Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Bài dự thi tìm hiểu chính sách pháp luật về bình đẳng giới tại Việt Nam (111 trang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.5 MB, 111 trang )

BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
PHẦN MỞ ĐẦU
KHÁI LƯỢC CHUNG
VỀ VẤN ĐỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM

1
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo
điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng
đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển
đó (Luật Bình đẳng giới - 2006).
Thực trạng bất bình đẳng về Giới, đã có một bước tiến khá dài trên
toàn thế giới kể từ năm 1910, là năm mà “Tuyên ngôn về quyền bình đẳng
của phụ nữ” được công bố tại Hội nghị Copenhagen do Rosa Luxemburg
và Krupskaia Constantinovna chủ trì. Trong Tuyên ngôn đó, lần đầu tiên
vấn đề bình đẳng cho phụ nữ đi làm việc được đặt ra với các nguyên tắc
cơ bản "Làm việc ngày 8 tiếng (để chăm sóc gia đình); giờ làm ngang
nhau thì tiền công phải được trả ngang nhau; Phụ nữ lao động có con nhỏ
phải được dành thời gian cho con bú)".
Từ đó đến nay, hơn 100 năm đã trôi qua. Từ chỗ không thừa nhận
phụ nữ đi làm việc và không thể có cương vị xã hội như nam giới, trong
hơn 100 năm qua, chúng ta có phụ nữ trong danh sách đoạt giải Nobel mà
Marie Curie là người đầu tiên. Chúng ta có phụ nữ là Tổng thống, Phó
2
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
Tổng thống (Phó chủ tịch Nước), Chủ tịch Quốc Hội và Phó chủ tịch
Quốc hội, Thủ tướng, Bộ trưởng quốc phòng, Bộ trưởng ngoại giao, Bộ
trưởng Thương mại, Bộ trưởng Tài chính (là những Bộ mà hơn hai thập
niên trước chưa từng có phụ nữ đảm trách trong các chính phủ). Chúng ta
có các nữ Hiệu trưởng Đại học ở Việt Nam và một số đại học khác trên
thế giới. Chúng ta có các nữ Tổng biên tập báo và truyền hình. Chúng ta


có các nữ phi hành gia và nữ vận động viên thể thao danh tiếng không
thua kém nam giới.
“Báo cáo phát triển con người, 2011” do UNDP công bố mới đây
cho thấy, Việt Nam xếp thứ 128 trên 187 quốc gia và vùng lãnh thổ.
“Báo cáo phát triển con người, 2011” do UNDP công bố mới đây
cho thấy, Việt Nam xếp thứ 128 trên 187 quốc gia và vùng lãnh thổ, mức
trung bình trên thế giới, về chỉ số phát triển con người (HDI) nhưng lại
xếp thứ 48 trên thế giới về chỉ số bất bình đẳng giới (GII - thứ hạng càng
gần 0 càng thể hiện sự bình đẳng cao). Theo đó, chúng ta đã có những
bước tiến vượt bậc trong việc thực hiện bình đẳng giới.
Bản đồ thế giới về chỉ số bất bình đẳng giới, 2011.
3
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
Những biến chuyển ngoạn mục của Việt Nam
“Báo cáo Phát triển con người, 2011” của UNDP cũng cho thấy, xu
hướng GII của Việt Nam là liên tục giảm từ 1995-2011. Điều đó cho thấy
mức độ bình đẳng giới của Việt Nam tăng lên rõ rệt trong thời gian.
Biểu 1: Xu hướng GII Việt Nam 1995-2011.
So với các nước trong khu vực ASEAN, Việt Nam xếp thứ 7/11 nếu
xét về chỉ số HDI, nhưng nếu xét về chỉ số GII, Việt Nam lại đứng thứ 3,
sau Singapore và Malaysia. Như vậy, có thể nói, mặc dù chỉ số phát triển
con người của Việt Nam còn hạn chế so với các nước trong khu vực
nhưng mức độ bình đẳng giới của Việt Nam luôn thuộc những nước hàng
đầu khu vực.
Bảng 1: So sánh thứ hạng HDI và GII của Việt Nam và các nước
ASEAN, 2011.
4
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng và phát huy bình
đẳng giới

Ngay từ ngày đầu mới lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trong
phần mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh tuyên bố:“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.
Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc".
Hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hiếp
pháp 1946, đã ghi nhận “Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể
nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai
cấp, tôn giáo” (Điều 1). “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương
diện” (Điều 9).
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn dành suối nguồn nghĩa tình sâu nặng, trân quý các thế hệ
phụ nữ Việt Nam. Tại lễ kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam, Người đã ôn lại truyền thống yêu nước đầy tự hào của
người phụ nữ Việt Nam với hình ảnh Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa,
đánh giặc, cứu dân thủa trước “cho đến nay mỗi khi nước nhà gặp nguy
nan thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên, góp phần xứng đáng của mình
vào sự nghiệp giải phóng dân tộc”. Tại Đại hội liên hoan phụ nữ “Năm
Tốt” vào ngày 30-4-1964, Người đã khẳng định “Ngay từ lúc đầu, Đảng
và Nhà nước ta đã thi hành chính sách đối với phụ nữ cũng được bình
quyền, bình đẳng với đàn ông”.
Trong cuộc Tuyển cử phổ thông đầu phiếu ngày 6-1-1946, Người
5
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
vui sướng nói "Phụ nữ là tầng lớp đi bỏ phiếu hăng hái nhất". Trong bản
di chúc viết tháng 5 năm 1968, Người đã căn dặn: "Trong sự nghiệp chống
Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến
đấu và trong sản xuất, Ðảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực
để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách

mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng
vươn lên. Ðó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho
phụ nữ".
Kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và thực hiện
những lời di huấn của Bác, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo và thực
hiện bình đẳng giới, nhiều văn bản chính sách đã được ban hành như:
Nghị quyết số 152-NQ/TW ngày 10/01/1967 “Về một số vấn đề về tổ
chức công tác phụ vận”, trong đó nhấn mạnh một số nhiệm vụ như “phân
bố, sử dụng hợp lý sức lao động phụ nữ trong nông nghiệp, hướng dẫn
thực hiện quyết định của chính phủ về sử dụng lao động phụ nữ trong
công nghiệp”; “Tăng cường việc tổ chức đời sống, bảo vệ sức khoẻ cho
phụ nữ và trẻ em”. Nghị quyết số 153-NQ/TW ngày 10/01/1967 về “Công
tác cán bộ nữ”; Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 07/6/1984 “Về một số vấn đề
cấp bách trong công tác cán bộ nữ"; Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày
12/7/1993 về “Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình
hình mới"; Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 29/9/1993 về “Một số vấn đề về
công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”; Nghị quyết 11-NQ/TW ngày
27/4/2007 của Bộ Chính trị về "Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH-
HĐH đất nước"…
Một trong những văn bản quan trọng không thể không nhắc đến, đó
là Hiến pháp 1992 đã quy định: “Công dân nữ và nam có quyền ngang
6
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình; Nghiêm
cấm hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”
(Điều 63). Trong thời gian qua, hàng loạt các văn bản pháp luật của Nhà
nước đã được ban hành nhằm nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội và
thực hiện bình đẳng giới như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn
nhân và Gia đình, Pháp lệnh Dân số và không thể không nhắc đến là
Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới.

Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
“Báo cáo phát triển con người năm 2011” cho biết tỷ lệ phụ nữ trong
cơ quan lập pháp của Việt Nam là 25,8%. Theo Tổ chức Liên minh Nghị
viện thế giới (Inter-Parliamentary Union) thì Việt Nam đứng thứ 40 trong
tổng số 188 nước trên thế giới về tỷ lệ phụ nữ trong cơ quan lập pháp (số
liệu tính đến ngày 30/11/2011 trên cơ sở báo cáo của cơ quan lập pháp các
nước). So với các nước trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam xếp thứ 3,
sau Timor Leste và Lào.
Bản đồ thế giới về tỷ lệ phụ nữ trong cơ quan lập pháp, 2011.
Trang tin Nhóm Nữ nghị sỹ Việt Nam (thuộc Uỷ ban Các vấn đề xã
7
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
hội của Quốc hội) và website Quốc hội cho biết, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc
hội ở nước ta liên tục tăng lên trong thời gian qua và duy trì ở mức cao. Tỷ
lệ này đã tăng từ 3% (Quốc hội khoá I từ 1946-1960) đến trên 24% Quốc
hội khoá XIII (2011-2016).
Biểu 2: Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội từ Khoá I-XIII.
Không chỉ chiếm tỷ lệ cao trong cơ quan lập pháp, phụ nữ Việt Nam
còn tham gia, nắm giữ những vị trí quan trọng và đóng góp tích cực trong
các cơ quan hành pháp, tư pháp, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã
hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp… Phụ nữ Việt Nam cũng có một
tổ chức chính trị riêng của mình đó là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
được ra đời (ngày 20/10/1930) từ trước cách mạng Tháng 8 năm 1945
hoạt động vì sự bình đẳng, phát triển của phụ nữ, chăm lo bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của phụ nữ. Tổ chức này với hàng chục triệu hội viên
hoạt động rộng khắp trên cả nước từ trung ương đến địa phương và tận các
thôn, buôn, sóc, bản, làng.
Bình đẳng giới trong các lĩnh vực xã hội
Kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và thực hiện
những lời di huấn của Bác, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo và thực

hiện bình đẳng giới, nhiều văn bản chính sách đã được ban hành…
8
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
Theo “Báo cáo phát triển con người, 2011” của UNDP, trình độ học
vấn của phụ nữ Việt Nam (từ 25 tuổi trở lên) đã hoàn thành chương trình
giáo dục cấp 2 trở lên là 24,7% so với 28% là của nam giới. Như vậy, mức
độ chênh lệch giữa nam và nữ về giáo dục ở nước ta không nhiều. Theo
Kết quả chủ yếu của Điều tra Dân số-KHHGĐ 1/4/2011 của Tổng cục
Thống kê (TCTK) thì tỷ lệ biết chữ của nam giới là 96,2% và của nữ giới
là 92,2% (từ 15 tuổi trở lên). Trang Wikipedia dẫn nguồn từ website Quốc
hội thì tại Việt Nam, cứ 100 cử nhân có 36 nữ, 100 thạc sĩ có 34 nữ, 100
tiến sĩ có 24 nữ. Để tôn vinh các nhà khoa học nữ, 25 năm qua, giải
thưởng Kovalevskaia đã trở thành một giải uy tín lớn trong giới khoa học
Việt Nam được trao cho hàng chục cá nhân, tập thể. Từ năm 2002, Thủ
tướng Chính phủ đã quyết định thành lập Quỹ “Giải thưởng Phụ nữ Việt
Nam” nhằm khuyến khích và tôn vinh phụ nữ Việt Nam trong các lĩnh
vực.
Khi phụ nữ có học vấn, học vấn cao sẽ mở ra các cơ hội cho họ về
việc làm, thu nhập, cơ hội tiếp cận về y tế, kế hoạch hoá gia đình hay tham
gia lĩnh vực chính trị. Chính vì thế, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho
tương lai. Mở cánh cửa giáo dục là mở ra các cơ hội mới.
Theo UNDP, tỷ lệ nữ tham gia lao động của Việt Nam là 68% và
nam giới là 76%. Theo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009 của
TCTK thì tỷ lệ nữ tham gia lao động là 46,6% trong tổng số lao động. Như
vậy, tỷ lệ nữ Việt Nam tham gia lao động gần bằng nam giới. Đáng chú ý
là báo cáo “Bình đẳng giới và Phát triển” (Gender equality and
Development) của World bank được công bố mới đây thì tỷ lệ phụ nữ
(30%) tham gia lao động trong lĩnh vực dịch vụ lại cao hơn nam giới
(26%). Có trên 20% tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam do phụ nữ làm chủ,
9

BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
chủ yếu thuộc về khu vực thương mại, dịch vụ, sản xuất, chế biến nông
sản, thủy sản. Nhiều tấm gương phụ nữ trẻ làm kinh tế giỏi không những
chỉ làm giàu cho bản thân mà còn đóng góp được nhiều cho xã hội. Theo
UNDP thì tại Việt Nam nếu nam giới kiếm được 1$ thì nữ giới sẽ kiếm
được 0,69$ (số liệu năm 2007). Điều này khác xa so với nhiều nước trên
thế giới. Khi phụ nữ có việc làm, họ sẽ có thu nhập và mang đến sự tự chủ
về kinh tế, sự chia sẻ các quyết định trong gia đình và các cơ hội bình
đẳng hơn đối với phụ nữ.
Bản đồ thế giới về tỷ lệ thu nhập giữa nam và nữ.
Điều tra Dân số-KHHGĐ 1/4/2011 của TCTK cho thấy tỷ lệ sử
dụng các biện pháp tránh thai của phụ nữ 15-49 tuổi năm 2011 là 78,2%,
trong đó các biện pháp tránh thai hiện đại là 68,6%; tổng tỷ suất sinh là
1,99 con. Tỷ lệ các bà mẹ khám thai từ 3 lần trở lên trong thời kỳ mang
thai là 76%. Nếu theo tiêu chí của UNDP (ít nhất 1 lần khám thai) thì tỷ lệ
này của Việt Nam là 93,8%. Thành công của chương trình DS-KHHGĐ
trong thời gian qua đã mang đến nhiều cơ hội lớn cho phụ nữ trong việc
tiếp cận và thụ hưởng các quyền, dịch vụ về y tế-dân số-KHHGĐ. Cũng
theo TCTK, tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi năm 2011 của Việt Nam là
15,%o.
Theo WHO và UNDP thì tỷ suất chết bà mẹ của Việt Nam là 56 (trên
10
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
100,000 trẻ sinh ra sống). Số trường hợp sinh có sự giúp đỡ của cán bộ y tế
là 88%. Mức chết giảm cùng với việc ứng dụng thành tựu khoa học kỹ
thuật trong lĩnh vực y tế và điều kiện kinh tế xã hội của đất nước tốt hơn đã
làm tuổi thọ của người dân ngày một tăng, trong đó, tuổi thọ của phụ nữ
luôn cao hơn nam giới. Theo 2011 World population data sheet thì tuổi thọ
của phụ nữ Việt Nam hiện nay là 76 và nam giới là 70 tuổi.
Việt Nam có lịch sử về bình đẳng giới một phần là kết quả của truyền

thống mẫu quyền cổ xưa. Tuy nhiên, do bị chế độ phong kiến Trung Quốc
đô hộ trong nhiều thế kỷ, đạo Khổng đã được truyền bá vào Việt Nam,
quyền bình đẳng của phụ nữ bị mai một, người phụ nữ dần trở nên lệ
thuộc và thấp kém trong gia đình và xã hội. Năm 1930, Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời đã xác định “nam, nữ bình quyền” là một trong mười
nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam. Hiến pháp đầu tiên của Nhà
nước Việt Nam mới năm 1946 đã xác định các quyền công dân, trong đó
có sự bình đẳng về mọi mặt giữa nam và nữ. Trong suốt mấy chục năm
qua, vấn đề bình đẳng nam, nữ luôn được thể hiện trong các chủ trương
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Năm 1982, Việt Nam đã
phê chuẩn Công ước Xóa bỏ mọi hình thức Phân biệt đối xử Đối với Phụ
nữ (CEDAW). Năm 2006, Việt Nam đã thông qua Luật Bình đẳng Giới và
năm 2007 thông qua Luật Ngăn chặn và Chống Bạo lực Gia đình. Các
quyền bình đẳng giữa nam và nữ gồm có quyền được làm việc, được
hưởng lương như nhau, quyền sở hữu, thừa kế và quyền lựa chọn bạn đời
khi kết hôn hoặc ly hôn được nhiều luật bảo vệ như Bộ luật Lao động,
Luật Đất đai và Luật Hôn nhân Gia đình. Bên cạnh đó, các nghị quyết và
chiến lược quốc gia được đặt ra như Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ
Chính trị về Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH , HĐH đất nước”
11
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
(2007), Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới (2011-2020)
Những chủ trương, chính sách trên ra đời từ nhu cầu thực tế và từ
những hoạch định mang tính chiến lược lâu dài. Các chiến lược ấy nằm
trong chiến lược tổng thể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng năng
lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế trong xu thế hội nhập, quốc tế
hóa, toàn cầu hóa. Khi áp dụng vào thực tiễn, đến lượt nó, những chính
sách luật pháp này đã tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh
vì mục tiêu bình đẳng giới ở Việt nam. Bình đẳng giới bản thân nó đã có ý
nghĩa, vì khi có bình đẳng giới, mỗi nguời được sống cuộc sống mà họ lựa

chọn, không bị áp chế và kỳ thị, phân biệt đối xử, không bị tuớc đoạt vô lý
quyền cơ bản của con người. Bất bình đẳng giới không chỉ phương hại đến
quyền của những cá nhân đó mà sẽ là gánh nặng kéo lùi sự phát triển của
xã hội.
Trong hiện tại, khoảng cách giữa nam và nữ trên các lĩnh vực kinh tế,
giáo dục, chính trị, xã hội…hầu như được thu hẹp. Theo số liệu thống kê
mới nhất: tỷ lệ nam giới và phụ nữ tham gia hoạt động kinh tế ở mức gần
bằng nhau: nữ 83%, nam 85%. Phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các
hoạt động kinh tế, tạo việc làm và giữ vai trò chính trong một số ngành. Tỉ
lệ lao động có việc làm được duy trì thường xuyên, chênh lệch giữa nam
và nữ chỉ 1,2% (49,4% nữ; 50,6% nam có việc làm). Tỉ lệ biết chữ của
nam từ 10 tuổi trở lên chỉ cao hơn tỉ lệ biết chữ của nữ 6%. Khoảng cách
nhập học của học sinh nam, nữ trong tất cả các cấp bậc học được thu hẹp.
Hiện tượng bỏ học sớm của trẻ em gái đã được cải thiện. Tính trung bình
trong các năm học, tỉ lệ tốt nghiệp của học sinh nữ cao hơn nam; 100% trẻ
em gái từ 11-14 tuổi tốt nghiệp chương trình tiểu học và được vào lớp 6
trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khoẻ, cho thấy rất rõ về thành tựu bình
12
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
đẳng giới. Tuổi thọ bình quân của người Việt nam hiện nay là 72,8 tuổi,
phụ nữ là 75,6 tuổi (tăng 5,5 tuổi so với năm 1999), nam giới là 70,2 tuổi
(tăng 3,7 tuổi so với năm 1999). Tỉ lệ phụ nữ khám thai, được chăm sóc y
tế khi mang thai tăng. Trong lĩnh vực chính trị, số lượng và chất lượng
phụ nữ tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội và các tổ chức, doanh
nghiệp ngày càng tăng. Trong Quốc hội, tỷ lệ nữ đại biểu nhiệm kỳ 1997-
2002 là 26,2%; nhiệm kỳ 2002-2007 là 27,3%, nhiệm kỳ 2007-2011 là
25,76%, xếp thứ 31 trên thế giới; nhiệm kỳ 2011 – 2016, là 24,40%.
Trong hơn 15 năm qua, Việt Nam luôn có Phó chủ tịch nước là nữ. Trong
gia đình, tiếng nói của phụ nữ khi quyết định các vấn đề lớn, quan niệm về
con trai, con gái đã có nhiều thay đổi tích cực. Mức độ sở hữu và kiểm

soát các tài sản quan trọng của phụ nữ Việt Nam hiện nay đã được pháp
luật bảo vệ.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, sự nghiệp phấn đấu
vì sự tiến bộ, bình đẳng và phát triển của phụ nữ Việt Nam hiện vẫn còn
nhiều khó khăn, thách thức. Xuất phát điểm là một nước nông nghiệp, trải
qua hàng nghìn năm Bắc thuộc, chịu ảnh hưởng của định kiến giới nặng
nề, mặc dù Việt nam đã đi được một quãng xa trên con đường đấu tranh vì
bình đẳng giới nhưng cũng đứng trước nhiều thách thức, trong đó chủ yếu
là khoảng cách giữa quy định pháp luật về bình đẳng giới và vấn đề thực
thi luật trên thực tế. Định kiến giới còn tồn tại khá phổ biến trong mọi đối
tượng, phân công lao động thực tế vẫn chênh lệch theo hướng bất lợi cho
phụ nữ; quan niệm phổ biến vẫn theo hướng trọng trai hơn gái. Ở miền
núi, vùng sâu, vùng xa, phụ nữ còn bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán
lạc hậu, tỷ lệ phụ nữ nghèo, phụ nữ mù chữ còn cao. Bạo lực gia đình, tệ
nạn mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em, lấy chồng người nước ngoài diễn
biến phức tạp. Tỉ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý, tham gia các cơ quan
13
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
dân cử còn thấp, chưa tương xứng với năng lực và sự phát triển của lực
lượng lao động nữ.
Thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và tăng cường hội nhập quốc tế, việc
phát huy quyền con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc cần
đến những chủ trương, chính sách lớn và sự tham gia của cả cộng đồng.
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 nhằm đến 7
mục tiêu, tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh
đạo nhằm từng bước giảm khoảng cách giới trong hệ thống chính trị; giảm
khoảng cách giới trong kinh tế, lao động, việc làm, tăng sự tiếp cận của
phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ dân tộc thiểu số đối với các nguồn lực
kinh tế, thị trường lao động; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, từng
bước bảo đảm sự tham gia bình đẳng giữa nam và nữ.

Trải qua quá trình phấn đấu không ngừng, hiện nay Bình đẳng giới
của Việt Nam được Liên hợp quốc đánh giá là điểm sáng trong việc thực
hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, là một trong những nước có thành tựu về
bình đẳng giới cao. Chỉ số phát triển con người (HDI ) tăng từ 0,649 năm
1995 lên 0,688 năm 2003 và 0,725 năm 2009. Chỉ số phát triển giới (GDI)
năm 2007 là 0,732 so với HDI là 0,733, tương đương 99,9%. Việt Nam là
một trong những nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ tham gia các hoạt
động kinh tế, là quốc gia đạt được sự thay đổi khá lớn về xóa bỏ khoảng
cách giới trong 20 năm qua ở khu vực Đông Á.
Với truyền thống đạo lý dân tộc Việt, với những phẩm chất ưu việt
của phụ nữ Việt Nam, sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, cộng đồng và
thiết thân hơn cả là sự vươn lên mạnh mẽ của mỗi cá nhân, phụ nữ Việt
Nam đã, đang và ngày càng khẳng định được vị thế của mình trên mọi mặt
14
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
của đời sống xã hội, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công
Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020, đạt được các
mục tiêu thiên niên kỷ về bình đẳng giới và nâng cao vị thế người phụ
nữ./.
15
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
PHẦN II
TRẢ LỜI CÂU HỎI
Câu 1
Câu hỏi: Luật bình đẳng giới quy định bao nhiêu thuật ngữ
16
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
liên quan tới bình đẳng giới? Nêu các nội dung cụ thể của từng
thuật ngữ và cho 2 ví dụ minh hoạ cho 2 thuật ngữ bất kỳ?
Trả lời

1. Nhận thức chung về Luật Bình đẳng giới:
Bình đẳng giới và giải phóng phụ nữ là một trong những mục tiêu đã
khẳng định trong các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, trong Hiến
pháp và đã được thể chế hóa trong hầu hết các văn bản pháp luật, tạo cơ
sở pháp lý, tạo điều kiện và cơ hội trao quyền bình đẳng cho cả nam và nữ
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Luật bình đẳng giới được Quốc hội Khoá XI, kỳ họp thứ 10 thông
qua ngày 29/11/2006, gồm 6 chương, 44 điều, quy định tất cả các nội
dung cơ bản liên quan đến bình đẳng giới.
17
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
Luật bình đẳng giới và các văn bản hướng dẫn thi hành ra đời đánh
dấu tiếng nói pháp lý về bình đẳng giới, được cộng đồng quốc tế và công
dân trong nước đánh giá cao; là cơ sở để tiến hành các biện pháp bình
đẳng giới một cách chính thống, hiệu quả, chính xác.
Ký kết quốc tế…
Luật bình đẳng giới quy định 9 thuật ngữ liên quan đến bình đẳng
giới, gồm: “Giới” - “Giới tính” - “Bình đẳng giới” - “Định kiến giới” -
“Phân biệt đối xử về giới” - “Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới” -
“Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật” - “Hoạt động bình đẳng giới” - “Chỉ số phát triển
giới (GDI)” .
2. Các thuật ngữ liên quan tới bình đẳng giới:
1. “Giới” chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các
mối quan hệ xã hội.
Giới là sự khác biệt về mặt xã hội giữa nam giới và phụ nữ như vai
trò, thái độ, hành vi ứng xử và các giá trị. Vai trò giới được biết đến thông
qua quá trình học tập và khác nhau theo từng nền văn hóa và thời gian, do
18
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI

vậy giới có thể thay đổi được. Ví dụ: nữ thường để tóc dài, nam thường để
tóc ngắn.
Khái niệm giới đề cập đến những khác biệt về mặt xã hội do các
nhóm xã hội con người tạo ra. Những quan niệm về giới luôn nảy sinh từ
tính chất của các quan hệ xã hội và của những hình thái tổ chức xã hội
khác nhau. Bản chất xã hội của giới được thể hiện rõ trong sự khác nhau
giữa các đặc tính và các hoạt động được coi là của nam giới và nữ giới khi
thực hiện so sánh trong các nền văn hoá, giữa các tầng lớp xã hội và các
nhóm dân tộc trong cùng một nền văn hoá, hoặc thay đổi theo thời gian.
Như vậy, giới là một khái niệm bao hàm một nội dung khá đa dạng
thể hiện sự khác biệt về mặt xã hội giữa nam giới và phụ nữ như vai trò,
thái độ, quan niệm, sự phân công lao động, sức khỏe. Vai trò của cả nam
và nữ là khác nhau nên cả hai có những vị trí xã hội không giống nhau.
Tuy nhiên, không thể dựa vào những khác biệt này để tạo sự phân biệt đối
xử không bình đẵng về giới mà những khác biệt giữa phụ nữ và nam giới
phải được công nhận và đánh giá một cách bình đẳng. Vai trò, vị thế và
quyền lợi pháp lý của phụ nữ phải được tôn trọng và bảo đảm.
2. “Giới tính” chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ.
19
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
Giới tính là sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và phụ nữ
không thể thay đổi được. Chỉ có một số khác biệt nhỏ về vai trò của nam
và nữ về mặt sinh học và sinh lý trên cơ sở giới tính. Ví dụ như việc mang
thai, sinh nở và sự khác biệt về sinh lý có thể là do các đặc điểm giới tính.
Tuyên truyền đến tận vùng sâu vùng xa
Khi sinh ra, con người không mang những đặc tính giới. Những đặc
tính giới chỉ được hình thành trong quá trình hoạt động ở gia đình và
ngoài xã hội. Bắt đầu từ khi sinh ra đứa trẻ đã được đối xử tùy theo trai
hay gái. Mọi người vẫn quen rằng, với trẻ gái thì cho chơi búp bê, dụng cụ
nấu ăn. Cũng bởi con người thường có suy nghĩ mang tính áp đặt về

những gì mà nam và nữ có khả năng và loại hoạt động mà họ nên làm, do
đó ngay từ trong gia đình con trai đã được học từ bố và con gái học được
từ mẹ những quy tắc và kỳ vọng về hành vi “nam” và hành vi “nữ” của
mình. Chính những định kiến này đã tác động làm ảnh hưởng đến cá nhân
và những người xung quanh. Những đặc điểm liên quan đến nam và nữ
thường bị rập khuôn, mang tính cố định (tương đối) và hầu như không có
sự lựa chọn nào khác.
20
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
Những định kiến, quy chuẩn xã hội này đã ăn sâu vào tiềm thức của
mọi người. Do đó, làm cho định kiến giới tồn tại dai dẳng và xuất phát từ
những quan niệm xã hội tác động tới số lượng người rất lớn – đại đa số
dân cư. Ví dụ: trong xã hội còn nhiều quan niệm xã hội phân biệt giữa phụ
nữ và nam giới như: đặt phụ nữ vào vị trí của người chăm sóc, phải ở gần
gia đình và chăm sóc cho gia đình; nội trợ không phải là công việc của
đàn ông; truyền thống phụ hệ coi nam giới là trụ cột trong gia đình và là
người ra quyết định.
3. “Bình đẳng giới” là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau,
được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển
của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự
phát triển đó.
Cập nhật kiến thức cho cán bộ phụ nữ cơ sở
Bình đẳng giới có nghĩa là phụ nữ và nam giới có vị trí như nhau và
có cơ hội như nhau để làm việc và phát triển. Nói bình đẳng giới không
có nghĩa là chỉ đấu tranh quyền lợi cho phụ nữ mà là đấu tranh cho sự bất
bình đẳng của cả hai giới. Nhưng trong thời đại ngày nay, nhìn chung sự
bất bình đẳng xảy ra đối với phụ nữ là đa số nên người ta nói nhiều đến
việc đòi quyền lợi cho phụ nữ.
Nam giới và phụ nữ cùng có điều kiện bình đẳng để phát huy hết khả
21

BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
năng và thực hiện các mong muốn của mình; có cơ hội bình đẳng để tham
gia, đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn lực của xã hội và quá trình phát
triển; được hưởng tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng; được hưởng
thành quả bình đẳng trong mọi lĩnh vực của xã hội.
Bình đẳng giới không phải là sự hoán đổi vai trò của nam, nữ từ thái
cực này sang thái cực khác và cũng không phải là sự tuyệt đối hóa bằng
con số hoặc tỉ lệ 50/50 mà là sự khác biệt về giới tính trong các vai trò
sản xuất, tái sản xuất, vai trò chính trị và cộng đồng, đặc biệt là sự chia sẻ
công việc gia đình, chăm sóc các thành viên gia đình để tạo cơ hội và điều
kiện cho nam, nữ phát triển tòan diện về mọi mặt. Đồng thời tạo điều kiện
và cơ hội cho phụ nữ bù đắp những khoảng trống do việc mang thai, sinh
con và gánh vác phần lớn lao động gia đình đem lại.
Mục tiêu bình đẳng giới:
Mục tiêu bình đẳng giới là xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ
hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển
nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết
lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội và gia đình.
4. “Định kiến giới” là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu
cực về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, giữa phụ nữ và nam giới không có sự
khác biệt về mặt xã hội, mà chỉ có sự khác biệt về mặt sinh học. Tuy
nhiên, trong thực tế, cho đến bây giờ các định kiến giới vẫn còn tồn tại và
có thể gặp ở nhiều nhóm xã hội: cả phụ nữ và nam giới, cả trong cán bộ
lãnh đạo - những người có vai trò quyết định đối với việc hoạch định và
thực hiện chính sách đối với phụ nữ và người dân.
22
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
Phụ nữ nghèo dân tộc còn chịu nhiều bất bình đẳng

Các định kiến giới là một tập hợp các đặc điểm mà một nhóm
người, một cộng đồng cụ thể nào đó gán cho là thuộc tính của nam giới
hay phụ nữ. Các quan niệm này thường sai lệch và hạn chế những điều mà
một cá nhân có thể làm. Ví dụ: một số định kiến coi phụ nữ là phụ thuộc,
yếu đuối, thụ động, dịu dàng và thứ yếu. Một số định kiến coi nam giới là
độc lập, mạnh mẽ, có năng lực, quan trọng hơn và là người ra quyết định
tốt hơn; hoặc "trai anh hùng, gái thuyền quyên", hay "trai tài, gái sắc".
Trong thực tế, những đặc điểm tính cách này không chỉ của riêng nam
giới hay phụ nữ, mà cả nam giới và phụ nữ đều có thể mang những đặc
điểm này. Tuy nhiên, những đặc tính đó lại thường bị gán cho nam hay nữ
dưới góc độ phê phán và làm cho họ bị thiệt thòi xét theo một khía cạnh
nào đó. Ví dụ, người ta hay cho rằng: phụ nữ không đủ mạnh để làm lãnh
đạo, hay nam giới không có khả năng chăm sóc con cái. Chính định kiến
đó đã hạn chế phụ nữ hoặc nam giới tham gia vào những công việc mà họ
có khả năng hoàn thành một cách dễ dàng. Các định kiến giới hiện nay
không chỉ gây bất lợi cho phụ nữ mà ngay cả nam giới cũng bị bất lợi,
như hạn chế cơ hội của nam giới tham gia vào công việc chăm sóc gia
đình hay lựa chọn một hành vi lành mạnh là không hút thuốc hay không
uống nhiều rượu.
23
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
Tuy định kiến giới gây bất lợi cho cả nam và nữ, nhưng định kiến
giới thường đặt phụ nữ ở vị thế bất lợi nhiều hơn so với nam giới, sự bất
lợi đó được thể hiện trên nhiều khía cạnh. Một trong những định kiến giới
biểu hiện khá rõ là gắn phụ nữ với vai trò gia đình, coi việc nội trợ, chăm
sóc gia đình, nuôi dạy con cái là của phụ nữ. Đáng chú ý là, hiện nay
nhiều người đang cổ suý cho tư tưởng đưa phụ nữ quay trở về với gia
đình. Từ suy nghĩ đó nhiều phụ nữ đã bị hạn chế trên con đường học tập,
lao động, phấn đấu và vươn lên trong sự nghiệp, giảm khả năng đóng góp
nhiều hơn về sức lực và trí tuệ cho xã hội.

5. “Phân biệt đối xử về giới” là việc hạn chế, loại trừ, không công
nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng
giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
Từ định kiến giới dẫn đến phân biệt đối xử về giới. Trong tình hình
hiện nay, do yêu cầu công việc, nhiều phụ nữ phải đầu tư nhiều thời gian
mới nâng cao được chuyên môn, nghiệp vụ. Nếu chỉ cần có thêm một ít
thời gian trong ngày công việc của họ sẽ tốt hơn, có thể đem lại rất nhiều
lợi ích cho nhiều người. Nếu vừa làm tốt bổn phận trong gia đình vừa làm
tốt công việc xã hội thì như vậy, nhiều phụ nữ phải gánh vác gấp đôi trách
nhiệm, bởi họ không những làm việc để kiếm thu nhập, mà còn là người
chủ yếu đảm đương các vai trò làm mẹ, làm vợ trong gia đình. Nếu xét
tương quan thời gian lao động trong một ngày giữa phụ nữ và nam giới
cho thấy, thời gian lao động của phụ nữ nhiều hơn, bởi họ phải làm các
công việc gia đình nhiều hơn (thời gian làm việc trung bình của phụ nữ là
13 giờ/ngày trong khi của nam giới chỉ khoảng 9 giờ). Do vậy, phụ nữ ít
có thời gian để học tập, nghỉ ngơi, giải trí và tham gia hoạt động xã hội so
với nam giới.
Vì những lý do gia đình mà nhiều phụ nữ chấp nhận tụt hậu, hoặc
phấn đấu có chừng mực, chỉ ở mức độ hoàn thành công việc. Đó cũng là
lý do cùng được đào tạo như nhau mà nam giới phát triển tốt hơn, có vị trí
24
BÀI DỰ THI TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
cao hơn, được học hành đào tạo chuyên môn cao hơn. Đó cũng là nguyên
nhân tụt hậu của giới nữ trong giáo dục, đào tạo, trong khoa học, công
nghệ và cả trong lãnh đạo và quản lý.
Phụ nữ nông thôn gánh vác nhiều công việc nặng nhọc, độc hại
Tại không ít tổ chức, cơ quan, một số phụ nữ không được đề bạt làm
lãnh đạo (ngay cả khi người phụ nữ này có trình độ và kinh nghiệm phù
hợp) bởi mọi người vẫn cho rằng, chỉ có nam giới mới nên làm việc “đại
sự”, phụ nữ thì chỉ nên làm việc công việc nhẹ nhàng để có thời gian dành

cho gia đình. Tư tưởng này không chỉ ở người dân, mà cả trong lãnh đạo,
và đặc biệt ngay cả trong một bộ phận phụ nữ cũng có định kiến với giới
nữ của mình. Ngoài hiện tượng níu kéo áo nhau ở một số phụ nữ, thì vấn
đề ở đây vẫn là do định kiến giới, coi nam giới ở vị trí lãnh đạo tốt hơn là
phụ nữ nên trong các kỳ bầu cử, những người gạt phụ nữ khỏi danh sách
bầu cử có khi không phải là nam, mà lại là nữ.
Mặc dù ở những công ty, xí nghiệp đông lao động nữ, doanh nghiệp
đó được miễn giảm thuế thu nhập và được tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi.
Nhưng trong mục tuyển dụng lao động đăng trên các báo cho thấy, nhiều
công ty chỉ tuyển lao động nam mặc dù công việc đó cũng phù hợp với
phụ nữ, hoặc có những thông báo tuyển dụng cùng một công việc như
nhau, ngành học như nhau, nhưng yêu cầu đối với nữ phải có bằng tốt
25

×