Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tiểu luận phân tích chính sách thuế Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.86 KB, 34 trang )

Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
I.TỔNG QUAN VỀ THUẾ XUẤT, NHẬP KHẨU
a.Nguồn gốc và khái niệm thuế xuất, nhập khẩu:
Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển dẫn đến các quan hệ mua bán trao đổi
hàng hoá giữa các quốc gia diễn ra ngày càng tăng. Mỗi một quốc gia độc lập có chủ
quyền đều sử dụng một loại thuế thu vào hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa
khẩu, biên giới nước mình. Thuế này được gọi chung là thuế quan (Custom duty).
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới phát triển theo xu hướng quốc tế hóa thì pháp
luật của các nước về thuế quan ngày càng có xu thế hội nhập với các quốc gia trong
khu vực và trên phạm vi toàn thế giới.
Tại Việt Nam, thuế xuất, nhập khẩu được ban hành vào năm 1951, thời điểm này
thuế xuất, nhập khẩu là công cụ để nhà nước thực hiện chức năng quản lý việc xuất
khẩu, nhập khẩu hàng hoá giữa vùng tự do và vùng bị tạm chiếm, bảo vệ và phát
triển kinh tế vùng tự do, xúc tiến việc giao lưu các loại hàng hoá là nhu yếu phẩm
cần thiết cho quân đội và nhân dân. Phương châm đấu tranh kinh tế với địch là đẩy
mạnh xuất khẩu, tranh thủ nhập khẩu các loại hàng hoá cần thiết cho kháng chiến,
sản xuất và đời sống nhân dân. Do đó, nhà nước miễn thuế xuất khẩu cho tất cả các
loại hàng hoá của vùng tự do. Mặt khác, hạn chế nhập khẩu hàng hoá từ vùng địch.
Thuế suất áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu là từ 30 % trở lên.
Luật thuế xuất, nhập khẩu hàng mậu dịch được Quốc hội nước ta ban hành ngày
29 -12 -1987. Ðạo luật này chỉ điều chỉnh quan hệ thu nộp thuế phát sinh từ hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu hàng mậu dịch. Do đó có sự phân biệt trong áp dụng chế
độ thu thuế giữa hàng hoá mậu dịch với các loại hàng hoá phi mậu dịch khác.
Luật thuế xuất, nhập khẩu hiện hành sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế
xuất, nhập khẩu đã được Quốc hội thông qua ngày 26 -12-1991 và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhậpkhẩu đã được Quốc hội thông
qua ngày 5 -7- 1993. Luật này được Quốc hội thông qua ngày 20 -5 1998 và có hiệu
lực thi hành từ ngày 1 -1- 1999. Mới đây nhất Quốc hội thông qua luật thuế xuất
khẩu, nhập khẩu ngày 14 – 6 – 2005. Luật thuế xuất, nhập khẩu hiện hành có phạm
vi điều chỉnh rộng. Theo đó, Nhà nước thu thuế xuất, nhập khẩu không phân biệt tính
chất hàng hoá là xuất khẩu, nhập khẩu mậu dịch hay phi mậu dịch.


Nhóm 8 – K22 Trang 1
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
Ðối tượng điều chỉnh của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu là quan hệ thu nộp thuế
xuất, nhập khẩu giữa nhà nước với các tổ chức và cá nhân có hàng hoá được phép
xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam, kể cả hàng hoá từ thị trường
trong nước đưa vào khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa ra thị trường trong nước.
Theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu thì thuế xuất, nhập khẩu đối
với hàng hoá mậu dịch mang tính chất gián thu. Còn đối với các loại hàng hoá khác
thì tùy theo từng trường hợp mà thuế xuất, nhập khẩu có tính chất gián thu hoặc tính
chất trực thu.
Tóm lại: Thuế xuất nhập khẩu hay thuế quan (custom duty) là một biện pháp tài
chính mà các nước dùng để can thiệp vào hoạt động ngoại thương. Thực chất đây là
một loại thuế gián thu đánh vào hàng hoá được phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu qua
biên giới.
b. Phân loại thuế quan :
Người ta phân loại thuế quan theo nhiều tiêu thức khác nhau:
+ Theo mục đích đánh thuế:
• Thuế quan tăng thu ngân sách (hay còn gọi là thuế quan tài chính): Là
một tập hợp các mức thuế suất được đưa ra mà mục đích chính là làm tăng nguồn thu
cho ngân sách nhà nước, còn mục đích bảo hộ cho sản xuất trong nước chỉ là thứ
yếu. Chẳng hạn thuế quan mà một quốc gia không trồng cũng như không chế biến cà
phê đánh vào cà phê nhập khẩu có mục đích chủ yếu là tăng thu cho ngân sách.
• Thuế quan bảo hộ: Được đưa ra với mục đích làm tăng giá một cách nhân
tạo đối với hàng hóa nhập khẩu nhằm bảo hộ cho sản xuất trong nước trước sự cạnh
tranh từ nước ngoài. Ví dụ: một thuế suất 20% trên giá trị máy móc nhập khẩu với
giá nhập khẩu của chiếc máy là 2.000.000 VNĐ sẽ cho giá trị của nó sau thuế là
2.400.000 VNĐ. Giả sử không có khoản thuế nào khác nữa thì các nhà nhập khẩu
phải bán chiếc máy này ít nhất phải ở mức giá trên 2.400.000 VNĐ để đảm bảo có
lãi. Khi không có thuế nhập khẩu thì các nhà sản xuất trong nước nếu muốn bán được
mặt hàng tương tự chỉ có thể tính giá ở mức khoảng 2.000.000 VNĐ cộng với một

lợi nhuận hợp lý; nhưng do nhà nước đã áp thuế nhập khẩu đối với máy móc nhập
Nhóm 8 – K22 Trang 2
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
khẩu nên họ hiện nay có thể tính giá ở mức cao hơn, có thể ở ngưỡng như giá bán ra
của hàng nhập khẩu (sau khi chịu thuế) và như vậy họ sẽ có khả năng thu được nhiều
lợi nhuận hơn cũng như ổn định hơn về mặt tài chính.
• Thuế quan cấm đoán: Là thuế quan đưa ra với thuế suất rất cao, gần như
không còn nhà nhập khẩu nào dám nhập mặt hàng đó nữa.
• Thuế quan đàm phán thương mại: loại thuế quan này thường được ấn định
trên giới hạn cần thiết để bảo hộ nền sản xuât trong nước, đồng thời là phương tiện
dùng để đạt được những kết quả nhất định trong đàm phán với những bên tham gia.
+ Thuế quan theo xu hướng vận động của hàng hoá
• Thuế xuất khẩu: là loại thuế đánh vào những mặt hàng mà Nhà nước muốn
hạn chế xuất khẩu. Nhằm bình ổn giá một số mặt hàng trong nước, hoặc có thể
nhằm bảo vệ nguồn cung trong nước của một số mặt hàng, hoặc có thể nhằm hạn
chế xuất khẩu để giảm xung đột thương mại với nước khác, hoặc có thể nhằm nâng
giá mặt hàng nào đó trên thị trường quốc tế (đối với nước chiếm tỷ trọng chi phối
trong sản xuất mặt hàng đó) việc hạn chế xuất khẩu có thể được Nhà nước cân nhắc.
Trong các biện pháp hạn chế xuất khẩu, thuế xuất khẩu là biện pháp tương đối dễ áp
dụng. Ngoài ra, Nhà nước cũng có thể sử dụng thuế xuất khẩu như một biện pháp để
phân phối lại thu nhập, tăng thu ngân sách. Ví dụ về thuế xuất khẩu là thuế đánh vào
phân bón xuất khẩu của Trung Quốc nhằm đảm bảo cân đối cung - cầu về phân
bón trong nước, thuế đánh vào một số nguyên liệu thô của Việt Nam nhằm đảm bảo
nguồn cung nguyên liệu cho sản xuất nội địa. Xu hướng chung trên thế giới hiện nay
là để thuế xuất thuế xuất khẩu thấp để hỗ trợ cho việc xuất khẩu hàng hoá. Đối với
các nước đang phát triển, nhằm khuyến khích việc xuất khẩu sản phẩm hoàn thành,
các nước thường quy định mức thuế xuất khá cao đối với nguyên, nhiên vật liệu xuất
khẩu.
• Thuế nhập khẩu: đánh vào hàng hoá nhập khẩu. ở mức độ khác nhau, các
nước đều sử dụng loại thuế quan này vào mục đích: Chống lại các hành vi phá

giá bằng cách tăng giá hàng nhập khẩu của mặt hàng phá giá lên tới mức giá chung
của thị trường. Trả đũa trước các hành vi dựng hàng rào thuế quan do quốc gia
Nhóm 8 – K22 Trang 3
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
khác đánh thuế đối với hàng hóa xuất khẩu của mình, nhất là trong các cuộc chiến
tranh thương mại. Bảo hộ cho các lĩnh vực sản xuất then chốt, chẳng hạn nông
nghiệp giống như các chính sách về thuế quan của Liên minh châu Âu đã thực
hiện trong Chính sách nông nghiệp chung của họ. Bảo vệ các ngành công
nghiệp non trẻ cho đến khi chúng đủ vững mạnh để có thể cạnh tranh sòng phẳng
trên thị trường quốc tế. Không khuyến khích nhập khẩu các mặt hàng có thể bị coi
là xa xỉ phẩm hay đi ngược lại các truyền thống văn hóa dân tộc. Giảm nhập khẩu
bằng cách làm cho chúng trở nên đắt hơn so với các mặt hàng thay thế có trong nước
và điều này làm giảm thâm hụt trong cán cân thương mại.
+ Thuế quan theo phạm vi tác dụng:
• Thuế quan tự quản: là loại thuế quan thể hiện tính độc lập trong việc đánh
thuế của một quốc gia, không phụ thuộc vào các Hiệp định song phương hay đa
phương đã ký kết. Loại thuế quan này được chia thành thuế quan tối đa có thuế suất
cao nhất và loại thuế quan tối thiểu có thuế suất thấp nhất.
• Thuế quan hiệp định: loại thuế quan này có thuế suất ấn định theo những
điều khoản đã cam kết trong Hiệp định song phương hoặc đa phương.
+ Theo phương pháp tính thuế:
• Thuế tính theo giá trị: là thuế tính tỷ lệ phần trăm so với giá trị hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu. Cách tính thuế kiểu này thường được áp dụng nhiều nhất bởi
vì dễ áp dụng trong cách tính thuế và quản lý thuế và theo kịp tốc độ của lạm phát.
Tuy nhiên, hạn chế của cách tính thuế quan theo giá trị là phân loại sản phẩm tính
thuế và xác định giá của sản phẩm khó thực hiện.
• Thuế tính theo số lượng hay còn gọi là thuế tuyệt đối: là thuế được tính ổn
định dựa theo khối lượng hoặc trọng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu (số tiền thuế
phả nộp không phụ thuộc vào giá cả hàng hóa xuất nhập khẩu). Đây là cách tính thuế
không cần định trị giá sản phẩm, nên giảm được hiện tượng gian lận có liên quan đến

kê khai gí trị hàng hóa để trốn thuế.
• Thuế quan hỗn hợp: là thuế tính theo cả 2 cách kể trên. Ví dụ 1 kiện hàng
nhập khẩu đánh thuế 0.5USD cộng với 1% giá trị hàng nhập
Nhóm 8 – K22 Trang 4
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
c.Vai trò của thuế xuất, nhập khẩu:
- Thuế xuất khẩu cùng với thuế nhập khẩu có tác dụng tăng thu cho ngân sách
nhà nước với chi phí rẻ hơn các loại thuế tiêu dùng, vì điểm thu thuế xuất nhập khẩu
ít hơn rất nhiều so với các điểm thu thuế tiêu dùng.
- Thuế xuất, nhập khẩu cấu thành trong giá cả hàng hoá, làm tăng giá hàng hoá,
do đó có tác dụng điều tiết xuất khẩu, nhập khẩu và hướng dẫn tiêu dùng. Giá cả
hàng hoá cao hay thấp sẽ quyết định việc giảm hoặc tăng sức cạnh tranh của hàng
hoá đó trên thị trường. Thông qua thuế xuất, nhập khẩu nhà nước điều tiết việc xuất
khẩu, nhập khẩu hàng hoá.
- Thuế xuất khẩu có thể được dùng để giảm xuất khẩu do nhà nước không
khuyến khích xuất khẩu các mặt hàng sử dụng các nguồn tài nguyên khan hiếm đang
bị cạn kiệt hay các mặt hàng mà tính chất quan trọng của nó đối với sự an toàn lương
thực hay an ninh quốc gia được đặt lên trên hết. Còn thuế nhập khẩu có thể dùng để
hạn chế việc tiêu dùng hàng hoá xa xỉ hoặc các loại hàng hoá không được khuyến
khích sử dụng như thuốc lá, rượu, bia…
- Thuế xuất, nhập khẩu có tác dụng bảo hộ nền sản xuất trong nước, đảm bảo
các cam kết với chính phủ nước ngoài, là công cụ để nhà nước thực hiện các chiến
lược lớn liên quan tới thương mại quốc tế.
- Thuế quan được xem là công cụ mậu dịch mang tính minh bạch hơn so với
các công cụ phi thuế, vì người ta dễ tính được mức độ ảnh hưởng tiêu cực của chính
sách bảo hộ đối với tiến trình hội nhập kinh tế của quốc gia để qua đó gây sức ép
điều chỉnh. Trong hiệp định GATT (WTO) nêu rõ: nếu còn duy trì chính sách bảo hộ
mậu dịch ở mức độ nhất định thì thuế quan là biện pháp duy nhất được áp dụng.
- Thuế quan là công cụ phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại và gây áp
lực đối với các bạn hàng phải nhượng bộ trong đàm phán. Chẳng hạn Mỹ đòi EU

phải giảm từ 30 – 50% trợ cấp trong nông nghiệp, nếu không Mỹ sẽ tăng mức thuế
đánh vào nông phẩm của EU nhập khẩu vào thị trường Mỹ. Hay trong năm 2001, để
trả đũa việc Nhật Bản tăng thuế nhập khẩu đánh vào các mặt hàng rau củ của Trung
Quốc nhập khẩu vào Nhật, Trung Quốc thông báo đánh thuế tăng gấp 2 lần đồi với
mặt hàng xe hơi và điện gia dụng của Nhật nhập vào Trung Quốc. Cuối cùng 2 bên
Nhóm 8 – K22 Trang 5
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
Nhật – Trung phải ngồi vào bàn đàm phán để giải quyết tranh chấp và thực hiện
nhượng bộ lẫn nhau.
d.Đối tượng chịu thuế:
Tất cả hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt
Nam đều là đối tượng chịu thuế xuất khẩu hoặc thuế nhập khẩu ngoại trừ các trường
hợp sau:
1. Hàng quá cảnh và mượn đường qua lãnh thổ Việt Nam.
2. Hàng kinh doanh theo phương thức chuyển khẩu.
3. Hàng hóa từ nước ngoài nhập khẩu vào khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất,
kho bảo thuế, kho ngoại quan; Hàng hóa từ khu chế xuất, doanh nghiệp chế
xuất, kho bảo thuế, kho ngoại quan xuất khẩu ra nước ngoài; Hàng hóa đưa từ
khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, kho ngoại quan này sang
khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, kho ngoại quan khác trong
lãnh thổ Việt Nam; Hàng hoá xuất nhập khẩu ra vào các khu vực được phép
miễn thuế theo quy định của Chính phủ.
4. Hàng viện trợ nhân đạo.
+ Căn cứ tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Theo số lượng từng mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu.
Theo quy định tại điều 8 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11
ngày 14 tháng 06 năm 2005 của Quốc Hội khóa 11 thì Căn cứ tính thuế, phương
pháp tính thuế và đồng tiền nộp thuế được xác định như sau:
- Căn cứ tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là số lượng đơn vị từng mặt hàng

thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan, giá tính thuế, thuế suất theo
tỷ lệ phần trăm (%); đối với mặt hàng áp dụng thuế tuyệt đối thì căn cứ tính thuế là
số lượng đơn vị từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hải
quan và mức thuế tuyệt đối quy định trên một đơn vị hàng hóa.
- Phương pháp tính thuế được quy định như sau:
Nhóm 8 – K22 Trang 6
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
a) Số thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải nộp bằng số lượng đơn vị từng
mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan nhân với giá tính
thuế và thuế suất của từng mặt hàng ghi trong Biểu thuế tại thời điểm tính thuế;
b) Trong trường hợp mặt hàng áp dụng thuế tuyệt đối thì số thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu phải nộp bằng số lượng đơn vị từng mặt hàng thực tế xuất khẩu,
nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan nhân với mức thuế tuyệt đối quy định trên
một đơn vị hàng hoá tại thời điểm tính thuế.
- Đồng tiền nộp thuế là đồng Việt Nam ; trong trường hợp được phép nộp thuế
bằng ngoại tệ thì phải nộp bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi.
e.Giá tính thuế:
- Đối với hàng hoá xuất, nhập khẩu theo hợp đồng mua bán hàng hoá:
+ Đối với hàng hoá xuất khẩu: là giá bán cho khách hàng tại cửa khẩu xuất
(giá FOB), không bao gồm phí bảo hiểm (I) và chi phí vận tải (F). Căn cứ để xác
định giá bán cho khách hàng là hợp đồng mua bán hàng hoá với đầy đủ nội dung chủ
yếu của một bản hợp đồng theo quy định tại Luật Thương mại phù hợp với các
chứng từ hợp pháp, hợp lệ có liên quan đến việc mua bán hàng hoá;
+ Đối với hàng hoá nhập khẩu: Hàng hoá nhập khẩu theo hợp đồng mua bán
hàng hoá thuộc đối tượng áp dụng của Thông tư số 118/2003/TT/BTC ngày
8/12/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định số 60/2002/NĐ-CP ngày 6/6/2002
của Chính phủ quy định về việc xác định trị giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu
theo nguyên tắc của Hiệp định thực hiện Điều 7 Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại thì giá tính thuế được xác định theo hướng dẫn tại Thông tư số
118/2003/TT/BTC nêu trên.

Giá tính thuế là giá thực tế phải thanh toán cho người bán.
- Đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu không theo hợp đồng mua bán
hàng hoá hoặc hợp đồng không phù hợp theo quy định tại Luật Thương mại thì giá
tính thuế xuất khẩu, nhập khẩu do Cục Hải quan địa phương qui định.
f.Thuế suất của mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu.
Thuế suất thuế xuất nhập khẩu được quy định cụ thể cho từng mặt hàng tại Biểu
thuế xuất nhập khẩu.
Nhóm 8 – K22 Trang 7
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
g.Thời điểm tính thuế:
Thời điểm tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là ngày đối tượng nộp thuế
đăng ký Tờ khai hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu với cơ quan Hải quan theo qui định
của Luật Hải quan. Trường hợp đối tượng nộp thuế khai báo điện tử thì thời điểm
tính thuế là ngày cơ quan Hải quan cấp số Tờ khai tự động từ hệ thống.
Quá 15 ngày kể từ ngày đăng ký Tờ khai nhưng chưa có hàng hoá thực xuất
khẩu, thực nhập khẩu thì Tờ khai đã đăng ký không có giá trị. Khi có hàng hoá thực
tế xuất khẩu, nhập khẩu phải làm lại thủ tục kê khai và đăng ký Tờ khai hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu
h.Thời hạn nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
i. Đối với hàng hoá xuất khẩu là 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo thuế
của cơ quan Hải quan về số thuế phải nộp.
ii. Đối với hàng hoá là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để trực tiếp sản xuất hàng
hoá xuất khẩu là 9 tháng (được tính tròn là 275 ngày) kể từ ngày nhận được
thông báo thuế của cơ quan Hải quan về số thuế phải nộp.
iii. Trường hợp hàng hoá kinh doanh theo phương thức tạm xuất - tái nhập hoặc
tạm nhập - tái xuất thì thời hạn nộp thuế là 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn
của cơ quan có thẩm quyền cho phép tạm xuất - tái nhập hoặc tạm nhập - tái
xuất (áp dụng cho cả trường hợp được phép gia hạn) theo quy định của Bộ
Thương mại.
iv. Đối với hàng hoá tiêu dùng phải nộp xong thuế trước khi nhận hàng hoá

v. Đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phi mậu dịch; hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu của cư dân biên giới thì đối tượng nộp thuế phải nộp xong thuế
trước khi xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài hoặc nhập khẩu hàng hoá vào
Việt Nam.
vi. Đối với hàng hóa không thuộc diện thực hiện nộp thuế theo qui định tại điểm
2, 3, 4 và 5 nêu trên, thì thời hạn nộp thuế là 30 ngày kể từ ngày đối tượng
nộp thuế nhận được thông báo thuế của cơ quan Hải quan về số thuế phải nộp.
vii. Hàng hóa có thời hạn nộp thuế khác nhau thì phải mở Tờ khai hàng hóa riêng
theo từng thời hạn nộp thuế.
Nhóm 8 – K22 Trang 8
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
viii. Trường hợp hàng hoá còn trong sự giám sát của cơ quan Hải quan, nhưng bị
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tạm giữ để điều tra, chờ xử lý thì thời hạn
nộp thuế đối với từng loại hàng hoá thực hiện theo quy định của Luật thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu và tính từ ngày cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
có văn bản cho phép giải toả hàng hoá đã tạm giữ.
II.TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ SUẤT NHẬP KHẨU ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT
NHẬP KHẨU TẠI VIỆT NAM.
1.Tác động của thuế xuất nhập khẩu đến hoạt động xuất nhập khẩu tại Việt
Nam
a.Tác động đến hoạt động xuất khẩu:
+ Tác động của thuế xuất khẩu đến hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu:
Thuế xuất khẩu là loại thuế gián thu. Tuy nhiên, không thể xuất khẩu thuế ra
nước ngoài vì nhà xuất khẩu khi bán hàng ra nước ngoài không thể bán giá cao hơn
giá quốc tế được.
Trong điều kiện sản xuất ở Việt Nam,với công nghệ còn lạc hậu 2-3 thập kỷ so
với các nước trong khu vực, năng suất lao động còn thấp, chất lượng chưa cao nên
khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Việt Nam không cao. Để nâng cao khả năng
cạnh tranh của hàng xuất khẩu, ngoài yếu tố về chất lượng thì giá cả là một yếu tố
quyết định. Khi qui định mức thuế suất cao hay thấp có ảnh hưởng rất lớn đến giá cả.

Nếu chuyển toàn bộ số thuế xuất khẩu phải nộp vào giá thành của hàng hoá thì sẽ
làm tăng giá xuất khẩu, dẫn đến xuất khẩu giảm.
Nhóm 8 – K22 Trang 9
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
Nếu muốn xuất khẩu được thì giá xuất khẩu giảm, bên cạnh đó, doanh nghiệp
xuất khẩu phải chịu thuế xuất khẩu, dẫn đến giảm lợi nhuận và xuất khẩu giảm.
Vì vậy, thuế xuất khẩu cao hay thấp có ảnh hưởng trực tiếp và ngay lập tức đến
hoạt động xuất khẩu.
Thuế xuất khẩu thường thấp, chủ yếu là 0%, chỉ đánh thuế đối với một số mặt
hàng là nguyên vật liệu, sản phẩm thô Do đó khuyến khích các doanh nghiệp xuất
khẩu những mặt hàng này vì lẽ giá vốn hàng xuất khẩu giảm, doanh nghiệp có khả
năng cạnh tranh về giá trên thương trường khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, thuế xuất
khẩu cao nhất là 45%, đánh vào các hàng phế liệu, phế thải kim loại nhằm hạn chế
xuất khẩu.
+ Tác động của thuế nhập khẩu đến hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu
Nói đến thuế nhập khẩu chúng ta thường nghĩ đến tác động lớn nhất của nó là
quản lý nhập khẩu và bảo hộ sản xuất trong nước. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp thuế nhập khẩu lại tác động đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp. Ở
Việt Nam, đánh thuế nhập khẩu ở mức thấp và hoàn thuế đối với máy móc, thiết
bị,vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu; miễn thuế đối với nguyên liệu nhập
khẩu để sản xuất hàng gia công.
Thuế nhập khẩu đánh vào các mặt hàng trên ảnh hưởng đến chi phí sản xuất
(tăng chi phí sản xuất) và giá cả (giá cả tăng) dẫn đến xuất khẩu giảm.
Khi hoàn thuế nhập khẩu cho những doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu giúp
cho doanh nghiệp có thêm vốn để đẩy mạnh sản xuất, làm cho giá vốn hàng xuất
khẩu giảm, dẫn đến, doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh về giá khi xuất khẩu, từ đó
lượng hàng xuất khẩu sẽ tăng và tăng kim ngạch xuất khẩu.
Tuy nhiên, thời gian vừa qua, chúng ta đã làm tốt việc hoàn thuế nhập khẩu
nguyên liệu cho những doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trực tiếp, nhưng nếu
bán lại sản phẩm cho doanh nghiệp xuất khẩu khác thì lại không được hoàn thuế.

Nếu vẫn duy trì chính sách thuế này sẽ làm cho thương mại hàng hoá cứng nhắc,
kém năng động.
+ Tác động của Chính sách xuất khẩu của Nhà nước:
Nhóm 8 – K22 Trang 10
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
Công cuộc đổi mới được triển khai từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đến
nay đã đưa nước ta từng bước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Việc đổi mới kinh tế - xã hội một cách toàn diện là vấn đề cơ bản xuyên suốt hệ
thống chính sách của Đảng và Nhà nước. Ngày nay, kinh tế đối ngoại có vai trò đặc
biệt trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Để hội nhập với cộng đồng khu
vực và thế giới, Việt Nam đã thực hiện chính sách đối ngoại đúng đắn, linh
hoạt,mềm dẻo theo nguyên tắc độc lập, tự chủ, bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại
hoà bình, nên đã thu hút được sự đồng tình ủng hộ của các nước, các tổ chức quốc tế,
mở rộng thị trường thương mại, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế,
phá vỡ sự bao vây kinh tế, góp phần quan trọng trong việc xây dựng và phát triển
kinh tế trong nước.
Sự thành công của công cuộc đổi mới trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại có ý nghĩa
quyết định đối với nhiệm vụ ổn định kinh tế - xã hội. Nhờ thành tựu của công cuộc
đổi mới, trong đó có phần đóng góp tích cực của kinh tế đối ngoại, không những đã
cải thiện được hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế, mà còn tạo cho Việt Nam
một vị thế mới trong quan hệ kinh tế với các nước trên cơ sở cùng có lợi, làm cho
kinh tế Việt Nam không còn bị phụ thuộc vào một nước duy nhất, một thị trường duy
nhất như trước đây.
Xuất khẩu là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện
thúc đẩy phát triển kinh tế. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài
chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển các hạ tầng là một
mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại. Nhà nước đã và đang thực hiện
các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích khu
vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ
cho đất nước.

Về tiềm năng, nước ta có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế đối ngoại. Một số
loại khoáng sản, nhất là dầu khí, đang thu hút sự chú ý của nhiều nước trên thế giới
và trong khu vực. Các sản phẩm của nền nông nghiệp nhiệt đới, của ngành nuôi
trồng, đánh bắt thuỷ, hải sản và của một số ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
có thể phát triển với quy mô lớn nhằm tạo thêm nguồn hàng xuất khẩu. Tài nguyên
Nhóm 8 – K22 Trang 11
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
thiên nhiên kết hợp với nguồn nhân lực, kinh tế, kỹ thuật ở trong và ngoài nước là
nguồn lực quan trọng để thực hiện chiến lược kinh tế đối ngoại.
Việc mở rộng xuất khẩu và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác trong thương
mại sẽ trở thành mũi nhọn thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Việc tăng nhanh
xuất khẩu có tác dụng tích cực đến phát triển kinh tế thông qua việc đổi mới công
nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ở
thị trường nước ngoài. Nhờ kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh đã góp phần tạo điều
kiện nhập khẩu vật tư, nguyên, nhiên liệu, hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ phát triển
kinh tế và cải thiện dân sinh, góp phần chống lạm phát, bình ổn giá cả.
Các chính sách, chủ trương và biện pháp quản lý xuất khẩu đều nhằm vào khuyến
khích tối đa sự phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông, đẩy mạnh xuất khẩu.Cho phép
các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu. Tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp xuất khẩu, hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Hướng đẩy mạnh xuất khẩu của nước ta trong thời gian qua là:
- Khai thác có hiệu quả tiềm năng về tài nguyên, thiên nhiên, sức lao động và đất
đai nhằm giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành, nâng cao sự cạnh tranh trên thị
trường thế giới.
- Cải tiến cơ cấu xuất khẩu cho phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới. Tăng
xuất khẩu hàng chế biến, hàng công nghiệp, hạn chế xuất khẩu các sản phẩm thô.
- Xuất khẩu hàng chế biến là phương pháp tốt nhất để đẩy mạnh xuất khẩu Việt
Nam, tránh được tình trạng hàng nông, khoáng sản bị ép giá.Khi chúng ta giữ lại
các nông, khoáng sản, tự chế biến lấy và với tiền lương công nhân rẻ hơn thì sẽ
làm ra được các hàng công nghiệp giá thấp hơn, tạo sức cạnh tranh cho các sản

phẩm nội địa.
- Tạo ra mặt hàng chủ lực đi đôi với xây dựng thị trường trọng điểm, đồng thời mở
rộng mặt hàng và tìm kiếm thị trường mới.
- Các nhóm mặt hàng cần được chú ý mở rộng là các hàng nông sản đã qua chế
biến như: gạo, cà phê, cao su, chè, tơ tằm Hình thành nên những mặt hàng xuất
khẩu mới có tầm quan trọng trên thị trường thế giới và khu vực như: hàng điện tử,
viễn thông
- Nước ta đang trên con đường hội nhập vào cộng đồng thế giới. Cùng với việc duy
trì các mối quan hệ mậu dịch với các bạn hàng truyền thống, phải mở rộng buôn
Nhóm 8 – K22 Trang 12
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
bán sang các thị trường mới như đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ và thị trường Bắc
Mỹ, Nhật, EU, mở rộng hơn nữa việc xuất đổi hàng với thị trường Nga, các nước
SNG
- Nhà nước áp dụng các biện pháp khuyến khích xuất khẩu như lập quỹ hỗ trợ xuất
khẩu để phát triển các mặt hàng có chu kỳ kinh doanh dài hạn: cấp vốn lưu động
cho các doanh nghiệp Nhà nước sản xuất và kinh doanh các hàng xuất khẩu chủ
yếu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao
hiệu quả hoạt động xuất khẩu; các cơ quan chuyên môn nghiên cứu xây dựng thị
trường xuất khẩu giúp các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường xuất khẩu mới; có
ưu đãi đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng thay thế nhập khẩu. Để đảm bảo
an ninh quốc phòng Nhà nước ban hành qui định về hàng cấm xuất khẩu, hàng
xuất khẩu có điều kiện.
- Ngoài ra, Nhà nước còn quản lý hoạt động xuất khẩu thông qua các thủ tục hành
chính đối với hàng xuất khẩu.Về thủ tục thông quan Nhà nước cải cách theo
hướng đơn giản hoá thủ tục nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và thực hiện các cam kết
theo Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT): tiến hành phân loại
hàng hoá theo 3 luồng: luồng xanh, luồng đỏ, luồng vàng.
+ Luồng xanh: cho các loại hàng xuất khẩu thông thường,giản đơn.Loại hàng
này sẽ được giải quyết thông quan nhanh.

+ Luồng vàng: cho các loại hàng có một số vướng mắc nhưng ở cửa khẩu có thể
giải quyết được.
+ Luồng đỏ: cho các loại hàng hoá có những vướng mắc về chính sách,cần sự
chỉ đạo của cấp trên.
- Mở rộng xuất khẩu không có nghĩa là xuất khẩu bất cứ giá nào, mà phải đảm bảo
cho xuất khẩu có lãi, cũng không phải chỉ để thu về ngoại tệ mà còn phải kích
thích sản xuất trong nước, tạo nhiều việc làm, xuất khẩu phải gắn liền với sử dụng
hợp lý nguồn tài nguyên của đất nước, thuế xuất, nhập khẩu
b.Tác động đến hoạt động nhập khẩu:
+ Chính sách nhập khẩu của Nhà nước:
Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước công nghiệp hoá đất nước.
Bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo phát triển kinh tế
Nhóm 8 – K22 Trang 13
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
cân đối và ổn định. Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân
dân.Nhập khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng, vừa
đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động. Nhập khẩu
thúc đẩy xuất khẩu.
Nhiệm vụ trọng tâm của nước ta trong giai đoạn hiện nay là công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước. Do đó,chính sách và cơ chế quản lý nhập khẩu phải đáp ứng
yêu cầu đổi mới, hiện đại hoá thiết bị và công nghệ, đảm bảo vật tư,hàng hoá thiết
yếu mà nền kinh tế chưa đáp ứng được, bảo hộ và phát triển sản xuất trong nước.
Vì thế, Nhà nước khuyến khích nhập khẩu các mặt hàng:máy móc thiết bị toàn bộ
có công nghệ cao; thiết bị, máy móc tiên tiến để hiện đại hoá công nghệ đối với các
ngành công nghiệp then chốt (tin học,điện tử - viễn thông liên lạc, chế tạo máy, hoá
chất cơ bản); tác động đến toàn bộ hoặc một bộ phận quan trọng của nền kinh tế.
Đồng thời Nhà nước hạn chế nhập khẩu các mặt hàng: máy móc, thiết bị quá cũ
hoặc công nghệ quá lạc hậu và dễ gây ô nhiễm môi trường; các hàng tiêu dùng không
thiết yếu, xa xỉ phẩm, hàng trong nước đã sản xuất được và hàng có chất lượng

không đảm bảo nhằm bảo hộ sản xuất trong nước và bảo vệ môi trường.
Để thực hiện được điều đó, kiểm soát chặt chẽ hàng nhập khẩu là biện pháp quan
trọng phát triển sản xuất và xuất khẩu. Cơ chế quản lý vì thế được hoàn thiện theo
hướng tăng cường quản lý Nhà nước, nhất là đối với nhập khẩu công nghệ và hàng
tiêu dùng. Thông qua biện pháp thuế nhập khẩu và kết hợp quản lý với các biện pháp
phi thuế quan, các biện pháp về tổ chức và giám sát hoạt động xuất nhập khẩu.
Về thuế nhập khẩu: Nhà nước thực hiện quản lý bằng cách:
- Đánh thuế suất cao đối với những hàng tiêu dùng xa xỉ chưa phù hợp với tình
hình kinh tế đời sống của nhân dân hiện nay.
- Đánh thuế suất thấp đối với hàng nguyên liệu phục vụ sản xuất, hàng tiêu dùng
thiết yếu đáp ứng nhu cầu của người dân mà trong nước sản xuất với số lượng
thấp.
- Thay đổi thuế suất đối với hàng trong nước đã sản xuất được và đáp ứng được
nhu cầu.
- Ngoài biện pháp thuế quan, Nhà nước áp dụng những biện pháp phi thuế quan
như khống chế số lượng nhập khẩu, hàng quản lý theo chuyên ngành (Ví dụ:
Nhóm 8 – K22 Trang 14
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
Nhập khẩu máy móc thiết bị phải được phép của Bộ khoa học công nghệ và môi
trường), ban hành danh mục hàng cấm nhập khẩu.
- Về thủ tục thông quan đối với hàng nhập khẩu, Nhà nước cũng phân loại hàng
theo 3 luồng để tiến hành quản lý tốt hơn công tác nhập khẩu:
+ Luồng xanh:cho hàng nhập khẩu có thuế suất bằng 0%,hàng nhập khẩu được
miễn thuế,hàng thực phẩm tươi sống bảo quản lạnh.
+ Luồng vàng:cho hàng nhập khẩu có thuế suất 30% trở lên,hàng nhập khẩu
chịu sự quản lý theo chuyên ngành.
+ Luồng đỏ:cho hàng nhập khẩu có vướng mắc về chính sách,cần có ý kiến của
cấp cao hơn.
+ Tác động của thuế nhập khẩu đến hoạt động nhập khẩu:
Thuế nhập khẩu là công cụ quản lý vĩ mô. Thông qua thuế nhập khẩu Nhà nước

điều tiết lượng hàng nhập khẩu, từ đó tác động đến cung, cầu của hàng hoá được mua
bán trên thị trường trong nước, qua đó bảo hộ sản xuất trong nước và khuyến khích
sản xuất trong nước phát triển.
Với những mặt hàng khuyến khích nhập khẩu sẽ được áp dụng thuế suất thấp, đó
là những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ đáp ứng
nhu cầu, cần khuyến khích nhập khẩu để đảm bảo cung cấp đủ đầu vào cho sản xuất
trong nước và góp phần đổi mới công nghệ trong nước.
Ngược lại, với những mặt hàng sản xuất trong nước đang phát triển, Nhà nước
cần phải bảo hộ thì thuế suất nhập khẩu thường bị đánh cao (VD: ô tô, xe máy và
linh kiện nhập khẩu, đường ăn, kính xây dựng, )
Để làm rõ hơn tác động của thuế nhập khẩu đến khối lượng và cơ cấu của hàng
hoá nhập khẩu, chúng ta giả thiết thuế đánh vào một mặt hàng cụ thể, ví dụ như hàng
may mặc. Giả sử thuế suất thuế nhập khẩu là 50% và giá quốc tế của hàng may mặc
là 10.000 VNĐ. Như vậy, trong điều kiện thương mại tự do mức giá bình quân là
10.000 VNĐ vì khi cho tự do buôn bán nhà sản xuất trong nước không thể bán cao
hơn giá quốc tế được. Tại mức giá 10.000 VNĐ người tiêu dùng sẽ mua với số lượng
là 30.000 chiếc. Nhưng tại mức giá này, các doanh nghiệp trong nước chỉ sản xuất ở
mức 20.000 chiếc. Sự chênh lệch giữa mức cung trong nước (20.000 chiếc) và mức
cầu trong nước (30.000 chiếc) được bù đắp bằng nhập khẩu.
Nhóm 8 – K22 Trang 15
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
Bây giờ nếu đánh thuế nhập khẩu (ví dụ 50%), giá hàng may mặc nhập khẩu tăng
từ 10.000 VNĐ lên 15.000 VNĐ thì người nhập khẩu phải bỏ ra một số tiền là
15.000 VNĐ để mua và đóng thuế cho đơn vị nhập khẩu mặt hàng này. Giá cung lúc
này là 15.000 VNĐ, tuy giá bán quốc tế không thay đổi. Với mức giá 15.000 VNĐ,
cung của nhà sản xuất trong nước là 22.000 chiếc, cầu của người tiêu dùng trong
nước là 27.000 chiếc. Sau khi thuế nhập khẩu được thực hiện giá hàng may mặc tăng
lên, do đó làm cho mức tiêu thụ giảm xuống. Người tiêu dùng chỉ có khả năng mua
một lượng hàng là 27.000 chiếc chứ không phải là 30.000 chiếc như trong điều kiện
tự do buôn bán. Lượng cầu giảm kéo theo giảm lượng hàng nhập khẩu. Dưới tác

động của thuế nhập khẩu lượng hàng nhập chỉ còn là 5.000 chiếc ( tức 27.000 chiếc -
22.000 chiếc) chứ không phải là 10.000 chiếc (tức 30.000 chiếc - 20.000 chiếc).
Tuy nhiên, hoạt động nhập khẩu lại do doanh nghiệp thực hiện. Việc nhập khẩu
mặt hàng gì, giá cả bao nhiêu, lúc nào lại do doanh nghiệp quyết định. Thuế nhập
khẩu được tính vào giá thành, do đó, thuế nhập khẩu được coi là khoản chi phí nằm
trong giá hàng hoá. Nó làm tăng giá vốn hàng nhập khẩu, từ đó tác động trực tiếp đến
thu nhập của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Việc đánh thuế nhập khẩu cao
hay thấp có ảnh hưởng lớn đến quyết định của doanh nghiệp có nhập khẩu mặt hàng
đó hay không.
Nếu Nhà nước bảo vệ không chính đáng nền sản xuất trong nước, chống lại hàng
nhập bằng cách áp đặt thuế quan cao, cấm nhập hoặc những cản trở khác sẽ gây ra
những hậu quả khôn lường là đặt doanh nghiệp đứng trước ngã 3 đường:
i. Hoặc không dám nhập khẩu chính thức mặt hàng đó nữa vì không thể cạnh
tranh được với hàng lậu do trốn thuế nên giá thành hạ hoặc với hàng nhập
khẩu thông qua hành vi gian lận thương mại. Như vậy vô hình chung Nhà
nước đã không thu được chút nào khoản thuế này. Hàng hoá vẫn tràn ngập thị
trường, khoản thu nhập từ thuế lẽ ra Nhà nước hưởng lại rơi vào túi bọn làm
ăn bất chính. Khoản lợi nhuận từ kinh doanh đàng hoàng của doanh nghiệp
cũng không được hưởng.
ii. Hoặc chính bản thân doanh nghiệp bị đẩy tới chỗ có những hành vi “gian lận
thương mại” như khai bớt số lượng, khai sai chủng loại hàng hoá, khai sai
Nhóm 8 – K22 Trang 16
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
phẩm cấp chất lượng, hạ giá hoá đơn nhập khẩu Một trong những hành vi
phổ biến hiện nay được công luận báo chí nhắc đến nhiều là lợi dụng kẽ hở
của biểu thuế tối thiểu, gian lận bằng cách hạ giá hoá đơn nhập khẩu, có nghĩa
là việc thông đồng giữa kẻ bán và người mua (công ty nước ngoài với công ty
trong nước) để ghi giá hàng nhập trên hợp đồng thương mại thấp hơn nhiều
lần so với giá thực tế. Thực chất đây cũng là hành vi “trốn lậu” thuế, thu lợi
cho bản thân,gây thất thu không nhỏ cho Ngân sách Nhà nước và làm chao

đảo không ít các doanh nghiệp làm ăn chân chính.
Buôn lậu làm thất thu ngân sách rất lớn lao, làm băng hoại nền kinh tế đất
nước,phá hoại nền sản xuất,làm tiêu tan ý chí và quyết tâm của những nhà đầu
tư trong nước và nước ngoài nhưng trốn thuế nhập khẩu bằng cách hạ giá
hoá đơn nhập khẩu và lo lót,hối lộ để đưa hàng nhập khẩu đi vào Việt Nam
một cách công khai, hợp pháp còn nguy hiểm gấp nhiều lần vì buôn lậu ai
cũng biết rất dễ bị phát hiện, rất dễ bị lên án và việc ăn hối lộ, tham nhũng của
bọn buôn lậu nguy hiểm hơn là việc kinh doanh bằng con đường gian lận thuế
nhập khẩu,vừa được lợi nhiều mặt mà lại an toàn, khó bị phát hiện hơn,thực tế
qua các năm và qua các bảng thống kê hàng nhập khẩu của Bộ thương mại đã
cho thấy rõ ràng sự thất thoát,sự thất thu của Nhà nước qua con đường trốn
thuế nhập khẩu bằng cách hạ giá hoá đơn và cho hàng đi công khai qua các
cảng còn to lớn gấp nhiều lần so với buôn lậu.
iii. Hoặc phải tìm cách trốn các sắc thuế kinh doanh nội địa như thuế giá trị gia
tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp.Biện pháp hữu hiệu thường được áp dụng
hiện nay là xuất hoá đơn đi thẳng tới người bán lẻ.
Nói tóm lại, chính sách thuế nhập khẩu có tác động không nhỏ đến hoạt động
sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam.
2.Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu đến các mặt hàng điển hình tại
Việt Nam
a.Tác động của chính sách thuế hàng xuất khẩu mặt hàng than đá.
Khi chưa có xuất khẩu giá than trong nước rẻ hơn giá than thế giới, điểm cân
bằng nội địa (P
E
, Q
E
).
Nhóm 8 – K22 Trang 17
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
Sau khi được phép xuất khẩu giá trong nước sẽ tăng lên bằng giá thế giới (P

W
).
Không người bán nào chấp nhận giá bán thấp hơn giá thế giới. Và không người mua
nào trả giá cao hơn giá thế giới.
Với giá bán mới trong nước bằng giá thế giới. Lượng cung trong nước (Q
S
) khác
với lượng cầu trong nước (Q
D
). Đường cung chỉ ra lượng cung than mà người bán ở
VN sẵn sàng cung ứng. Đường cầu chỉ ra lượng cầu than của người mua ở VN. Vì
lượng cung trong nước lớn hơn lượng cầu trong nước nên phần cung dư thừa (Q
S
-
Q
D
) sẽ được xuất khẩu sang các nước khác. Mặt dù lượng cung và lượng cầu trong
nước khác nhau. Nhưng thị trường than vẫn cân bằng vì giờ đây còn có những người
tham gia thị trường khác là phần còn lại của thế giới. Người ta có thể xem đường
nằm ngang tại mức giá thế giới là đường biểu thị về đường cầu than của phần còn lại
của thế giới.
Lúc này các nhà sản xuất than trong nước được lợi vì bán được giá cao hơn. Còn
người tiêu dùng phải trả một mức giá cao bằng giá thế giới. Tức là, so với trước khi
được tự do mậu dịch, thặng dư người tiêu dùng (CS) bị sụt giảm phần diện tích A,
còn thặng dư người sản xuất (PS) tăng lên phần (A+B). Tổng thay đổi phúc lợi là:
ΔPS - ΔCS = (A+B) – A = B
Lúc này khi nhà nước đánh thuế xuất khẩu giá của người mua phải trả bằng
giá thế giới trừ đi thuế ( P
w-t
). Và người bán cũng chỉ bán được tại giá P

w-t
. Nhờ thuế
của chính phủ sẽ làm cho tăng thặng dư của người tiêu dùng, giảm thặng dư người
sản xuất, bản thân chính phủ thu được một lượng thuế. Mặc dù có tổn thất xã hội,
Nhóm 8 – K22 Trang 18
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
chính phủ vẫn thực hiện để bảo vệ người tiêu dùng trong nước và đảm bảo tăng thu
ngân sách.
Lúc này, so với trước khi đánh thuế xuất khẩu:
- CS tăng lên ứng với phần diện tích (a+b)
- Trong khi đó, PS giảm phần (a+b+c+d+e)
- Lượng than xuất khẩu (Q
2
– Q
1
)  chính Phủ thu được phần thuế tương ứng
với diện tích d
- Vậy, tổng phúc lợi xã hội lúc này là:
ΔCS + ΔG – ΔPS = (a+b) + d – (a+b+c+d+e) = - (c+e)
Thuế xuất khẩu lên mặt hàng than đá:
Việt Nam là một trong những quốc gia có trữ lượng than lớn, than cũng là nguồn
năng lượng chủ yếu của đất nước. Hiện tại than đang chiếm khoảng 70% tỉ trọng tiêu
thụ nguồn năng lượng không thể tái tạo và hữu hạn của nước ta và trong tương lai
than vẫn là một trong những ngành sản xuất trụ cột của nền công nghiệp Việt
Nam. Than đóng vai trò chính trong sản xuất ra điện (than đá và than non), các sản
phẩm thép và kim loại (than cốc). Ngành than đóng vai trò là ngành kinh tế trọng
điểm cung cấp nhiên liệu hoạt động cho hầu hết các ngành khác, đặc biệt là điện,
Nhóm 8 – K22 Trang 19
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
thép và kim loại,phân bón, giấy, xi-măng và các loại chất đốt hóa lỏng – những

ngành sử dụng nhiều than nhất trong sản xuất, do đó nguồn cầu về than trên thị
trường hiện đang rất lớn.
Theo Vinacomin, dự kiến đến năm 2020, Tập đoàn sẽ nhập về khoảng 100 triệu
tấn mỗi năm. Các chủng loại than mà các ngành công nghiệp ở Việt Nam đang có
nhu cầu, nhất là ngành thép và xi măng cũng sẽ được nhập về để phục vụ nhu cầu
trong nước. Nhu cầu dùng điện của hai ngành này cũng đã tăng thêm tới 27,5% so
với năm 2009. Trong đó, sản xuất thép tiêu thụ 4,67 tỉ KWh, chiếm tỉ lệ 5,52%; sản
xuất xi măng tiêu thụ 5,52 tỉ KWh, chiếm 6,5% sản lượng điện cả nước. Việc sản
xuất thép còn tiêu thụ một lượng than cốc (loại than có giá trị kinh tế cao) rất lớn.
Năm 2010, giá điện bình quân bán cho hai ngành này chỉ 909 đồng/KWh, thấp hơn
50 đồng so với giá bình quân chung là 1.060 đồng/KWh và còn… thấp hơn cả giá
thành khiến ngành điện thiệt hại tới hàng trăm tỉ đồng. Do tiềm năng thủy điện đã
khai thác gần hết, nguồn khí đốt thiên nhiên có thể khai thác không nhiều, nên vấn đề
phát triển nguồn điện trong những năm tới sẽ phụ thuộc phần lớn vào các nhà máy
nhiệt điện chạy bằng than. Do vậy, cần hạn chế, hoặc ngưng xuất khẩu than để
Việt Nam bớt phụ thuộc nguồn năng lượng nhập khẩu trong tương lai.
Do than là khoáng sản không thể phục hồi được, do đó việc khai thác phụ thuộc
vào trữ lưỡng của đất nước. Từ năm 2006 Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cảnh báo nếu
không có biện pháp hạn chế thì nguồn tài nguyên quan trọng này sẽ sớm bị cạn kiệt,
ảnh hưởng xấu đến việc bảo đảm an ninh năng lượng cho nền kinh tế. Mặc dù có sự
cảnh bảo của bộ KH và ĐT Theo thông tư số 25/2009/TT-BTC Bộ Tài chính, thuế
xuất khẩu các mặt hàng than như than đá, than bùn nhiên liệu rắn tương tự được sản
xuất từ than đá…được giảm thuế xuất từ 20% xuống còn 10%.
Sau một thời gian trì hoãn, Bộ Tài chính quyết định tăng thuế xuất khẩu các sản
phẩm than lên 20%, thay cho mức 15%, trước nguy cơ thiếu than phục vụ nhu cầu
trong nước. Theo quyết định của Bộ Tài chính, từ ngày 11/9/2011, các loại than đá,
than bánh, than quả bàng, nhiên liệu rắn tương tự sản xuất từ than đá, than cốc, than
luyện đều phải chịu thuế xuất khẩu 20%.
b.Tác động của chính sách thuế hàng nhập khẩu mặt hàng xe hơi .
Nhóm 8 – K22 Trang 20

Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
Với mặt hàng là xe hơi nhập khẩu được người tiêu dùng trong nước ưa chuộng.
Nếu với chính sách nhập khẩu tự do: Tại đó, người tiêu dùng được lợi do giá
nhập của xe hơi từ thế giới (P
W
) rẻ hơn giá cân bằng nội địa (P
E
) trước khi được phép
mậu dịch tự do. Tại mức giá (P
W
), lượng cung trong nước thấp hơn lượng cầu trong
nước (Q
S
< Q
D
). Mức chênh lệch giữa lượng cung và lượng cầu trong nước được đáp
ứng bằng cách nhập hàng từ các nước khác.
Khi đó, thặng dư người tiêu dùng trong nước (CS) tăng 1 phần tương ứng với
diện tích (A+B) vì họ có thể được mua với giá thấp hơn. Còn thặng dư người sản
xuất trong nước giảm phần diện tích A. Như vậy, tổng phúc lợi xã hội là:
ΔCS – ΔPS = (A+B) – A = B
Lúc này để bảo hộ hàng trong nước thì chính phủ đánh thuế nhập khẩu làm tăng giá
xe nhập khẩu lên mức cao hơn giá thế giới một lượng bằng thuế nhập khẩu. Các nhà
cung cấp xe hơi trong nước có thể bán xe của mình bằng giá thế giới cộng với thuế
nhập khẩu. Sẽ khuyến khích sản xuất trong nước, ngăn chặn cạnh tranh của hàng hoá
nước ngoài. Còn người mua trong nước bị thiệt. Ngoài ra chính phủ trong nước tạo
được nguồn thu. Như vậy thuế nhập khẩu làm giảm lượng nhập khẩu và chuyển thị
trường trong nước gần tới mức cân bằng khi không có thương mại quốc tế.
Nhóm 8 – K22 Trang 21
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu

- Thặng dư người tiêu dùng giảm so với trước khi đánh thuế nhập khẩu:
ΔCS = - (A+B+C+D)
- Thặng dư người sản xuất tăng phần diện tích A
- Chính Phủ thu được lượng thuế: (Q
4
– Q
3
)*T bằng phần diện tích D
- Vậy, tổng phúc lợi xã hội sau cùng là:
ΔPS + G - ΔCS = A + D - (A+B+C+D) = - (B+C)
Tác động của thuế nhập khẩu lên cầu xe hơi:
Với dân số gần 100 triệu dân năm 2011, nhu cầu của người dân VN về xe ô tô
ngày càng tăng cao. Tại thị trường Việt Nam các thương hiệu như Hyundai, Kia,
Toyota, Honda, Ford, chiếm gần 80% tổng lượng xe tiêu thụ. Các DN Việt Nam có
chăng chỉ giành được quyền nhập khẩu và phân phối những mẫu xe ít tên tuổi như xe
Trung Quốc hay có số lượng tiêu thụ không nhiều như Land Rover, Citroen,
Chrysler
Nắm giấy uỷ quyền nhập khẩu và phân phối xe chính hãng tại Việt Nam hiện chia
thành 2 nhóm. Một là các liên doanh lắp ráp và sản xuất ô tô như Toyota Việt Nam,
Mercedes-Benz Việt Nam - các doanh nghiệp thuộc Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô
Việt Nam (VAMA). Hai là các đại lý có giấy phép nhập khẩu chính hãng như Euro
Auto phân phối xe BMW, World Auto phân phối xe Volkswagen, VinaMazda phân
phối xe Mazda… Mặc dù kinh tế năm 2011 gặp nhiều khó khăn do lạm phát cao gây
ra, người tiêu dùng phải thắt chặt chi tiêu, nhưng tiêu thụ xe nhập khẩu hạng sang
Nhóm 8 – K22 Trang 22
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
vẫn có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Mặc dù thuế nhập khẩu ô tô ở VN hiện nay vẫn
đang ở mức rất cao khoảng 80% ( năm 2011). Xe nhập khẩu được ưa chuộng hơn vì
nó sang trọng, tích hợp nhiều công nghệ hiện đại hơn xe trong nước lắp ráp.
Công ty Euro Auto, nhà phân phối chính thức xe BMW tại Việt Nam - cho biết,

năm 2011 mức tăng trưởng tiêu thụ xe BMW đạt 35% so với cùng kỳ 2010. Công ty
cổ phần Liên Á Quốc tế, nhà phân phối chính hãng của Audi tại Việt Nam, cũng cho
biết, tính đến hết tháng 7 năm 2011, Audi đã bán được bằng tổng doanh số xe bán ra
trong năm 2010 và đạt được sự tăng trưởng 169% so với cùng kỳ năm ngoái. World
Auto, nhà phân phối chính thức thương hiệu Volkswagen tại Việt Nam cũng đạt mức
tăng trưởng khá ấn tượng. Trong 8 tháng đầu năm 2011, số lượng xe Volkswagen
bán ra tăng 159% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo dự báo của Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp (Bộ Công
Thương), giai đoạn 2015-2020 nhu cầu ôtô cả nước sẽ tăng lên tới mức 300.000
xe/năm, trong đó xe từ 9 chỗ trở xuống sẽ chiếm tới 60%. Bên cạnh đó, thuế suất
thuế nhập khẩu ôtô nguyên chiếc ngày càng giảm theo lộ trình gia nhập AFTA và
WTO. Đến 2018 thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc từ khu vực ASEAN chỉ còn 0%.
Tác động của thuế nhập khẩu lên tình hình tiêu thụ ô tô:
Năm 2001, thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc chưa qua sử dụng vẫn là 100%.
Thuế linh kiện bộ CKD, IKD luôn ở mức thấp 3-25%
Tháng 11/2005, thuế đối với mặt hàng này giảm từ 100% xuống 90%
Ngày 11/1/2007 - thời điểm gia nhập WTO, thuế ôtô mới nguyên chiếc giảm
từ 90% xuống còn 80%
Tháng 8/8/2007, thuế ôtô mới nguyên chiếc giảm xuống còn 70%
Ngày 19/10/2007, thuế của mặt hàng này còn 60%.
Do được giảm thuế nên năm 2007, lượng xe ô tô nhập khẩu về tăng ở mức kỷ
lục, đạt 28.000 chiếc, gấp hơn hai lần so với năm 2006, kim ngạch nhập khẩu lên tới
523 triệu USD. Năm 2008, lượng xe nhập khẩu về tiếp tục tăng, 2 tháng đầu năm
lượng xe cập cảng Việt Nam đạt khoảng 10.000 chiếc, bằng doanh số 8 tháng đầu
năm 2007. Số liệu từ tổng cục thống kê cho thấy, xe nhập khẩu nguyên chiếc đã xấp
xỉ 80% lượng lắp ráp xe trong nước, tương đương với 44% thị phần, trong khi đó,
Nhóm 8 – K22 Trang 23
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu
vào thời điểm tháng 8/2007, thị phần xe nhập hằng tháng chiếm không quá 25%.
Trước tình hình đó, các thành viên VAMA( hiệp hội xe ô tô VN) cho rằng giảm thuế

nhập khẩu xe nguyên chiếc không hề tác động đến giá thành xe lắp ráp trong
nước( giá ô tô sản xuất trong nước có giảm nhưng không như kỳ vọng). Muốn xe nội
giảm giá thì thuế nhập khẩu linh kiện phải giảm, đồng thời quy mô thị trường phải
lớn.
Như vậy, việc giảm thuế nhập khẩu ô tô năm 2007 đã không những đóng góp lớn
về thuế cho ngân sách mà còn góp phần làm đa dạng hóa các chủng loại sản phẩm,
thương hiệu ô tô cho người tiêu dùng lựa chọn( do nhà nhập khẩu mạnh tay hơn
trong việc nhập khẩu nhiều loại ô tô đắt tiền)
Vì vậy, ngày 21/4/2008, Bộ Tài chính đã chính thức thông báo quyết định tăng
thuế suất nhập khẩu ô tô mới nguyên chiếc dùng chở người từ 70% lên 83%, việc
tăng thuế được áp dụng cho các tờ khai hải quan bắt đầu từ ngày 22/4/2008. Mục
đích của việc tăng thuế lần này mà Bộ Tài Chính đưa ra là để giảm ác tắc giao thông,
giảm tình trạng nhập siêu nhằm kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Nguyên nhân đánh thuế xe nhập khẩu:
• Cơ sở hạ tầng giao thông hiện nay của Việt Nam chưa đủ để đáp ứng nhu cầu đi
lại của hàng triệu ô tô, phương tiện đi lại chủ yếu hiện nay vẫn là xe máy.
• Mức thu nhập của Việt Nam còn rất thấp.
• Ý thức chấp hành pháp luật khi tham gia giao thông của người Việt Nam chưa
thật sự tốt. Do đó, nếu lượng ô tô đi lại trên đường quá đông vượt ngưỡng có thể
kiểm soát được thì ùn tắc chắc chắn sẽ trở thành một bài toán hóc búa, đau đầu.
• Ngoài ra, đối với các nước đang phát triển hay chậm phát triển thì nguồn thu từ
thuế nhập khẩu chiếm một tỷ trọng rất lớn trong thu ngân sách nhà nước.
• Một lý do quan trọng khác, việc sử dụng thuế nhập khẩu giúp bảo hộ ngành công
nghiệp xe hơi còn non trẻ của chúng ta
Có được như mong muốn của các nhà quản lý kinh tế không?
Một chiếc Camry bán tại Việt Nam giá 54.000 USD trong khi tại Mỹ giá bán vào
khoảng 20.000 USD. Chiếc Camry nhập về VN, sau khi cộng thêm các loại phí, thuế,
giá bán ra thị trường vào khoảng 57.000 USD, đắt hơn xe nội 2.000-3.000 USD.
Nhóm 8 – K22 Trang 24
Phân tích tác động của thuế xuất nhập khẩu

Hiện nay, các hãng xe trong nước chỉ đóng thuế linh kiện vào khoảng 23-25%,
trong khi thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc đóng thuế với mức 83%. Như vậy, xe nội
được ưu ái tới gần 60% thuế, nếu tính chi phí cho mỗi chiếc xe thêm 25% thì xe nội
có cơ hội giảm giá bán tới 25%. Giá xe nội chỉ khoảng 42.750 USD. Phải rẻ hơn xe
nhập từ 14.250 USD.
Trong khi giá thực tế chỉ rẻ hơn 2000 – 3000 USD thì khoảng chênh lệch từ
11.250 – 12.250 USD sẽ thuộc các nhà sản xuất xe hơi trong nước để tái đầu tư sản
xuất.
Tham vọng tự xây dựng một nền CN xe hơi cùng với sự nôn nóng của nhà quản
lý với đầy đủ công cụ tài chính, thuế trong tay sau dăm năm triển khai đã khiến
người tiêu dùng lãnh đủ, hệ quả tất yếu là giá xe hơi tại VN thuộc hàng cao nhất thế
giới.
Hiện nay, tỷ lệ nội địa hóa của các nước trong khu vực trung bình đã đạt được 65-
70%, Thái Lan đạt tới 80%. Tại các nước này thuế suất thuế nhập khẩu cũng chỉ ở
mức 5-7%. Hiện cả nước có 397 DN tham gia lĩnh vực ô tô, trong đó có 51 DN lắp
ráp ô tô (13 DN nhà nước, 23 DN tư nhân và 15 DN có vốn đầu tư nước ngoài), 40
DN sản xuất khung gầm, thân xe, thùng xe, 210 DN sản xuất linh kiện phụ tùng và
97 DN sửa chữa. Ngành công nghiệp ôtô VN được đánh giá là một trong những
ngành công nghiệp gần như sớm nhất thu hút được lượng vốn FDI cao với hàng loạt
các tên tuổi lớn của ngành ôtô thế giới như Ford, Toyota, Mercedes - Benz Nhưng
hầu hết các doanh nghiệp chỉ NK linh kiện về lắp ráp mà chưa chú trọng đầu tư sản
xuất phụ tùng linh kiện, gia tăng tỉ lệ nội địa hóa. Cao nhất là Toyota Việt Nam,
thành lập từ năm 1995, là liên doanh đầu tư sản xuất ô tô lớn nhất tại Việt Nam, đến
nay sau 16 năm hoạt động, đạt tỉ lệ nội địa hoá từ 17%-37%. Với các DN 100% vốn
trong nước, "đầu đàn" của DN nhà nước là Tập đoàn Công nghiệp ô tô Việt Nam
(Vina Motor) mới chỉ dừng lại ở lắp ráp xe buýt, xe tải với sản lượng chiếm khoảng
10% thị trường.
Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam thực hiện theo Quyết định
177/2004/QĐ-TTg ngày 5/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn

đến năm 2020:
Nhóm 8 – K22 Trang 25

×