Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

NỘI DUNG ôn tập NHỮNG NGUYÊN lý cơ bản của CHỦ NGHĨA MAC lê NIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.25 KB, 19 trang )

Đặng Lê Ngọc Hưng Lớp SH: 08XH
NỘI DUNG ÔN TẬP
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MAC-LÊ NIN
1/ Điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa?
Trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội, có hai hình thức sản xuất rõ rệt là: sản xuất tự cấp tự túc
và sản xuất hàng hóa.
Sản xuất tự cấp, tự túc là sản xuất sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu của người sản xuất trong nội bộ đơn vị
kinh tế. Còn sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán, các quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất
biểu hiện qua việc mua bán sản phảm của nhau trên thị trường.
Sản xuất hàng hóa đã ra đời trong hai điều kiện lịch sử:
+ Có sự phân công lao động xã hội:
Phân công lao động xã hội là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, biểu hiện ở sự chuyên môn hóa
sản xuất, Do phân công lao động xã hội, mỗi người hoặc mỗi nhóm người chỉ sản xuất một hoặc một số sản
phẩm nhất định. Mỗi người (hoặc mỗi nhóm người) đều thừa sản phẩm do mình sản xuất ra nhưng lại thiếu
các loại sản phẩm khác. Do đó, việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu và có lợi đối với mọi người sản xuất.
+ Có chế độ tư hữu. Điều đó làm cho nhữg người sản xuất độc lập với nhau; họ sản xuất dựa trên cơ sở tư
liệu sản xuất của họ và sản phẩm lao động thuộc quyền chi phối của họ.
Chế độ tư hữu làm cho ngững người sản xuất độc lập với nhau, còn phân công lao động xã hội lại làm cho
họ phụ thuộc vào nhau. Sản xuất hàng hóa ra đời chính là để giải quyết mâu thuẫn này.
Những hình thức đầu tiên của sản xuất hàng hóa xuất hiện từ thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên
thủy, tồn tại và phát triển ở các phương thức sản xuất tiếp theo.
Sản xuất hàng hóa phát triển cao nhất, phổ biến nhất trong chủ nghĩa tư bản và trở thành hình thức sản
xuất hàng hóa điển hình, nổi bật trong lịch sử.
Sản xuất hàng hóa tiếp tục tồn tại và phát triển dưới chủ nghĩa xã hội vì dưới chủ nghĩa xã hội còn tồn tại
nhiều hình thức sở hữu khác nhau và trình độ phân công lao động xã hội ngày càng phát triển. Như vậy, sản
xuất hàng hóa xuất hiện rồi tồn tại và phát triển ở nhiều xã hội, là sản phẩm của lịch sử phát triển sản xuất của
loài người. Nó có nhiều ưu thế, tiến bộ so với sản xuất tự cấp tự túc mà cho tới nay chưa có hình thức sản xuất
xã hội nào có ưu thế hơn nó. Tuy nhiên, ở các xã hội khác nhau, sản xuất hàng hóa có vai trò và giới hạn khác
nhau. Song, nhìn chung, so với sản xuất tự cấp tự túc, sản xuất hàng hóa có nhiều ưu việt đặc biệt:
- Thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, hợp lý hóa sản
xuát, tiết kiệm. tăng năng suất lao động.


- Làm cho sản xuất gắn liền với tiêu dùng, sản phẩm thường xuyên được cải tiến chất lượng, hình
thức phù hợp với nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng.
- Thúc đẩy nhanh chóng quá trình xã hội hóa sản xuất, tích tụ và tập trung sản xuất, mở rộng sự giao
lưu thị trường trong nước và quốc tế.
- Là cơ sở thúc đẩy quá trình dân chủ hóa, bình đẳng, tiến bộ xã hội, phá vỡ tính bảo thủ, trì trệ,
phường hội của kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc.v v.
Tuy nhiên, sản xuất hàng hóa có mặt trái của nó như việc làm phân hóa người sản xuất thành giàu
nghèo và nhiều hiện tượng tiêu cực như làm hàng giả, lừa lọc…Trong điều kiện của nước ta, một mặt phải đẩy
mạnh nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường phù hợp với các quy luật của
sản xuất hàng hóa; mặt khác, phải có sự quản lý của Nhà nước để bảo đảm sự định hướng xã hội chủ nghĩa và
hạn chế những tiêu cực do cơ chế thị trường sinh ra, thực hiện sự kết hợp hiệu quả kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội.
2/ Hàng hóa và 2 thuộc tính của hàng hóa?
1/ Hàng hóa là một vật phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người và đi vào tiêu
dùng thông qua trao đổi (mua bán).
Vì vậy, không phải bất kỳ vật phẩm nào cũng là hàng hóa. Những vật phẩm đi vào tiêu dùng không thông
qua trao đổi (mua – bán) thì không phải là hàng hóa. Chẳng hạn, thóc của người nông dân sản xuất để tiêu
dùng cho bản thân họ thì không phải là hàng hóa. Nhưng nếu thóc đó được đem bán thì nó là hàng hóa.
2/ Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.
a/ Giá trị sử dụng:
Đề cương ôn tập KTCT HKII Trang 1 Lớp HP: 08NLCB02
Đặng Lê Ngọc Hưng Lớp SH: 08XH
Giá trị sử dụng của vật phẩm là công dụng của nó, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người như gạo
để ăn, vải để mặc, nhà để ở…
Giá trị sử dụng của vật phẩm do thuộc tính tự nhiên của vật phẩm quy định. Xã hội loài người càng phát
triển, càng phát hiện ra được nhiều thuộc tính tự nhiên có ích của vật phẩm và lợi dụng những thuộc tính tự
nhiên đó để tạo ra nhiều loại sử dụng khác nhau. Chẳng hạn, than đá từ xa xưa chỉ được dùng làm nhiên liệu
(đốt nóng), đến nay còn là nguyên liệu của nhiều sản phẩm với giá trị sử dụng cao. Do đó, giá trị sử dụng là
một phạm trù vĩnh viễn.
Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.

b/ Giá trị:
Muốn hiểu giá trị của hàng hóa phải nghiên cứư từ giá trị trao đổi của nó.
Giá trị trao đổi biểu hiện mối quan hệ trao đổi hàng hóa trên thị trường. Đó là mối quan hệ tỷ lệ về lượng
giữa những hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau đem trao đổi với nhau.
Ví dụ: 1m vải trao đổi với 5kg thóc.
Sở dĩ vải và thóc là hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi được với nhau theo một tỷ lệ
nhất định, vì vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, có cơ sở chung là sự hao phí lao động của con người.
Sự hao phí lao động đó chính là giá trị của hàng hóa.
Vậy, giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa đó.
Do đó, giá trị là cơ sở của giá trị trao đổi; còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.
Giá trị phản ánh mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa. Do đó, giá trị là một phạm trù
lịch sử, chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hóa.
3/ Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa?
Hàng hóa có hai thuộc tính không phải là do có hai thứ lao động khác nhau kết tinh trong nó, mà là do lao
động của người sản xuất hàng hóa có tính chất hai mặt: vừa mang tính chất cụ thể (lao động cụ thể), lại vừa
mang tính chất trừu tượng (lao động trừu tượng).
a/ Lao động cụ thể:
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất
định.
Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao
động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau. Lao động cụ thể tạo ra giá
trị sử dụng của hàng hóa.
Trong xã hội có nhiều loại hàng hóa với những giá trị sử dụng khác nhau là do có nhiều loại lao động cụ
thể khác nhau. Nếu phân công lao động xã hội càng phát triển thì càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau để
đáp ứng nhu cầu xã hội.
b/ Lao động trừu tượng:
Lao động của người sản xuất hàng hóa nếu coi đó là sự hao phí sức lao động nói chung không kể hình
thức cụ thể của nó như thế nào được gọi là lao động trừu tượng. Hay nói cách khác, nếu gạc bỏ lao động cụ
thể sang 1 bên thì lao động của tất cả người sản xuất hàng hóa có 1 điểm chung đó là sự hao phí sức lực thần
kinh cơ bắp của con người. Đó là lao động trừu tượng.

Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa.
 Tóm lại, nếu xét lao động cụ thể là xem lao động đó như thế nào, sản xuất ra cái gì, lao động cụ thể tạo
ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Còn xét lao động trừu tượng là xem lao động đó tốn bao nhiêu thời gian, bao
nhiêu sức lực. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa.
Chính hai mặt sản xuất hàng hóa phản ánh tính tư nhiên, tính xã hội của sản xuất hàng hóa. Đây chính là
mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa (mâu thuẫn giữa lao động tự nhiên và lao động xã hội). Mâu thuẫn
này biểu hiện ở:
- Sản phẩm do người sản xuất tạo ra có thể không phù hợp với nhu cầu xã hội.
- Hao phí cá biệt của từng người sản xuất có thể nhỏ hơn hoặc cao hơn hay thấp hơn hao phí lao
động mà xã hội chấp nhận.
- Mâu thuẫn giữa lao động tự nhiên và lao động xã hội có thể dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa.
4/ Lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng tới lượng giá trị của hàng hóa?
Nếu giá trị là lao động xã hội của những người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa thì lượng giá trị
chính là lượng lao động xã hội hao phí để sản xuất ra hàng hóa.
Đề cương ôn tập KTCT HKII Trang 2 Lớp HP: 08NLCB02
Đặng Lê Ngọc Hưng Lớp SH: 08XH
Trong sản xuất hàng hóa, hao phí lao động cá biệt tạo thành giá trị cá biệt của hàng hóa. Trên thị trường,
không thể dựa vào giá trị cá biệt để trao đổi mà phải dựa vào giá trị xã hội của hàng hóa.
Giá trị xã hội của hàng hóa được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết (tất yếu) để sản xuất một
loại hàng hóa nào đó. Đó là thời gian cần thiết để sản xuất hàng hóa trong điều kiện sản xuất trung bình của xã
hội với trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình. Thông
thường thời gian lao động xã hội cần thiết của một loại hàng hóa nào đố gần sát với thời gian lao động cá biệt
của người sản xuất đại bộ phận hàng hóa đó trên thị trường.
Giá trị hàng hóa thay đổi phụ thuộc vào năng suất lao động. Năng suất lao động là hiệu suất của lao động
được đo bằng số lượng sản phẩm tạo ra trong một đơn vị thời gian, hoặc lượng thời gian lao động hao phí để
tạo ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật của người lao động, mức
trang bị kỹ thuật của lao động, phương pháp tổ chức, quản lý và các điều kiện tự nhiên.
Tăng năng suất lao động thể hiện ở chỗ: hao phí lao động không tăng, nhưng số lượng sản phẩm làm ra
trong một đơn vị thời gian tăng lên, do đó giá trị của một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Điều đó có nghĩa: giá
trị của hàng hóa biến đổi tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.

Cần phân biệt tăng năng suất lao động với tăng cường độ lao động. Cường độ lao động là mức độ hao phí
lao động trong một đơn vị thời gian. Tăng cường độ lao động sẽ làm tăng thêm mức hao phí lao động, và do
đó, làm tăng số lượng sản phẩm một cách tương ứng, vì vậy giá trị một đơn vị hàng hóa không thay đổi.
Lao động của người sản xuất hàng hóa có trình độ thành thạo khác nhau. Nó được chia thành hai loại: lao
động giản đơn là lao động không cần rèn luyện, đào tạo và lao động phức tạp phải qua quá trình học tập rèn
luyện…Trong cùng một đơn vị thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn.
Trong quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều được quy thành bội số của lao động giản
đơn trung bình một cách tự phát trên thị trường.
5/ Quy luật giá trị?
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hóa. Ở đâu có sản xuất hàng hóa thì ở đó có quy
luật giá trị hoạt động một cách khách quan.
Quy luật giá trị đòi hỏi việc sản xuất và trao đổi hàng hóa, phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần
thiết, có nghĩa là:
- Trong sản xuất, nó đòi hỏi người sản xuất luôn luôn có ý thức tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá
biệt xuống nhỏ hơn, hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết.
- Trong lưu thông, nó đòi hỏi việc trao đổi hàng hóa phải dựa trên nguyên tắc ngang giá.
Quy luật giá trị hoạt động thông qua sự lên xuống của giá cả trên thị trường. Nó có mối quan hệ hữu
cơ với quy luật cung - cầu. Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn giá trị. Khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả
lớn hơn giá trị.
Quy luật giá trị hoạt động ở trong mọi phương thức sản xuất có sản xuất hàng hóa, nhưng đặc điểm hoạt
động, vai trò và tác dụng của nó khác nhau, vì nó bị các quy luật kinh tế đặc thù của phương thức sản xuất đó
chi phối.
Trong điều kiện nền sản xuất hàng hóa dựa trên cơ sở chế độ tư hữu giữ vai trò thống trị, quy luật giá trị
hoạt động một cách tự phát và có bốn tác dụng chủ yếu sau:
- Tự phát điều tiết các yếu tố sản xuất (tư liệu sản xuất và sức lao động) vào các ngành, các khu vực
khác nhau của nền sản xuất xã hội, thông qua sự biến động của cung - cầu thể hiện qua giá cả trên thị trường.
- Tự phát điều tiết lưu thông hàng hóa. Thông qua sự biến động (chênh lệch) của giá cả, hàng hóa từ
nơi có giá cả thấp sẽ được di chuyển về nơi có giá cả cao.
- Tự phát kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao đông, làm cho lực
lượng sản xuất phát triển.

- Tự phát làm phân hóa người sản xuất thành giàu và nghèo.
Trong điều kiện chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế nhiều thành phần trong đó thành phần kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể làm nền tảng, còn thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo thì vai trò của quy
luật giá trị về cơ bản không còn như trước. Tuy nhiên nó vẫn thể hiện chức năng điều tiết, kích thích và đào
thải vốn có của nó.
Trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế còn nhiều thành phần, còn nhiều loại quy luật
đặc thù hoạt động đan xen vào nhau, làm cho sự hoạt động của quy luật giá trị vừa có tính tự phát vừa có tính
tự giác, tuy vẫn có đầy đủ các tác dụng trên.
Đề cương ôn tập KTCT HKII Trang 3 Lớp HP: 08NLCB02
Đặng Lê Ngọc Hưng Lớp SH: 08XH
Vấn đề quan trọng là phải nhận thức và vận dụng quy luật giá trị bằng các chính sách kinh tế phù hợp trên
cơ sở khoa học, nhằm thực hiện có hiệu quả những mục tiêu kinh tế - xã hội.
6/ Công thức chung của tư bản và mâu thuẫn của công thức chung của tư bản?
Chủ nghĩa tư bản ra đời khi có hai điều kiện: có một lớp người được tự do về thân thể nhưng lại không có
tư liệu sản xuất; và tiền của phải được tập trung vào tay một số người, với một lượng đủ lớn, để lập các xí
nghiệp.
a/ Công thức chung của tư bản:
So sánh công thức lưu thông hàng hóa giản đơn với công thức chung của tư bản.
Lưu thông hàng hóa giản đơn được vận động theo công thức:
H – T – H (1).
Trong công thức này, tiền tệ không phải là tư bản. Tiền tệ chỉ trở thành tư bản trong điều kiện nhất định.
Mọi tư bản đều xuất hiện từ một khối lượng tiền nhất định và vận động theo công thức:
T – H – T’ (2).
Đây là công thức chung của tư bản, vì mọi tư bản đều vận động theo công thức này.
Giữa công thức (1) và công thức (2) có những điểm khác nhau:
- Về điểm xuất phát và kết thúc quá trình vận động trong công thức 1 là H (hàng); trong công thức 2
là T (tiền).
- Về trình tự của quá trình vận động: trong công thức 1 bán trước, mua sau; trong công thức 2 mua
trước, bán sau.
- Về mục đích của quá trình vận động:

Trong công thức 1 là giá trị sử dụng; trong công thức 2 là giá trị. Ở đây, tiền thu về (T) phải lớn hơn
tiền ứng trước (T) một lượng là t. Do đó T’ = T + t (Số tiền trội lên so với số tiền ứng ra ban đầu là giá trị
thặng dư, ký hiệu là (m)).
Như vây, số tìên ứng ra ban đầu (T) với mục đích đem lại giá trị thặng dư cho người chủ có tiền được gọi
là tư bản. Qua đó, đi đến kết luận: Tiền tệ chỉ trở thành tư bản khi được dùng để mang lại giá trị thặng dư cho
tư bản.
b/ Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản:
Lý luận giá trị đã chứng minh rằng:
Giá trị của hàng hóa do lao động của những người sản xuất hàng hóa tạo ra trong sản xuất. Nhưng nhìn
vào công thức T – H – T’ người ta dễ lầm tưởng rằng tiền tệ cũng tạo ra giá trị khi vận động trong lưu thông.
Thực chất thì bản thân tiền, dù ở ngoài hay ở trong lưu thông, cũng không tự lớn lên được. Tiền không thể
sinh ra tiền là điều hiển nhiên.
Còn lưu thông thuần túy, dù diễn ra ở bất cứ hình thức nào, kể cả việc mua rẻ bán đắt, cũng không làm
tăng thêm giá trị, không tạo ra giá trị thặng dư; ở đây chỉ có sự phân phối lại lượng giá trị có sẵn trong xã hội
mà thôi, bởi nếu mua rẻ thứ này thì sẽ lại phải mua đắt thứ kia: bán đắt thứ này thì lại phải bán rẻ thứ khác, vì
tổng khối lượng hàng và tiền trong toàn xã hội ở một thờì gian nhất định là một số lượng không đổi.
Tuy vậy, không có lưu thông cũng không tạo ra được giá trị thặng dư. Do đó, mâu thuẫn của công thức
chung của tư bản là giá trị thặng dư không do lưu thông đẻ ra nhưng lại được tạo ra thông qua lưu thông.
Sỡ dĩ như vậy vì nhà tư bản tìm được trên thị trường một loại hàng hóa đặc biệt có khả năng tạo ra giá trị
thặng dư cho mình. Đó là hàng hóa sức lao động.
7/ Hàng hóa sức lao động?
Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực của con người, là khả năng lao động của con người. Sức lao
động là yếu tố cơ bản của mọi quá trình sản xuất. Nó chỉ trở thành hàng hóa khi có hai điều kiện:
- Người có sức lao động được tự do thân thể, được quyền làm chủ sức lao động của mình để có thể
đi làm thuê (bán sức lao động).
- Họ không có tư liệu sản xuất và của cải khác để sinh sống, buộc phải đi làm thuê, tức là bán sức
lao động của mình. Sức lao động khi trở thành hàng hóa, nó vừa có hai thuộc tính như hàng hóa thông thường
vừa có đặc điểm riêng.
- Giá trị hàng hóa sức lao động cũng bằng lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất
ra nó. Nhưng việc sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động phải được thực hiện bằng cách tiêu dùng cho cá

nhân. Vì vậy, lượng giá trị hàng hóa sức lao động bằng lượng giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết về vật
chất và tinh thần để nuôi sống người công nhân, gia đình anh ra và chi phí đào tạo công nhân theo yêu cầu của
Đề cương ôn tập KTCT HKII Trang 4 Lớp HP: 08NLCB02
Đặng Lê Ngọc Hưng Lớp SH: 08XH
sản xuất. Vì vậy, giá trị hàng hóa sức lao động phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia trong
từng thời kỳ nhất định.
- Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động là công dụng của nó để thõa mãn nhu cầu người mua là sử
dụng vào quá trình lao động. Khác với hàng hóa thông thường, hàng hóa sức lao động khi được sử dụng, nó
tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Đó chính là nguồn gốc giá trị thặng dư.
Hàng hóa sức lao động là điều kiện để chuyển hóa tiền tệ thành tư bản. Đây cũng chính là chìa khóa để
giải quýêt mẫu thuẫn trong công thức chung của tư bản.
Như vậy, tiền tệ chỉ trở thành tư bản khi nó được sử dụng làm phương tiện để mang lại giá trị thặng dư
cho người có tiền và người có tiền phải tìm được một loại hàng hóa đặc biệt – hàng hóa sức lao động.
9/ Bản chất của tư bản. Tư bản bất biến và tư bản khả biến?
Bản chất của tư bản: là thể hiện quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị
thặng dư do giai cấp công nhân làm ra.
Tư bản bất biến và tư bản khả biến:
Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng tiền ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động, nghĩa là biến
tư bản tiền tệ thành các yếu tố của quá trình sản xuất. Các yếu tố này có vai trò khác nhau trong việc tạo ra giá
trị thặng dư.
- Trong sản xuất, công nhân sử dụng tư liệu sản xuất để chế tạo ra sản phẩm. Tư liệu sản xuất có
nhiều loại, có loại như nhà xưởng, kho tàng, thiết bị, máy móc được sử dụng trong một thời gian dài, hao mòn
dần qua nhiều chu kỳ sản xuất, nên giá trị của nó được chuyển từng phần vào sản phẩm. Có loại như nguyên
liệu nhiên liệu, vật liệu phụ tiêu hao toàn bộ qua một chu kỳ sản xuất, nên giá trị của nó được chuyển nguyên
vẹn ngay vào sản phẩm mới.
Như vậy, dù giá trị tư liệu sản xuất được chuyển dần từng phần hay chuyển nguyên vẹn ngay vào sản
phẩm, bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất có đặc điểm chung là giá trị của chúng được bảo
tồn không có sự thay đổi về lượng và chuyển vào sản phẩm mới trong quá trình sản xuất.
Bộ phận tư bản này gọi là tư bản bất biến (ký hiệu bằng C).
- Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức sức lao động có tính chất khác với bộ phận tư bản bất biến

(C).
Trong quá trình sản xuất, bộ phận tư bản này có sự thay đổi về lượng, tăng lên về số lượng giá trị, vì
đặc điểm của giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là khi được đem tiêu dùng thì nó sẽ tạo ra một lượng
giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó - gọi là tư bản khả biến (ký hiệu bằng V).
- Việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến vạch rõ nguồn gốc của giá trị thặng
dư là do lao động làm thuê của công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Hiện nay, giai cấp tư sản sử
dụng máy móc hiện đại tự động hóa quá trình sản xuất đối với một số sản phẩm. Trong điều kiện sản xuất như
vậy, tư bản bất biến có vai trò quan trong quyết định việc tăng năng suất lao động, nhưng cũng không thể coi
đó là nguồn gốc của giá trị thặng dư. Suy đến cùng, bộ phận tư bản khả biến tồn tại dưới hình thức sức lao
động (chân tay và trí óc) mới là nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa.
10/ Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư?
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư (m) và tư bản khả biến (V). Tỷ suất giá trị
thặng dư ký hiệu là m’ và được xác định bằng công thức:
%100' ×=
v
m
m
Công thức tính tỷ suất giá trị thặng dư còn có dạng:
%100
'
' ×=
t
t
m
Trong đó: - t là thời gian lao động tất yếu
- t’ là thời gian lao động thặng dư.
Tỷ suất giá trị thặng dư vạch rõ trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với lao động làm thuê, đồng thời nó
cũng nói lên ngày lao động được chia thành hai phần - thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng
dư – như thế nào.
Khối lượng giá trị thặng dư (M) là số lượng giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được trong một thời gian

sản xuất nhất định và được tính bằng công thức:
Đề cương ôn tập KTCT HKII Trang 5 Lớp HP: 08NLCB02
Đặng Lê Ngọc Hưng Lớp SH: 08XH
VmM ×= '
hoặc
V
v
m
M ×=
Trong đó: V là tổng tư bản khả biến được sử dụng trong thời gian trên.
Khối lượng giá trị thặng dư tùy thuộc và tỷ lệ thuận vào cả hai nhân tố m’ và V.
11/ Giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối, và giá trị thặng dư siêu ngạch?
a/ Giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối:
- Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động, do công nhân làm thuê tạo ra và bị
nhà tư bản chiếm không.
Giá trị thặng dư phản ánh bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa – quan hệ bóc lột của nhà tư
bản đối với lao động làm thuê.
Để thu được giá trị thặng dư, có hai phương pháp chủ yếu: phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt
đối và phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
- Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt khỏi giới hạn
thời gian lao động cần thiết. Ngày lao động kéo dài trong khi thời gian lao động cần thiết không đổi, do đó
thời gian lao động thặng dư tăng lên.
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa. Phương pháp này được
áp dụng phổ biến ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, khi lao động còn ở trình độ thủ công và năng suất lao
động còn thấp.
Với lòng tham vô hạn, nhà tư bản tìm mọi thủ đoạn để kéo dài ngày lao động, nâng cao trình độ bóc
lột sức lao động làm thuê. Nhưng một mặt, do giới hạn tự nhiên của sức lực con người; mặt khác do đấu tranh
quyết liệt của công nhân đòi rút ngắn ngày lao động, cho nên ngày lao động không thể kéo dài vô hạn. Tuy
nhiên, ngày lao động cũng không thể rút ngắn đến mức chỉ bằng thời gian lao động tất yếu. Một hình thức
khác của sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là tăng cường độ lao động. Vì tăng cường độ lao động cũng giống

như kéo dài thời gian lao động trong ngày, trong khi thời gian lao động cần thiết không thay đổi.
- Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu trên
cơ sở tăng năng suất lao động xã hội. Việc tăng năng suất lao động xã hội, trước hết ở các ngành sản xuất ra
vật phẩm tiêu dùng, sẽ làm cho giá trị sức lao động giảm xuống, do đó, làm giảm thời gian lao động cần thiết.
Khi độ dài ngày lao động không thay đổi, thời gian lao động cần thiết giảm sẽ làm tăng thời gian lao động
thặng dư - thời gian để sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối cho nhà tư bản.
- Để giành ưu thế trong cạnh tranh, để thu được nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản đã áp dụng
những tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất, cải tiến tổ chức sản xuất, hoàn thiện phương pháp quản lý kinh tế,
nâng cao năng suất lao động. Kết quả là, giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội. Nhà tư bản nào
thực hiện được điều đó thì khi bán hàng hóa của mình sẽ thu được một số giá trị thặng dư trội hơn so với các
nhà tư bản khác.
b/ Giá trị thặng dư siêu ngạch:
Phần giá trị thặng dư thu được trội hơn giá trị thặng dư bình thường của xã hội được gọi là giá trị
thặng dư siêu ngạch.
Xét từng đơn vị sản xuất tư bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời cục bộ.
Nhưng xét trên toàn bộ xã hội tư bản, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Vì vậy,
giá trị thặng dư siêu ngạch là một động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản ra sức cải tiến kỹ thuật, tăng
năng suất lao động.
Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động. Cái
khác nhau là ở chỗ giá trị thặng dư tương đối thì dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội; còn giá trị
thặng dư siêu ngạch thì dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt.
12/ Quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản?
Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Quy luật kinh tế cơ bản là quy luật phản ánh bản chất và mục đích của một phương thức sản xuất. Mỗi
phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế cơ bản.
Bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất công nhân buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản. Lao động không
công của công nhân làm thuê là nguồn gốc của giá trị thặng dư, nguồn gốc làm giàu của nhà tư bản.
Sản xuất giá trị thặng dư là mục đích duy nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì mục đích đó, các nhà
tư bản sản xuất bất cứ loại hàng hóa nào, kể cả vũ khí giết người hàng loạt, miễn là thu được nhiều giá trị
Đề cương ôn tập KTCT HKII Trang 6 Lớp HP: 08NLCB02

Đặng Lê Ngọc Hưng Lớp SH: 08XH
thặng dư. Phương tiện để đạt mục đích là tăng cường bóc lột công nhân làm thuê trên cơ sở phát triển kỹ thuật,
tăng cường độ lao động, kéo dài ngày lao động, tăng năng suất lao động v v…
Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Nội dung của quy luật là tạo ra
ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản bằng cách tăng cường các phương tiện kỹ thuật và quản lý để
bóc lột ngày càng nhiều lao động làm thuê.
Quy luật giá trị thặng dư có tác dụng mạnh mẽ trong nhiều mặt của đời sống xã hội. Một mặt, nó thúc đẩy
kỹ thuật và phân công lao động xã hội phát triển, làm cho lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa
phát triển với tốc độ nhanh và nâng cao năng suất lao động. Mặt khác, nó làm cho các mâu thuẫn vốn có của
chủ nghĩa tư bản, trước hết là mâu thuẫn cơ bản của nó – mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với sự
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất – ngày càng gay gắt.
13/ Thực chất và động cơ tích lũy tư bản?
Tích lũy tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản để mở rộng sản xuất, tăng thêm quy mô bóc
lột.
Tích lũy tư bản là tất yếu khách quan do quy luật kinh tế cơ bản, quy luật giá trị và cạnh tranh…của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa quy định. Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư;
thực chất của tích lũy tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản xuất.
Quy mô tích lũy phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư và tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tư bản
phụ thêm và thu nhập (bộ phận giá trị thặng dư nhà tư bản tiêu dùng cho cá nhân). Nếu tỷ lệ phân chia không
thay đổi, thì quy mô tích lũy phụ thuộc vào các nhân tố làm tăng khối lượng giá trị thặng dư như:
- Tăng cường bóc lột sức lao động. Nhân tố này biểu hiện ở chỗ cắt xén tiền công, tăng cường độ
lao động đối với công nhân làm thuê.
- Tăng năng suất lao động xã hội. Đây là đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ và có tác dụng thiết thực đối với
tích lũy.
- Sự chênh lệch ngày càng lớn giữa tư bản sử dụng (tức giá trị máy móc, thiết bị được sử dụng) và
tư bản tiêu dùng (tức giá trị tiêu hao của máy móc, thiết bị đó qua mỗi chu kỳ sản xuất).
- Quy mô tư bản ứng trước. Quy mô tư bản ứng trước càng lớn, càng có điều kiến phát triển nhanh,
do đó tích lũy ngày càng nhiều.
14/ Tích tụ và tập trung tư bản. Cấu tạo hữu cơ của tư bản?
a/ Tích tụ tư bản:

Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa một phần giá trị thặng dư.
Tích tụ tư bản là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản. Chẳng hạn, một tư bản 1.000 đôla cộng thêm 100 đôla
giá trị thặng dư tư bản hóa thành một tư bản lớn hơn 1.100 đôla.
Tích tụ tư bản là một tất yếu. Trước hết đó là do yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản,
của cạnh tranh và của tiến bộ kỹ thuật. Đồng thời trình độ bóc lột và khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được
ngày càng tăng trong quá trinh phát triển của chủ nghĩa tư bản là điều kiện vật chất làm cho khả năng tư bản
hóa giá trị thặng dư biến thành hiện thực tích tụ tư bản.
b/ Tập trung tư bản: là sự tăng thêm quy mô tư bản bằng cách kết hợp nhiều tư bản nhỏ thành một tư bản
lớn hơn. Thí dụ: một tư bản 3.000 đôla kết hợp lại với một tư bản 2.000 đôla thành một tư bản lớn hơn 5.000
đôla.
Tập trung tư bản thường diễn ra bằng hai phương pháp. Phương pháp cưỡng bức và phương pháp tự
nguyện. Phương pháp cưỡng bức thể hiện ở chỗ: trong quá trình cạnh tranh, các nhà tư bản lớn thôn tính các
nhà tư bản nhỏ phá sản. Ở phương pháp tự nguyện trong quá trình cạnh tranh, các nhà tư bản không phân
thắng bại, họ liên hiệp lại và tổ chức các công ty cổ phần để tránh khỏi sự phá sản và có đủ sức mạnh cần thiết
cho cạnh tranh trên phạm vi mới.
Nếu tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản xã hội và phản ánh mối quan hệ trực tiếp giữa giai cấp công
nhân và giai cấp tư sản thì tập trung tư bản không làm tăng quy mô tư bản xã hội mà chỉ phân phối lại và tổ
chức lại tư bản xã hội; nó phản ánh quan hệ trực tiếp giữa các nhà tư bản.
Tích tụ và tập trung tư bản có quan hệ với nhau và tác động thúc đẩy nhau. Tích tụ tư bản làm tăng quy
mô tư bản cá biệt khiến cho cạnh tranh gay gắt hơn, dẫn đến sự tập trung tư bản. Tập trung tư bản tạo ra điều
kiện để tăng cường bóc lột giá trị thặng dư và đẩy mạnh tích tụ tư bản.
c/ Cấu tạo hữu cơ của tư bản:
Trong quá trình tích lũy tư bản, cơ cấu tư bản dần dần thay đổi. Các bộ phận của tư bản có sự thay đổi
không giống nhau. Cấu tạo của tư bản gồm có hai mặt: mặt vật chất và mặt giá trị.
Đề cương ôn tập KTCT HKII Trang 7 Lớp HP: 08NLCB02
Đặng Lê Ngọc Hưng Lớp SH: 08XH
Cấu tạo của tư bản về mặt vật chất gồm có tư liệu sản xuất và sức lao động. Tỷ lệ giữa số lượng tư liệu
sản xuất và số lượng sức lao động sử dụng tư liệu sản xuất đó gọi là cấu tạo kỹ thuật của tư bản.
Cấu tạo của tư bản về mặt giá trị gồm có tư bản bất biến và tư bản khả biến. Tỷ lệ giữa tư bản bất biến và
tư bản khả biến gọi là cấu tạo giá trị của tư bản.

Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị có quan hệ chặc chẽ với nhau. Để chỉ mối quan hệ chặc chẽ đó, C.Mác
dùng khái niệm cấu tạo hữu cơ của tư bản. Vậy cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu
tạo kỹ thuật quy định và phản ánh những thay đổi của cấu tạo kỹ thuật.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản thay đổi tùy theo mức độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Ở giai đoạn công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa, phát triển công nghiệp cơ khí, cấu tạo hữu cơ của tư bản
tăng lên rất nhanh. Nhưng hiện nay có nhiều ngành công nghiệp sản xuất ra các máy móc, thiết bị kỹ thuật
mới rẻ hơn so với các máy móc, thiết bị kỹ thuật cũ mà chính nó thay thế, hoặc đang phát triển ngành có cấu
tạo hữu cơ thấp như lĩnh vực dịch vụ. Vì vậy, hiện nay xu hướng tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản không
rỏ rệt ở một số ngành. Vấn đề này cần được nghiên cứu kỹ hơn.
15/ Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản? Tư bản cố định và tư bản lưu động?
a/ Tuần hoàn của tư bản:
Mọi tư bản sản xuất trong quá trình vận động đều qua ba giai đoạn, tồn tại dưới ba hình thức và thực hiện
ba chức năng.
Giai đoạn I, tư bản mang hình thức tiền tệ, thực hiện chức năng mua các yếu tố sản xuất, tư liệu sản xuất
và sức lao động.
Giai đoạn II, tư bản mang hình thức tư bản sản xuất, thực hiện chức năng sản xuất ra hàng hóa và tạo ra
giá trị thặng dư.
Giai đoạn III, tư bản mang hình thức tư bản hàng hóa với chức năng thực hiện giá trị và giá trị thặng dư.
Sự vận động của tư bản qua ba giai đoạn, tồn tại qua ba hình thức, thực hiện ba chức năng, rồi quay về
hình thức xuất phát của nó, gọi là tuần hoàn của tư bản.
b/ Chu chuyển của tư bản.
Nếu được xem xét như là quá trình định kỳ đổi mới diễn ra liên tục, lặp đi lặp lại, thì sự tuần hoàn của tư
bản sản xuất được gọi là chu chuyển của tư bản. Chu chuyển của tư bản nói lên tốc độ vận động của tư bản
nhanh hay chậm.
Nghiên cứu tốc độ chu chuyển của tư bản, chúng ta cần nghiên cứu thời gian chu chuyển của tư bản. Thời
gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian từ khi tư bản ứng ra dưới một hình thức nhất định đến khi nó
trở về hình thức đó nhưng có thêm giá trị thặng dư. Như vậy, để chu chuyển một vòng, tư bản phải trải qua hai
giai đoạn lưu thông và một giai đoạn sản xuất. Do đó, muốn tăng tốc chu chuyển của tư bản phải giảm bớt thời
gian lưu thông và thời gian sản xuất của nó. Muốn giảm bớt thời gian lưu thông, phải có phương tiện giao
thông vận tải tốt, đầy đủ và thuận tiện; đồng thời, các sản phẩm sản xuất ra phải có giá trị sử dụng cao, giá

thành hạ, hợp thị hiếu người tiêu dùng. Muốn giảm thời gian sản xuất phải tăng năng suất lao động, giảm thời
gian gián đoạn bằng cách ứng dụng khoa học kỹ thuật v…v…
Nghiên cứu chu chuyển của tư bản, cần hiểu được việc chu chuyển hai bộ phận giá trị của tư bản sản
xuất là tư bản cố định và tư bản lưu động.
c/ Tư bản cố định:
Là bộ phận của tư bản sản xuất (nhà xưởng, thiết bị, máy móc) tham gia toàn bộ vào quá trình sản
xuất, nhưng giá trị của nó được chuyển dần dần vào sản phẩm. Tư bản cố định sử dụng lâu dài và bị hao mòn
dần. Có hai loại hao mòn: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn về giá trị sử
dụng, do quá trình sử dụng và do tác động của tự nhiên mà bị hao mòn. Còn hao mòn vô hình là hao mòn về
giá trị do quá trình hiện đại hóa của khoa học kỹ thuật, nhiều máy móc mới được sản xuất ra tốt hơn với giá rẻ
hơn, làm cho máy móc cũ đang được sử dụng bị giảm giá trị ban đầu.
d/ Tư bản lưu động:
Là bộ phận của tư bản sản xuất (nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ…) được tiêu dùng hoàn toàn
trong một chu kỳ sản xuất và giá trị của nó được chuyển toàn bộ vào sản phẩm.
Đề cương ôn tập KTCT HKII Trang 8 Lớp HP: 08NLCB02
Đặng Lê Ngọc Hưng Lớp SH: 08XH
=> Nghiên cứu chu chuyển của tư bản là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn trong việc sử dụng tiền vồn trong
sản xuất và kinh doanh hợp lý, nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Cần tăng tốc độ chu chuyển tư bản cố định, tận
dụng tối đa công suất máy móc, thiết bị. Phải đẩy nhanh tốc độ xây dụng để đưa công trình vào sản xuất càng
sớm càng tốt.
16/ Khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa Tư bản?
Khủng hoảng kinh tế là khủng hoảng “sản xuất thừa”, biểu hiện hàng hóa sản xuất ra không tiêu thụ được.
Thừa không phải do nhu cầu xã hội mà do sức mua có hạng của quần chúng lao động.
Nguyên nhân xâu xa của khủng hoảng kinh tế là do mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản, mẫu thuẫn
giữa tính chất xã hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Biểu hiện cụ thể qua các
điểm:
- Mâu thuẫn giữa tính có tổ chức, có kế hoạch trong từng xí nghiệp với tình trạng sản xuất vô chính
phủ trong toàn xã hội.
- Mâu thuẫn giữa xu hướng mở rộng sản xuất vô hạn của chủ nghĩa tư bản với sức mua có hạn của
quần chúng lao động.

- Mâu thuẫn đối kháng giữa tư bản và lao động.
Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế: khi nghiên cứu vấn đề sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác cho
rằng khoảng 10–12 năm sẽ diễn ra 1 chu kỳ khủng hoảng kinh tế. Cuộc khủng hoảng đầu tiên trên thế giới
diễn ra ở nước Anh năm 1825, khủng hoảng đầu tiên trên phạm vi toàn thế giới diễn ra năm 1847
Một chu kỳ khủng hoảng được chia làm 4 giai đoạn:
+ Khủng hoảng.
+ Tiêu điều.
+ Phục hồi.
+ Hưng thịnh.
17/ Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận?
a/ Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa:
Nếu gọi giá trị hàng hóa là G, thì G = c + v + m. Đó chính là những chi phí lao động thực tế của xã hội để
sản xuất hàng hóa. Nhưng đối với nhà tư bản, để sản xuất hàng hóa, họ chỉ cần chi phí một lượng tư bản để
mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v). Chi phí đó gọi là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, kí hiệu là
k.
K= c + v
Vậy, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là phần giá trị bù lại giá cả của những tư liệu sản xuất và giá cả sức
lao động đã tiêu dùng để sản xuất ra hàng hóa cho nhà tư bản.
b/ Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận:
b.1/ Lợi nhuận:
Hao phí lao động thực tế của xã hội là: c + v + m. Nếu gọi G là giá trị hàng hóa thì G = c + v + m.
Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là c + v. Nếu ký hiệu chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là K thì K = c +
v và G = K + m. Khi c + v chuyển thành K thì số tiền nhà Tư bản thu được trội hơn so với chi phí sản xuất Tư
bản chủ nghĩa. Số tiền trội hơn đó được quan niệm là do toàn bộ Tư bản ứng trước (K) tạo ra và gọi là lợi
nhuận, ký hiệu là P. Ta có G = K + P.
Thực ra lợi nhuận là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư, là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá
trị thặng dư.
Nhìn bề ngoài thì P = m, cái khác nhau ở chỗ khi nói (m) là bao hàm so sánh nó với (v), còn nói (P) lại
bao hàm so sánh với (c + v). P và m thường không bằng nhau. P có thể lớn hơn hoặc bé hơn m phụ thuộc vào
quan hệ cung - cầu về hàng hóa trên thị trường quyết định.

b.2/ Tỷ suất lợi nhuận:
Tỷ suất lợi nhuận tỷ lệ phần trăm giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước, ký hiệu là P’.
%100' ×
+
=
vc
m
P
Tỷ suất lợi nhuận (P’) khác với tỷ suất giá trị thặng dư (m’).
+ Nếu xét về lượng P’ luôn nhỏ hơn m’.
Đề cương ôn tập KTCT HKII Trang 9 Lớp HP: 08NLCB02
Đặng Lê Ngọc Hưng Lớp SH: 08XH
+ Nếu xét về chất P’ nói lên cho nhà Tư bản biết kinh doanh và ngành nào có lợi hơn, còn m’ nói lên trình
độ bóc lột của Tư bản với công nhân làm thuê.
18/ Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất?:
a/ Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân:
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp tư bản kinh doanh trong các ngành sản
xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn.
Biện pháp cạnh tranh là tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác.
Kết quả là hình thành nên lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất.
Giả sử trong xã hội có 3 nhà Tư bản có số tư bản bằng nhau đều là 100, tỷ suất giá trị thặng dư đều là
100%, tư bản ứng trước đều chu chuyển hết giá trị vào sản phẩm. Nhưng do tính chất kinh tế, kỹ thuật mỗi
ngành khác nhau nên cấu tạo hữu cơ của các xí nghiệp cũng rất khác nhau. Nếu số lượng giá trị thặng dư của
xí nghiệp nào tạo ra cũng bằng lợi nhuận nó thu được thì tỷ suất lợi nhuận sẽ rất khác nhau.
Ngành
Sản
Xuất
Chi Phí
Sản Xuất
TBCN

M
(m’ = 100%)
Giá trị
Hàng Hóa
P’ ngành
(%)

'P
(%
)
P
Giá Cả
Sản Xuất
Cơ khí 80c + 20v 20 120 20% 30 30 130
Dệt 70c + 30v 30 130 30% 30 30 130
Da 60c + 40v 40 140 40% 30 30 130
Ta thấy ngành da có tỷ suất lợi nhuận cao nhất  mở rộng sản xuất  cung > cầu  giá cả giảm  tỷ
suất lợi nhuận giảm. Ngược lại, ngành cơ khí có tỷ suất lợi nhuận thấp nhất  thu hẹp sản xuất  cung < cầu
 giá cả tăng  tỷ suất lợi nhuận tăng.
Như vậy, sự tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác làm thay đổi tỷ suất lợi nhuận của
ngành và dẫn đến hình thành tỷ suất lợi nhuận ngang nhau. Đó là tỷ suất lợi nhuận bình quân (ký hiệu là
P
).
Tỷ suất lợi nhuận bình quân là “con số trung bình” của tất cả các tỷ suất lợi nhuận khác nhau hay tỷ suất
lợi nhuận bình quân là tỷ số theo phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư và tổng tư bản xã hội.
Công thức tính
P
:
'P
n

PPPP
n
''''
321
+++
=
Hay:
'P
%100×=


K
M
Trong đó: -

M
là tổng giá trị thặng dư của xã hội.
-

K
là tổng tư bản của xã hội.
Khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, có thể tính được lợi nhuận bình quân (
P
) từng ngành theo
công thức
P
= K x
'P
; trong đó K là tư bản ứng trước của từng ngành.
Lợi nhuận bình quân là lợi nhuận bằng nhau của tư bản bằng nhau đầu tư vào các ngành sản xuất khác

nhau. Nó chính là lợi nhuận mà các nhà tư bản thu được căn cứ vào tổng tư bản đầu tư, nhân với tỷ suất lợi
nhuận bình quân, không kể cấu thành hữu cơ của nó như thế nào.
Sự hình thành lợi nhuận bình quân đã làm cho quy luật giá trị thặng dư bị biến dạng đi. Lúc này quy luật
giá trị thặng dư thể hiện thành quy luật lợi nhuận bình quân.
b/ Sự hình thành giá cả sản xuất:
Trong nền sản xuất TBCN, khi tỷ suất lợi nhuận bình quân (
'P
) hình thành thì giá trị hàng hóa chuyển
hóa thành giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất là giá cả bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân.
Giá cả sản xuất = K +
P
Đề cương ôn tập KTCT HKII Trang 10 Lớp HP: 08NLCB02
Đặng Lê Ngọc Hưng Lớp SH: 08XH
Giá trị là cơ sở của giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất là phạm trù kinh tế tương đương với phạm trù giá cả.
Là cơ sở của giá cả trên thị trường. Giá cả sản xuất điều tiết giá cả thị trường, giá cả thị trường xoay quanh giá
cả sản xuất.
Khi giá trị hàng hóa chuyển hóa thành giá cả sản xuất thì quy luật giá trị có hình thức biểu hiện thành luật
giá cả sản xuất.
19/ Sự phân chia giá trị thặng dư giữa các tập đoàn tư bản?
a) Tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp
a.1/ Bản chất của tư bản thương nghiệp:
- Tư bản thương nghiệp đã xuất hiện trước chủ nghĩa tư bản gọi là tư bản thương nghiệp tiền tư bản chủ
nghĩa, đặc điểm của nó là mua rẻ bán đắt, lợi nhuận thương nghiệp là kết quả trao đổi không ngang giá.
- Đến chủ nghĩa tư bản, trong quá trình tuần hoàn của tư bản công nghiệp qua 3 giai đoạn, ta xét giai đoạn
H’- T’, tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hóa thực hiện chức năng thức hiện giá trị hàng hóa.
- Khi tái sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển quy mô lớn thì chức năng trên được chuyên môn hóa tách ra
thành ngành kinh doanh độc lập gọi là tư bản thương nghiệp.
- Nhà tư bản ứng tư bản ra thực hiện chức năng trên gọi là tư bản thương nghiệp.
 Tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp, được tách rời ra phục vụ cho quá trình
lưu thông hàng hóa. Tư bản thương nghiệp vừa độc lập, vừa tách rời, vừa phụ thuộc vào tư bản công nghiệp.

a.2/ Lợi nhuận thương nghiệp:
Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong quá trinh sản xuất mà tư bản công
nghiệp nhường cho tư bản thương nghiệp để tư bản thương nghiệp bán hàng hóa của mình, là biến tướng của
giá trị thặng dư. Nguồn gốc của nó là một bộ phận lao động không được trả công của công nhân.
Tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp phân phối giá trị thặng dư cho nhau diễn ra theo quy luật tỷ
suất lợi nhuận bình quân thông qua cạnh tranh và thông qua chênh lệch giữa giá cả sản xuất cuối cùng và giá
cả sản xuất công nghiệp.
b) Tư bản cho vay và lợi tức
b.1/ Tư bản cho vay:
- Tư bản cho vay đã xuất hiện trước chủ nghĩa tư bản gọi là tư bản cho vay cổ xưa, đặc điểm của nó là cho
vay nặng lãi.
- Đến chủ nghĩa tư bản, trong quá trình chu chuyển của tư bản công nghiệp do có sự không ăn khớp về
không gian và thời gian:
* Có nhà tư bản đã bán được hàng, có doanh thu nhưng chưa đến kỳ hạn mua nguyên liệu, trả công cho
công nhân,…có tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi nhưng là tư bản thì không ngừng lớn lên.
* Các nhà tư bản khác đã đến kỳ hạn đổi mới trang thiết bị, mở rộng sản xuất,…có nhu cầu sử dụng tư
bản của người khác và chấp nhận việc trả lãi.
Tình hình trên nảy sinh quan hệ vay mượn (quan hệ tín dụng) và tư bản nhàn rỗi đó thành tư bản cho vay.
 Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi mà người chủ sở hữu nó cho người khác vay, sử
dụng trong một thời gian nhất định nhằm thu lời.
b.2/ Lợi tức:
- Trong tay nhà tư bản hoạt động thì tư bản đi vay mang lại lợi nhuận và lợi nhuận đó cũng bằng lợi nhuận
bình quân, vì vậy lợi nhuận bình quân được chia thành 2 phần:
* Trả lợi tức.
* Thu nhập của chủ xí nghiệp.
 Lợi tức là một phần của lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản hoạt động phải trả cho nhà tư bản cho vay về
việc sử dụng tư bản đi vay (ký hiệu là Z).
b.3/ Tỷ suất lợi tức: là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền tệ cho vay trong một thời gian
nhất định, ký hiệu là Z’
Đề cương ôn tập KTCT HKII Trang 11 Lớp HP: 08NLCB02

Đặng Lê Ngọc Hưng Lớp SH: 08XH
%100' ×=
cv
K
z
Z
Trong đó: K
cv
là số tư bản cho vay.
Tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận bình quân và quan hệ cung cầu về tư bản cho vay. Giới hạn
vận động của tỷ suất lợi tức là : 0<Z’<P.
c/ Tín dụng tư bản chủ nghĩa; ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng:
c.1/ Tín dụng là hình thức vận động của tư bản cho vay dựa trên nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn cả gốc và
lãi.
- Tín dụng tư bản nó phản ánh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Hình thức của tín dụng tư bản: có 2 hình thức:
+ Tín dụng thương nghiệp: trong đó đối tượng của tín dụng là hàng hóa, hình thức là bán chịu trả góp.
+ Tín dụng ngân hàng: ngân hàng là trung gian giữa người cho vay và ngưòi đi vay.
c.2/ Tư bản ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng:
- Ngân hàng là một tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh tiền tệ.
- Tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động đứng ra xây dựng nhà băng, thuê nhân viên, thực hiện các nghiệp
vụ.
 Tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động nó tham gia vào tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận ngân
hàng = lợi nhuận bình quân = lãi cho vay – lãi tiền gửi – chi phí ngân hàng.
Nếu không thu được lợi nhuận bình quân thì di chuyển tư bản sang ngành khác và ngược lại nếu thu được
lớn hơn lợi nhuận bình quân…tuân theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân.
d) Công ty cổ phần. Tư bản giả và thị trường chứng khoán
d.1/ Công ty cổ phần: là hình thức tổ chức kinh doanh dựa trên phát hành cổ phiếu hay huy động vốn,
người mua cổ phiếu là cổ đông, cổ đông là chủ sở hữu cổ phiếu thực hiện quyền làm chủ thực sự là thu cổ tức.
d.2/ Thị trường chứng khoán:là nơi diễn ra mua bán các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu…) theo thị

giá cổ phiếu.
- Trị giá cổ phiếu không phải là số tiền ghi trên mặt cổ phiếu.
- Thị giá cổ phiếu phụ thuộc vào mức cổ tức và lãi suất hiện hành.
'Z
tucCo
G =
Trong đó: G: thị giá cổ phiếu.
Z’: lãi suất.
d.3/ Tư bản giả: là các loại giấy có giá: cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu…
Đặc biệt:
+ Có thể mua bán trao đổi, chuyển nhượng.
+ Mang lại thu nhập chủ sở hữu.
+ Giá cả vận động tách rời giá trị thật.
e) Địa tô tư bản chủ nghĩa:
e.1/ Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa:
Địa tô tư bản là lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản kinh doanh trong nông
nghiệp phải nộp cho chủ ruộng (ký hiệu R). Xét về nguồn gốc của R đó là một phần của giá trị thặng dư
nhưng khi lợi nhuận siêu ngạch chuyển hóa thành R đã xuyên tạc bản chất của nó.
e.2/ Hình thức của địa tô: hai hình thức.
* Địa tô chênh lệch: là lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản kinh doanh trong
Đề cương ôn tập KTCT HKII Trang 12 Lớp HP: 08NLCB02
Đặng Lê Ngọc Hưng Lớp SH: 08XH
nông nghiệp phải nộp cho chủ ruộng, đó là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung được quyết định bởi điều
kiện sản xuất xấu nhất với giá cả sản xuất cá biệt trên diện tích đất tốt và trung bình.
* Địa tô tuyệt đối: là số lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, hình thành nên bởi chênh
lệch giữa giá trị nông sản với giá cả sản xuất chung của nông phẩm.
e.3/ Các loại địa tô và giá cả ruộng đất:
* Các loại địa tô:
- Địa tô hầm mỏ, mức địa tô là do chất lượng, trữ lượng khoáng sản.
- Địa tô xây dựng do vị trí quyết định.

- Địa tô đất độc quyền do thỗ nhưỡng quyết định.
Do sự khan hiếm cho nên mức địa tô ngày càng tăng, giá cả ruộng đất ngày càng tăng.
* Giá cả ruộng đất: đó là địa tô tư bản hóa bởi vì nhà tư bản mua đất để cho thuê thu địa tô thì tiền mua
đất đó cung là tư bản.
- Giá cả ruộng đất là mức địa tô hàng năm, giá cả ruộng đất tỷ lệ thuận với địa tô và tỷ lêh nghịch với lãi
suất hàng hóa.
'Z
R
G =
20/ Đặc điểm kinh tế cơ bản của CNTB độc quyền?
Có thể khái quát một số đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền như sau:
a/ Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền:
- Cuối thế kỷ 19, tập trung sản xuất diễn ra đặc biệt nhanh chóng. Do 3 nguyên nhân:
+ Quá trình tích tụ, tập trung tư bản.
+ Cơ cấu kinh tế có sự thay đổi dưới tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật.
+ Khủng hoảng kinh tế.
 Đẩy nhanh quá trình tập trung sản xuất.
- Tập trung sản xuất phát triển đến 1 trình độ nhất định, theo Lênin, sẽ tự phát dẫn thẳng đến độc
quyền.
+ Độc quyền là dựa trên 1 ưu thế nào đó về kinh tế thu được lợi nhuận siêu ngạch tương đối ổn định
và lâu dài.
+ Tổ chức độc quyền là liên minh giữa các nhà tư bản lớn, khống chế được sản xuất và tiêu thụ hàng
hóa của 1 ngành hay 1 số ngành, quy định được giá cả độc quyền và thu được lợi nhuận độc quyền cao.
+ Các hình thức của tổ chức độc quyền: Các-ten, Xanh-đi-ca, Tờ-rớt, Công-xooc-xi-om, Công-gơ-lô-
mê-rát.
b/ Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính:
Quy luật tích tụ và tập trung tư bản cũng hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng  sự ra đời của các tư bản
độc quyền ngân hàng.
 Vai trò của ngân hàng có sự thay đổi: từ chỗ là người trung gian đơn thuần trong việc cho vay và giờ
đây trở thành trung tâm thần kinh của nền kinh tế quốc dân.

Do đó, tư bản độc quyền ngân hàng tìm cách thâm nhập vào công nghiệp, trở thành người cùng chiếm hữu
các doanh nghiệp công nghiệp.
Tư bản độc quyền công nghiệp tìm cách thâm nhập vào ngân hàng, trở thành người cùng chiếm hữu ngân
hàng.
Tư bản độc quyền ngân hàng và tư bản độc quyền công nghiệp thâm nhập vào nhau, dung hợp với nhau
đến lúc không phân rõ ranh giới  Tư bản tài chính ra đời và trở thành lực lượng thống trị nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa.
Trên cơ sở tư bản tài chính hình thành nên các tập đoàn tư bản tài chính (các tỷ phú) chi phối và thống trị
đời sống kinh tế và chính trị của xã hội tư bản.
Thực hiện sự thống trị bằng “chế độ tham dự” thông qua việc nắm lấy số cổ phiếu khống chế để chi phối
công ty mẹ, bằng cách đó chi phối các công ty con…
 Thâu tóm nền kinh tế trong tay.
Đề cương ôn tập KTCT HKII Trang 13 Lớp HP: 08NLCB02
Đặng Lê Ngọc Hưng Lớp SH: 08XH
 Thống trị về kinh tế.
c/ Xuất khẩu tư bản:
Xuất khẩu giá trị ra nước ngoài nhằm sản xuất ra giá trị thặng dư ở đó. Có 2 hình thức:
- Đầu tư trực tiếp: xuất khẩu tư bản để xây dựng xí nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang
hoạt động; thầu việc hải cảng, đường xá…ở nước ngoài (xuất khẩu tư bản sản xuất hay tư bản kinh doanh).
- Đầu tư gián tiếp: xuất khẩu tư bản cho nhà nước hay cho tư nhân nước ngoài vay (xuất khẩu tư bản
vay).
Theo Marx: xuất khẩu tư bản là xuất khẩu quan hệ sản xuất TBCN ra ngoài, là công cụ chủ yếu để
bành trướng sự thống trị của TB tài chính ra toàn thế giới.
Sau chiến tranh, xuất khẩu tư bản vẫn là cơ sở của độc quyền quốc tế nhưng quy mô, chiều hướng và
kết cấu của xuất khẩu tư bản đã có bước phát triển mới.
Xuất khẩu tư bản là vũ khí đấu tranh chủ yếu giữa các tổ chức độc quyền nhằm tranh giành thị trường và
phạm vi ảnh hưởng.
Theo Lênin: “ theo nghĩa bóng thì các nước xuất khẩu tư bản là chia nhau thế giới”.
d/ Sự phân chia thế giới giữa các liên minh độc quyền quốc tế:
Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là nền sản xuất hàng hóa lớn, vì vậy thị trường là điều kiện sống còn; quy

mô sản xuất càng mở rộng, tiềm lực kinh tế càng lớn thì nhu cầu thị trường ngày càng gay gắt.
Do cạnh tranh giành giật thị trường nên sẽ dẫn đến sự thỏa hiệp, hình thành nên các tổ chức độc quyền
quốc tế để phân chia thị trường, có tác động rất lớn đến tình hình kinh tế và chính trị thế giới.
e/ Sự phân chia lãnh thổ thế giới giữa các cường quốc:
+ Do quy luật phát triển không đều về kinh tế và chính trị;
+ Để bảo vệ quyền lợi và đảm bảo thị trường tiêu thụ một cách chắc chắn;
+ Để có được nơi đầu tư có lợi, hoặc vì nhiều mục tiêu khác mà các nước đế quốc tiến hành việc xâm
chiếm thuộc địa, đặt ách cai trị của mình ở đó.
+ Do thế giới đã được phân chia xong giữa các nước tư bản già cỗi, nên việc tiến hành xâm chiếm thuộc
địa của các nước tư bản trẻ thực chất là cuộc chiến tranh giành thuộc địa giữa các nước đế quốc – gây nên
chiến tranh thế giới, hình thành nên mâu thuẫn ở các trung tâm lớn.
 Từ 5 đặc điểm trên có thể rút ra kết luận rằng: chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế là sự thống trị của chủ
nghĩa tư bản độc quyền; về mặt chính trị là sự xâm lược nước ngoài, là hệ thống thuộc địa nảy sinh tư yêu cầu
kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
21/ Sự hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn CNTB độc quyền?
Quy luật giá trị là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hóa trong giai đoạn tự do cạnh tranh của tư bản chủ
nghĩa, quy luật này được biểu hiện dưới hình thức giá cả độc quyền:
Giá cả độc quyền = chi phí sản xuất + lợi nhuận độc quyền cao.
Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn tự do cạnh tranh.
Quy luật này biểu hiện dưới hình thức quy luật lợi nhuận bình quân. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc
quyền, nó được biểu hiện dưới hình thức tư bản độc quyền cao:
Lợi nhuận độc quyền cao = lợi nhuận bình quân + lợi nhuận siêu ngạch.
22/ Xây dựng nhà nước XHCN và nền dân chủ XHCN?
a/ Xây dựng nhà nước XHCN:
a.1/ Khái niệm: Nhà nước XHCN là tổ chức mà thông qua đó Đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai
trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội, là một tổ chức chính trị thuộc kiến trúc độc quyền dựa trên cơ sở
kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Đó là một nhà nước kiểu mới thay thế nhà nước tư sản nhờ kết quả của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Là hình thức chuyên chính vô sản được thực hiện trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Với khái niệm trên ta thấy nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực vừa là bộ mày hành chính,

vừa là tổ chức quản lý kinh tế - văn hóa – xã hội của nhân dân, được thể hiện tập trung qua 2 chức năng chủ
yếu đó là chức năng thống trị giai cấp và chức năng xây dựng.
a.2/ Đặc trưng, chức năng và nhiệm vụ của nhà nước XHCN:
* Đặc trưng:
- Quản lý dân cư trên 1 vùng lãnh thổ nhất định.
Đề cương ôn tập KTCT HKII Trang 14 Lớp HP: 08NLCB02
Đặng Lê Ngọc Hưng Lớp SH: 08XH
- Có 1 hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế với mọi thành viên
trong xã hội.
- Hình thành hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy nhà nước.
Ngoài 3 đặc trưng trên, do bản chất của nhà nước XHCN vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa
có tinh thần nhân dân rộng rải và tính dân tộc sâu sắc, do đó nhà nước XHCN có những đặc trưng riêng.
- Nhà nước XHCN không phải là công cụ đàn áp 1 giai cấp nào đó. Nhà nước thực hiện 1 chính
sách giai cấp vì lợi ích của tất cả những người lao động đồng thời lãnh đạo giai cấp công nhân thông qua chính
đảng của nó.
- Nhà nước XHCN có đặc trưng khác hẳn nhà nước tư sản, cũng là công cụ chuyên chính giai cấp
nhưng vì lợi ích của tất cả người lao động. Tất cả giai cấp công nhân nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện
chấn áp đối với những kẻ phá hoại nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực và chấn áp, C.Mác khẳng định xây dựng xã hội là
đặc trưng cơ bản của nhà nước XHCN.
- Nhà nước XHCN nằm trong nền dân chủ XHCN, do đó nó ngày càng được hoàn thiện, các hình
thức đại diện nhân dân mở rộng dân chủ nhằm lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý
xã hội.
- Nhà nước XHCN là 1 kiểu nhà nước đặc biệt, là “nữa nhà nước”.
* Chức năng:
- Chức năng tổ chức thực hiện nhằm xây dựng toàn diện xã hội mới.
- Chức năng bạo lực nhằm đập tan sự phản kháng của kẻ thù, chống lại sự âm mưu của kẻ thù, bảo
vệ độc lập chủ quyền và an ninh xã hội.
Hai chức năng trên, nhà nước XHCN có chính là quản lý kinh tế, xây dựng và phát triển kinh tế, cải
thiện không ngừng đời sống vật chất, tinh thần nhân dân, quản lý văn hóa – xã hội, xây dựng nền văn hóa

XHCN, thực hiện giáo dục con người phát triển toàn diện, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Ngoài ra, nhà nước
XHCN còn có chức năng nhiệm vụ đối ngoại nhằm mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị bình đẳng vì sự tiến bộ
xã hội đối với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
b/ Xây dựng nền dân chủ XHCN:
b.1/ Quan niệm về dân chủ và nền dân chủ:
Dân chủ và thực hiện dân chủ là nhu cầu khách quan của con người ngay từ xã hội công xã nguyên thủy
để duy trì sự tồn tại của mình, con người đã tự tổ chức những hoạt động có tính cộng đồng như việc cử ra
nhưng người đứng đầu các cộng đồng và phế bỏ những người đứng đầu nếu không có thực thi đụng những
quy định chung, đây được coi là hình thức dân chủ sơ khai chất phát của những tổ chức cộng đồng tự quản
trong xã hội chưa có giai cập.
Trong ngôn ngữ Hi Lạp cổ đại, khái niệm dân chủ được hiểu là “cử ra và phế bỏ người đứng đầu”. Đó là
quyền và sức lực nhân dân.
Như vậy, ngay từ buổi đầu sơ khai, dân chủ được hiểu với tư cách là quyền lực của nhân dân.
Khi xã hội chiếm hữu nô lệ xuất hiện, nền dân chủ tự quản sơ khai trước đây không còn phù hợp.
Trong điều kiện đó, 1 tổ chức đặc biệt xuất hiện đó là nhà nước. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, nhà nước của
giai cấp chủ nô là cơ quan quyền lực nhằm bảo vệ lợi ích của mình, thống trị đại đa số người lao động là nô lệ.
Như vậy, nhà nước dân chủ đối với chủ nô nhưng lại là thống trị đối với đại đa số người lao động. Cho
nên từ thế kỉ VIII trước công nguyên, với nhà nước đầu tiên trong lịch sử, giai cấp chủ nô đã dùng pháp luật
vào bộ máy thống trị của mình để chiếm quyền lực của đông đảo quần chúng lao động đó là nô lệ.
Trong hàng ngàn năm lịch sử, giai cấp phong kiến và giai cấp tư sản kế tiếp đã bằng mọi cách tiếp tục
chiếm đoạt quyền lực của nhân dân. Cách mạng tháng 10 – 1927 thành công mở ra thời đại: mới lần đầu tiên
trong lịch sử người dân lao động đã giành lại quyền lực thực sự của mình.
 Từ thực tiễn trên, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mac cho rằng: về cơ bản, sự phát triển dân chủ bao
gồm đặc điểm cơ bản sau:
- Thứ 1: dân chủ là sản phẩm tiến hóa của lịch sử, là nhu cầu khách quan của con người.
- Thứ 2: dân chủ với tư cách là một phạm trù chính trị gắn với 1 kiểu nhà nước và 1 giai cấp cầm
quyền thì sẽ không có dân chủ phi giai cấp, dân chủ chung chung.
- Thứ 3: dân chủ còn được hiểu với tư cách là 1 hệ giá trị phản ánh trình độ phát triển cá nhân và
cộng đồng xã hội trong quá trình giải phóng xã hội chống áp bức bóc lột và nô dịch, tiến tới tự do bình đẳng.
Đề cương ôn tập KTCT HKII Trang 15 Lớp HP: 08NLCB02

Đặng Lê Ngọc Hưng Lớp SH: 08XH
Trong xã hội có giai cấp quyền lực của nhân dân được thể chế hóa bằng chế độ của nhà nước. Pháp
luật từ khi có giai cấp dân chủ được thể hiện dưới hình thức khác, đó là hình thức nhà nước được gọi là chỉnh
thể dân chủ hay “nền dân chủ”. Nền dân chủ hay chế độ dân chủ là hình thái dân chủ mang đủ hình thức nhà
nước, là hình thức xác định trong điều kiện cụ thể của xã hội có giai cấp. Nền dân chủ do giai cấp thống trị tạo
ra được thể chế hóa bằng luật pháp.
Như vậy, xã hội loài người trải qua các nền dân chủ: chủ nô, phong kiến, tư sản, và sau cách mạng
tháng 10 là một nền dân chủ mới ra đời: nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
b.2/ Đặc trưng cơ bản của nền dân chủ XHCN:
- Thứ 1: với tư cách là chế độ nhà nước được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng Sản. Dân chủ XHCN đảm bảo mọi quyền lực thuộc về nhân dân, nhà nước XHCN là thiết
chế chủ yếu thực thi dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua chính đảng của nó.
- Thứ 2: nền dân chủ XHCN có cơ sở kinh tế là công hữu và tư liệu sản xuất của XHCN.
- Thứ 3: trên cơ sở sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn XH, nền dân
chủ XHCN có sức động viên thu hút mọi tiềm năng sáng tạo tích cực của nhân dân về xây dựng xã hội mới.
- Thứ 4: nền dân chủ XHCN cần có và phải có những điều kiện tồn tại với tư cách là nền dân chủ rộng
rải nhất trong lịch sử, nhưng vẫn là nền dân chủ mang tính giai cấp.
23/ Xây dựng nền văn hóa XHCN?
1/ Khái niệm nền văn hóa XHCN:
a/ Khái niệm văn hóa, nền văn hóa:
Văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và thực tiễn
trong quá trình lịch sử của mình.
Văn hóa theo nghĩa rộng bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
- Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật
chất.
Văn hóa theo nghĩa hẹp được hiểu chủ yếu là văn hóa tinh thần.
- Văn hóa tinh thần là tổng thể các tư tưởng lý luận, giá trị sáng tạo tinh thần và hoạt động tinh thần
con người. Như vậy, nói văn hóa là nói tới con người, là nói việc phát triển bản chất năng lực con người nhằm
hoàn thiện con người, xã hội, do đó văn hóa là trong con người dù trong hoạt động kinh tế chính trị hay trong
tư tưởng.

Nền văn hóa là biểu hiện cho toàn bộ nội dung tinh thần của văn hóa được hình thành và phát triển
trên cơ sở kinh tế chính trị của mỗi thời kì lịch sử, trong đó ý thức hệ của giai cấp thống trị chi phối phương
hướng phát triển và quy định các chính sách, pháp luật, quản lý các hoạt động văn hóa.
b/ Khái niệm và đặc trưng nền văn hóa XHCN
b.1/ Khái niệm nền văn hóa XHCN: là sự phát triển tự nhiên hợp quy luật khi phương thức sản xuất
TBCN bị lỗi thời và phương thức sản xuất mới (sản xuất XHCN) đã hình thành.
b.2/ Đặc trưng nền văn hóa XHCN:
- Chủ nghĩa Mác Lênin với tư cách là hệ tư tưởng giai cấp công nhân, giữ vai trò chủ đạo là nền tảng
tư tưởng quyết định phát triển nội dung của nền văn hóa XHCN.
- Nền văn hóa XHCN là nền văn hóa có tính nhân dân rộng rải và tính dân tộc sâu sắc. Đặc trưng này
thể hiện mục đích và động lực nội tại quá trình xây dựng nền văn hóa XHCN.
- Nền văn hóa XHCN là nền văn hóa được hình thành và phát triển tự giác đặc dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng Sản, có sự quản lý của nhà nước XHCN.
2/ Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hóa XHCN:
- Tính triệt để toàn diện của cách mạng XHCN đòi hỏi phải thay đổi phương thức sản xuất tinh thần,
làm cho phương thức sản xuất tinh thần phù hợp với phương thức sản xuất mới của xã hội XHCN.
- Xây dựng nền văn hóa XHCN là tất yếu trong quá trình cải tạo tâm lý ý thức và đời sống tinh thần
của chế độ cũ để lại nhằm giải phóng nhân dân lao động thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng ý thức lạc hậu.
- Xây dựng nền văn hóa XHCN là tất yếu trong quá trình nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân lao
động, khắc phục tình trạng thiếu hụt văn hóa. Đây là điều kiện cần thiết để đông đảo nhân dân lao động chiến
thắng sự nghèo nàng, nâng cao văn hóa cho nhân dân.
- Xây dựng nền văn hóa XHCN là tất yếu suất phát từ khách quan. Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Đề cương ôn tập KTCT HKII Trang 16 Lớp HP: 08NLCB02
Đặng Lê Ngọc Hưng Lớp SH: 08XH
24/ Giải quyết vấn đề dân tộc và tôn giáo?
a/ Vấn đề dân tốc:
a.1/ Khái niệm và những đặc trưng cơ bản của dân tộc:
+ Khái niệm: dân tộc là hình thức tổ chức cộng đồng người có tính chất ổn định, được hình thành trong
lịch sử, là sản phẩm của quá trình lịch sử lâu dài của xã hội.

Khái niệm dân tộc được thể hiện trong 2 nghĩa:
- Theo nghĩa hẹp: đó là một cộng đồng tộc người cùng chung sống trên 1 lãnh thổ, có chung 1 hình thái
kinh tế - xã hội, chung ngôn ngữ, lịch sử - nguồn gốc, nền văn hóa tâm lý, tính cách (thường được gọi là tộc
người – như: dân tộc Thái, dân tộc Tày…)
- Theo nghĩa rộng: đó là một cộng đồng người rộng lớn (có thể bao gồm nhiều tộc người) cùng sinh
sống trong 1 quốc gia, như dân tộc Việt Nam, dân tộc Đức….
 Như vậy, dân tộc là một bộ phận quốc gia, là cộng đồng xã hội theo nghĩa là các tộc người. Theo nghĩa 2,
dân tộc là toàn bộ nhân dân 1 nước, là 1 quốc gia dân tộc.
+ Những đặc trưng cơ bản của dân tộc:
- Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc. Các
mối quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộ phận, các thành viên của dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc của
cộng đồng dân tộc.
- Có thể cư trú tập trung trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia, hoặc cư trú đan xen với nhiều dân
tộc anh em. Vận mệnh dân tộc một phần rất quan trọng gắn với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ đất nước.
- Có ngôn ngữ riêng và có thể có chữ viết riêng (trên cơ sở ngôn ngữ chung của quốc gia) làm công
cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, tình cảm…
- Có nét tâm lý riêng (nét tâm lý dân tộc) biểu hiện kết tinh trong nền văn hóa dân tộc và tạo nên
bản sắc riêng của nền văn hóa dân tộc, gắn bó với nền văn hóa của cả cộng đồng các dân tộc (quốc gia dân
tộc).
 Như vậy, cộng đồng người ổn định chỉ trở thành dân tộc khi có đủ các đặc trưng trên, các đặc trưng của dân
tộc là một chỉnh thể gắn bó chặt chẽ với nhau, đồng thời mỗi đặc trưng có một vị trí xác định. Sự tổng hợp các
đặc trưng nêu trên làm cho các cộng đồng dân tộc được đề cập ở đây - về thực chất là một cộng đồng xã hội -
tộc người, trong đó những nhân tố tộc người đan kết, hòa quyện vào các nhân tố xã hội.
a.2/ Hai xu hướng phát triển dân tộc:
- Xu hướng thứ nhất: do sự thức tỉnh, sự trưởng thành của ý thức dân tộc mà các cộng đồng dân cư muốn
tách ra để xác lập các cộng đồng dân tộc độc lập.
- Xu hướng thứ hai: các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên
hiệp lại với nhau.
a.3/ Giải quyết vấn đề dân tộc:
Dân tộc ra đời trên cơ sở phát triển của những cộng đồng nguyên thủy như thị tộc, bộ lạc…Tuy nhiên, sự

hình thành dân tộc ở các vùng khác nhau là khác nhau - chẳng hạn, ở châu Âu khác ở châu Á…
Trong các thời kì lịch sử, vấn đề dân tộc và giai cấp luôn có mối quan hệ hữu cơ với nhau, do đó các vấn
đề chính trị trong 1 dân tộc, quốc gia đều phục vụ lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Vấn đề dân tộc hiện nay đang trở thành vấn đề quốc tế mang tính thời sự sâu sắc, chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại đoàn kết dân tộc, chúng thường xuyên kích động, chia rẽ,
gây rối và can thiệp.
 Để giải quyết những vấn đề này, trong tác phẩm về quyền dân tộc tự quyết, V.I Lênin đã nêu rõ: “Các
dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại”.
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ
giữa các dân tộc. Nghĩa là: các dân tộc dù lớn hay nhỏ (kể cả bộ tộc và chủng tộc) không phân biệt trình độ
phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau; không một dân tộc nào được giữ đặc quyền
đặc lợi và có quyền đi áp bức bóc lột dân tộc khác, thể hiện trong luật pháo của mỗi nước và luật pháp quốc tế.
- Các dân tộc được quyền tự quyết: nghĩa là các dân tộc được quyền làm chủ đối với vận mệnh của
dân tộc mình, quyền tự quyết chế độ chính trị - xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc: là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của các đảng
cộng sản; nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Nó bảo đảm cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
Đề cương ôn tập KTCT HKII Trang 17 Lớp HP: 08NLCB02
Đặng Lê Ngọc Hưng Lớp SH: 08XH
b/ Vấn đề tôn giáo:
b.1/ Nguồn gốc, bản chất và tính chất của tôn giáo:
+ Nguồn gốc của tôn giáo:
- Nguồn gốc kinh tế xã hội:
o Sự bất lực của con người trước các thế lực tự nhiên, hình thái kinh tế xã hội cộng sản
nguyên thủy ra đời trên nền sản xuất hết sức thấp kém, do lực lượng sản xuất thấp kém, giới tự nhiên kì bí,
bao quanh họ, đe dọa cuộc sống của họ. Những thiên tai bất thần như: mưa, bão, hạn hán, động đất, núi lửa,
thú dữ, bệnh tật…xãy ra triền miên. Họ đã thần thánh hóa sức mạnh của tự nhiên và sau đó lại cầu xin sự che
chở, cứu giúp của những sức mạnh đã được thần thánh hóa đó. Đó là nguồn gốc xâu xa của tôn giáo.
o Sự bất lực của con người trước các thế lực xã hội: về sau trong xã hội có giai cáp thì lực
lượng mang tính xã hội luôn thống trị cuộc sống hàng ngày của quần chúng nhân dân. Bế tắc trong đời sống

hiện thực, con nguời tìm sự giải thoát trong đời sống tinh thần, họ tìm đến tôn giáo. Trong xã hội có giai cấp,
sự áp bức bóc lột, sự tàn bạo bất công, chiến tranh, đói khổ cũng là nguyên nhân xã hội làm nảy sinh tôn giáo.
- Nguồn gốc nhận thức:
o Con người nhận thức về thế giới bên ngoài và tự nhận thức về chính mình, song khả năng
nhận thức của 1 con người, 1 thế hệ, 1 thời đại là có hạn. Khi không hiểu biết hết các hiện tượng tự nhiên và
xã hội, con người dễ đi đến với tôn giáo.
o Trong xã hội hiện đại còn biết bao điều bí ẩn đối với con người, nhiều hiện tượng diễn ra
nhưng con người chưa lý giải nỗi. Đó chính là điều kiện thuận lợi cho sự phục hồi, tái tạo và nảy sinh ý thức
tôn giáo.
- Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo:
o Những trạng thái tâm lý mang tính tiêu cực như: cô đơn, bất hạnh, đau khổ, nỗi kinh hoàng
sợ hãi, sự chán chường dễ dẫn con người đến với tôn giáo.
o Những trạng thái tâm lý tích cực như sự hân hoan, vui sướng, mãn nguyện, sự thăng hoa,
lòng kính trọng, tự hào….1 cách thái quá đôi khi cũng có thể là 1 trong những nguyên nhân dẫn con người đến
với tôn giáo.
o Ngoài ra, các yếu tố như thói quen, truyền thống, phong tục tập quán cũng là những
nguyên nhân tâm lý dẫn đến sự hình thành và phát triển tình cảm và niềm tin của tôn giáo.
+ Bản chất của tôn giáo:
- Tôn giáo mang bản chất xã hội, tôn giáo không phải là cái tự có mà là sản phẩm của con người xã
hội, cũng tức là phương thức tồn tại của con người. Tôn giáo là sự phản ánh xã hội con người vào trong ý thức
của con người. Song sự phản ánh đó chỉ là 1 sự phản ánh phi lý tính, hoang đường, bóp méo hiện thực, để rồi
sau đó lấy cái phi lý, hoang đường làm chuẩn mực để giải thích hoặc chi phối hiện thực của con người. Không
phải con người cá nhân riêng lẻ, mà là con người xã hội đã sinh ra tôn giáo, do đó tôn giáo là 1 hiện tượng xã
hội.
- Tôn giáo về bản chất không phải là sản phẩm của thần thánh, là sản phẩm của siêu nhiên, thần bí
mà là sản phẩm của xã hội. Tôn giáo là 1 hiện tượng lịch sử, 1 sản phẩm của thời đại lịch sử nhất định. Các
mác cho rằng: “không phải tôn giáo sáng tạo ra con người mà chính con người sáng tạo ra tôn giáo”.
+ Tính chất của tôn giáo:
- Tính lịch sử: tôn giáo là 1 phạm trù lịch sử, vì tôn giáo không xuất hiện cùng với con người mà nó
chỉ xuất hiện trong tư duy trừu tượng của con người, tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng thời kì lịch

sử, tôn giáo có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị, xã hội của thời đại đó.
- Tính quần chúng: tính quần chúng của tôn giáo không chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ mà còn thể
hiện ở chỗ các tôn giáo là nơi sinh hoạt văn hóa, tinh thần của 1 số bộ phận quần chúng nhân dân lao động.
Bởi vì tôn giáo thường có tính nhân văn, nhân đạo và hướng thiện.
b.2/ Giải quyết vấn đề tôn giáo:
Theo quan điểm Mác – Lênin thì giải quyết vấn đề tôn giáo mang ý nghĩa giải phóng con người vì tôn
giáo là hành phúc hư ảo của con người, giải quyết vấn đề tôn giáo là vì hạnh phúc thực sự của con người.
Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề nhạy cảm và phức tạp, vì vậy giải quyết vấn đề tôn giáo trong CNXH
cần phải hết sức thận trọng, tỉ mỉ và chuẩn xác, phải có những quan điểm chỉ đạo đúng đắn. Đó là:
- Khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội, phải gắn liền với quá
trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng CNXH.
Đề cương ôn tập KTCT HKII Trang 18 Lớp HP: 08NLCB02
Đặng Lê Ngọc Hưng Lớp SH: 08XH
- Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của công dân.
- Đoàn kết giữa những người theo hoặc không theo tôn giáo, đoàn kết giữa những người theo tôn
giáo khác, đoàn kết dân tộc để xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Cần phân biệt 2 mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo.
- Phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Đề cương ôn tập KTCT HKII Trang 19 Lớp HP: 08NLCB02

×