quân Khê, huyện Hạ
Hòa, tỉnh Phú Thọ đã và đang xuất hiện một lớp cây tái sinh tự nhiên với
những nguồn gốc khác nhau cũng đa dạng về thành phần loài cây, phong phú

về chất lượng, đặc biệt trong số những cây tái sinh tự nhiên rất nhiều cây có
triển vọng có thể tạo nên những tầng cây gỗ khác nhau. Nhằm cung cấp thêm
những cơ sở khoa học về chuyển hóa rừng trồng thành rừng gần giống với
rừng tự nhiên có tính bền vững của hệ sinh thái đáp ứng được mục tiêu của
rừng đặc dụng và gắn liền với mục tiêu du lịch sinh thái, tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm tái sinh của các trạng thái rừng tại khu
rừng đặc dụng xã Quân Khê, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ”.


Số hóa bởi trung tâm học liệu
3
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định được một số đặc điểm cấu trúc về tổ thành loài cây tái sinh.
- Xác định được một số đặc điểm cấu trúc mật độ cây tái sinh.
- Phân tích được một số nhân tố ảnh hưởng tới quá trình tái sinh tự nhiên.
- Đề xuất được một số giải pháp kỹ thuật lâm sinh, giải pháp về tuyên
truyền, giáo dục, giải pháp xã hội nhằm xúc tiến việc khoanh nuôi tái sinh,
nâng cao tính bền vững của hệ sinh thái rừng, đáp ứng được mục tiêu bảo
tồn đa dạng sinh học cũng như bảo vệ cảnh quan sinh thái của rừng đặc
dụng Núi Nả.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các trạng thái rừng ở khu vực rừng
đặc dụng Núi Nả xã Quân Khê, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ. Bao gồm trạng
thái rừng IIB, rừng trồng thuần loài Keo, rừng trồng thuần loài Bồ đề.
4. Ý nghĩa của đề tài
Khi đề tài hoàn thành sẽ bổ sung thêm những hiểu biết về đặc điểm cấu
trúc và tái sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng ở khu vực nghiên cứu.
Góp phần làm cơ sở khoa học cho việc khoanh nuôi phục hồi phát triển
rừng tự nhiên ở xã Quân Khê.


Số hóa bởi trung tâm học liệu
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm rừng đặc dụng
Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng,
vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ, tre
nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán
rừng từ 0,1 trở lên. Rừng gồm rừng trồng và rừng tự nhiên trên đất rừng sản
xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng [15].
Rừng đặc dụng được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn
hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng; nghiên cứu khoa
học; bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi,
du lịch kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ môi trường, bao gồm:
a, Vườn quốc gia;
b, Khu bảo tồn thiên nhiên gồm khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài - sinh cảnh;
c, Khu bảo vệ cảnh quan gồm khu rừng di tích lịch sử, văn hoá, danh lam
thắng cảnh;
d, Khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học;
Theo Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 [15] quy định rừng đặc
dụng bao gồm: Vườn quốc gia; Khu bảo tồn thiên nhiên gồm có khu dự trữ
thiên nhiên và khu bảo tồn loài – sinh cảnh; Khu bảo vệ cảnh quan gồm khu
rừng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh; Khu rừng nghiên cứu, thực
nghiệm khoa học. Hiện nay tổng số khu rừng đặc dụng là 128, trong đó có 30
Vườn quốc gia, 48 khu dự trữ thiên nhiên, 12 khu bảo tồn loài, 38 khu bảo vệ
cảnh quan. Tổng diện tích các khu rừng đặc dụng trên 2 triệu ha và tổng diện
tích rừng của cả nước gần 13,4 triệu ha, độ che phủ rừng toàn quốc 39,5 %
(tính đến 31/12/2010 theo QĐ số 1828/QĐ-BNN-TCLN, ngày 11/8/2011), tỷ

lệ giữa diện tích rừng đặc dụng và diện tích rừng cả nước là 15 % (tiêu chuẩn
của thế giới 10 %), tuy nhiên nó còn phụ thuộc vào chất lượng của rừng, sự

Số hóa bởi trung tâm học liệu
5
phân bố đều trên toàn bộ diện tích tự nhiên và tính đa dạng sinh học mới có
thể duy trì bảo tồn rừng.
Hiện nay chúng ta đã thiết lập được hệ thống các khu rừng đặc dụng
chung cho toàn quốc, xây dựng các tiêu chí để thành các rừng đặc dụng
(Vườn quốc gia, khu bảo tồn,…), các khu rừng đặc dụng được thành lập trải
dài trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, hầu hết các hệ sinh thái tự nhiên quan
trọng có các loài đặc hữu, nguy cấp, quý hiếm đã được bảo tồn và nằm trong
rừng đặc dụng.
Hệ thống quản lý các rừng đặc dụng này phụ thuộc vào từng loại rừng
đặc dụng, như ở cấp Trung ương quản lý 06 Vườn quốc gia, còn lại trực thuộc
tỉnh, việc xây dựng và quản lý chúng dựa trên Luật bảo vệ và phát triển rừng
năm 2004; QĐ số 62/2005/QĐ-BNN, ngày 12/10/2005 về việc ban hành tiêu
chí phân loại rừng đặc dụng; QĐ số 186/QĐ-TTg, ngày 14/8/2006 về quy chế
quản lý rừng; Nghị định số 32/2006/NĐ-CP, ngày 30/3/2006 về quản lý thực
vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và mới đây là Nghị định số
117/2010/NĐ-CP, ngày 24/12/2010 về tổ chức quản lý hệ thống rừng đặc
dụng, đây là nghị định được xây dựng tương đối hoàn chỉnh nhất từ trước đến
nay, thể hiện sự thông suốt về tổ chức và quản lý rừng.
Hệ thống các khu rừng đặc dụng đã trở thành những nơi để nghiên cứu
khoa học, thực tập, tham quan du lịch, nghỉ dưỡng, bảo vệ nguồn nước, bảo
tồn những văn hóa, kiến thực bản địa, bảo tồn đa dạng sinh học,…Tuy nhiên
hệ thống tổ chức, quản lý rừng đặc dụng sau một thời gian thực hiện vẫn còn
một số những bất cập.
Theo luật đa dạng sinh học năm 2008 thì phân cấp khu bảo tồn có 4 dạng
sau: Vườn quốc gia, Khu dự trữ thiên nhiên, Khu bảo tồn loài - sinh cảnh,

Khu bảo vệ cảnh quan và không có khu nghiên cứu, thực nghiệm khoa học.
Như vậy giữa Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 và Luật đa dạng sinh
học năm 2008 có sự khác nhau về phân chia và dùng từ, một bên sử dụng
“rừng đặc dụng”, bên kia dùng “ Khu bảo tồn”. Trong khi theo Luật bảo vệ và
phát triển rừng năm 2004 thì “Khu bảo tồn” nằm trong rừng đặc dụng và dưới

Số hóa bởi trung tâm học liệu
6
Vườn quốc gia. Do đó tạo ra sự không thống nhất về cách sử dụng, gây khó
khăn cho công tác quản lý.
Trong bảng phân hạng của IUCN thì khu vực được bảo vệ chia làm 6
hạng, không có khu vực dành cho thực nghiệm khoa học; đối chiếu với
phân hạng của Việt Nam tương đương từ I – V, không có phân hạng VI
(điều hành để sử dụng hiệu quả tài nguyên môi trường), đối chiếu với các
quy định về quản lý rừng đặc dụng thì không có loại rừng đặc dụng nào
cho phép khai thác hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên thực tế hiện
tượng này vẫn thường xuyên xảy ra, người dân vẫn khai thác và sử dụng tài
nguyên thiên nhiên trong rừng đặc dụng bởi từ lâu người dân sống gắn bó
với rừng, coi rừng là nhà. Do đó cần phải sửa đổi và bổ xung trong việc
phân hạng rừng đặc dụng cho phù hợp với thực tế nhưng vẫn đảm bảo việc
quản lý rừng tốt [29].
Hệ thống quản lý các khu rừng đặc dụng chưa có một cơ chế rõ ràng và
việc quản lý cũng chưa thống nhất. Cả nước có 30 Vườn quốc gia thì chỉ có
06 Vườn là thuộc Bộ, còn lại trực thuộc UBND tỉnh và sở NN & PTNT tỉnh;
còn 98 khu rừng đặc dụng khác do Sở NN&PTNT và Chi cục kiểm lâm quản
lý. Chính sự không thống nhất này đã dẫn đến việc quản lý và bảo tồn các khu
rừng đặc dụng này không hiệu quả, mỗi nơi có cách làm riêng, phá vỡ kết cấu
rừng chung của cả nước, ảnh hưởng đến chất lượng rừng và đa dạng sinh học.
Theo Nghị định số 117/2010/NĐ-CP, ngày 24 tháng 12 năm 2010 của
Chính phủ về tổ chức và quản lý rừng đặc dụng thì Sở Nông nghiệp & Phát

triển nông thôn tổ chức lập quy hoạch các khu rừng đặc dụng trên địa bàn tỉnh
và UBND tỉnh phê duyệt quy hoạch các khu rừng đặc dụng đó hoặc có quyền
điều chỉnh, chuyển mục đích sử dụng rừng đặc dụng đó. Đứng trên quan điểm
bảo tồn và phát triển: Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn sẽ lập quy
hoạch cho các khu rừng đặc dụng trên địa bàn tỉnh là rất khó, bởi lập quy
hoạch cho rừng đặc dụng cần phải có kiến thức sâu về bảo tồn, nó khác với
quy hoạch sử dụng đất. Việc UBND tỉnh được phê duyệt, điều chỉnh, chuyển
mục đích sử dụng rừng đặc dụng trên địa bàn tỉnh ảnh hưởng không nhỏ đến

Số hóa bởi trung tâm học liệu
7
quy hoạch rừng đặc dụng của cả nước bởi quan điểm bảo tồn chưa được chú
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của địa phương. Không tạo ra hành
lang đa dạng sinh học đối với những vùng giáp ranh [28].
Hiện nay quan điểm về bảo tồn còn nhiều bất cập: Bảo tồn không có
nghĩa là bảo vệ và duy trì tự nhiên của loài, quan điểm này bị bó hẹp, sớm
muộn loài sẽ bị tuyệt chủng; cần phải có cái nhìn tích cực hơn: Bảo tồn bao
gồm bảo vệ, sử dụng hợp lý và sử dụng biện pháp kỹ thuật phù hợp ví dụ như
Pơ mu tái sinh chỉ gặp ở nơi có độ tàn che phù hợp – có ánh sáng (cần phải
xúc tiến tái sinh).
Hiện nay vùng đệm của khu rừng đặc dụng thuộc quyền quản lý của
chính quyền địa phương, các ban quản lý rừng đặc dụng chỉ có quyền quản lý
trong phạm vi rừng quản lý của mình, trong khi đó việc thành lập vùng đệm
rừng đặc dụng là để hỗ trợ cho công tác bảo tồn, quản lý và bảo vệ rừng đặc
dụng, do đó dẫn đến sự không hợp nhất về mặt quản lý và xây dựng kế hoạch
phát triển cho vùng. Trong quy hoạch bảo tồn và phát triển rừng ít được địa
phương quan tâm và đưa vào kế hoạch, nghị quyết phát triển chung của địa
phương. Khi xây dựng phát triển rừng đặc dụng chưa gắn kết giữa phát triển
vùng lõi với vùng đệm, chưa có sự phát triển hài hòa giữa 2 vùng.
Quy mô về diện tích các khu rừng đặc dụng hầu hết giới hạn trong phạm

vi hành chính của tỉnh, mà chưa chú trọng đến diện tích vùng sinh thái đặc
trưng, diện tích vùng có các loài đặc hữu, nguy cấp, quý, hiếm,… (nghĩa là
chưa chú trọng đến việc thành lập khu bảo tồn liên danh giới), chính điều này
ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại của loài, của hệ sinh thái. Đối với Vườn
quốc gia, khu bảo tồn chưa xác định được rõ khu vực cho bảo tồn và khu vực
dành cho phát triển, do đó đã tạo ra sự lúng túng trong quản lý chỗ nào cũng
bảo tồn và bảo vệ nghiêm ngặt.
Rừng đặc dụng Núi Nả tại xã Quân Khê được thành lập năm 2003 theo
Quyết định số 4526/QĐ-CT ngày 30 tháng 12 năm 2003 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh Phú Thọ với mục tiêu phục hồi và tái tạo hệ sinh thái rừng tự
nhiên bằng tập đoàn cây bản địa đặc trưng trong khu vực; tạo hệ sinh thái bền

Số hóa bởi trung tâm học liệu
8
vững, cảnh quan thiên nhiên, nâng cao chất lượng môi trường. Chống xói
mòn đất, bảo vệ nước, bảo vệ môi trường sinh thái trong khu vực. Bảo tồn
phát triển một số loài động, thực vật có giá trị phục vụ nghiên cứu, học tập và
cho du lịch trong tương lai. Nâng cao chất lượng đời sống vật chất tinh thần
cho cộng đồng dân cư đang sống trong vùng thông qua các hoạt động phát
triển kinh tế nông lâm nghiệp và dịch vụ. Vì vậy theo phân loại trên thì rừng
đặc dụng Núi Nả tại xã Quân Khê, huyện Hạ Hoà tỉnh Phú Thọ thuộc loại thứ
3 là khu bảo vệ cảnh quan danh lam thắng cảnh.
1.1.2. Khái niệm về tái sinh rừng
Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang đặc thù của hệ sinh thái
rừng. Đó là sự xuất hiện các thế hệ cây con của những loài cây gỗ ở những
nơi còn hoàn cảnh rừng như dưới tán rừng, khoảng trống trong rừng, trên
dải rừng sau khi khai thác hoặc sau khi làm nương rẫy, các cây con sẽ thay thế
các cây già cỗi. Theo nghĩa hẹp, tái sinh rừng là quá trình phụ chồi lại
thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ [12].
Sự xuất hiện lớp cây con mới làm phong phú thêm số lượng và thành phần

loài trong quần thể sinh vật. Động vật, thực vật, vi sinh vật đóng góp vào việc làm
thay đổi cả quá trình trao đổi vật chất và năng lượng trong hệ sinh thái. Do đó theo
nghĩa rộng tái sinh rừng là sự tái sinh nhằm bảo đảm cho sự tồn tại liên tục của
một hệ sinh thái rừng. Tái sinh rừng có thể diễn ra theo các cách thức khác nhau.
Xét về mặt sinh học thì tái sinh rừng diễn ra theo 3 hình thức: Tái sinh hạt, tái sinh
chồi và tái sinh thân ngầm. Trong đó tái sinh hạt là quá trình mà thế hệ các cây
rừng mới được hình thành từ các hạt giống như thông, lim, bạch đàn, bồ đề. Quá trình
tái sinh hạt phải trải qua 3 giai đoạn: Ra hoa kết quả; phân tán hạt giống;
hạt giống nảy mầm và sinh trưởng của cây tái sinh. Tái sinh chồi là quá trình vô tính
cây con được phát triển từ một phần của cây mẹ như bạch đàn xoan, mỡ. Tái sinh
thân ngầm là trường hợp các cây con được phát triển từ thân ngầm như tre nứa.
Trên quan điểm triết học tái sinh rừng được xem như một quá trình phủ định
biện chứng, cây non thay thế cây già trên cơ sở được thừa hưởng hoàn cảnh thuận
lợi do thế hệ rừng ban đầu tạo nên. Về mặt kinh tế, có thể coi tái sinh rừng là quá
trình tái sản xuất mở rộng. Các rừng tái sinh sẽ có xu hướng phát triển thích ứng

Số hóa bởi trung tâm học liệu
9
ngày càng tốt hơn với các điều kiện ngoại cảnh. Trong kinh doanh rừng, một trong
những vấn đề then chốt là cần phải xác định được phương thức tái sinh rừng có
hiệu quả. Trên thực tế tùy theo điều kiện tự nhiên, kinh tế và kỹ thuật có thể tiến
hành tái sinh rừng theo các phương thức thích hợp. Có 3 phương thức cơ bản để
tái sinh rừng là tái sinh tự nhiên, tái sinh nhân tạo và xúc tiến tái sinh tự nhiên.
Tái sinh tự nhiên là quá trình tạo thành thế hệ cây rừng mới bằng con
đường tự nhiên, về cơ bản không có sự tác động của con người. Kết quả rừng
tái sinh phụ thuộc hoàn toàn vào các quy luật và điều kiện tự nhiên ưu điểm
của tái sinh tự nhiên là lợi dụng được nguồn giống tại chỗ và hoàn cảnh rừng
hiện có. Điều kiện để áp dụng tái sinh tự nhiên là phải có nguồn tương tự
nhiên và hoàn cảnh sinh thái thích hợp cho sinh trưởng của cây tái sinh. Trong
điều kiện rừng nhiệt đới, quá trình tái sinh tự nhiên ít đạt được kết quả mong

muốn. Tái sinh rừng tự nhiên sẽ không điều tiết được thành phần loài cũng
như mật độ cây phù hợp với yêu cầu kinh doanh và sử dụng rừng. Tái sinh
nhân tạo là phương thức tái sinh có tác động trực tiếp của con người từ
gieo trồng chăm sóc để tạo rừng mới trên đất có rừng ưu điểm của phương
thức này là chủ động chọn loại cây trồng, điều khiển được tổ thành, mật độ
cây thích hợp cho mục đích của con người. Nhược điểm chính của nó là đòi
hỏi có điều kiện kinh tế kĩ thuật và nhân lực nên khó triển khai trên diện
tích lớn. Xúc tiến tái sinh tự nhiên là phương thức trung gian giữa tái sinh
nhân tạo và tái sinh tự nhiên. Trong đó tận dụng triệt để những ưu điểm của
tái sinh tự nhiên với tự tham gia tích cực của con người để tái sinh rừng
đạt hiệu quả cao hơn. Con người có thể can thiệp ở mức hướng dẫn tái sinh tự
nhiên theo mục đích mong muốn [12].
1.2. Những nghiên cứu trên thế giới
1.2.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng
Cấu trúc rừng là sự sắp xếp tổ chức nội bộ của các thành phần sinh vật
trong hệ sinh thái rừng mà qua đó các loài có đặc điểm sinh thái khác nhau có
thể chung sống hài hoà và đạt tới sự ổn định tương đối trong một giai đoạn
phát triển nhất định của tự nhiên. Cấu trúc rừng vừa là kết quả vừa là sự thể

Số hóa bởi trung tâm học liệu
10
hiện quan hệ đấu tranh và thích ứng lẫn nhau giữa các sinh vật rừng với môi
trường sinh thái và giữa các sinh vật rừng với nhau.
1.2.1.1. Cơ sở sinh thái của cấu trúc rừng
Quy luật cấu trúc rừng là cơ sở quan trọng để nghiên cứu sinh thái học,
hệ sinh thái rừng và đặc biệt là để xây dựng những mô hình lâm sinh cho hiệu
quả sản xuất cao. Trong nghiên cứu cấu trúc rừng người ta chia thành 3 dạng
cấu trúc đó là cấu trúc sinh thái, cấu trúc không gian và cấu trúc thời gian.
Các nghiên cứu về cấu trúc sinh thái của rừng mưa nhiệt đới đã được
Odum EP (1971)… tiến hành [31]. Các nghiên cứu này thường nêu lên quan

điểm, khái niệm và mô tả định tính về tổ thành, dạng sống và tầng phiến của
rừng.
Baur G.N (1962) [1] đã nghiên cứu các vấn đề về cơ sở sinh thái học nói
chung và về cơ sở sinh thái học trong kinh doanh rừng mưa nói riêng, trong
đó đã nghiên cứu sâu các nhân tố cấu trúc rừng, các kiểu xử lý về mặt lâm
sinh áp dụng cho rừng mưa tự nhiên. Từ đó tác giả đã đưa ra những tổng kết
hết sức phong phú về các nguyên lý tác động xử lý lâm sinh nhằm đem lại
rừng cơ bản là đều tuổi, rừng không đều tuổi và các phương thức xử lý cải
thiện rừng mưa.
Tác giả Odum E.P (1971) [31] đã hoàn chỉnh học thuyết về hệ sinh thái
trên cơ sở thuật ngữ “hệ sinh thái” (ecosystem) của Tansley A.P, năm 1935.
Khái niệm hệ sinh thái được làm sáng tỏ là cơ sở để nghiên cứu các nhân tố
cấu trúc trên quan điểm sinh thái học.
1.2.1.2. Mô tả hình thái cấu trúc rừng
Hiện tượng tầng thứ là sự sắp xếp không gian phân bố của các thành
phần sinh vật rừng trên cả mặt bằng và theo chiều thẳng đứng.
Phương pháp vẽ biểu đồ mặt cắt đứng của rừng do David và Richards
(1933 - 1934) đề xướng và sử dụng lần đầu tiên ở Guyan đến nay vẫn là
phương pháp hiệu quả để nghiên cứu cấu trúc tầng của rừng [21].
Hiện nay, nhiều hệ thống phân loại thảm thực vật rừng đã dựa vào các
đặc trưng như cấu trúc và dạng sống, độ ưu thế, kết cấu hệ thực vật hoặc năng

Số hóa bởi trung tâm học liệu
11
suất thảm thực vật. Trong đó phương pháp dựa vào hình thái bên ngoài của
thảm thực vật được sử dụng nhiều nhất.
Kraft (1984), lần đầu tiên đưa ra hệ thống phân cấp cây rừng, ông chia
cây rừng trong một lâm phần thành 5 cấp dựa vào khả năng sinh trưởng, kích
thước và chất lượng của cây rừng. Phân cấp của Kraft phản ánh được tình
hình phân hoá của cây rừng, tiêu chuẩn phân cấp rõ ràng, đơn giản và dễ áp

dụng nhưng chỉ phù hợp với rừng thuần loài đều tuổi.
Hầu hết các tác giả khi nghiên cứu về tầng thứ thường đưa ra những
nhận xét mang tính định tính, việc phân chia tầng thứ theo chiều cao mang
tính cơ giới nên chưa phản ánh được sự phân tầng phức tạp của rừng tự nhiên
nhiệt đới.
1.2.1.3. Nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng
Việc nghiên cứu cấu trúc rừng đã có từ rất lâu và được chuyển dần từ
mô tả định tính sang định lượng với sự hỗ trợ của thống kê toán học và tin
học, trong đó việc mô hình hoá cấu trúc rừng, xác lập mối quan hệ giữa các
nhân tố cấu trúc rừng đã được nhiều tác giả nghiên cứu có kết quả. Vấn đề
không gian và thời gian được nhiều tác giả tập trung nghiên cứu nhiều nhất
điển hình như: Rollet B (1971), Loeth et al (1967)… (dẫn theo Trần Văn
Con, 2001) [5]. Nhiều tác giả còn sử dụng hàm Weibull, Meyer,
Hyperbol… để mô hình hoá cấu trúc đường kính loài, cấu trúc rừng.
Khác với xu hướng phân loại rừng theo cấu trúc và ngoại mạo chủ yếu
mô tả rừng ở trạng thái tĩnh. Trên cơ sở nghiên cứu rừng ở trạng thái động
Melekhov đã nhấn mạnh sự biến đổi của rừng theo thời gian, đặc biệt là sự
biến đổi tổ thành loài cây trong lâm phần qua các giai đoạn khác nhau trong
quá trình sinh trưởng và phát triển của rừng.
Tóm lại, trên thế giới các công trình nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc
rừng nói chung và rừng nhiệt đới nói riêng rất phong phú, đa dạng, có nhiều
công trình nghiên cứu công phu và đã đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh
và phục hồi rừng.


Số hóa bởi trung tâm học liệu
12
1.2.2. Nghiên cứu về tái sinh rừng
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả tái sinh rừng được
xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc

điểm phân bố. Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây tái sinh và
tầng cây gỗ lớn đã được nhiều nhà khoa học quan tâm (Richards, 1933; 1939;
Lebrun & Gilbert, 1954; Schultz, 1960; Rollet, 1969) (dẫn theo Nguyễn
Thanh Tiến) [21]. Do tính chất phức tạp về tổ thành loài cây, trong đó chỉ có
một số loài có giá trị nên trong thực tiễn người ta chỉ khảo sát những loài cây
có ý nghĩa nhất định.
Quá trình tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới vô cùng phức tạp và còn ít
được nghiên cứu. Phần lớn tài liệu nghiên cứu chỉ tập trung vào một số loài
cây có giá trị kinh tế dưới điều kiện rừng đã bị biến đổi ít nhiều. Van Steenis
(1956) [32] đã nghiên cứu hai đặc điểm tái sinh phổ biến của rừng mưa nhiệt
đới là tái sinh phân tán liên tục của các loài cây chịu bóng và tái sinh vệt của
các loài cây ưa sáng.
Các công trình nghiên cứu về phân bố tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới
đáng chú ý là công trình nghiên cứu của Richards, P.W (1952), Bernard
Rollet (1974), tổng kết các kết quả nghiên cứu về phân bố số cây tái sinh tự
nhiên đã nhận xét: các ô có kích thước nhỏ (1m x 1m; 1m x 1,5m) cây tái sinh
tự nhiên có dạng phân bố cụm, một số ít có phân bố Poisson.
Đối với rừng nhiệt đới thì các nhân tố sinh thái như nhân tố ánh sáng, độ
ẩm của đất, cây bụi, thảm tươi là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá
trình tái sinh rừng, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến
vấn đề này. Baur G.N (1962) [1] cho rằng, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng
đến sự phát triển của cây con, còn đối với sự nảy mầm và phát triển của cây
mầm ảnh hưởng này thường không rõ ràng và thảm cỏ, cây bụi có ảnh hưởng
tới sinh trưởng của cây tái sinh, ở những quần thụ kín tán thảm cỏ, cây bụi
kém phát triển nhưng chúng vẫn có ảnh hưởng đến cây tái sinh.
Trong nghiên cứu tái sinh rừng người ta nhận thấy rằng tầng cây cỏ và cây
bụi qua thu nhận ánh sáng, độ ẩm và các nguyên tố dinh dưỡng khoáng của
tầng đất mặt đã ảnh hưởng xấu đến cây con tái sinh của các loài cây gỗ. Những

Số hóa bởi trung tâm học liệu

13
quần thụ kín tán, đất khô và nghèo dinh dưỡng khoáng do đó thảm cỏ và cây
bụi sinh trưởng kém nên ảnh hưởng của nó đến các cây gỗ tái sinh không đáng
kể. Ngược lại, những lâm phần thưa, rừng đã qua khai thác thì thảm cỏ có điều
kiện phát triển mạnh mẽ, trong điều kiện này chúng là nhân tố gây trở ngại rất
lớn cho tái sinh rừng (Xannikov, 1967; Vipper, 1973) (Nguyễn Văn Thêm,
2002) [22].
Như vậy, các công trình nghiên cứu được đề cập ở trên đã phần nào làm
sáng tỏ việc đặc điểm tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới. Đó là cơ sở để xây
dựng các phương thức lâm sinh hợp lý, phù hợp tác động vào đó nhằm thúc
đẩy quá trình tái sinh theo hướng có lợi.
1.3. Những nghiên cứu ở Việt Nam
1.3.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng
Việc nghiên cứu cấu trúc rừng ở Việt Nam cũng đã được rất nhiều tác
giả đề cập đến nhằm đưa ra giải pháp lâm sinh phù hợp, ta có thể kể một số
công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
Theo Thái Văn Trừng (1963, 1970, 1978) [25] đã đưa ra mô hình cấu trúc
tầng cây như: Tầng vượt tán (A
1
), tầng ưu thế sinh thái (A
2
), tầng dưới tán (A
3
),
tầng cây bụi (B) và tầng cỏ quyết (C). Ông đã vận dụng và cải tiến bổ sung
phương pháp biểu đồ, mặt cắt đứng của David & Richar để nghiên cứu cấu trúc
rừng Việt Nam.
Theo Đào Công Khanh (1996) [8] trong công trình nghiên cứu ông đã
tiến hành nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng lá rộng thường xanh ở
Hương Sơn, Hà Tĩnh làm cơ sở đề xuất một số biện pháp kỹ thuật lâm sinh

phục vụ khai thác và nuôi dưỡng rừng.
Khi thử nghiệm phương pháp nghiên cứu một số quy luật cấu trúc, sinh
trưởng phục vụ điều chế rừng lá rộng, hỗn loài thường xanh ở Kon Hà Nừng -
Gia Lai, tác giả Vũ Đình Phương và Đào Công Khanh [9] đã cho rằng: đa số
các loài cây có cấu trúc đường kính và chiều cao giống với cấu trúc tương ứng
của lâm phần, đồng thời cấu trúc của loài cũng có những biến động.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây việc đi vào chiều sâu nghiên cứu cấu
trúc rừng cũng đã được nhiều tác giả quan tâm như những công trình nghiên cứu

Số hóa bởi trung tâm học liệu
14
mô hình hoá cấu trúc đường kính D
1.3
và biểu diễn chúng theo các dạng hàm phân
bố xác suất khác nhau, nổi bật là các công trình nghiên cứu của tác giả Đồng Sỹ
Hiền (1974) [7] dùng hàm Meyer và hệ đường cong Poisson để nắn phân bố thực
nghiệm số cây theo cỡ kính cho rừng tự nhiên làm cơ sở lập biểu thể tích và độ
thon cây đứng cho rừng ở Việt Nam. Tác giả Trần Văn Con (1991) [5] đã áp dụng
hàm Weibull để mô phỏng cấu trúc đường kính cho rừng Khộp ở Đắc Lắc…
Tóm lại, hầu hết các công trình nghiên cứu gần đây thường thiên về việc
mô hình hoá các quy luật kết cấu lâm phần và việc đề xuất các biện pháp kỹ
thuật tác động vào rừng thường đề cập đến yếu tố sinh thái nên chưa thực sự
áp dụng vào kinh doanh rừng đáp ứng mục tiêu ổn định lâu dài.
1.3.2. Nghiên cứu về tái sinh rừng
Tái sinh rừng có thể hiểu là quá trình phục hồi rừng được hiểu là quá
trình tái tạo lại rừng trên những diện tích đã bị mất rừng. Theo quan điểm sinh
thái học thì phục hồi rừng là một quá trình tái tạo lại một hệ sinh thái mà
trong đó cây gỗ là yếu tố cấu thành chủ yếu. Đó là một quá trình sinh địa
phức tạp gồm nhiều giai đoạn và kết thúc bằng sự xuất hiện một thảm thực
vật cây gỗ bắt đầu khép tán (Trần Đình Lý; 1995), [14]. Để tái tạo lại rừng

người ta có thể sử dụng các giải pháp khác nhau tuỳ theo mức độ tác động của
con người là: phục hồi nhân tạo (trồng rừng), phục hồi tự nhiên và phục hồi tự
nhiên có tác động của con người (xúc tiến tái sinh).
Theo Thái Văn Trừng (1963, 1970, 1978) [25] đã nhận định: Sự phát
sinh các loại hình quần thể có thành phần loài cây khác nhau trong thiên nhiên
nhiệt đới có thể có những dạng quần hợp thực vật ở những môi trường khắc
nghiệt, còn đại bộ phận là những ưu hợp thực vật có một ưu thế tương đối của
cá thể các loài cây trong tầng ưu thế sinh thái của quần thể và có lẽ phổ biến
hơn là những phức hợp mà độ ưu thế chưa phân hoá rõ rệt. Trong những khu
vực tự nhiên nhiệt đới gió mùa như ở Việt Nam, một quần thể sinh ra, lớn lên,
thành thục, già cỗi và sẽ tàn lụi hoặc từng cá thể, từng bộ phận hoặc toàn bộ
quần thể có thể chưa thành thục, già cỗi có thể bị gió bão, lũ lụt hoặc các thiên
tai khác huỷ diệt. Ông cũng khẳng định: Một thực tế mà bất kỳ một tác giả
nào khi đã nghiên cứu thảm thực vật rừng nhiệt đới cũng đều nhất trí là tình

Số hóa bởi trung tâm học liệu
15
hình tái sinh rất thưa và yếu dưới tán rừng, của những loài cây đang chiếm ưu
thế ở tầng trên.
Trong quá trình tái sinh tự nhiên của các xã hợp tự nhiên nguyên sinh
hay thứ sinh đều có hai cách tái sinh đó là: tái sinh liên tục dưới tán kín rậm
của những loài chịu bóng và tái sinh theo vệt để hàn gắn những lỗ trống trong
tán rừng do cây già đổ, chết. Qua đó ta thấy được một số nhân tố sinh thái
trong nhóm khí hậu đã khống chế và điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên của
các quần xã thực vật trong thảm thực vật rừng đó là ánh sáng. Do đó, khi nắm
vững tính di truyền của các loài thực vật trong quần xã thực vật thì chúng ta
có thể chủ động được phần nào trong việc đề xuất các biện pháp kỹ thuật lâm
sinh có lợi nhất cho con người.
Lê Đồng Tấn và Đỗ Hữu Thư (1995) nghiên cứu thảm thực vật tái sinh
trên đất sau nương rẫy tại Sơn La qua 3 giai đoạn phát triển: giai đoạn I (tuổi

từ 4 đến 5), giai đoạn II (tuổi 9 đến 10), giai đoạn III (tuổi 14 đến 15) và nhận
xét: Trong 15 năm đầu, thảm thực vật tái sinh trên đất sau nương rẫy có số
lượng loài đều tăng lên qua các giai đoạn phát triển. Sau 3 giai đoạn phát triển
thảm thực vật tái sinh trên đất sau nương rẫy thể hiện một quá trình thay thế
tổ thành rất rõ ràng, lượng tăng trưởng của thảm thực vật không cao [18].
Căn cứ vào nguồn giống, người ta phân chia ra 3 mức độ tái sinh: (i) tái
sinh nhân tạo, (ii) tái sinh bán nhân tạo (xúc tiến TSTN), (iii) tái sinh tự
nhiên. Trần Xuân Thiệp (1995) cho rằng, nếu thành phần cây tái sinh giống
như thành phần cây đứng thì đó là quá trình thay thế một thế hệ cây này bằng
thế hệ cây khác [24].
Như vây, đặc điểm cơ bản của quá trình này là lớp cây con đều có nguồn
gốc từ hạt và chồi sẵn có, kể cả trong trường hợp tái sinh nhân tạo.
Vũ Tiến Hinh (1991), nghiên cứu đặc điểm quá trình tái sinh của rừng
tự nhiên ở Hữu Lũng (Lạng Sơn) và vùng Ba Chẽ (Quảng Ninh) đã nhận
xét: hệ số tổ thành tính theo % số cây của tầng tái sinh và tầng cây cao có
liên hệ chặt chẽ. Đa phần các loài có hệ số tổ thành tầng cây cao càng lớn thì
hệ số tổ thành tầng tái sinh cũng vậy [30].


Số hóa bởi trung tâm học liệu
16
1.3.3. Nghiên cứu về điều tra, đánh giá tái sinh tự nhiên
Từ năm 1962 - 1967 Cục điều tra quy hoạch rừng (nay là Viện Điều tra
quy hoạch rừng) đã điều tra tái sinh tự nhiên trên một số vùng thuộc tỉnh
Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Yên Bái và Quảng Ninh với sự tư vấn của
chuyên gia Hà Cự Trung - Trung Quốc. Phương pháp tiến hành là điều tra khu
tiêu chuẩn điển hình của các trạng thái rừng, trên cơ sở sử dụng ô điều tra
2.000m
2
diện tích đo đếm tái sinh 100 - 125 m

2
kết hợp với điều tra theo
tuyến. Dựa vào các tài liệu đã thu thập ngoài rừng, các tác giả tiến hành phân
tích, tính toán những chỉ tiêu cây đứng và cây tái sinh, phân chia các loại hình
thực vật rừng và dựa trên cơ sở đó nhận xét thực trạng rừng, đánh giá tình
hình tái sinh tự nhiên và đề xuất biện pháp kinh doanh [21].
Trong thời gian từ năm 1962 đến năm 1969, Viện Điều tra - Quy hoạch
rừng đã điều tra tái sinh tự nhiên theo các "loại hình thực vật ưu thế" rừng thứ
sinh ở Yên Bái (1965), Hà Tĩnh (1966), Quảng Bình (1969) và Lạng Sơn
(1969). Đáng chú ý là kết quả điều tra tái sinh tự nhiên ở vùng sông Hiếu
(1962-1964) bằng phương pháp đo đếm điển hình. Từ kết quả điều tra tái
sinh, dựa vào mật độ cây tái sinh, Vũ Đình Huề (1969) đã phân chia khả năng
tái sinh rừng thành 5 cấp, rất tốt, tốt, trung bình, xấu và rất xấu. Nhìn chung
nghiên cứu này mới chỉ chú trọng đến số lượng mà chưa đề cập đến chất
lượng cây tái sinh. Cũng từ kết quả điều tra trên, Vũ Đình Huề (1975) đã tổng
kết và rút ra nhận xét, tái sinh tự nhiên rừng miền Bắc Việt Nam mang những
đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt đới. Dưới tán rừng nguyên sinh, tổ thành loài
cây tái sinh tương tự như tầng cây gỗ; dưới tán rừng thứ sinh tồn tại nhiều loài
cây gỗ mềm kém giá trị và hiện tượng tái sinh theo đám được thể hiện rõ nét
tạo nên sự phân bố số cây không đồng đều trên mặt đất rừng. Với những kết
quả đó, tác giả đã xây dựng biểu đánh giá tái sinh áp dụng cho các đối tượng
rừng lá rộng, miền Bắc nước ta (dẫn theo Nguyễn Thanh Tiến) [21].
Lê Đồng Tấn (1993-1999), nghiên cứu quá trình phục hồi tự nhiên một số
quần xã thực vật sau nương rẫy tại Sơn La theo phương pháp kết hợp điều tra ô
tiêu chuẩn 400 m
2
cho các đối tượng là thảm thực vật phục hồi sau nương rẫy

Số hóa bởi trung tâm học liệu
17

và theo dõi ô định vị 2000 m
2
. Tác giả kết luận: mật độ cây tái sinh giảm dần từ
chân đồi lên đỉnh đồi. Tổ hợp loài cây ưu thế trên ba vị trí địa hình và 3 cấp độ
dốc là giống nhau. Sự khác nhau chính là hệ số tổ thành các loài trong tổ hợp
đó [19].
Đánh giá vai trò tái sinh và phục hồi rừng tự nhiên ở các vùng miền Bắc,
Trần Xuân Thiệp (1995) [23] nghiên cứu tập trung vào sự biến đổi về lượng,
chất lượng của tái sinh tự nhiên và rừng phục hồi. Qua đó, tác giả kết luận:
Rừng phục hồi vùng Đông Bắc chiếm trên 30% diện tích rừng hiện có, lớn
nhất so với các vùng khác. Khả năng phục hồi hình thành các rừng vườn,
trang trại rừng đang phát triển ở các tỉnh trong vùng. Rừng Tây Bắc phần lớn
diện tích rừng phục hồi sau nương rẫy, diễn thế rừng ở nhiều vùng xuất hiện
nhóm cây ưa sáng chịu hạn hoặc rụng lá, kích thước nhỏ và nhỡ là chủ yếu và
nhóm cây lá kim rất khó tái sinh phục hồi trở lại do thiếu lớp cây mẹ
Đỗ Thị Ngọc Lệ (2009), thử nghiệm một số phương pháp điều tra tái
sinh rừng tự nhiên. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các phương pháp điều tra tái
sinh khác nhau sẽ thu được những số liệu biểu thị tái sinh khác nhau về tổ
thành, mật độ, nguồn gốc, chất lượng và hình thái phân bố cây tái sinh. Căn
cứ vào sai số giữa các chỉ tiêu biểu thị tái sinh ở các phương pháp điều tra với
phương pháp điều tra toàn diện trên 6 ô tiêu chuấn có diện tích 1000m
2
, tác
giả đã lựa chọn được hai phương pháp phù hợp là phương pháp điều tra 5 ô
dạng bản với diện tích mỗi ô là 25m
2
(5x5m) và phương pháp điều tra theo
dải để điều tra tái sinh rừng tự nhiên [13].
1.4. Tổng quan khu vực nghiên cứu
1.4.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu

1.4.1.1. Vị trí địa lí, địa hình
Hạ Hòa nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Phú Thọ, toàn huyện gồm có 32 xã 1
thị trấn nằm hai bên bờ sông Thao. Có toạ độ địa lý tại trung tâm huyện là:
Từ 20
0
43’ đến 21
0
42’ vĩ độ Bắc; Từ 104
0
50’ đến 105
0
36’ kinh độ Đông.

Số hóa bởi trung tâm học liệu
18
Phía Đông Bắc giáp huyện Đoan Hùng trên một đoạn dài 32,15 km; Phía
Nam giáp huyện Cẩm Khê trên một đoạn dài 19,369 km; Phía Đông Nam giáp
huyện Yên Lập trên một đoạn dài 16,475 km; Phía Tây Bắc giáp hai huyện Trấn
Yên và Yên Bình tỉnh Yên Bái trên một đoạn dài 37,511 km. Huyện có diện tích tự
nhiên là 339,34 km
2
; thị trấn huyện Hạ Hòa cách thành phố Việt trì 70 km [3], [4].
Xã Quân Khê là một xã miền núi nằm ở phía Tây Bắc của huyện Hạ
Hòa cách trung tâm Thị trấn Hạ Hòa 16km. Có tổng diện tích tự nhiên là
2138,13 ha. Phía Đông giáp xã Động Lâm và xã Xuân Áng; Phía Tây
giáp với tỉnh Yên Bái; Phía Nam giáp huyện Yên Lập; Phía Bắc giáp xã
Hiền Lương và giáp tỉnh Yên Bái.
Địa hình xã Quân Khê khá phức tạp phần lớn là rừng núi đất chiếm 2/3
diện tích toàn xã, cấu tạo theo kiểu đồi bát úp có một số đỉnh núi cao chạy dài
từ chân núi Nả (987 m) tạo thành một dải rừng đầu nguồn giữ nước phục vụ

cho sinh hoạt và sản xuất của người dân trong xã và các khu vực lân cận. Có
độ dốc trung bình 20
0
- 40
0
. Đồng thời địa thế khí hậu đất đai phù hợp cho
việc phát triển nghề rừng và kinh tế nông ngư nghiêp. Rừng và đất rừng toàn
xã là 1466,28 ha trong đó được quy hoạch thành ba loại rừng: Rừng sản xuất
có diện tích là 755,08 ha; Rừng phòng hộ có diện tích là 41,20 ha; Rừng đặc
dụng có diện tích là 670 ha. Rừng đặc dụng Núi Nả tại xã Quân Khê được
thành lập năm 2003 theo Quyết định số 4526/QĐ-CT ngày 30 tháng 12 năm
2003 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ. Rừng đặc dụng trên toàn
huyện Hạ Hòa chỉ có ở xã Quân Khê [3].
1.4.1.2. Chế độ khí hậu, thủy văn
Huyện Hạ Hòa nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, mang nhiều nét
đặc trưng của miền núi phía Tây Bắc. Mùa đông khô lạnh, mùa hè nóng ẩm
mưa nhiều. Căn cứ vào kết quả quan trắc nhiều năm của trạm khí tượng thủy
văn Hạ Hòa cho thấy, khí hậu xã Quân Khê có một số đặc điểm chỉ tiêu cơ
bản sau:

×