Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

luận văn đề tài lạm phát ở việt nam từ năm 2010 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.37 KB, 22 trang )

z







 !" !


 !"#$
%&%'( )*
+,%*
+- ./012
+3!4 562
+3!7'.8
9:,;<=>>8
9:,;?4 =>@
$$$-ABCD--EF-GH3IJ#EKLMN$OL-HJLPQRB-SJ>>QT--HC>
- ./5( 1>
- ./0( 1
-U( .;V>V-WX#0170Y; Z>X3VL[01\)7<U]Y
"]^5;Y&U5;_`La,b,
5;( %,c4 bde/.<1)5f5=gc)5!101
!1be h1.1b5f;Zi!jb jYf15f5=b)
=<k=1.lhc 5;m@
NJnLopA$q$#EK#$T--AEr?





#$%&'(%%)
1. Phạm Trung Hiếu - NT - 01649.727.456
2. Phạm Trí Trung
3. Nguyễn Văn Hải
4. Phạm Bùi Việt Phương
5. Nguyễn Tiến Lâm
6. Nguyễn Hoàng Long
7. Lê Đức Hoàng
8. Lê Phương Toan
9. Hồ mậu Lượng
+
*+, $/01%'*
23"
Quan điểm phổ thông cho rằng: Lạm phát là hiện tượng tăng lên của mức giá chung tại
một thời điểm. Chúng ta có thể hiểu theo quan điểm này thì giá tăng là lạm phát. Tất nhiên là
không hẳn như vậy. Chúng ta thử nghĩ xem vào dịp Tết tất cả các mặt hàng hầu như đều tăng,
phải chăng đó là lạm phát. Không! Đó chỉ là biến động cung cầu tạm thời, hay nói cách khác nếu
giá tăng trong thời gian ngắn thì không phải cứ coi là lạm phát, chúng ta không nên cường điệu
hóa.
Nhà kinh tế học Milton Fridmen đã định nghĩa: Lạm phát là hiện tượng giá cả tăng
nhanh và kéo dài liên tục trong một thời gian dài. Như vậy với việc hình thành lạm phát theo
quan điểm này, bản chất lạm phát được thể hiện ở tính chất sự tăng giá, với một tốc độ cao và
thời gian dài, đó là đặc thù riêng có của lạm phát. Định nghĩa này cũng được Keynes ủng hộ, phù
hợp với mục tiêu ổn định giá cả trong thời gian dài của các NHTW.
22(!4567"486"
222(9:;6<=>6(1?
CPI được sử dụng một cách phổ biến trong việc đánh giá mức lạm phát . CPI đo lường
mức giá trung bình của 1 nhóm hàng hoá và dịch vụ cần cho tiêu dùng của các hộ gia đình trong
1 giai đoạn nhất định. Chỉ số CPI được tính bằng cách so sánh giá trị hiện tại và giá trị tại kỳ gốc

của rổ hang hoá đã được chọn theo quy định:
• @ACho phép so sánh sự biến động mức giá tiêu dùng theo thời gian.

• 4B!AKhông phản ánh được sự thay đổi trong cơ cầu tiêu dùng , đồng thời cũng
không phản ánh được sự thay đổi về chất lượng của hàng hoá dịch vụ.
Ở Việt Nam , CPI được tính cho toàn quốc và cho từng địa phương, chỉ số giá bình quân
được thông báo hàng tháng, tổ hợp của nhiều tháng và cho cả năm và được công bố cùng chỉ số
giá vàng và chỉ số đô la Mỹ.
222(9:;6CD6:CEF;!G
Chỉ số giảm phát GDP là chỉ số tính theo phần trăm phản ánh mức giá chung của tất cả
các loại hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước. Chỉ số điều chỉnh GDP cho biết một đơn vị GDP
điển hình của kỳ nghiên cứu có mức giá bằng bao nhiêu phần trăm so với mức giá của năm cơ
sở.
• @APhản ánh được sự thay thế giữa các hàng hoá, dịch vụ với nhau.
• 4B!A: Chỉ phản ánh mức giá của những hàng hoá sản xuất trong nước (vì GDP
chỉ tính sản phẩm trong nước) , không phản ánh được sự giảm sút phúc lợi của người tiêu
dùng trong trường hợp phải tiêu dùng ít hơn một loại hàng nào đó.
22H2(9:;"!5IC
Chỉ số lạm phát cơ bản có cách tính tương tự như chỉ số CPI nhưng loại trừ một số mặt
hàng dễ thay đổi giá như lương thực và năng lượng.Hiện nay trên thế giới có nhiều phương pháp
đo lường lạm phát cơ bản nhưng có thể cho chúng vào 3 nhóm chính:
Nhóm phương pháp cơ học: Việc tính toán theo phương pháp này được thực hiện bằng
cách loại bỏ 1 số mặt hàng khỏi rổ CPI với nguyên tắc loại bỏ những hàng hoá đặc trưng bởi
những cú sốc mạnh ( có tính mùa vụ hay liên quan tới cung và giá cả không được hình thành bởi
thị trường).
*
Nhóm phương pháp thống kê: Loại bỏ tác động của những thay đổi thái quá của giá cả
ảnh hưởng tới tỷ lệ lạm phát chung. Nhóm mặt hàng bị loại trừ thay đổi theo từng tháng và phụ
thuộc vào độ biến động giá cả của hàng hoá đó. Các phương pháp thống kê phổ biến nhất bao
gồm pp bình quân thu gọn và pp bình quân gia quyền cộng dồn.

Phương pháp hồi quy: Sử dụng mô hình hồi quy trong kinh tế lượng để đưa các số liệu
thực tế của các biến số vào đánh giá lạm phát cơ bản.
2H26<6J!K"
2H22=7!LMN7
Nguyên nhân do tổng cầu AD – tổng chi tiêu của xã hội tăng lên – vượt quá mức cung
ứng hàng hóa của xã hội dẫn đến áp lực làm tăng giá cả. Nói cách khác, bất kỳ lí do nào làm cho
tổng cầu tăng lên đều dẫn đến lạm phát về ngắn hạn.
Giải thích bằng mô hình
O
Tổng cầu phản ánh nhu cầu có khả năng thanh toán về hàng hóa và dịch vụ của xã hội.
Vậy các lý do làm tổng cầu tăng lên là:
Chi tiêu Chính phủ tăng: Tổng cầu tăng trực tiếp thông qua các khoản đầu tư thuộc lĩnh
vực Chính phủ quản lý hoặc có thể gián tiếp thông qua các khoản chi phúc lợi xã hội tăng và kết
quả là giá cả hàng hóa tăng lên. Khi nhu cầu Chính phủ tăng lên dẫn đến bội chi thì việc phát
hành tiền và đi vay từ các ngân hàng thương mại để bù đắp thiếu hụt rất dễ gây ra lạm phát cao,
kéo dài.
Chi tiêu hộ gia đình tăng lên: do mức thu nhập thực tế tăng lên, lãi suất giảm, do điều kiện
vay tiêu dùng thuận lợi… thúc đẩy AD dịch phải => tạo áp lực lên lạm phát.
2
Ho
H9
>
H9

Nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp tăng lên: xuất phát từ việc dự đoán về triển vọng
phát triển kinh tế, khả năng mở rộng thị trường, do lãi suất đầu tư giảm, điều kiện vay vốn đầu tư
dễ dàng hơn…
Nhu cầu của nước ngoài: Các yếu tố như tỷ giá, giá cả hàng hóa nước ngòa so với trong
nước và thu nhập bình quân của thị trường nước ngoài có những ảnh hưởng quan trọng đến nhu
cầu hàng hóa nhập khẩu và do đó ảnh hưởng đến tổng cầu cũng như mức giá chung nội địa.

Thuế giảm:dẫn đến thu nhập của dân chúng tăng, kích thích tiêu dùng
Cung tiền tăng: Làm cho lãi suất thực giảm, kích thích đầu tư và xuất khẩu ròng, tăng cầu.
2H22=7!OE
Đặc điểm quan trọng của lạm phát chi phí đầy là áp lực tăng giá cả xuất phát từ sự tăng
lên cảu chi phí sản xuất vượt quá mức tăng của năng suất lao động và làm giảm mức cung ứng
hàng hóa của xã hội. Do một số nguyên nhân sau:
- Mức tăng tiền lương tiền lương vượt quá mức tăng của năng suất lao động (thị trường
lao động khan hiếm, yêu cầu tăng lương của công đoàn, lạm phát dự tính tăng).
- Sự tăng lên của mức lợi nhuận ròng của người sản xuất đẩy giá cả hàng hóa tăng lên.
- Do giá cả nội địa của hàng nhập khẩu tăng lên.
- Tăng thuế và các nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước
??2#?PQ?R01%'*(S$?T*$*UV.WR$X
2#YI"Z76
Năm 2010, lạm phát cả nước ở mức 11,75%:Chỉ số tiêu dùng (CPI) tháng 12/2010 của cả
nước tăng 1,98%, qua đó đẩy mức lạm phát năm của cả nước 2010 lên 11,75% so với năm 2009.
Con số này vượt gần 5% so với chỉ tiêu được Quốc hội đề ra hồi đầu năm (khoảng 8%).
Trong khi đó, nếu tính bình quân theo từng tháng (cách tính mới của Tổng cục thống kê) thì
lạm phát năm 2010 tăng 9.19% so với năm 2009.
8
#?PQ?R*[(\*W,(1?
Ta có thể thấy lạm phát tăng cao trong các tháng đầu năm và cuối năm, mức tăng có độ vênh
lớn, tháng cao nhất so với tháng thấp nhất lệch nhau đến hơn 1,5%. 3 tháng đầu năm CPI tăng
cao nhưng ngay sau đó có liền 5 tháng tăng thấp về gần mức 0%, sau đó lại vượt lên trên 1% vào
4 tháng còn lại của năm. Các tháng từ tháng 9 đến tháng 11, mức tăng đều đạt mức kỉ lục của 15
năm trở lại đây.
Tính chung CPI năm 2010, CPI giáo dục tăng mạnh nhất gần 20%. Tiếp đó là hàng ăn
(16,18%), nhà ở - vật liệu xây dựng (15,74%). Các ngành Giao thông, hàng hóa & dịch vụ khác,
thực phẩm đều có mức tăng trên 10%. Bưu chính viễn thông là nhóm duy nhất giảm giá với mức
giảm gần 6% trong năm 2010. Chỉ số giá vàng tăng 36,72%, chỉ giá USD tăng 7,63%.Về CPI
của các vùng miền, đáng chú ý là chỉ số CPI khu vực nông thôn tháng 12 tăng 2,04%; cao hơn

1,87% của khu vực thành thị.
2#YI"]6L
Tính chung từ đầu năm, lạm phát của cả nước đã tăng 15,68% so với thời điểm cuối năm
2010. So với cùng kỳ năm ngoái, mặt bằng giá hiện tại đã cao hơn 23,02%. Nhìn chung lạm phát
nước ta đã có xu hướng tăng đáng kể từ đầu năm. Chỉ số giá tiêu dùng CPI tăng mạnh từ tháng 1
với 1,78% so với tháng trước và đỉnh điểm mức 3,32 ở tháng 4. Thời gian tiếp theo chỉ số CPI có
xu hướng giảm khi các thời điểm tháng 5, 6, 7 có giá trị lần lượt so với tháng trước là 2,21%,
@
1,09%, 1,17%. Đặc biệt với 2 tháng 8, 9 con số này đã giảm xuống dưới 1% hạn chế sự tăng
trưởng của lạm phát.
Đỉnh cao của lạm phát 9 tháng đầu năm 2011 rơi vào tháng 4 với tỷ lệ 9,64% so với cuối
năm 2010, vượt xa ngư•ng 7% mà chính phủ đặt làm mục tiêu cho cả năm vào thời điểm đó.
Nếu so với cùng kỳ năm ngoái, lạm phát đã lên tới 17,51%, cao hơn mức đỉnh lạm phát 16% mà
Ngân hàng Phát triển ‚ châu đưa ra cho Việt Nam.Nhóm hàng và dịch vụ giao thông tăng giá
mạnh, tới 6,04%.
Chỉ số giá tiêu dùng cả nước sau tháng 4 đã có xu hướng giảm xuống và tăng 2,21%
trong tháng 5. Tuy tốc độ tăng có chậm lại so với tháng 4 nhưng mặt bằng giá hiện tại, so với đầu
năm và cùng kỳ 2010, đã cao hơn lần lượt là 12,07% và 19,78%. Đến tháng 6 CPI tăng 1,09 so
với tháng 5, nâng tổng mức lạm phát từ đầu năm đến thời điểm đó lên 13,29% và cùng kỳ năm
2010 là 20,82. Sang tháng 7 CPI tăng nhẹ có giá trị 1,17 so với tháng 6. Tháng 8 chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) cả nước chỉ tăng 0,93% nhờ sự giảm nhiệt đáng kể của nhóm hàng ăn – dịch vụ ăn
uống. Lạm phát tăng thấp nhất kể từ đầu năm là tháng 9 với chỉ số tiêu dùng CPI tăng chỉ là 0,82
so với tháng trước.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, đà tăng giá tại nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống
tiếp giảm tốc khi chỉ tăng 0,28% trong tháng 9 (con số tương ứng của 2 tháng trước đó là 2,12%
và 1,35%). Với quyền số khoảng 40% trong rổ hàng hóa tính CPI, nhóm này đã có tác động lớn
đến việc kiềm chế đà tăng của chỉ số giá (tăng tổng cộng 16,63% kể từ đầu năm). Chỉ số giá ở
nhóm giáo dục tăng rất mạnh, lên tới 8,62% trong tháng 9. Tuy nhiên, con số này vẫn thấp hơn
so với mức 12% của cùng kỳ 2010. Bên cạnh bưu chính - viễn thông có xu hướng giảm khá đều
trong nhiều tháng qua, giao thông là nhóm hàng thứ 2 giảm giá trong tháng này do tác động của

?
quyết định giảm giá xăng vào cuối tháng 8. Mức giảm tại 2 nhóm này lần lượt là 0,07% và
0,24%.
Ngoài các mặt hàng nói trên, tất cả các nhóm còn lại trong rổ hàng hóa đều có xu hướng
tăng nhẹ. Nhóm duy nhất tăng giá trên 1% là hàng hóa - dịch vụ khác (do có sự góp mặt của các
mặt hàng trang sức, vốn chịu tác động mạnh của giá vàng).
???2,.X^%_(S$01%'*`?T*$*UV.WR$X
26<JM!F
Năm 2010 và 9 tháng đầu năm 2011, lạm phát trong nước vẫn nối đà tăng cao của các năm
trước đó. Không thể phủ nhận, lạm phát tăng cao như vậy một phần là do những nguyên nhân
khách quan đến từ thị trường thế giới cũng như trong nước:
- Giá nhiều loại hàng hóa nguyên, nhiên vật liệu chủ chốt như xăng dầu, phôi thép, khí
dầu mỏ trên thị trường thế giới tăng cao đã tác động đến giá xăng dầu, thép xây dựng,
gas, phân bón trong nước tăng cao, điều này ảnh hưởng đến cho chi phí sản xuất, hay
còn gọi là “chi phí đẩy”.
- Giá vàng trên thị trường thế giới tăng đột biến cũng khiến giá vàng trong nước tăng
mạnh gây tâm lý tăng giá lan tỏa sang các hàng hóa tiêu dùng khác trên thị trường.
- Dịch bệnh trên vật nuôi lan rộng và kéo dài (có thời kỳ cả nước có 30/63 tỉnh thành có
dịch bệnh) làm giảm mạnh nguồn cung thực phẩm và gia tăng chi phí chăn nuôi. Ngoài
ra, tình hình thời tiết khắc nghiệt trong một số giai đoạn cũng ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất nông nghiệp và vì vậy ảnh hưởng đến nguồn cung nông sản thực phẩm tại một
số thời điểm gây tăng giá hàng hóa.
- Sức hút từ thị trường các nước lân cận (Trung Quốc, Lào, Campuchia) do chênh lệch
giá một số mặt hàng khi trong nước thực hiện các chính sách bình ổn giá. Thời gian
qua, nhiều mặt hàng, nhất là ở các mặt hàng lương thực, xăng dầu, thực phẩm như thịt
lợn, thủy sản, đã bị thu gom và xuất khẩu qua biên giới cũng góp phần làm mất cân đối
nguồn cung hàng hóa trong nước.
- Việc điều chỉnh lương cơ bản làm chi phí sản xuất bị đẩy lên gây ra lạm phát
>
Tuy nhiên, nếu lập luận cho rằng đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình

trạng lạm phát cao thì hoàn toàn sai toàn sai lầm, do:
- Thứ nhất, khi so sánh lạm phát của Việt Nam với lạm phát của các nền kinh tế khác, ta
có số liệu ở bảng dưới:
Tính đến tháng 9 năm 2011, tốc độ tăng CPI của Việt Nam đã lên đến 16,63%, tiệm cận
mục tiêu 18% đặt ra cho cả năm, cũng là cao hơn các nước khác rất nhiều. Các nước
trên thế giới đều chịu tác động tiêu cực đến từ các thị trường xăng dầu hay thị trường
vàng, vậy tại sao lạm phát của Việt Nam cao hơn một cách đáng xấu hổ như vậy?
- Thứ hai, bão lũ, dịch bệnh đúng là có khắc nghiệt hơn trong những năm gần đây.
Nhưng đây đã là những yếu tố cố hữu ở Việt Nam, năm nào cũng có, không thế vì lý do
này mà lạm phát lại tăng cao đột biến như vậy.
- Thứ ba, việc điều chỉnh tăng lương cơ bản cũng không phải là việc mà trong giai đoạn
2010 – 2011 mới thực hiện:
   H a b c d e ]  
(1? 0,8 4,0 3,0 9,5 8,4 6,6 12,6 19,9 6,52 11,75 9,64 (4
tháng)
,#1 6,79 6,89 7,08 7,34 7,79 8,44 8,23 8,46 6,18 6,32 6,78
456  ;
A
210 210 290 290 350 450 450 540 650 730 830

Có thể thấy, lương cơ bản vẫn tăng đều trong các năm từ năm 2002 đến năm 2011, vậy
tại sao chỉ trong các năm từ năm 2007 trở lại đây, lạm phát mới cao lên đột biến
Từ những lý do trên, rõ ràng không thể nói những nguyên nhân khách quan là yếu tố chính
làm nên tình hình lạm phát căng thẳng như hiện nay, mà nguyên nhân chính phải nằm ở những
yếu tố nội tại của nền kinh tế.
26<J!KF
Lạm phát luôn có nguyên nhân từ tiền tệ, ở Việt Nam, không khó để nhận ra chính sách
tiền tệ đã có sự nới lỏng quá mức trong các giai đoạn trước đó, và hệ luỵ của nó là tỷ lệ lạm phát
cao trong giai đoạn cuối năm 2010 và đầu năm 2011.
Nhưng rõ ràng NHNN không ngây thơ khi thấy tình hình lạm phát căng thẳng mà vẫn tiếp

tục “phải” bơm tiền cho nền kinh tế. Nguồn gốc sâu xa của lạm phát chính là đến từ chính sách
tài khoá mở rộng của Chính phủ, mà cụ thể là sự tập trung quá nhiều vốn cho hoạt động chi tiêu
công kém hiệu quả, yếu tố này cùng với sự thiếu độc lập của NHNN đã tạo sức đẩy cho mức giả
cả chung của nền kinh tế. Cộng thêm nữa, sự thiếu bài bản trong chính sách điều hành nền kinh
tế như: tăng giá đồng loạt nhiều hàng hoá quan trọng, phá giá tiền tệ một cách giật cục đã góp
phần khuếch đại tình trạng lạm phát của Việt Nam.
22(<!f6:gG!"!K%
Chi tiêu công mà cụ thể là những khoản chi tiêu và đầu tư kém hiệu quả của Chính phủ
thông qua các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chính là nguyên nhân chủ quan quan trọng nhất:
Các DNNN này không chỉ được ưu tiên trong việc sử dụng các nguồn tài nguyên của đất nước,
mà còn được phép sử dụng nguồn ngân sách Nhà nước một cách dễ dãi hoặc nhận được rất nhiều
ưu tiên, trợ giúp của Nhà nước thông qua các hoạt động tín dụng cả trong và ngoài nước. Những
ưu tiên về nguồn vốn và việc trả nợ này đã khiến các DNNN không còn nhạy cảm với lợi nhuận,
tiết kiệm, tăng năng suất lao động. Từ đó đã dẫn tới hành vi sản xuất kinh doanh thiếu trách
nhiệm, đầu tư một cách tràn lan; tới khi thua lỗ, thậm chí chỉ kêu lỗ là Nhà nước lại “bơm tiền”
để giải cứu.
Trong khi những thông tin về tình hình hoạt động của các DNNN, việc sử dụng nguồn vốn
Nhà nước cấp hoặc ưu đãi cho vay còn quá bưng bít, thì chỉ khi các DN này rơi vào tình trạng
thua lỗ quá nặng, gẫn như vô phương cứu chữa, thì thông tin mới được truyền ra, trường hợp tiêu
biểu nhất có lẽ là của tổng công ty đóng tàu Việt Nam (VINASHIN) vào năm 2010.
Những khoản đầu tư thua lỗ, việc sử dụng đồng tiền một cách lãng phí khu vực kinh tế Nhà
nước đã dẫn đến tình trạng mặc dù là khu vực được tập trung nhiều vốn nhất nhưng chỉ đóng góp
khoảng 10% vào nguồn thu của Ngân sách Nhà nước mỗi năm, góp một phần không nhỏ cho
tình trạng thâm hụt ngân sách triền miên của Việt Nam:

Ngân sách không dư thừa, nhưng thời gian qua, đặc biệt là trong năm 2010 để phục vụ cho
mục tiêu tăng trưởng, Chính phủ lại tiếp tục hùn vốn cho chi tiêu công, cho khu vực hoạt động
kém hiệu quả của nền kinh tế. Tuy nhiên nếu các DN này đi vay một cách công bằng trên thị
trường tài chính, hiển nhiên theo lý luận kinh tế sẽ làm tăng cầu quỹ cho vay, đẩy lãi suất lên từ
đó có ảnh hưởng tích cực đến lạm phát, nhưng ở đây lại nổi lên vấn đề về tính độc lập của

NHNN. Chính sách tiền tệ của NHNN đưa ra trong các năm qua luôn gắn kèm hai mục tiêu gần
chẳng thế nào thực hiện được cùng lúc: tăng trưởng kinh tế, đi đôi với kiềm chế lạm phát; thế là
khi Chính phủ đánh tiếng thiếu vốn để tăng trưởng kinh tế, NHNN lại phải đi mua các trái phiếu
đã bán từ hệ thống NHTM, đưa thêm tiền vào hệ thống này, việc liên tục tung tiền ra lưu thông
trong khi lạm phát vẫn tăng cao là kịch bản lặp đi lặp lại trong nhiều năm trở lại đây:
Với các ưu đãi của mình, các DN thuộc khu vực kinh tế Nhà nước lại vay được vốn, vòng
xoáy thiếu hiệu quả lặp lại, tiền đưa ra nhiều trong khi sản lượng chẳng tăng lên là bao thì một
+
kết quả tất yếu là lạm phát. Như vậy có thể nói, lạm phát tăng cao trong giai đoạn cuối năm 2010
và đầu năm 2011 là kết quả của chính sách tiền tệ nới lỏng trong thời gian trước đó, mà một phần
rất lớn lượng tiền đó là để phân bổ cho các hoạt động chi tiêu công.
2.2. Khả năng điều hành nền kinh tế
Chính sách tài khoá mở rộng là nguyên nhân chính làm nảy sinh lạm phát, nhưng để có
được mức lạm phát cao như trong giai đoạn cuối năm 2010 và đầu năm 2011, một phần trách
nhiệm thuộc về chính sách điều hành nền kinh tế một cách thiếu bài bản của Chính phủ, cụ thể
gồm:
- Liên tục phá giá đồng tiền Việt.
- Tăng gíá đồng loạt và đột ngột 2 hàng hoá quan trọng là điện và xăng dầu.
+ Phá giá tiền tệ đột ngột
Tính từ thời điểm năm 2010 đến nay, NHNN đã có tổng cộng 3 lần phá giá đồng VND,
trong đó lần phá giá vào tháng 2/2011 là có mức điều chỉnh sốc nhất, khi điều chỉnh giảm giá
VND tới 9.3%
*86 *h  6
.&#i#Z4j!
M6
*h6.&#i#
:M6
Q<  G
67=k!
*h"l#

Ik6
ii 17.941 18.544 +/-3% 3,36%
eiei 18.544 18.932 +/- 3% 2,09%
ii 18.932 20.693 +/- 1% 9,3%
Nhìn chung, nguyên nhân của các lần phá giá đều đến từ việc giữ cố định tỷ giá bình quân
liên ngân hàng trong một thời gian dài, trong khi tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do liên tục lên
cao, đến khi chênh lệch giữa 2 thị trường đã lên tới mức cao thì NHNN mới điều chỉnh giảm giá
một cách đột ngột. Việc điều chỉnh tỷ giá một cách bất ngờ như trên đã có ảnh hưởng rất tiêu cực
đến mức giá cả nền kinh tế, đặc biệt với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất nhiều
vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, việc giảm giá đồng tiền làm chi phí đầu vào tăng lên đáng kể,
kết quả là tình trạng lạm phát leo thang do chi phí đẩy như thời gian vừa qua.

+ Điều chỉnh tăng giá đồng loạt điện và xăng dầu
Điện và xăng dầu là 2 yếu tố đầu vào quan trọng đối với bất kì ngành sản xuất nào, việc điều
chỉnh giá 2 mặt hàng này đòi hỏi phải xem xét dẫn thận trọng và có một thời gian tách biệt nhất
định để tránh ảnh hưởng đến mức giá cả chung. Trong năm 2010 và 2011, cả 2 mặt hàng này
đều được điều chỉnh tăng giá nhiều lần:

Giá xăng dầu liên tục được điều chỉnh, giá điện thì “đến hẹn lại lên”, đặc biệt, trong quý I
năm 2011, cả điện và xăng dầu đều tăng giá rất mạnh. Lý do mà EVN hay PVG đưa ra trong
mỗi lần tăng giá đều là để bù lỗ cho việc phải bán với giá thấp. Nhưng một điều dễ nhận thấy là
trong khi PVG là độc quyền trong lĩnh vực xăng dầu, thì EVN cũng gần như một mình một sân
trên thị trường điện, nếu đã độc quyền như vậy thì làm sao có thể thua lỗ được? Trong khi việc lỗ
lãi vẫn còn mập mờ thì hậu quả tăng giá đã thấy rõ , việc tăng giá đồng loạt trong tháng 3 đã
dẫn tới hậu quả ngay sau đó là mức lạm phát cao ngất ngưởng trong tháng 4 năm 2011.
*
?2('(,?m?1%'1n@o((%p%1%S@$q$
Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh kiềm chế lạm phát là ưu tiên số 1 hiện
nay, ưu tiên nhất quán của Chính phủ, kiềm chế được lạm phát sẽ mang lại hiệu quả cho đời
sống, cho tăng trưởng, cho ổn định kinh tế vĩ mô, cho phát triển bền vững…

Đường biểu diễn chỉ số CPI 6 tháng như một trò chơi lao dốc, bò lên chậm chạp ở sườn
bên này nhưng lại cắm đầu lao dốc rất nhanh ở sườn bên kia. Mỗi dao động ở giai đoạn này đều
gắn với những thay đổi chính sách chóng mặt thời gian gần đây.
Cùng lúc chính phủ tung ra một loạt chính sách điều chỉnh giá xăng dầu, than, điên…
sau một thời gian dài kìm nén, CPI tháng 4 tăng đột biến hơn cả tháng Tết nguyên đán trước đó.
Ngay lập tức các giải pháp thắt chặt tiền tệ, tài khóa đã được sử dụng để kiềm chế lạm phát.
Để đối phó với lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô, Chính phủ đã ban hành và thực thi
Nghị quyết số 11/2010/NQ-CP ngày 24 tháng 2 năm 2011 về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội
+ Chính sách tiền tệ thắt chặt
Tổng phương tiện thanh toán M2 là chỉ tiêu đầu tiên được soi kỹ, theo công bố mới nhất
thì tính đến 10/6 tăng trưởng M2 đạt 2.33%, tương đương khoảng 1/5 con số cùng kỳ năn 2010,
dù nửa đầu năm trước cũng là giai đoạn thực thi chính sách tiền tệ thận trọng. Tăng trưởng tín
dụng cũng mới chỉ đạt 7.05% bằng 2/3 so với cùng kỳ năm ngoái.
Phía cung chịu ảnh hưởng mạnh của loạt điều chỉnh này. Một con số tham khảo là gần
79 tỷ đồng đã được Ngân hàng Nhà nước hút thông qua OMO trong khoảng thời gian mà tổng
cục thống kê thu thập số liệu tính CPI tháng 6. Nhìn vào tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu
dịch vụ tiêu dùng thì tốc độ tăng loại trừ yếu tố giá mấy tháng gần đây đã giảm so với cùng kỳ
các năm trước.
Mới đây NHNN đã áp dụng một số biện pháp để giảm bớt hiện tượng dollar hóa thị
trường bằng cách kiểm soát chợ đen, tăng tỉ lệ dự trữ USD từ 4% lên đến 6%, và giới hạn lãi suất
dành cho tiền USD ký quỹ xuống còn 3%.
2
6 tháng đầu năm 2011, Ngân hàng Nhà nước hút ròng hơn 54 tỷ đồng qua OMO. Nửa
đầu năm 2011, SBV đã điều chỉnh 3 lần lãi suất chiết khấu, 4 lần lãi suất tái cấp vốn, 5 lần lãi
suất OMO. Theo thống kê của Blomberg, 6 tháng đầu năm 2011, SBV đã bơm ra thị trường
2.239.264 tỷ đồng và hút về 2.293.500 tỷ đồng. tức hút ròng 54,235 tỷ đồng.
Nguồn: Báo cáo thống kê CafeF
+ Chính sách tài khóa thắt chặt
Nhà nước đã phải giảm chỉ tiêu phát triển 1% từ 7%-7.5% xuống 6.5% cho năm 2011,

ngừng, đình hoãn, giãn tiến độ thực hiện một số dự án đầu tư của nhà nước.
6FC!!!O:!86F
Các giải pháp nói trên đã đạt được những kết quả ban đầu như tỷ giá có xu hướng ổn
định dần; thị trường ngoại tệ phi chính thức giảm về quy mô và mức độ hoạt động; cung-cầu
ngoại tệ bớt căng thẳng hơn; quy mô thị trường vàng tự do được thu hẹp đáng kể, nhất là vàng
miếng; việc sử dụng vàng làm phương tiện đầu cơ, làm phương tiện thanh toán cũng giảm
hẳn,.v.v…
8
Tuy vậy, việc triển khai Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP và Kết Luận số 02-KL/TW cho
đến nay còn có một số khiếm khuyết sau đây:
• Các giải pháp về tiền tệ đã được thực hiện khá quyết liệt, bám sát nội dung và tinh
thần Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP và Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị. Nhưng, một số
giải pháp, nhất là giải pháp về lãi suất đã tỏ ra là chưa thật hợp lý.
• Khác với chính sách tiền tệ, các giải pháp về tài khóa chưa được thực hiện đúng
theo yêu cầu của Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP và Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị; và
chưa có tác dụng đáng kể. Các địa phương, các ngành vẫn khởi công mới hơn 5000 dự án mới
với số vốn được phân bố hơn 22 nghìn tỷ đồng. Vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước 4
tháng đầu năm vẫn tăng hơn 18% so với cùng kỳ năm ngoái. Số vốn đầu tư được báo cáo là sẽ
cắt giảm, đình hoãn và điều chuyển vẫn còn thấp hoặc chưa đủ độ tin cậy. Danh mục cụ thể các
dự án được cắt giảm vẫn chưa được xác định cụ thể và công bố công khai. Cũng tương tự như
vậy đối với danh mục các dự án sẽ được bổ sung thêm vốn từ việc điều chuyển vốn từ các dự án
bị cắt giảm.
• Một lần nữa, có sự thiếu hụt đáng kể trong phối hợp cần có giữa chính sách tài
khóa và chính sách tiền tệ trong cuộc chiến chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
• Các giải pháp được thực hiện cho đến nay còn mang nặng tính hành chính, ngắn
hạn và tình thế; chưa đặt trong tổng thể các giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng và chuyển
đổi cơ cấu kinh tế; nên chưa hướng đến giải quyết nguyên nhân cơ bản của lạm phát và bất ổn
kinh tế vĩ mô ở nước ta.
Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP của Chính phủ và Kết luận số 02-KL/TW của Bộ chính
trị được đánh giá là phù hợp để kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Thực hiện các biện

pháp chống lạm phát, bên cạnh các kết quả bước đầu, cũng đã gây ra một số khó khăn ngắn hạn
đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, như lãi suất vay vốn cao, khó tiếp cận vốn tín
dụng, tiêu thụ hàng hóa khó khăn, tốc độ tăng trưởng năm nay sẽ thấp hơn so với chỉ tiêu kế
hoạch v.v…
@
2\*&[,?m?1%'13?R,%r
Dựa trên cơ sở phân tích những nguyên nhân dẫn tới tình trạng lạm phát cao ở Việt Nam
trong giai đoạn 2010 -2011, một phân tích đã đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục tình trạng
trên:
• Thứ nhất, đối với hoạt động chi tiêu công và độ độc lập của NHNN:
- Xoá bỏ cơ chế bao cấp, xin cho, ràng buộc ngân sách lỏng lẻo đối với các DNNN,
từ đó nâng cao hiệu quả của hoạt động chi tiêu công. Tất nhiên, khu vực công là
khu vực cần có những ưu tiên nhất định để đảm bảo lợi ích xã hội, nhưng ưu tiên
cũng cần có mức độ để đảm bảo trách nhiệm của các DN trong hoạt động sản xuất
kinh doanh.
- Minh bạch hoá, công khai hoá tình trạng sử dụng vốn, tình hình tài chính của các
DNNN.
- Nâng cao tính độc lập của NHTW trong việc hoạch định chính sách tiền tệ, xác định
mức cung tiền cho nền kinh tế. Hơn nữa, chính sách tiền tệ nên ưu tiên mục tiêu rõ
ràng trong từng giai đoạn, không nên theo đuổi cùng lúc các mục tiêu mâu thuẫn
với nhau, cụ thể trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế đã có dấu hiệu tăng
trưởng quá nóng nhiều năm liền, lạm phát tăng cao, thì nên ưu tiên hơn cho mục
tiêu kiềm chế lạm phát và để mục tiêu tăng trưởng lại phía sau.
• Thứ hai, đối với việc điều hành nền kinh tế của Nhà nước:
- Đối với vấn đề tỷ giá, tỷ giá bình quân liên Ngân hàng nên được điều chỉnh một
cách linh hoạt ( như cách đã áp dụng từ tháng 2/2011) để tránh những cú sốc cho
nền kinh tế khi đột ngột phá giá.
- Việc điều hành giá điện, giá xăng dầu đòi hòi nhiều hơn sự thận trọng, không đề
cập đến lý do tăng giá có là hợp lý hay không, nhưng các lần điều chỉnh cần có một
khoảng cách nhất định về mặt thời gian để nền kinh tế có thời gian đề thích nghi,

tránh tình trạng tăng giá ồ ạt, đồng loạt như thời gian vừa qua, tạo sức ép đẩy lạm
phát lên cao.
?
?2#sQ't*u%%u%01%'**qt,*%v?,?$*w?
Việc dự đoán diễn biến tình hình kinh tế vĩ mô, đặc biệt là các chỉ tiêu lạm phát từ nay
đến cuối năm có ý nghĩa sống còn với các hoạt động đầu tư, thương mại, tài chính trong thời gian
tới.
Nguyên nhân lạm phát đã được xác định, nhiều biện pháp kiềm chế đã đưa ra, song câu
hỏi lớn nhất vẫn là: lạm phát sẽ dừng lại ở mức nào. Sáng 23/9 trong cuộc hội thảo bàn về kinh tế
VN, các chuyên gia đưa ra hai kịch bản lạm phát cho năm 2011, đều e ngại khả năng lạm phát
cuối năm có thể lên 24% trước chính sách bơm tiền mạnh, giá vàng cao
Trong hội thảo kinh tế Việt Nam 2011 - triển vọng năm 2012 diễn ra ở TP HCM sáng
23/9, tiến sĩ Phạm Đỗ Chí, chuyên viên cấp cao chương trình Star Plus đưa ra hai kịch bản lạm
phát năm 2011:
Một là: Lạm phát có thể tăng tốc nhanh trong hai tháng cuối năm, ở mức 19-20%. Theo
số liệu của Tổng Cục thống kê, lạm phát 8 tháng đầu năm đã là 15,68%.Dự báo này dựa trên
nhiều yếu tố. Trước hết là do nhu cầu tiêu dùng cao trong mùa lễ tết sắp tới. Cùng với đó là
chính sách thắt chặt tiền tệ làm giảm nhu cầu khu vực tư nhân, nhưng không đủ để làm giảm tổng cầu
trong nền kinh tế.
Hai là: Lạm phát có thể lên tới 24% vào cuối năm nay, do giá vàng trong nước thời gian qua cao
hơn thế giới nhưng người ta vẫn đổ xô mua vào, cho thấy tâm lý lo ngại lạm phát vẫn rất nặng nề
trong lòng người dân. Bên cạnh đó, tỷ giá và việc điều chỉnh lương tối thiểu, giá xăng, dầu,
điện có thể tác động tiêu cực lên chỉ số giá tiêu dùng những tháng cuối năm do tâm lý "tát nước
theo mưa".
3k!IC"a6!;
Tháng 9 22,64%
Tháng 10 23,31%
Tháng 11 23,48%
Tháng12 24,11%
Câu hỏi “ Việt Nam nên chọn cái nào giữa lạm phát và tăng trưởng”. Việc ưu tiên cái

nào và hi sinh giữa cái gì và cái gì cần phải rất linh hoạt. Lạm phát cao, dẫn đến áp dụng biện
pháp kích cầu để kiềm chế lạm phát, và một tất yếu là tăng trưởng bị chậm lại.
>
Theo một số nghiên cứu trước đây thì ngư•ng lạm phát Việt Nam nên là 5-6%. Khi chọn
mức lạm phát 5-6% làm ngư•ng, thì nếu lạm phát Việt Nam ở dưới mức này để tăng tốc độ tăng
trưởng, Chính phủ có thể thực hiện các giải pháp tăng lạm phát và việc tăng lạm phát cho đến
ngư•ng 6% không quá nguy hại đến kinh tế. Nếu lạm phát trên ngư•ng 6%, để tăng trưởng kinh
tế, Chính phủ lại phải điều tiết giảm lạm phát.
2b2#gI7"86j
Việc dự đoán diễn biến tình hình kinh tế vĩ mô, đặc biệt là các chỉ tiêu lạm phát từ nay
đến cuối năm có ý nghĩa sống còn với các hoạt động đầu tư, thương mại, tài chính trong thời gian
tới.
Nguyên nhân lạm phát đã được xác định, nhiều biện pháp kiềm chế đã đưa ra, song câu
hỏi lớn nhất vẫn là: lạm phát sẽ dừng lại ở mức nào. Sáng 23/9 trong cuộc hội thảo bàn về kinh tế
VN, các chuyên gia đưa ra hai kịch bản lạm phát cho năm 2011, đều e ngại khả năng lạm phát
cuối năm có thể lên 24% trước chính sách bơm tiền mạnh, giá vàng cao
Trong hội thảo kinh tế Việt Nam 2011 - triển vọng năm 2012 diễn ra ở TP HCM sáng
23/9, tiến sĩ Phạm Đỗ Chí, chuyên viên cấp cao chương trình Star Plus đưa ra hai kịch bản lạm
phát năm 2011:
Một là: Lạm phát có thể tăng tốc nhanh trong hai tháng cuối năm, ở mức 19-20%. Theo
số liệu của Tổng Cục thống kê, lạm phát 8 tháng đầu năm đã là 15,68%.Dự báo này dựa trên
nhiều yếu tố. Trước hết là do nhu cầu tiêu dùng cao trong mùa lễ tết sắp tới. Cùng với đó là
chính sách thắt chặt tiền tệ làm giảm nhu cầu khu vực tư nhân, nhưng không đủ để làm giảm tổng cầu
trong nền kinh tế.
Hai là: Lạm phát có thể lên tới 24% vào cuối năm nay, do giá vàng trong nước thời gian qua cao
hơn thế giới nhưng người ta vẫn đổ xô mua vào, cho thấy tâm lý lo ngại lạm phát vẫn rất nặng nề
trong lòng người dân. Bên cạnh đó, tỷ giá và việc điều chỉnh lương tối thiểu, giá xăng, dầu,
điện có thể tác động tiêu cực lên chỉ số giá tiêu dùng những tháng cuối năm do tâm lý "tát nước
theo mưa".
3k!IC"a6!;

Tháng 9 22,64%

Tháng 10 23,31%
Tháng 11 23,48%
Tháng12 24,11%
Câu hỏi “ Việt Nam nên chọn cái nào giữa lạm phát và tăng trưởng”. Việc ưu tiên cái
nào và hi sinh giữa cái gì và cái gì cần phải rất linh hoạt. Lạm phát cao, dẫn đến áp dụng biện
pháp kích cầu để kiềm chế lạm phát, và một tất yếu là tăng trưởng bị chậm lại.
Theo một số nghiên cứu trước đây thì ngư•ng lạm phát Việt Nam nên là 5-6%. Khi chọn
mức lạm phát 5-6% làm ngư•ng, thì nếu lạm phát Việt Nam ở dưới mức này để tăng tốc độ tăng
trưởng, Chính phủ có thể thực hiện các giải pháp tăng lạm phát và việc tăng lạm phát cho đến
ngư•ng 6% không quá nguy hại đến kinh tế. Nếu lạm phát trên ngư•ng 6%, để tăng trưởng kinh
tế, Chính phủ lại phải điều tiết giảm lạm phát.
Kết luận:
Giảm thiểu các tác động tiêu cực của lạm phát là một vấn đề mang tính chất vĩ mô,
đặc biệt với nền kinh tế Việt Nam khi mà tỷ lệ lạm phát cao hơn rất nhiều so với các
nước trong khu vực. Trong thời gian tới, vấn đề lạm phát còn diễn biến khó lường.
Thiết nghĩ giữa Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần có sự phối hợp đồng bộ hơn
nữa nhằm đạt được mục tiêu đề ra, ngăn chặn sự tăng lên quá tầm kiểm soát của lạm
phát, ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế, cũng như đời sống người dân.


×