Tải bản đầy đủ (.docx) (110 trang)

Đề cương chi tiết lịch sử các học thuyết kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (757.5 KB, 110 trang )


CHƯƠNG 1: CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG
Câu 1: Phân tích bối cảnh xuất hiện của chủ nghĩa trọng thương.
Chủ nghĩa trọng thương là tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản, ra đời
trước hết ở Anh vào khoảng những năm 1450, phát triển tới giữa thế kỷ thứ XVII và
sau đó bị suy đồi. Có thể nói, nó ra đời trong bối cảnh hết sức thuận lợi khi mà
phương thức sản xuất phong kiến bắt đầu tan rã, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa mới ra đời:
+ Về mặt lịch sử:
Đây là thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản ngày càng tăng, tức là
thời kỳ tước đoạt bằng bạo lực nền sản xuất nhỏ và tích luỹ tiền tệ ngoài phạm vi các
nước Châu Âu, bằng cách cướp bóc và trao đổi không ngang giá với các nước thuộc
địa thông qua con đường ngoại thương.
+ Về kinh tế:
Kinh tế hàng hoá phát triển, thương nghiệp có ưu thế hơn sản xuất, tầng lớp
thương nhân tăng cường thế lực Do đó trong thời kỳ này thương nghiệp có vai trò rất
to lớn. Nó đòi hỏi phải có lý thuyết kinh tế chính trị chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động
thương nghiệp.
+ Về mặt chính trị:
Giai cấp tư sản lúc này mới ra đời, đang lên, là giai cấp tiên tiến có cơ sở kinh
tế tương đối mạnh nhưng chưa nắm được chính quyền, chính quyền vẫn nằm trong tay
giai cấp quý tộc, do đó chủ nghĩa trọng thương ra đời nhằm chống lại chủ nghĩa phong
kiến.
+ Về phương diện khoa học tự nhiên:
Điều đáng chú ý nhất trong thời kỳ này là những phát kiến lớn về mặt địa lý
như: Crixtốp Côlông tìm ra Châu Mỹ, Vancôđơ Gama tìm ra đường sang Ấn Độ
Dương… đã mở ra khả năng làm giàu nhanh chóng cho các nước phương Tây.
+ Về mặt tư tưởng, triết học:
Thời kỳ xuất hiện chủ nghĩa trọng thương là thời kỳ phục hưng, trong xã hội đề
cao tư tưởng tư sản, chống lại tư tưởng đen tối của thời kỳ trung cổ, chủ nghĩa duy vật
chống lại những thuyết giáo duy tâm của nhà thờ…


Câu 2: Phân tích những quan điểm kinh tế của chủ nghĩa trọng
thương.
Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa trọng thương bao gồm 4 quan điểm cơ bản
sau đây:
• Thứ nhất, họ đánh giá cao vai trò của tiển tệ.
Họ đồng nhất tiền tệ với của cải, cho rằng tiền tệ mới là tài sản thực sự của một
quốc gia, một nước càng có nhiều tiền thì càng giàu có, sự giàu có tích lũy dưới hình
thái tiền tệ là sự giàu có muôn đời vĩnh viễn. Đồng thời coi hàng hóa chỉ là phương
tiện nhằm gia tăng khối lượng tiền tệ, mục đích của mọi chính sách kinh tế của một
quốc gia là làm tăng khối lượng tiền tệ.
Chủ nghĩa trọng thương là trường phái đầu tiên coi trọng vai trò của tiền tệ
trong lịch sử kinh tế.
• Thứ hai, quan niệm về nghề nghiệp trong xã hội.
Họ cho rằng, nghề nghiệp nào trong xã hội làm gia tăng khối lượng tiền tệ mới
là những ngành nghề có ý nghĩa tích cực và ngược lại. Cụ thể:
- Nông nghiệp là ngành trung gian giữa tích cực và tiêu cực vì sản phẩm đầu
ra sản phẩm vật chất song không phải mua các yếu tố đầu vào như vậy tuy
không tạo ra nhưng cũng k tiêu tốn tiền tệ.
- Công nghiệp là ngành nghề mang tính tiêu cực vì phải bỏ tiền ra mua các
yếu tố đầu vào để sản xuất ra sản phẩm vật chất.
- Thương nghiệp là ngành duy nhất trong xã hội có ý nghĩa tích cực và tạo ra
của cải trong xã hội, vì sản phẩm đầu vào là sản phẩm vật chất và thu lại
tiền tệ.
Trường phái trọng thương k chỉ đánh giá cao vai trò của thương nghiệp cụ thể
còn nhấn mạnh vai trò của ngoại thương, khối lượng tiền tệ của một quốc gia chỉ có
thể gia tăng bằng con đường ngoại thương, đặc biệt là ngoại thương xuất siêu.
• Thứ ba, họ giải thích nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp.
Họ giải thích rằng lợi nhuận của thương nghiệp là kết quả của hoạt động trao
đổi không ngang giá (mua rẻ bán đắt), là sự lừa gạt cướp bóc giống như trong chiến
tranh. Họ cho rằng k một người nào thu đc lợi nhuận mà không làm thiệt kẻ khác, trao

đổi phải có một bên thua để bên kia đc. Dân tộc này làm giàu bằng cách hi sinh lợi
nhuận của dân tộc khác.
• Thứ tư, chủ nghĩa trọng thương rất đề cao vai trò của nhà nước
Chủ nghĩa trọng thương chưa biết đến và không thừa nhận sự hoạt động của
các quy luật kinh tế khách quan do đó họ đánh giá rất cao vai trò của nhà nước, sử
dụng quyền lực nhà nước để phát triển kinh tế vì tích luỹ tiền tệ chỉ thực hiện được
nhờ sự giúp đỡ của nhà nước. Họ đòi hỏi nhà nước phải tham gia tích cực vào đời
sống kinh tế để thu hút tiền tệ về nước mình càng nhiều càng tốt, tiền ra khỏi nước
mình càng ít càng phát triển.
Câu 3: Chủ nghĩa trọng thương tại các quốc gia.
 Chủ nghĩa trọng thương tại Anh:
Chủ nghĩa trọng thương ở Anh chia làm 2 giai đoạn phát triển:
- Giai đoạn 1 diễn ra trong thế kỉ XV-XVI gọi là giai đoạn học thuyết tiền tệ
- Giai đoạn 2 diễn ra trong thế kỉ XVI gọi là giai đoạn học thuyết về bảng cân
đối thương mại.
• Giai đoạn học thuyết tiền tệ.
Đại biểu của học thuyết tiền tệ của chủ nghĩa trọng thương thời kì này là
William Stafford (1554-1612).
Quan điểm trọng thương của ông được trình bày trong tác phẩm “ Trình bày
tóm tắt một vài lời kêu ca của đồng bào chúng ta” Trong tác phẩm này ông cho rằng
nguyên nhân của sự đắt đỏ nằm ở vấn đề khối lượng tiền trong nền kinh tế. Vì thế,
Nhà Nước cần phải có các biện pháp hành chính tác động vào quá trình lưu thông
nhằm giữ khối lượng tiền khỏi bị hao hụt.
Nội dung chủ yếu là bảng cân đối tiền tệ: ngăn chặn không cho tiền chạy ra
nước ngoài, khuyến khích mang tiền vàng từ nước ngoài về.
Biện pháp:
- Quy định tiền của nước Anh là vàng
- Chống lại mọi hành vi đem tiền ra ngoài; các thương gia nước ngoài vào
nước Anh đc khuyến khích mang tiền vào nhưng không đc mang tiền ra
khỏi nước Anh mà phải mua hàng hóa mang ra.

- Cấm nhập khẩu những sản phẩm không cần thiết.
- Xâm chiếm, mở rộng thuộc địa để tìm kiếm thị trường xuất khẩu.
Đây chính là giai đoạn tích lũy tiền tệ của chủ nghĩa tư bản, nhà nước sử dụng
nhiều biện pháp hành chính để tối đa hóa tích lũy tiền tệ.
• Giai đoạn học thuyết về bảng cân đối thương mại.
Đại biểu của học thuyết về bảng cân đối thương mại là Thomas Mun (1571-
1641) “Của cải là số sản phẩm dư thừa được sản xuất ra trong nước sau khi thỏa mãn
nhu cầu tiêu dùng nội bộ được chuyển thành tiền ở thị trường nước ngoài”.
Nội dung chủ yếu:
- Muốn giàu có phải tung tiền vào lưu thông, không được giữ tiền lại.
- Phải biết xuất khẩu tiền nhằm mục đích buôn bán : “ Vàng đẻ ra thương
mại, thương mại làm phát triển số tiền lên”.
- Phải đẩy mạnh hoạt động thương mại: “ Đó là hòn đá thử vàng đối với sự
phồn thịnh của một quốc gia”, “ Không có phép lạ nào khác kiếm tiền ngoài
thương mại”.
- Trong thương mại “hàng năm, chúng ta cần giữ một nguyên tắc là bán cho
người nước ngoài một số lượng lớn hơn khối lượng hàng hóa mua vào”.
- Cần mở rộng cơ sở nguyên liệu cho công nghiệp bằng ngoại thương (nhập
khẩu nguyên liệu từ nước ngoài kết hợp với sức lao động trong nước nhằm
phát triển sản xuất trong nước).
- Thu hẹp nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng.
- Đẩy mạnh cạnh tranh làm giá cả hàng hóa hạ xuống và nâng cao chất lượng
hàng hóa nội địa.
- Trong ngoại thương, cần mở rộng thị trường bằng việc biết bán hàng với
giá cả thấp.
Đây là giai đoạn chủ nghĩa trọng thương phát triển nhất, có tính chất thực
tiễn, thể hiện rõ ràng khát vọng của giai cấp tư sản Anh trong thời kì tích lũy tư bản
 Chủ nghĩa trọng thương ở Pháp.
• Quan điểm của nhà kinh tế Antoine de Montchretien (1575 – 1629).
Quan điểm:

Quan điểm mang màu sắc tiểu tư sản, thông cảm với quần chúng nhân dân, đặc
biệt là nông dân bị đè nặng dưới ách phong kiến, lên án sự xa hoa của giới quý tộc.
Nông dân là chỗ dựa cho Nhà nước và Nhà nước phải quan tâm đến nông dân. Ông
khẳng định “tài sản của đất nước không chỉ là tiền tệ mà còn bao gồm cả dân số đặc
biệt dân số nông nghiệp”.
Ông cho rằng thương mại là mục đích chủ yếu của nhiều ngành nghề khác
nhau. Thương nhân giữ vai trò liên kết người sản xuất với nhau.
Lợi nhuận thương nghiệp là chính đáng vì nó bù đắp sự rủi ro thua thiệt trong
việc giao dịch mua bán.
Ông viết “hạnh phúc của người ta là ở sự giàu có mà sự giàu có là ở trong lao
động” ông lên án sự lười biếng, coi đây là nguồn gốc của mọi tội lỗi và cho rằng nếu
cần thiết sẽ cưỡng chế những người trong độ tuổi phải có việc làm.
Biện pháp:
Hàng hóa nước ngoài bị đẩy ra khỏi nước Pháp, tăng cường thúc đẩy hoạt động
sản xuất trong nước và ngành thương mại, để nước Pháp có thể tự cung tự cấp. Các
nhà sản xuất vải lanh Hà Lan phải kết thúc hoạt động ở Pháp, cấm nhập khẩu sản
phẩm dệt của Anh. Thậm chí sách nước ngoài cũng bị cấm để ngăn chúng “đầu độc
tinh thần chúng tôi”.
Cho thành lập rất nhiều công trường thủ công sản xuất các sản phẩm theo mẫu
của nước ngoài nhằm tạo việc làm cho người dân lang thang thất nghiệp.
• Quan điểm của nhà kinh tế Jean Baptiste Colbert (1619 – 1683).
Quan điểm:
Là bộ trưởng tài chính nước Pháp, ông đã xây dựng được cho nước Pháp một
chính sách kinh tế trong 100 năm. Chính sách kinh tế này phản ánh quan điểm trọng
thương của ông trong khuôn khổ thúc đẩy sự phát triển của công trường thủ công tư
bản nhưng lại không quan tâm đúng mức sự phát triển của nông nghiệp. Theo ông,
ngoại thương có khả năng làm cho thần dân được sung túc và thỏa mãn được các nhu
cầu của vua chúa. Sự vĩ đại và hùng cường của một quốc gia là do số lượng tiền tệ
quyết định.
Biện pháp:

Cũng giống như Antoine de Montchretien, mục tiêu của Jean Baptiste Colbert
cũng là xây dựng một nền kinh tế tự cung tự cấp cho nước Pháp.
- Ông khuyến khích hoạt động sản xuất thủ công nghiệp trong nước bằng các
biện pháp trợ cấp và thuế quan, quy định một cách rõ ràng chất lượng và giá cả
của sản phẩm sản xuất ra. Ông cho thành lập các ngành công nghiệp mới,
khuyến khích và đãi ngộ các nhà khoa học, mời các nhà khoa học hoặc công
nhân có tay nghề nước ngoài sang Pháp.
- Đối với thương mại quốc tế, ông coi đây là con đường làm giàu cho đất nước vì
thế đưa ra hàng loạt các đặc quyền cho các chủ xưởng sản xuất hàng xuất khẩu.
Dưới sự giám sát của ông, hàng hóa muốn nhập khẩu vào nước Pháp phải chịu
rất nhiều quy định về thuế quan và chất lượng hà khắc.
- Ông cho cải thiện chất lượng đường giao thông và hệ thống kênh mương trên
khắp nước Pháp nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho lưu thông hàng hóa phát triển
thương mại.
- Tuy nhiên, đối với ngành nông nghiệp, Colbert đã có nhiều sai lầm làm cho
nông nghiệp bị sa sút như chính sách hạ giá hàng nông phẩm, bắt bán lúa gạo
vs bất kì giá nào, khi đã mang ra thị trường thì không được chở về nhà.
Câu 4: Đánh giá câu nói của người Trung Quốc: “Phi thương bất phú”
liên hệ thực tế Việt Nam.
Câu nói trên thể hiện rõ quan điểm nghê nghiệp của chủ nghĩa trọng thương, đó
là nghề nghiệp nào trực tiếp đem lại khối lượng tiền tệ cho xã hội mới là nghề nghiệp
“làm giàu” cho quốc gia và cho cá nhân. Ở đây, họ đã quá xem trọng vai trò của
thương nghiệp, xem thường các ngành sản xuất vật chất.
Điều này chỉ đúng trong bối cảnh tích lũy tư bản, chủ nghĩa trọng thương phồn
thịnh mà thôi.
Bởi lẽ, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất của con người, nó
ảnh hưởng đến tốc độ và quy mô của hoạt động thương nghiệp. Nếu nền sản xuất vật
chất không phát triển thì sẽ không có hàng hóa để bán và cũng không thu được tiền tệ
để mua các hàng hóa khác.
Liên hệ thực tiễn:

Xuất phát từ một nền kinh tế của nước ta còn lạc hậu, thương mại không tăng
(cả về nội thương lẫn ngoại thương). Đã có thời kì chúng ta thực hiện c/s “bỏ quan trả
cán” để kìm hãm sự phát triển kinh tế =) làm cho kinh tế thụt lùi so với thế giới. Nếu
kinh tế chỉ huy theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho thương mại kém
phát triển cả về nội thương và ngoại thương =) nền kinh tế yếu kém.
Đến đại hội Đảng VI (86) Nhà nước chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển sang
nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa =) đòi hỏi phải tăng mạnh thương mại cả về nội thương lẫn ngoại thương =) có
c/s n/thương của mình. Sau >25 năm thực hiện đổi mới đất nước đã thu được nhiều
thành tựu kinh tế quan trọng, chứng tỏ quản điểm trọng thương là đúng dắn, phải có
giao lưu với nước ngoài mới có điều kiện sản xuất trong nước, tăng tích luỹ vốn.
Bên cạnh đó chúng ta cũng không coi thương mại là con đường làm giầu duy
nhất, vì quan điểm trọng thương chỉ quan tâm đến một lĩnh vực của kinh tế trong sản
xuất đó lá lưu thông mà thôi. Mà ta cần phải biết kết hợp giữa tăng trọng thương với
gia tăng nền sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Sau khi nước ta gia nhập WTO, việc phát triển thương mại nhất là ngoại
thương là rất cần thiết. Nó không chỉ là phương thức để phát huy lợi thế của nền Kinh
tế mà còn là cầu nối giữa các nguồn lực trong và ngoài nc, tạo đk cho sự tăng trưởng
nhanh nền Kinh tế dân tộc. Ngoài ra, VN chúng ta đứng trước cơ hội và thách thức rất
lớn, đó là cơ hội phát triển mạnh mẽ thương nghiệp, mở rộng thị trường cả trong và
ngoài nước đồng thời các ngành sản xuất trong nước phải đối mặt vs sự cạnh tranh rất
lớn của các doanh nghiệp nước ngoài.Vì vậy, chúng ta phải làm tốt cả 2 nhiệm vụ là
thúc đẩy lưu thông hàng hóa đồng thời củng cố và phát triển mạnh mẽ nền sản xuất
trong nước.
Câu 5: Đánh giá câu nói của người Anh: “ Thương mại là hòn đá thử
vàng đối vs sự phồn thịnh của 1 quốc gia, không có phép lạ nào khác để
kiếm tiền trừ thương mại”
• Giải thích
Thomas Mun(1571-1614) là nhà Kinh tế học Anh,giám đốc cty Đông Ấn-cty
cổ phần đầu tiên trên thế giới và lớn nhất nc Anh thời đó.

Theo ông, chỉ có thương mại mới là phương thức để kiếm tiền, tạo ra của cải,
còn các hđộng khác như công nghiệp, nông nghiệp ko tạo ra tiền mà chỉ là phương
tiện để có nhiều tiền mà thôi. Thương mại càng đc mở rộng thì càng có nhiều cơ hội
kiếm tiền, quốc gia càng giàu có. Sự phát triển của thương mại là thước đo duy nhất
đo sự phồn thịnh của 1 quốc gia.
Thương mại đẻ ra tiền, tiền lại đẻ ra thương mại. Phải thực hiện bán nhiều hơn
mua, phải mở rộng xuất khẩu và phải xuất siêu. Ông đề nghị: “Chúng ta phải thường
xuyên giữ vững nguyên tắc là hàng năm bán cho ng nc ngoài vs số lượng HH lớn hơn
số lượng mà chúng ta phải mua của họ”, tức là phải xuất siêu.
Tư tưởng cơ bản của luận điểm trên cho thấy, Thomas Mun đã tuyệt đối hóa
vai trò của thương mại trong hoạt động Kinh tế cũng như trong tích lũy tiền. Ông là 1
đại biểu của CNTT trong g/đoạn phát triển thật sự của nó.
• Đánh giá
Thomas Mun đã phát hiện ra vai trò của thương mại trong việc tạo ra của cải.
Thật vậy, mục đích của sản xuất hàng hóa là để bán.Nếu ko có thương mại (thực chất
là lưu thông) thì hàng hóa ko thể thực hiện đc, ko thể thu hồi chi phí sản xuất và tích
lũy tiền tệ, do đó ko thể có tái sản xuất nói chung và tái SX mở rộng nói riêng.
Trong đk toàn cầu hóa,hội nhập kinh tế quốc tế và khi VN đã gia nhập WTO
như hiện nay, việc phát triển thương mại, nhất là ngoại thương là rất cần thiết đối vs
các nc nói chung và nc ta nói riêng. Nó ko chỉ là phương thức để phát huy lợi thế của
nền Kinh tế mà còn là cầu nối giữa các nguồn lực trong và ngoài nc, tạo đk cho sự
tăng trưởng nhanh nền Kinh tế dân tộc.
Tuy nhiên, vế thứ 2 “không có phép lạ…” của Thomas Mun có tính phiến diện.
Trong khi đề cao vai trò của thương mại, lại ko thấy đc vai trò quyết định của SX, ko
thấy đc mối quan hệ giữa sản xuất và lưu thông. Bởi vậy trong nhận thức và tổ chức
thực tiễn, việc đề ra giải pháp phát triển thương mại nhất thiết phải đc đặt trong mối
quan hệ gắn bó vs SX.
Câu 6: Giải thích luận điểm của A. Montchretien: “ Nội thương là hệ
thống ống dẫn, ngoại thương là máy bơm, muốn tăng của cải phải nhập dẫn
của cải qua ngoại thương”

Chủ nghĩa trọng thương họ coi trọng tiền tệ, họ coi tiền tệ như là thước đo tiêu
chuẩn của sự giàu có và mọi sự hùng mạnh của một quốc gia. Do đó mục đich kinh tế
của mỗi nước đó là phải tăng kl tiền tệ. Nhà nước càng nhiều tiền thì càng giàu có; họ
coi hàng hoá chỉ là phương tiện tăng khối lượng tiền tệ. Họ coi tiền là đại biểu duy
nhất của của cải, tiêu chuẩn để đánh giá mọi hinh thức hành nghề hoạt động nghề
nghiệp, những hoạt động nào mà không dẫn đến tích luỹ tập thể là hoạt động không có
lợi, hoạt động tiêu cực. Họ coi nghề nông là một nghề trung gian những hoạt động tích
cực và tích cực vì nghề nông không làm tăng hay giam của cải, hoạt động chủ nghĩa
thì không thể là nguồn gốc của cải (trừ chủ nghĩa khai thác vàng bạc).
Ngoại thương là động lực tăng kinh tế chủ yếu của một nước, không có ngoại
thương không thể tăng được của cải . Ngoại thương được ví như máy bơm đưa lượng
tiền nước ngoài vào trong nước
Đối với ông, khối lượng tiền tệ chỉ có thể gia tăng bằng con đường ngoại
thương cụ thể là xuất siêu. Lợi nhuận từ ngoại thương chính là việc mua rẻ hàng hóa
trong nước và bán đắt cho các quốc gia khác thu về một lượng tiền tệ. Chính vì thế
ngoại thương là máy bơm đưa tiền từ nước ngoài vào nền kinh tế trong nước.
“Nội thương là ống dẫn” bởi nội thương chỉ có tác dụng làm di chuyển của cải và
hàng hóa trong nước từ người này sang người khác, từ ngành nghề này sang ngành
nghề khác.
Quan điểm này đánh giá cao ngoại thương xem nhẹ nội thương vì ông chỉ chú
ý đến lĩnh vực lưu thông (T-H-T) mà chưa hiểu được toàn bộ quá trình sản xuất và
bước chuyển của việc tạo ra lợi nhuận đó là do gia tăng sản xuất =) giải pháp số một
là tăng cả nội thương và ngoại thương.
Tích luỹ tiền tệ chỉ thực hiện được dưới sự giúp đỡ của Nhà nước. Nhà nước
nắm độc quyền về ngoại thương, thông qua việc tạo điều kiện pháp lí cho công ty
thương mại độc quyền buôn bán với nước ngoài.
Câu 7: Nhận xét vai trò, hạn chế của chủ nghĩa trọng thương.
 Về mặt thực tiễn:
• Vai trò:
Những chính sách kinh tế của chủ nghĩa trọng thương đưa ra như đẩy mạnh

ngoại thương, trợ giúp tài chính tín dụng, bảo hộ thuế quan… tạo ra nguồn vốn ban
đầu rất lớn cho sự hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đẩy nhanh quá
trình tích lũy tư bản, rút ngắn thời kì quá độ từ phong kiến lên tư bản.
• Hạn chế: k có hạn chế về mặt thực tiễn.
 Về mặt lí luận:
• Vai trò:
Trường phái trọng thương đã đặt nền móng cho các lí thuyết kinh tế sau này
như: lí thuyết tiền tệ, lí thuyết về sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế.
Những luận điểm của chủ nghĩa trọng thương so sánh với nguyên lý trong
chính sách kinh tế thời kỳ Trung cổ đã có một bước tiến bộ rất lớn, nó thoát ly với
truyền thống tự nhiên, từ bỏ việc tìm kiếm công bằng xã hội, những lời giáo huấn lý
luận được trích dẫn trong Kinh thánh:
- Thời kì phong kiến giải thích các hiện tượng kinh tế bằng thần bí tôn giáo
còn CNTT đã dựa vào tài liệu lịch sử, sự kiện có thật để phân tích kinh tế;
- Thời kì phong kiến xem xét của cải nặng về mặt hiện vật còn CNTT đã xem
xét của cải theo quan niệm giá trị;
- CNTT còn thấy đc mục đích của sản xuất và trao đổi hàng hóa là lợi nhuận.
• Hạn chế:
Những quan điểm của chủ nghĩa trọng thương rất ít tính lí luận mà nặng tính
kinh nghiệm;
Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa trọng thương mới chỉ dừng lại ở cái vỏ bên
ngoài của các hiện tượng và quá trình kinh tế, chỉ dừng lại xem xét trong lĩnh vực lưu
thông mà chưa quan tâm đến các hoạt động khác của nền kinh tế;
Quan niệm về lợi nhuận thương nghiệp tạo ra trong lưu thông là do mua rẻ bán
đắt là không chính xác;
Đánh giá sai lầm vai trò vị trí của các ngành nghề kinh tế trong xã hội (coi
trọng quá cao thương nghiệp, xem thường công nghiệp );
Chưa thấy được các quy luật kinh tế khách quan chi phối đời sống kinh tế.
Câu 8: Đặc điểm của chủ nghĩa trọng thương.
Chủ nghĩa trọng thương là những chính sách cương lĩnh của giai cấp tư sản

(tầng lớp tư sản thương nghiệp Châu Âu trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ
nghĩa tư bản. Những chính sách, cương lĩnh này nhằm kêu gọi thương nhân tận dụng
ngoại thương, buôn bán để cướp bóc thuộc địa và nhằm bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư
sản đang hình thành.
- Những tư tưởng kinh tế chủ yếu của họ còn đơn giản, chủ yếu là mô tả bề ngoài
của các hiện tượng và quá trình kinh tế, chưa đi sâu vào phân tích được bản
chất của các hiện tượng kinh tế.
- Chủ nghĩa trọng thương chưa hiểu biết các quy luật kinh tế, do đó họ rất coi
trọng vai trò của nhà nước đối với kinh tế.
- Chủ nghĩa trọng thương chỉ mới dừng lại nghiên cứu lĩnh vực lưu thông mà
chưa nghiên cứu lĩnh vực sản xuất.
- Chủ nghĩa trọng thương mặc dù có những đặc trưng cơ bản giống nhau, nhưng
ở các nước khác nhau thì có những sắc thái dân tộc khác nhau. Ví dụ: ở Pháp
chủ nghĩa trọng thương kỹ nghệ Pháp, ở Tây Ban Nha là chủ nghĩa trọng
thương trọng kim, ở Anh là chủ nghĩa trọng thương trọng thương mại.
Tóm lại, chủ nghĩa trọng thương ít tính lý luận nhưng lại rất thực tiễn. Lý luận
còn đơn giản thô sơ, nhằm thuyết minh cho chính sách cương lĩnh chứ không phải là
cơ sở của chính sách cương lĩnh. Mặt khác, đã có sự khái quát kinh nghiệm thực tiễn
thành quy tắc, cương lĩnh, chính sách. Có thể nói chủ nghĩa trọng thương là hiện thực
và tiến bộ trong điều kiện lịch sử lúc đó.
CHƯƠNG 2: CHỦ NGHĨA TRỌNG NÔNG (CỔ ĐIỂN PHÁP)
Câu 1: Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm chủ yếu của chủ nghĩa trọng
nông ở Pháp.
1 Hoàn cảnh ra đời
Vào giữa thế kỷ thứ XVIII hoàn cảnh kinh tế - xã hội Pháp đã có những biến
đổi làm xuất hiện chủ nghĩa trọng nông Pháp:
Thứ nhất, quá trình tích lũy tư bản nguyên thủy đã kết thúc, xã hội bắt đầu
bước vào quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản sinh ra trong lòng chủ
nghĩa phong kiến, tuy chưa làm được cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến,
nhưng sức mạnh kinh tế của nó rất to lớn, đặc biệt là nó muốn cách tân trong lĩnh vực

sản xuất nông nghiệp… đòi hỏi phải có lý luận và cương lĩnh kinh tế mở đường cho
lực lượng sản xuất phát triển.
Thứ hai, sự thống trị của giai cấp phong kiến ngày càng tỏ ra lỗi thời mà mâu
thuẫn sâu sắc với xu thế đang lên của chủ nghĩa tư bản, đòi hỏi phải có lý luận giải
quyết những mâu thuẫn đó.
Thứ ba, nguồn gốc của cải duy nhất là tiền, nguồn gốc sự giàu có của một quốc
gia, dân tộc duy nhất là dựa vào đi buôn… (quan điểm của chủ nghĩa trọng thương) đã
tỏ ra lỗi thời, bế tắc, cản trở tư bản sinh lời từ sản xuất… đòi hỏi cần phải đánh giá lại
những quan điểm đó;
Thứ tư, ở Pháp lúc này có một tình hình đặc biệt, là lẽ ra đấu tranh chống chủ
nghĩa trọng thương sẽ mở đường cho công trường thủ công phát triển thì lại khuyến
khích chủ nghĩa trọng nông ra đời. Sự phát triển nông nghiệp Pháp theo hướng kinh tế
chủ trại, kinh doanh nông nghiệp theo lối tư bản chứ không bó hẹp kiểu phát canh thu
tô theo lối địa chủ như trước. Đúng như Mác đánh giá: xã hội Pháp lúc bấy giờ là chế
độ phong kiến nhưng lại có tính chất tư bản, còn xã hội tư bản lại mang cái vỏ bề
ngoài của phong kiến.
2 Đặc điểm chủ yếu
Trường phái trọng nông chuyển trọng tâm nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông
sang lĩnh vực sản xuất, đặc biệt đánh giá cao vai trò của nông nghiệp. Coi nó là lĩnh
vực duy nhất tạo ra của cải cho xã hội, chỉ có lao động nông nghiệp mới là lao động
có ích và là lao động sinh lời, muốn giàu có phải phát triển nông nghiệp.
Trường phái trọng nông đã đồng nhất sản xuất nông nghiệp với sản xuất vật
chất, do đó đồng nhất địa tô vs sản phẩm ròng, sản phẩm thuần túy (sản phẩm thặng
dư).
Chủ nghĩa trọng nông với lí luận về sản phẩm thuần túy đã reo mầm mống cho
lí luận về giá trị thặng dư sau này.
Chủ nghĩa trọng nông là một trong những trường phái đầu tiên phân tích sự vận
động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa song vẫn chưa vượt qua khuôn khổ
của xã hội phong kiến.
Về thể chế chính trị: phát triển trong xã hội phong kiến.

Về mặt kinh tế: Chủ nghĩa trọng nông đã đề xuất nhiều tư tưởng kinh tế mới
theo phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; phê phán một cách sâu sắc và toàn diện
chủ nghĩa trọng thương; ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế ( học thuyết về Trật tự tự
nhiên)
Câu 2: Nêu sự giống nhau của 2 trường phái cổ điển Anh và Pháp
= Trình bày khái quát đặc điểm phương pháp luận của trường phái cổ
điển.
Trường phái cổ điển nói chung bao gồm 2 trường phái phát triển riêng biệt tại 2
quốc gia khác nhau, đó là:
- Trường phái cổ điển Pháp hay còn gọi là chủ nghĩa trọng nông xuất hiện ở
Pháp giữa thế kỉ XVIII.
- Trường phái cổ điển Anh hay còn gọi là kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh
ra đời cuối thế kỉ XVII.
Mặc dù xuất hiện ở 2 quốc gia khác nhau tại các mốc thời gian khác nhau,
đồng thời cũng có nhiều sự khác biệt về nội dung, tuy nhiên, có thể thấy, giữa 2
trường phái có nhiều điểm tương đồng:
 Về bối cảnh lịch sử ra đời:
Đều diễn ra khi quá trình tích lũy nguyên thủy kết thúc. Khi mà các nguồn tích
lũy bằng con đường trao đổi không ngang giá tỏ ra không hiệu quả, giai cấp tư sản bắt
đầu chuyển lợi ích của họ vào lĩnh vực sản xuất.
Đều là học thuyết kinh tế sinh ra nhằm thay thế cho chủ nghĩa trọng thương đã
tỏ ra lạc hậu và bộc lộ những sai lầm làm cho nền sản xuất các nước bị đình đốn.
Về chính trị, giai cấp tư sản phát triển trong lòng xã hội phong kiến một cách
mạnh mẽ đòi hỏi có những cương lĩnh, lí luận kinh tế riêng cho giai cấp mình.
 Về đặc điểm phương pháp luận:
Đối tượng nghiên cứu: chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang
lĩnh vực sản xuất, nghiên cứu các quan hệ kinh tế trong quá trình sản xuất.
Nội dung: Ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế, chống lại sự can thiệp của Nhà nước,
nghiên cứu sự vận động của nền kinh tế đơn thuần do các quy luật tự nhiên điều tiết.
(VD: tư tưởng của P.Quesney – trường phái trọng nông, lí thuyết “bàn tay vô hình

của A.Smith – cổ điển Anh)
Ý nghĩa: Đặt nền móng cho sự ra đời của các lí luận về giá trị thặng dư (VD: lí
luận về sản phẩm thuần túy – trọng nông, lí luận về giá trị lao động – cổ điển Anh) về
tái sản xuất (VD: sơ đồ biểu kinh tế - trọng nông, lí luận về tái sản xuất của A.Smith,
của Ricardo – Cổ điển Anh) về tiền tệ (lí luận về tiền tệ - cổ điển Anh, nội dung phê
phán chủ nghĩa trọng thương – trọng nông)
Câu 3: Phân tích các nội dung lí thuyết:
1 Phê phán chủ nghĩa trọng thương.
Một là, theo quan điểm của Francois Quesney lợi nhuận của thương nhân có
được chỉ là nhờ sự tiết kiệm các khoản chi phí thương mại. Thực ra, đối với việc mua
bán hàng hoá, cả bên mua và bên bán không ai được và mất gì cả. Ông khẳng định
tiền của thương nhân không phải là lợi nhuận của quốc gia. Còn Turgot khẳng định:
bản thân thương mại không thể tồn tại được nếu như đất đai được chia đều và mỗi
người chỉ có “số cần thiết để sinh sống”.
Hai là, quan niệm về đồng tiền: Boisguillebert đã phê phán gay gắt tư tưởng
trọng thương đã quá đề cao vai trò của đồng tiền, lên án gay gắt chính sách giá cả của
bộ trưởng Colbert. Ông chứng minh của cải quốc dân chính là những vật hữu ích và
trước hết là sản phẩm của nông nghiệp cần phải được khuyến khích.Nếu chủ nghĩa
trọng thương quá đề cao tiền tệ, thì Boisguillebert cho rằng, khối lượng tiền nhiều hay
ít không có nghĩa lý gì, chỉ cần có đủ tiền để giữ giá cả tương ứng với hàng hoá. Tiền
có thể là “một tên đao phủ”, nó tuyên chiến với toàn thể nhân loại và nghệ thuận tài
chính đã biến thành cái lồng của chiếc nồi sứt, biến một số lượng của cải tư liệu sinh
hoạt “thành hơi” để lấy cái chất cặn bã đó.
Ba là, Chủ nghĩa trọng thương muốn đưa ra nhiều thứ thuế để bảo hộ thương
mại, tăng cường sức mạnh quốc gia… còn chủ nghĩa trọng nông chủ trương tự do lưu
thông, vì lưu thông của cải hàng hoá sẽ kích thích sản xuất và sự giàu có của tất cả
mọi người. Chủ nghĩa trọng nông chống lại tất cả những đặc quyền về thuế và đòi hỏi
thứ thuế thống nhất đối với địa chủ, tăng lữ, quý tộc cũng như những nhà tư sản có
của.
Bốn là, chủ nghĩa trọng thương coi tích luỹ vàng là nguồn giàu có, do đó đã đẻ

ra những đội tầu buôn chuyên đi cướp bóc. Ngược lại, chủ nghĩa trọng nông cho rằng,
cần có một nền nông nghiệp giàu có tạo ra thặng dư cho người sở hữu và thợ thủ
công, ưu tiên cho nông nghiệp sẽ dẫn tới sự giàu có cho tất cả mọi người. Tiền bạc
không là gì cả, sản xuất thực tế mới là tất cả.
Năm là, chủ nghĩa trọng thương coi trọng ngoại thương, nhưng họ hạn chế
nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu, chủ trương xuất siêu để nhập vàng vào các kho
chứa quốc gia, do đó dẫn tới một chủ nghĩa bảo hộ không hiệu quả. Ngược lại, chủ
nghĩa trọng nông chủ trương tụ do lưu thông , tự do thương mại tạo ra nguồn lực là
giàu, làm tăng trưởng kinh tế.
Sáu là, nếu chủ nghĩa trọng thương biến nhà nước thành nhà kinh doanh và mở
đường cho nhà kinh doanh tư nhân hoạt động. Chủ nghĩa trọng nông chủ trương “tự
do hành động”, chống lại “nhà nước toàn năng”, tính tự do của tư nhân không bị luật
pháp và nghiệp đoàn làm suy yếu.
2 Cương lĩnh, chính sách kinh tế của chủ nghĩa trọng nông.
Về thực chất cương lĩnh là những quan điểm, những chiến lược và chính sách
nhằm phát triển kinh tế, trước hết và chủ yếu là phát triển nông nghiệp:
• Quan điểm về nhà nước:
Chính quyền tối cao phải là chính quyền duy nhất đứng trên tất cả các thành
viên khác trong xã hội.
Nhà nước có chức năng bảo vệ quyền sở hữu, việc đảm bảo quyền sở hữu là cơ
sở tồn tại và phát triển của toàn xã hội.
• Quan điểm về giai cấp trong xã hội:
F.Quesney chia xã hội thành 3 giai cấp, đó là:
Giai cấp sở hữu – địa chủ, quý tộc, thầy tu, tăng lữ: thu sản phầm thuần túy.
Giai cấp sản xuất – những người làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp – công
nhân nông nghiệp, chủ đồn điền, chủ trang trại: tạo ra sản phẩm thuần túy
Giai cấp không sản xuất là những người làm việc trong lĩnh vực công nghiệp:
không tạo ra sản phẩm thuần túy.
• Quan điểm ưu tiên cho sản xuất nông nghiệp: F.Quesney đề nghị tổ chức sản xuất
tư bản chủ nghĩa có ngành kinh tế chủ yếu làm chỗ dựa chính là là ngành nông

nghiệp.
Họ quan niệm, chỉ có sản xuất nông nghiệp mới sản xuất ra của cải hàng hoá…
do đó chi phí cho sản xuất nông nghiệp là chi phí cho sản xuất, chi phí sinh lời, do vậy
chính phủ cần phải đầu tư tăng chi phí cho nông nghiệp.
Chính sách cho chủ trang trại được tự do lựa chọn ngành sản xuất kinh doanh,
lựa chọn súc vật chăn nuôi, có ưu tiên về cung cấp phân bón. Khuyến khích họ xuất
khẩu nông sản đã tái chế, không nên xuất khẩu nguyên liệu thô: tiêu thụ như thế nào
thì phải sản xuất cái để xuất khẩu như thế ấy.
Chính sách đầu tư cho đường xá, cầu cống: Lợi dụng đường thuỷ rẻ để chuyên
trở hàng hoá. Cần chống lại chính sách giá cả nông sản thấp để tích luỹ trên lưng nông
dân. Bởi vậy đã không khuyến khích được sản xuất, không có lợi cho sản xuất và đời
sống nhân dân. Cách quản lý tốt nhất là duy trì sự tự do hoàn toàn của cạnh tranh.
• Quan điểm về tài chính đặc biệt vấn đề thuế khóa và phân phối thu nhập:
Nhà nước không nên thu thuế quá nặng, chỉ thu theo tỉ lệ tương xứng với khối
lượng kinh tế quốc dân.
Theo F.Quesney, giai cấp địa chủ thu sản phẩm thuần túy nên là đối tượng cần
phải thu thuế còn chủ đồn điền và nông dân là những con gà đẻ trứng vàng cần được
nuôi dưỡng và được hưởng ưu đãi.
Như vậy, cương lĩnh kinh tế của phái trọng nông đã vạch rõ một số quan điểm,
chính sách mở đường cho nông nghiệp phát triển theo định hướng mới. Cương lĩnh
coi trọng và đề cao sản xuất nông nghiệp. Song cương lĩnh có những điểm hạn chế: đó
là chưa coi trọng vai trò của công nghiệp, thương mại, của kinh tế thị trường, mà có
xu thế thuần nông
3 Học thuyết trọng nông về sản phẩm thuần túy.
Học thuyết này là trung tâm của học thuyết kinh tế trọng nông, đây là bước tiến
quan trọng trong lý luận kinh tế của nhân loại, nội dung chính của lý luận có thể tóm
lược thành những nội dung cơ bản sau:
 Sản phẩm ròng (hay sản phẩm thuần tuý) là sản phẩm do đất đai mang lại sau khi trừ
đi chi phí lao động và chi phí cần thiết để tiến hành canh tác:
Sản phẩm ròng = Sản phẩm xã hội – Chi phí sản xuất

(Chi phí sản xuất là: chi phí về lao động như lương công nhân, lương của tư
bản kinh doanh trong nông nghiệp và chi phí cần thiết để tiến hành canh tác như: chi
phí về giống, sức kéo, … ).
Sản phẩm ròng là quà tặng của tự nhiên cho con người, không phải do quan hệ
xã hội, quan hệ giai cấp mang lại.
 Chỉ ngành sản xuất nông nghiệp mới tạo ra sản phẩm ròng các ngành khác như
công nghiệp, thương mại không thể sản xuất ra sản phẩm ròng.
 Có hai nguyên tắc hình thành giá trị hàng hoá khác nhau giữa công nghiệp và nông
nghiệp:
Nông nghiệp Công nghiệp
Giá trị hàng hóa = chi phí sản xuất, bao gồm:
hạt giống, sức cày kéo, tiền lương của công
nhân nông nghiệp, tiền lương nhà tư bản, chi
phí bổ sung của tư bản thương nghiệp, sản
phẩm thuần túy.
Giá trị hàng hóa = chi phí sản xuất, bao gồm:
nguyên vật liệu, tiền lương của công nhân,
tiền lương nhà tư bản, chi phí bổ sung của tư
thương nghiệp.
Trong công nghiệp giá trị hàng hoá bằng tổng chi phí sản xuất như: tiền lương,
nguyên vật liệu và sự quản lý của các nhà tư bản…
Trong nông nghiệp giá trị hàng hoá bằng tổng chi phí sản xuất tương tự như
trong công nghiệp nhưng cộng thêm với sản phẩm ròng mà công nghiệp không có, bởi
vì chỉ có nông nghiệp mới có sự giúp sức của tự nhiên làm sinh sôi nẩy nở nhiều của
cải mới.
Từ lý luận về sản phẩm ròng đi đến lý luận về giá trị lao động. Theo họ lao
động tạo ra sản phẩm ròng mới là lao động sản xuất, còn các lao động khác không
sinh lời và không tạo ra sản phẩm ròng.
Lao động sản xuất tạo ra sản phẩm thuần túy cụ thể chỉ có nông nghiệp là loại
lao động tạo ra sản phẩm thuần túy còn công nghiệp là lao động không sinh lời.

4 Học thuyết về trật tự tự nhiên.
Theo F.Quesney có 2 loại quy luật tồn tại trong thế giới: quy luật vật lí và quy
luật luân lí.
Quy luật vật lí chi phối tác động tới các vấn đề tự nhiên.
Quy luật luân lí chi phối tác động tới các vấn đề kinh tế.
Quy luật luân lí cũng tất yếu, khách quan và tồn tại vĩnh viễn như quy luật vật
lí.
Thứ nhất, lý luận giá trị xuất phát từ năng suất của nông nghiệp, chu kỳ kinh tế
và ảnh hưởng của chu kỳ nông nghiệp. Có thể dùng ẩn dụ về tổ ong để định nghĩa sự
thống trị của tự nhiên đối với kinh tế: “những con ong tự tuân theo một thoả thuận
chung và vì lợi ích riêng của chúng là tổ chức tổ ong”.
Thứ hai, quan niệm về tổ chức kinh tế báo trước một niềm tin vào cơ chế tự
phát của thị trường: Họ tin vào sự hài hoà tất yếu được nẩy sinh từ tự nhiên, như một
trật tự tất yếu, chính quan điểm này làm cho chủ nghĩa trọng nông khác xa với chủ
nghĩa trọng thương: nếu chủ nghĩa trọng thương cho rằng kinh tế học là khoa học
buôn bán của nhà vua, thì chủ nghĩa trọng nông thì lại cho rằng: Phát triển kinh tế là
một trật tự tự nhiên, kinh tế học không chỉ phục vụ cho kẻ hùng mạnh mà còn phục vụ
cho những người sản xuất và cho các công dân.
Ngoài ra chủ nghĩa trọng nông cho rằng, quyền con người cũng có tính chất tự
nhiên. Quyền của con người phải được thừa nhận một cách hiển nhiên bằng ánh sáng
của trí tuệ, không cần cưỡng chế của pháp luật… Từ đó, họ phê phán chủ nghĩa
phong kiến đã đưa ra pháp chế chuyên quyền độc đoán là làm thiệt hại cho quyền con
người.
Lý thuyết về trật tự tự nhiên còn đi đến khẳng định, cái quan trọng đối với
quyền tự nhiên của con người là quyền lao động, còn quyền sở hữu của con người đối
với mọi vật thì hoàn toàn giống như “quyền của con chim én đối với tất cả các con
ruồi nhỏ đang bay trong không khí”.
Tóm lại, sản xuất nông nghiệp là lĩnh vực được hưởng sự trợ giúp của tự nhiên,
có sự sắp xếp của tự nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên mà con người phải tôn
trọng. Do đó cần tôn trọng sự tự do của nông dân trong sản xuất nông nghiệp, nhà

nước không nên can thiệp làm sai lệch trật tự tư nhiên được coi là hoàn hảo.
Tuy vậy, lý thuyết về trật tự tự nhiên còn hạn chế ở chỗ, mặc dù luôn tôn trọng
con người, đề cao việc giải phóng con người, song chỉ phê phán đánh đổ phong kiến
thì chưa đủ, chưa thoát khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản.
5 Sơ đồ biểu kinh tế.
Đây là một trong những phát minh rất lớn của CNTN: biểu kinh tế là sự mô
hình hoá mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau trong phạm vi toàn xã hội của các giai cấp
hiện có, nó được coi là tổ tiên của bảng kinh tế chung nổi tiếng của ngành kế toán hiện
nay.
Để phân tích biểu kinh tế, Quesney đưa ra các giả định sau:
- Nghiên cứu tái sản xuất giản đơn;
- Trừu tượng hóa sự biến động của giá cả;
- Không xét đến ngoại thương.
Quesney chia xã hội thành 3 giai cấp cơ bản là: giai cấp sản xuất (hoạt động
trong nông nghiệp, tạo ra sản phẩm thuần túy); giai cấp không sản xuất (hoạt động
trong lĩnh vực công và thương nghiệp); giai cấp sở hữu (thu sản phẩm thuần túy).
Dựa vào tính chất hiện vật của sản phẩm, Quesney chia sản phẩm xã hội thành
sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm công nghiệp.
Cụ thể, giá trị tổng sản phẩm xã hội bao gồm 7 tỉ chia thành: 5 tỉ sản phẩm
nông nghiệp, 2 tỉ sản phẩm công nghiệp.
Chi phí sản xuất nông nghiệp chia thành 3 bộ phận:
- Tiền ứng trước hàng năm (tiển lương, hạt giống): 2 tỉ
- Tiển ứng trước ban đầu (tư bản cố định): 1 tỉ
- Sản phẩm thuần túy tạo ra: 2 tỉ
Sản phẩm công nghiệp được tạo ra từ 2 bộ phận:
- Tư liệu tiêu dùng: 1 tỉ
- Nguyên vật liệu để tiếp tục sản xuất: 1 tỉ.
Giải thích:
Giai cấp sản xuất phải trả cho giai cấp sở hữu 2 tỉ tiền tô.
Hành vi 1: Giai cấp sở hữu dùng 1 tỷ tiền để mua nông sản tiêu dùng cho cá

nhân, 1tỷ tiền được chuyển vào tay giai cấp sản xuất.
Hành vi 2: Giai cấp sở hữu dùng 1 tỷ tiền còn lại để mua công nghệ phẩm, 1 tỷ
tiền này chuyển vào tay giai cấp không sản xuất.
Hành vi 3: Giai cấp không sản xuất dùng 1 tỷ tiền bán công nghệ phẩm ở trên
để mua nông sản (làm nguyên liệu), 1 tỷ tiền này chuyển vào giai cấp sản xuất.
Hành vi 4: Giai cấp sản xuất mua 1 tỷ công nghệ phẩm, số tiền này lại chuyển
vào tay giai cấp không sản xuất.
Hành vi 5: Giai cấp không sản xuất dùng 1 tỷ tiền mua nông sản cho tiêu dùng
cá nhân, số tiền này chuyển vào tay giai cấp sản xuất.
⇒ Kết quả:
Giai cấp không sản xuất có 2 tỷ nông sản phẩm.
Giai cấp sản xuất có 2 tỷ tiền, 1 tỷ công nghệ phẩm và 2 tỷ nông sản phẩm còn
lại.
Như vậy có thể tiếp tục quá trình tái sản xuất giản đơn.
 Công lao và hạn chế của Quesney về sơ đồ biểu kinh tế.
• Công lao:
Đưa ra những giả định cơ bản là đúng;
Đã biết nghiên cứu việc sản xuất trong quá trình vận động không ngừng tức là
biết nghiên cứu quá trình tái sản xuất;
Đã biết nghiên cứu sản xuất không phải là quá trình cá biệt đơn lẻ mà là quá
trình sản xuất của toàn bộ xã hội;
Lần đầu tiên biết mô hình hóa, sơ đồ hóa các quan hệ kinh tế;
Phân tích quá trình tái sản xuất giản đơn cả về mặt hiện vật và giá trị, sự vận
động của sản phẩm cùng với sự vận động của tiền.
• Hạn chế:
Chưa thấy đc cơ sở tái sản xuất mở rộng trong nông nghiệp thậm chí tái sản
xuất giản đơn trong công nghiệp khó có thể thực hiện được;
Đánh giá quá cao vai trò của sản xuất nông nghiệp.
Câu 4: Thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa trọng nông
• Tiến bộ

Chủ nghĩa trọng nông đã phê phán chủ nghĩa trọng thương một cách sâu sắc và
khá toàn diện, “công lao quan trọng nhất của phái trọng nông là ở chỗ họ đã phân tích
tư bản trong giới hạn của tầm mắt tư sản. chính công lao này mà họ đã trở thành người
cha thực sự của khoa kinh tế chính trị hiện đại”
Phái trọng nông đã chuyển công tác nghiên cứu về nguồn gốc của giá trị thặng
dư từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất trực tiếp, như vậy là họ đặt cơ sở cho
việc phân tích nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
CNTN nghiên cứu quá trình sản xuất không chỉ là quá trình sản xuất cá biệt
đơn lẻ… mà quan trọng hơn họ biết nghiên cứu quá trình tái sản xuất của toàn bộ xã
hội - một nội dung hết sức quan trọng của kinh tế chính trị.
Lần đầu tiên tạo ra một hình ảnh có hệ thống và mô hình hoá về nền kinh tế
thời của họ, đây là nền móng cho sơ đồ tái sản xuất xã hội của Mác sau này.
Họ đã nêu ra nhiều vấn đề có giá trị cho đến ngày nay: như tôn trọng vai trò tự
do của con người, đề cao tự do cạnh tranh, tự do buôn bán, bảo vệ lợi ích của người
sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp…
• Hạn chế
Họ chưa hiểu được thực tế giá trị tự nhiên nên chưa hiểu giá trị thặng dư, chỉ
dừng lại ở sản phẩm ròng do đất đai đem lại mà thôi.
Họ hiểu sai vấn đề sản xuất và lao động sản xuất hàng hoá, chỉ tập trung nghiên
cứu sản xuất giản đơn và coi ngành công nghiệp không phải là ngành sản xuất tạo ra
giá trị tăng thêm.
CHƯƠNG 3: TRƯỜNG PHÁI CỔ ĐIỂN ANH
Câu 1: Phân tích đặc điểm phương pháp luận của trường phái cổ điển
Anh.
Về đối tượng nghiên cứu: Kinh tế chính trị tư sản cổ điển chuyển đối tượng
nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất, nghiên cứu các quan hệ kinh
tế trong quá trình tái sản xuất, trình bày có hệ thống các phạm trù kinh tế trong nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa: hàng hoá, giá trị, tiền tệ, giá cả, tiền lương, lợi nhuận, lợi
tức, địa tô… để rút ra các quy luật vận động của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Về mục tiêu nghiên cứu: Luận chứng cương lĩnh kinh tế và các chính sách kinh

tế của giai cấp tư sản, cơ chế thực hiện lợi ích kinh tế trong xã hội tư bản nhằm phục
vụ lợi ích của giai cấp tư sản trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất.
Về nội dung nghiên cứu:
Lần đầu tiên đã xây dựng được một hệ thống phạm trù, quy luật của nền sản
xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa đặc biệt là lý luận Giá trị - Lao động.
Tư tưởng bao trùm là ủng hộ tự do kinh tế, chống lại sự can thiệp của nhà
nước, nghiên cứu sự vận động của nền kinh tế đơn thuần do các quy luật tự nhiên điều
tiết.
Trường phái cổ điển Anh đặt cơ sở lí luận cho các lí luận sau: lí luận giá trị, lí
luận về thu nhập, lí luận về tiền tệ, về tư bản, về tái sản xuất…
Về phương pháp nghiên cứu: Thể hiện tính chất hai mặt:
Một là, sử dụng phương pháp trừu tượng hoá để tìm hiểu các mối liên hệ bản
chất bên trong các hiện tượng và các quá trình kinh tế, nên đã rút ra những kết luận
có giá trị khoa học.
Hai là, do những hạn chế về mặt thế giới quan, phương pháp luận và điều kiện
lịch sử cho nên khi gặp phải những vấn đề phức tạp, họ chỉ mô tả một cách hời hợt và
rút ra một số kết luận sai lầm.
Câu 2: So sánh đặc điểm phương pháp luận của trường phái cổ điển
Anh và cổ điển Pháp (trọng nông).
Giống nhau:
Về bối cảnh lịch sử ra đời:
Đều diễn ra khi quá trình tích lũy nguyên thủy kết thúc. Khi mà các nguồn tích
lũy bằng con đường trao đổi không ngang giá tỏ ra không hiệu quả, giai cấp tư sản bắt
đầu chuyển lợi ích của họ vào lĩnh vực sản xuất.
Đều là học thuyết kinh tế sinh ra nhằm thay thế cho chủ nghĩa trọng thương đã
tỏ ra lạc hậu và bộc lộ những sai lầm làm cho nền sản xuất các nước bị đình đốn.
Về chính trị, giai cấp tư sản phát triển trong lòng xã hội phong kiến một cách
mạnh mẽ đòi hỏi có những cương lĩnh, lí luận kinh tế riêng cho giai cấp mình.
Về đặc điểm phương pháp luận
Đối tượng nghiên cứu: chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang

lĩnh vực sản xuất, nghiên cứu các quan hệ kinh tế trong quá trình sản xuất.
Nội dung: Ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế, chống lại sự can thiệp của Nhà nước,
nghiên cứu sự vận động của nền kinh tế đơn thuần do các quy luật tự nhiên điều tiết.
(VD: tư tưởng của P.Quesney – trường phái trọng nông, lí thuyết “bàn tay vô hình
của A.Smith – cổ điển Anh)
Ý nghĩa: Đặt nền móng cho sự ra đời của các lí luận về giá trị thặng dư (VD: lí
luận về sản phẩm thuần túy – trọng nông, lí luận về giá trị lao động – cổ điển Anh) về
tái sản xuất (VD: sơ đồ biểu kinh tế - trọng nông, lí luận về tái sản xuất của A.Smith,
của Ricardo – Cổ điển Anh) về tiền tệ (lí luận về tiền tệ - cổ điển Anh, nội dung phê
phán chủ nghĩa trọng thương – trọng nông)
Khác nhau:
Trường phái trọng nông đã đồng nhất sản xuất nông nghiệp với sản xuất vật
chất, do đó đồng nhất địa tô vs sản phẩm ròng, sản phẩm thuần túy (sản phẩm thặng
dư).
Còn trường phái cổ điển Anh khẳng định mọi thứ lao động sản xuất đều bình
đẳng trong việc tạo ra giá trị hàng hoá (đã khắc phục hạn chế của chủ nghĩa trọng
thương và chủ nghĩa trọng nông).
Chủ nghĩa trọng nông là một trong những trường phái đầu tiên phân tích sự vận
động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa song vẫn chưa vượt qua khuôn khổ
của xã hội phong kiến thì trường phái cổ điển Anh đã vượt qua những khuôn khổ đó
đã lần đầu tiên xây dựng được một hệ thống phạm trù, quy luật của nền sản xuất hàng
hoá tư bản chủ nghĩa.
A Lí luận giá trị - lao động
Câu 1: Chứng minh W. Petty là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền
móng cho nguyên lí giá trị lao động.
W.Petty không trực tiếp trình bày lý luận về giá trị nhưng thông qua những
luận điểm của ông về giá cả có thể khẳng định ông là người đầu tiên đưa ra nguyên lý
về giá trị lao động.
Nghiên cứu về giá cả, ông cho rằng có hai loại giá cả: giá cả tự nhiên và giá cả
chính trị. Giá cả chính trị (giá cả thị trường) do nhiều yếu tố ngẫu nhiên chi phối, nên

rất khó xác định chính xác. Giá cả tự nhiên (giá trị) do hao phí lao động quyết định, và
năng suất lao động có ảnh hưởng tới mức hao phí đó. Như vậy, W.Petty là người đầu
tiên tìm thấy cơ sở của giá cả tự nhiên là lao động.
Ông xác định giá cả tự nhiên của hàng hoá bằng cánh so sánh lượng lao động
hao phí để sản xuất ra hàng hoá với lượng lao động hao phí để tạo ra bạc hay vàng.
VD: Một người nào đó có thể sản xuất ra 1 bussel lúa mì hoặc khai thác 1
ounce vàng với 1 công sức như nhau.
Giá cả tự nhiên 1 bussel lúa mì = 1 ounce vàng
Nếu năng suất lao động của khai thác vàng tăng gấp đôi thì:
Giá cả tự nhiên 1 bussel lúa mì = 2 ounce vàng
Theo ông giá cả tự nhiên (giá trị của hàng hoá) là sự phản ánh giá cả tự nhiên
của tiền tệ, cũng như ánh sáng mặt trăng là sự phản chiếu của mặt trời. Nhưng ông lại
chỉ thừa nhận lao động khai thác vàng là lao động tạo ra giá trị còn giá trị của hàng
hoá chỉ được xác định khi trao đổi với tiền.
Khi trình bày về mối quan của năng suất lao động đối với lượng giá trị hàng
hoá: Ông khẳng định giá cả tự nhiên (giá trị) tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai
thác vàng bạc.
Một lý luận quan trọng của ông đó là: ông khẳng định: “lao động là cha của của
cải còn đất đai là mẹ của của cải”, luận điểm này đúng nếu xem của cải là giá trị sử
dụng, song sẽ là sai nếu hiểu lao động và tự nhiên là nhân tố tạo ra giá trị. Ông đã tìm
thước đo thống nhất của giá trị là thước đo chung đối với tự nhiên và lao động, ông
đưa ra quan điểm “thước đo thông thường của giá trị là thức ăn trung bình hàng ngày
của mỗi người, chứ không phải là lao động hàng ngày của người đó”. Với luận điểm
này đã chứng tỏ ông chưa phân biệt được rõ giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, chưa
biết đến tính chất xã hội của giá trị.
Ngoài ra ông còn có ý định giải quyết mối quan hệ giữa lao động phức tạp và
lao động giản đơn nhưng không thành công.
Do là người đầu tiên đặt nền móng cho nguyên lí giá trị lao động nên lí luận
của W.Petty không tránh khỏi còn nhiều hạn chế:
- Chưa phân biết được lao động cụ thể và lao động trừu tượng, chưa biết đến

tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa.
- Chưa phân biết được các phạm trù: giá trị hàng hóa, giá trị trao đổi và giá cả
hàng hóa.
- Chưa phân biệt được giá trị hàng hóa và các hình thái biếu hiện của nó nên
ông đưa ra luận điểm “Giá trị hàng hóa là sự phản ánh giá trị tiền tệ cũng
như ánh sáng mặt trăng là sự phản chiếu ánh sáng mặt trời vậy”. Đây là câu
nói ngược, ông lẫn lộn giữa nội dung và hình thái biểu hiện, giữa cái phản
ánh và cái đc phản ánh.
Lí luận này của ông đã được Ađam Smith kế thừa và phát triển, ông đã đưa ra 1
quan điểm rằng giá trị trao đổi là do lao động quyết định, giá trị là do hao phí lao động
để sản xuất ra hàng hoá quyết định. Đây là quan niệm đúng đắn về giá trị nhưng ông
vấp phải vấn đề về giá cả sản xuất.
Đến Ricando, ông đã phân biệt được hai thuộc tính của hàng hoá và đã đưa ra
đầy đủ : “ giá trị của hàng hoá hay số lượng của một hàng hoá nào đó khác mà hàng
hoá đó trao đổi là do số lượng lao động tương đối cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó
quyết định” ông thấy rõ nguyên nhân của hàng hóa có giá trị trao đổi. Ông đã khẳng
định một cách thuyết phục rằng giá trị hàng hoá giảm khi năng suất lao động tăng lên
(dự đoán thiên tài của W. Petty đã được ông luận chứng )
Chỉ khi đến lí luận của C.Mác ra đời mới phân biệt số 2 thuộc tính của hàng
hoá đó là giá trị sử dụng và giá trị có sự thống nhất biện chứng. Đây là chìa để khoá
giải quyết một loạt các vấn đề trong kinh tế.
Như vậy. W. Petty đã đặt nền móng cho nguyên lí giá trị - lao động. Từ những
lí luận của ông, các nhà kinh tế học đã kế thừa và phát triển lí luận đó và khi được
hoàn thiện bởi Mark.
Câu 2: Nhận xét câu nói của W.Petty: “Lao động là cha, đất đai là mẹ
của của cải”.
Đây là câu nói nổi tiếng của W.Petty trong lí luận về giá trị lao động.
Theo câu nói này, có 2 nhân tố tạo ra của cải là đất đai và lao đông. Đất đai có
vai trò trực tiếp sinh ra của cải, còn lao động là điều kiện không thể thiếu để sản xuất
ra của cải.

Xét về mặt hiện vật thì câu nói này là chính xác, ông đã nêu được nguồn gốc
của của cải. Đó chính là lao động của con người kết hợp với yếu tố tự nhiên. Điều này
phản ánh quá trình sản xuất ra của cải vật chất là quá trình con người tác động vào tự
nhiên, cải biến vật chất tự nhiên thành sản phẩm phục vụ con người. Nếu thiếu 1 trong
2 yếu tố này không thế coi là quá trình sản xuất ra của cải.
Xét về phương diện giá trị thì câu nói này là sai. Trên thực tế, giá trị hàng hóa
không phải do đất đai và lao động cấu thành mà chỉ có lao động mới tạo ra giá trị. Sau
này C.Mác đã chứng minh được giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội quyết định.
Bản thân W.Petty trong lí luận về 2 loại giá cả (giá cả chính trị và giá cả tự nhiên)
cũng khẳng định: Giá cả tự nhiên (giá trị) do hao phí lao động quyết định, và năng
suất lao động có ảnh hưởng tới mức hao phí đó.
Có lẽ khi đưa ra luận điểm này, W.Petty đã mắc phải sự nhầm lẫn khi chưa
phân biệt được lao động cụ thể và lao động trửu tượng, chưa biết đến tính 2 mặt của
lao động sản xuất hàng hóa.
- Lao động cụ thể: lao động có ích dưới 1 hình thức cụ thể của những nghế
nghiệp chuyên môn nhất định.
- Lao động trừu tượng: sự hao phí trí óc, sức thần kinh và sức cơ bắp nói
chung của con người chứ không kể đến hình thức cụ thể của nó.
Đồng thời, W.Petty cũng chưa phân biệt được các phạm trù: giá trị hàng hóa,
giá trị trao đổi và giá cả hàng hóa…Sở dĩ như vậy là do khi phát biểu câu nói này, tư
tưởng của ông vẫn mang nặng màu sắc của chủ nghĩa trọng thương đồng nhất tiển tệ
với của cải
Câu 3: Nhận xét câu nói của W.Petty: “Giá trị của hàng hóa là sự phản
ánh giá trị của tiền tệ cũng giống như ánh sáng của mặt trăng là sự phản
chiếu ánh sáng mặt trời vậy”.
Ông cho rằng giá trị hàng hóa là sự phản ánh của giá trị tiền tệ mà không phân
biệt đc giá trị hàng hóa và các hình thái biểu hiện của nó.
Đây là câu nói ngược, ông đa lẫn lộn nội dung với hình thái biểu hiện, giữa cái
được phản ánh và cái phản ánh.
Trong mối quan hệ: H – T

thì giá trị hàng hóa (H) là nội dung cơ sở.
giá trị tiền tệ (T) là hình thức biểu hiện.
Giá trị
Giá trị ền tệ
Câu 4: Dựa vào lí luận giá trị của W.Petty chứng minh ông là nhà kinh
tế học phản ánh bước chuyển từ chủ nghĩa trọng thương sang chủ nghĩa cổ
điển Anh.
Nghiên cứu về giá cả, ông cho rằng có hai loại giá cả: giá cả tự nhiên và giá cả
chính trị. Giá cả chính trị (giá cả thị trường) do nhiều yếu tố ngẫu nhiên chi phối, nên
rất khó xác định chính xác. Giá cả tự nhiên (giá trị) do hao phí lao động quyết định, và
năng suất lao động có ảnh hưởng tới mức hao phí đó. Như vậy, W.Petty là người đầu
tiên tìm thấy cơ sở của giá cả tự nhiên là lao động.
Ông xác định giá cả tự nhiên của hàng hoá bằng cánh so sánh lượng lao động
hao phí để sản xuất ra hàng hoá với lượng lao động hao phí để tạo ra bạc hay vàng.
VD: Một người nào đó có thể sản xuất ra 1 bussel lúa mì hoặc khai thác 1
ounce vàng với 1 công sức như nhau.
Giá cả tự nhiên 1 bussel lúa mì = 1 ounce vàng
Nếu năng suất lao động của khai thác vàng tăng gấp đôi thì:
Giá cả tự nhiên 1 bussel lúa mì = 2 ounce vàng
Theo ông giá cả tự nhiên (giá trị của hàng hoá) là sự phản ánh giá cả tự nhiên
của tiền tệ, cũng như ánh sáng mặt trăng là sự phản chiếu của mặt trời. Nhưng ông lại
chỉ thừa nhận lao động khai thác vàng là lao động tạo ra giá trị còn giá trị của hàng
hoá chỉ được xác định khi trao đổi với tiền.
Khi trình bày về mối quan của năng suất lao động đối với lượng giá trị hàng
hoá: Ông khẳng định giá cả tự nhiên (giá trị) tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai
thác vàng bạc.
Một lý luận quan trọng của ông đó là: ông khẳng định: “lao động là cha của của
cải còn đất đai là mẹ của của cải”, luận điểm này đúng nếu xem của cải là giá trị sử
dụng, song sẽ là sai nếu hiểu lao động và tự nhiên là nhân tố tạo ra giá trị. Ông đã tìm
thước đo thống nhất của giá trị là thước đo chung đối với tự nhiên và lao động, ông

đưa ra quan điểm “thước đo thông thường của giá trị là thức ăn trung bình hàng ngày
của mỗi người, chứ không phải là lao động hàng ngày của người đó”. Với luận điểm
này đã chứng tỏ ông chưa phân biệt được rõ giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, chưa
biết đến tính chất xã hội của giá trị.
Có thế thấy, lí luận giá trị lao động của W.Petty vẫn còn chịu ảnh hưởng
một phần tư tưởng của chủ nghĩa Trọng thương. Ông chỉ tập chung nghiên cứu mặt
lượng, nghĩa là nghiên cứu về giá cả một bên là hàng hóa, một bên là tiền tệ. Ông giới
hạn giả thiết đào tạo giá trị trọng lao động khai thác vàng và bạc. Các loại lao động
khác chỉ so sánh với lao động tạo ra tiền tệ. Giá trị hàng hoá là sự phản ánh giá trị tiền
tệ. Phải chăng tư tưởng của ông ra đời trong bối cảnh chủ nghĩa trọng thương bắt đầu
lụi tàn nên không tránh khỏi sự kế thừa việc coi trọng vàng bạc tiển tệ, lấy nó làm
thước đo cho sự giàu có, cho giá trị…
Mặc dù bị ảnh hưởng bởi trường phái trọng thương, nhưng trong khi mà trường
phái trọng thương chỉ đơn thuần mô tả lại các hiện tượng kinh tế dựa trên kinh nghiệm
chủ quan từ đó đề ra các biện pháp kinh tế thì W.Petty đi xa hơn tìm cách giải quyết
các hiện tượng đó, đã biết tiếp cận với các quy luật kinh tế khách quan, biết xây dựng
hệ thống phạm trù, khái niệm kinh tế mới như giá cả tự nhiên và giá cả chính trị…
Phương pháp trình bày lí luận của W.Petty cũng tiến bộ hơn chủ nghĩa trọng
thương, ông xuất phát từ hiện tượng kinh tế cụ thể, phức tạp lên đến hiện tượng trừu
tượng. Đó là phương pháo kinh tế học đặc trưng của thế kỉ XVII.
Trong những tác phẩm đầu tiên, W.Petty còn mang nặng tư tưởng trọng thương
song đến những tác phẩm cuối cùng thì ông không còn dấu vết của CNTT nữa.
Câu 5: Dùng lí luận giá trị của A.Smith chứng minh nhận xét của C.
Mác, phương pháp luận của A.Smith là phương pháp 2 mặt trộn lân các yếu
tố khoa học và tầm thường.
Adam Smith(1723-1790) là 1 nhà Kinh tế chính trị học nổi tiếng thuộc trường
phái cổ điển Anh.Học thuyết Kinh tế của ông đc thể hiện tập trung trong cuốn ‘của cải
của các dân tộc’ xuất bản năm 1776. Ông đã có công trong phát triển phương pháp
trìu tượng hóa trong nghiên cứu Kinh tếCT, có nhiều đóng góp vào việc xây dựng các
phạm trù, quy luật của linh tế thị trường và phân tích nền sản xuất TBCN. Mặc dù

vậy, rong phương pháp luận của ông bị lẫn lộn giữa 2 yếu tố khoa học và tầm thường.
Có thể thấy tính chất này trong học thuyết giá trị của ông.
• Tính khoa học:
Ông đã sử dụng phương pháp trừu tượng hóa để nghiên cứu làm rõ bản chất
bên trong của các hiện tượng và quá trình kinh tế, qua đó đã rút ra đc những kết luận
đúng đắn khoa học và đã phát hiện ra các quy luật kinh tế.
Đã phân biệt 2 thuộc tính của HH là gtri sử dụng và giá trị trao đổi.Khẳng định
gtri sử dụng ko quyết định giá trị trao đổi và bác bỏ lí luận về sự ích lợi, cho rằng sự
ích lợi ko có quan hệ gì với giá trị trao đổi. Ví dụ ông nói:’Ko gì hữu ích bằng nc và
không khí, nhưng với nó là ko có giá trị”
Cho rằng giá trị trao đổi do lđộng tạo ra bằng số lượng lao động hao phí gồm
cả lđộng quá khứ và lđộng sống, lđộng chung ở tất cả các ngành SX chứ ko chỉ trong
nông nghiệp hay thương nghiệp. Lao động là thước đo duy nhất cuối cùng của giá trị
HH.
Chỉ ra thước đo thực tế của giá trị trao đổi của HH đc tiến hành qua 3 bước:
B1: trao đổi HH vs lđộng
B2: trao đôỉ HH vs HH
B3: trao đổi HH thông qua tiền tệ
Như vậy giá trị trao đổi của HH có 2 thước đo là lđộng và tiền tệ. Lđộng là
thước đo bên trong duy nhất chính xác và tiền tệ là thước đo bên ngoài và chỉ xác định
trong 1 thời gian và ko gian nhất định.
Giá trị trao đổi của HH đc thể hiện trong tương quan trao đổi giữa lượng HH
này vs lượng HH khác, còn trong nền Kinh tế HH phát triển, nó đc biểu hiện ở tiền.
Cho rằng lượng giá trị HH do lao động hao phí trung bình cần thiết quyết định.
Lđộng giản đơn và lđộng phức tạp có ảnh hưởng khác nhau đến lượng giá trị HH.
trong cùng 1 thời gian, lđộng phức tạp tạo ra lượng giá trị nhiều hơn so vs lđộng đơn
giản.
Nêu 2 quan niệm về giá cả: giá cả tự nhiên và giá cả thực tế. Giá cả tự nhiên là
biểu hiện tiền tệ của giá trị, giá cả thực tế là giá bán HH trên thị trường. Giá này phụ
thuộc vào giá cả tự nhiên, quan hệ cung cầu và độc quyền trong đó giá cả tự nhiên là

trung tâm.
• Tính tầm thường:
Trước những vấn đề Kinh tế phức tạp,A.Smith đã tỏ ra bất lực nên mới chỉ
dừng lại quan sát,mô tả vẻ bề ngoài để rút ra KL.
Trong khi đưa ra định nghĩa khoa học về giá trị ông lại đưa ra định nghĩa thứ 2:
giá trị của HH là lđộng mà ng ta có thể mua đc HH đó quyết định
Dựa vào định nghĩa trên, ông cho rằng giá trị do lđộng quyết định chỉ đúng
trong nền Kinh tế HH giản đơn còn trong nền Kinh tế HH phát triển (nền Kinh tế hàng
hóa tư bản chủ nghĩa) thì giá trị đc cấu thành bởi 3 nguồn thu nhập: tiền công, lợi
nhuận va địa tô. Đến đây lại bị lẫn lộn giữa cấu thành giá trị và phân phối giá trị.
Trong khi xác định cấu thành giá trị HH,chưa tính đến giá trị lđộng quá khứ. Lí
luận còn chịu ảnh hưởng bởi CNTN,như đã cho rằng năng suất lđộng nông nghiệp cao
hơn công nghiệp vì nông nghiệp đc sự trợ giúp của tự nhiên.
Câu 6: Chứng minh rằng A.Smith là nhà lí luận giá trị - lao động song
những lí luận giá trị của ông còn chứa nhiều mâu thuẫn và sai lầm.
Lí thuyết của A.Smith:
Adam Smith đã đưa ra thuật ngữ khoa học là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi,
tuy nhiên chưa phân biệt được chúng và cho rằng giá trị sử dụng không quyết định giá
trị trao đổi.
Xét về giá trị hàng hoá, ông đưa ra hai định nghĩa. Định nghĩa 1: “Giá trị hàng
hóa là do lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa quyết định. Lao động là thước đo
thực tế của mọi giá trị”. Định nghĩa 2: “Giá trị hàng hóa bằng số lượng lao động mà
người ta có thể mua đc bằng hàng hóa đó”.
Adam Smith là người đưa ra quan niệm đúng đắn về giá trị hàng hoá đó là: giá
trị hàng hoá là do lao động hao phí tạo ra, ông còn chỉ rõ giá trị hàng hoá bằng số
lượng lao động đã chi phí bao gồm lao động quá khứ và lao động sống.
Về cơ cấu giá trị hàng hóa, ông cho rằng “Tiền công, lợi nhuận, địa tô là 3
nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập và do đó là 3 nguồn gốc đầu tiên của mọi giá trị.
Xét trao đổi hàng hoá với hàng hoá: Ông viết: “giá trị trao đổi của chúng bằng
một lượng hàng hoá nào đó”. Như vậy giá trị trao đổi của hàng hoá là quan hệ tỷ lệ

về số lượng giữa các hàng hoá.
Xét trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ: Theo ông, khi chấm dứt nền thương
nghiệp vật đổi vật thì giá trị hàng hoá được đo bằng tiền và giá cả hàng hoá là biểu
hiện bằng tiền của giá trị, giá cả hàng hoá có hai loại thước đo đó là lao động và tiền
tệ, trong đó thước đo là lao động là thước đo chính xác nhất của giá trị, còn tiền tệ chỉ
là thước đo trong một thời gian nhất định mà thôi. Hơn nữa “ giá cả tự nhiên là trung
tâm còn giá cả thị trường là giá bán thực tế của hàng hóa đó. Giá cả thị trường sẽ nhất
trí với giá cả tự nhiên khi mà số lượng hàng hóa đc bán trên thị trường thỏa mãn cầu
thực tế nhưng do biến động thị trường nên giá cả thị trường chênh lệch với giá cả tự
nhiên”.
Tóm lại trong lý luận giá trị - lao động A.Smith đã có những bước tiến đáng kể
so với chủ nghĩa trọng nông và W.Petty. Cụ thể là:
- Ông đã chỉ ra cơ sở của giá trị, thực thể của giá trị chính là do lao động. Lao
động là thước đo giá trị (theo ông: lao động là nguồn gốc của sự giàu có của
các quốc gia, là thực thể giá trị của hàng hoá. Không phải vàng hay bạc mà
sức lao động mới là vốn liếng ban đầu và có khả năng tạo ra mọi của cải
cần thiết).
- Trong khi phân biệt hai phạm trù giá trị sử dụng và giá trị, ông bác bỏ quan
niệm cho rằng giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi. Khi phân tích về
giá trị, ông cho rằng giá trị được biểu hiện ở giá trị trao đổi trong mối quan
hệ về số lượng với các hàng hoá khác, còn trong nền sản xuất hàng hoá phát
triển nó được biểu hiện ở tiền.
- Ông khẳng định mọi thứ lao động sản xuất đều bình đẳng trong việc tạo ra
giá trị hàng hoá (đã khắc phục hạn chế của chủ nghĩa trọng thương và chủ
nghĩa trọng nông).
- Lượng giá trị: là do hao phí lao động trung bình cần thiết quyết định, không
phải do lao động chi phí thực tế để sản xuất hàng hoá. Ở đây đã có sự trừu
tượng hoá các dạng lao động cụ thể, các chi phí lao động cá biệt để xem xét
giá trị do lao động tạo ra như một đại lượng xác định mang tính chất xã hội.
Đã có sự phân biệt lao động giản đơn, lao động phức tạp trong việc hình

thành lượng giá trị hàng hoá.
- Về giá cả: theo A.Smith, giá trị là cơ sở của giá cả và có giá cả tự nhiên và
giá cả thị trường. Giá cả tự nhiên là giá trị thực của hàng hoá do lao động
quyết định. Giá cả thị trường (hay giá cả thực tế) thì khác với giá cả tự
nhiên, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu và các loại độc quyền khác (ông đã
sớm nhận ra nhân tố độc quyền tư bản).
Lý luận giá trị - lao động của A.Smith còn có hạn chế, đó là:
- Quan niệm về lượng giá trị chưa nhất quán: trên cơ sở lý luận giá trị lao
động ông đã có định nghĩa đúng giá trị là lao động hao phí để sản xuất hàng

×