I. Đặt vấn đề
Việt Nam tiến hành Đổi mới toàn diện nền kinh tế năm 1986, từ đó tới nay,
qua 26 năm, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển to lớn, đạt được tốc độ
tăng trưởng kinh tế trung bình khoảng 7 - 8%/ năm. Nền kinh tế lớn thứ 6 ở Đông
Nam Á và lớn thứ 42 trên thế giới xét theo quy mô tổng sản phẩm nội địa danh
nghĩa năm 2012 với 121 tỷ USD và đứng thứ 128 xét theo tổng sản phẩm nội địa
danh nghĩa bình quân đầu người. Việt Nam đã trở thành một nước có nền kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN, là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế trên thế
giới như: Liên Hợp Quốc, WTO, IMF, WB, ADB, APEC, ASEAN, Việt
Nam còn tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do đa phương với các nước
ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc,… Tuy nhiên, bên cạnh đó còn nhiều
hạn chế mà Việt Nam mắc phải. Tất cả điều đó đã được đánh giá trên những chỉ số
phát triển, các bảng xếp hạng do các tổ chức quốc tế trên thế giới xếp hạng.
II. Xếp hạng các chỉ số phát triển của Việt Nam trên bảng xếp hạng thế giới
2.1. Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product - GDP)
Trong bảng xếp hạng giá trị tổng sản phẩm nội địa theo sức mua (PPP) của
các quốc gia năm 2012 của Ngân hàng thế giới (WB) công bố vào tháng 7/2013,
Việt Nam đứng thứ 42/ 177 nước được xếp hạng. Có thể nói đây là nỗ lực rất lớn
của Việt Nam trong những năm qua, tăng 6 bậc so với năm 2011.
Tuy nhiên, có một điều đáng chú ý là, theo bảng xếp hạng này tổng sản
phẩm quốc nội theo sức mua (GDP - PPP) của Việt Nam năm 2012 là 322,72 tỷ
USD, vượt trên cả Na-uy (315 tỷ USD), Đan Mạch (231,4 tỷ USD) hay Phần Lan
(206,1 tỷ USD). Phải chăng bảng xếp hạng đã có những nhầm lẫn? Trên thực tế,
không hề có sự nhầm lẫn nào cả. Bảng xếp hạng GDP trên được WB thực hiện dựa
trên ngang giá sức mua (PPP) và khác với GDP danh nghĩa của Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF) công bố, Việt Nam xếp hạng 51 trong danh sách này với hơn 141 tỷ USD.
Nguyên nhân là do, GDP theo PPP của các quốc gia đang phát triển thường cao
hơn GDP danh nghĩa do 1 USD tại các nước này có sức mua lớn hơn tại các nước
phát triển.
Ví dụ: 1 bát phở ở Việt Nam giá 2 USD thì Nhật Bản bán 10 USD. Nhưng
khi quy ra ngang giá, người ta sẽ lấy giá bát phở ở Nhật Bản làm chuẩn, lúc đó 1
bát phở ở Việt Nam được nâng lên 5 bát phở.
1
GDP tương đương giá sức mua cũng là một cơ sở để đo lường độ lớn của
một nền kinh tế. Nhưng chúng ta phải xem GDP tương đương sức mua đó bao
nhiêu là của chúng ta, bao nhiêu là của người khác. Một nền kinh tế dù xếp thứ 42
thế giới nhưng nếu giá trị gia tăng đem về chỉ giống như tỉ lệ gia công trong ngành
dệt may thì nên nhìn nền kinh tế giống như tỉ lệ gia công đó thôi chứ không phải
sức chúng ta làm được hoàn toàn như thế. Do đó, không nên lạc quan quá khi nhìn
nhận xếp hạng GDP tính ngang giá sức mua của nước ta. Mặt khác, nếu nhìn lại
thứ hạng ấy với số dân của Việt Nam thì chúng ta không quá lạc quan. Bởi, trên thế
giới, dân số Việt Nam đứng thứ 13, nên tương xứng thì nền kinh tế Việt Nam cũng
phải xếp thứ 13 trên thế giới, nhưng GDP lại chỉ đứng thứ 42 thì cho thấy nên kinh
tế Việt Nam quá yếu kém (Theo chuyên gia kinh tế Nguyễn Quang A).
Đồng quan điểm, TS. Bùi Kiến Thành cũng cho rằng, bảng xếp hạng này chỉ
mang tính chất tham khảo là chính chứ không nên xem đó là "thành tích" mà chúng
ta đã đạt được. WB là một tổ chức quốc tế, dù có cơ quan hoạt động tại Việt Nam
nhưng không thể "tường tận chuyện trong nhà" được.
"Các con số thống kê chỉ thể hiện được một phần nào bức tranh, chứ không
miêu tả hết được bức tranh đó. Giống như bộ quần áo mặc hàng ngày cho chúng ta
thấy nhiều thứ, nhưng cũng che giấu những điểm quan trọng nhất. Nói thế để thấy
phải rất thận trọng với con số thống kê, nhất là của các tổ chức quốc tế thì tham
khảo là chính" – TS. Bùi Kiến Thành bày tỏ quan điểm.
Thường thì người ta ít sử dụng GDP ngang giá sức mua để đánh giá một nền
kinh tế. Thực tế muốn đánh giá một nền kinh tế người ta thường dựa vào GDP thực
tế hoặc GDP danh nghĩa. GDP danh nghĩa được nhiều người sử dụng hơn vì nó sát
vì thực tế đất nước hơn. Hiện nay GDP tính theo đầu người của Việt Nam chỉ ở
mức 120 tỉ USD. Nếu tính theo GDP ngang giá sức mua thì GDP của VN đã được
lên 322 tỉ USD giống như tính theo giá của Nhật Bản, Mỹ, châu Âu.
2.2. Chỉ số phát triển con người (HDI)
Chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI) là chỉ số so
sánh, định lượng về mức thu nhập, tỷ lệ biết chữ, tuổi thọ và một số nhân tố khác
2
của các quốc gia trên thế giới. HDI giúp tạo ra một cái nhìn tổng quát về sự phát
triển của một quốc gia.
HDI là một thước đo tổng quát về phát triển con người. Nó đo thành tựu
trung bình của một quốc gia theo ba tiêu chí sau:
1. Sức khỏe: Một cuộc sống dài lâu và khỏe mạnh, đo bằng tuổi thọ trung bình.
2. Tri thức: Được đo bằng tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học các cấp
giáo dục (tiểu học, trung học, đại học).
3. Thu nhập: Mức sống đo bằng GDP bình quân đầu người.
Tuy nhiên tới năm 2010, HDI được tính toán theo một cachs mới, đó là dựa
trên các chỉ số về tuổi thọ, giáo dục (số năm học trung bình và số năm học mong
đợi) và thu nhập bình quân đầu người (GNI) tính theo sức mua tương đương
(PPP).
Trong bảng xếp hạng Chỉ số phát triển con người của Chương trình phát
triển Liên hợp quốc (UNDP) năm 2012, Việt Nam đứng thứ 112/187 quốc gia
được xếp hạng. Việt Nam nằm trong số 40 nước đang phát triển đạt được những
tiến bộ vượt xa dự kiến về phát triển con người trong giai đoạn 1990 đến 2012
(Theo UNDP, 2013).
Bảng 1: Xếp hạng chỉ số HDI của Việt Nam qua các năm (2005 – 2012)
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Giá
trị
0.704 0.709 0.733 0.572 0.728
HDI 108/17
7
109/17
7
105/17
7
116/18
2
113 116 112/187
Tuy HDI Việt Nam có tăng trong các năm qua nhưng lại rất chậm so với các
quốc gia khác. Trong khi đó các chỉ số HDI các nước trong khu vực như Indonesia,
Lao, Campuchia, Thái Lan, Phillipines không ngừng tăng lên, vị trí xếp hạng
ngày càng tăng. Ngược lại, vị trí xếp hạng VN ngày càng tụt dần, năm 2005 hạng
108 đến 2010 hạng 113, năm 2012 tụt lại đằng sau, hạng 127, đẩy VN vào nhóm
có chỉ số HDI trung bình dưới. Việt Nam vẫn còn khoảng cách quá xa để bắt kịp
các nước trong khu vực. Khoảng cách chỉ số HDI của Việt Nam với các nước phát
triển còn rất lớn.
3
Nguyên nhân là do những con số đáng chú ý như tỉ lệ trẻ còi xương và suy
dinh dưỡng, tỉ lệ tử vong bà mẹ ở nông thôn và miền núi rất cao, chỉ 40% trẻ em
miền núi đi học mầm non, chỉ gần 60% nhóm hộ nghèo nhất nhập học trung học cơ
sở, trong khi đến bậc đại học chỉ còn chưa đến 1%, tỉ lệ đói nghèo đa chiều của các
nước lên tới 23,3%,… Do thực tế trong thời gian qua, do còn chú tâm nhiều hơn về
tăng trưởng kinh tế, Việt Nam chưa đầu tư thích đáng cho một sô mặt phát triển
con người quan trọng khác như y tế và giáo dục. Bên cạnh đó, còn tồn tại các vấn
đề hiệu quả đầu tư thấp, chênh lệch chất lượng dịch vụ giữa các vùng, mức độ tiếp
cận dịch vụ khác nhau giữa các nhóm kinh tế - xã hội, biến đổi thiên nhiên khó
lường và năng lực ứng phó chưa cao,… đã hạn chế rất nhiều về tiến bộ phát triển
vì con người một cách toàn diện.
Hạn chế của HDI: chỉ số này chưa phản ánh một số chỉ số liên quan khá
quan trọng khác như bình đẳng giới, mức độ tôn trọng quyền con người.
2.3. Giá trị xuất - nhập khẩu
Theo xếp hạng của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), thứ hạng của Việt
Nam xét theo kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa trong năm 2003 lần lượt ở
vị trí 50 và 42 trên toàn thế giới. Tuy nhiên, 10 năm sau đó, đặc biệt, khi hội nhập
WTO thứ hạng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đã tăng 13 bậc và xếp ở vị trí thứ
37 trong số các nước, vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, trong khi nhập khẩu của
Việt Nam cũng tăng 18 bậc và hiện đang đứng ở vị trí thứ 34.
Bảng 2: Thứ hạng xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam theo thống kê của WTO
giai đoạn 2003-2012
Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 201
1
2012
Xuất khẩu 50 50 49 50 50 50 40 40 41 37
Nhập khẩu 42 44 44 44 41 42 36 34 33 34
Sau 6 năm là thành viên của WTO, thương mại hàng hóa của Việt Nam
trong năm 2012 đã đạt 228,31 tỷ USD, cao hơn gấp 2 lần so với kết quả thực hiện
của năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên WTO. Trước đó, xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hóa của Việt Nam đã cán mốc 200 tỷ USD vào những ngày cuối cùng
của năm 2011. Có thể thấy, những con số trên đang phản ánh sự phát triển vượt
4
bậc của lĩnh vực ngoại thương hàng hóa của nước ta. Tuy nhiên, những con số ấy
cũng chưa thể phản ảnh toàn bộ bức tranh xuất nhập khẩu của Việt Nam hiện nay.
Không thể phủ nhận, xuất nhập khẩu của ta vẫn đang có những bước đi khá vững
chắc, song không thể nói là bền vững. Bằng chứng là, thời gian qua, xuất khẩu
nông lâm thủy sản – những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta lại đang có dấu
hiệu tuột dốc, rõ nét nhất là ở lĩnh vực xuất khẩu gạo.
Số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho hay, khối lượng
khối lượng xuất khẩu gạo 8 tháng đầu năm 2013 ước đạt 4,69 triệu tấn và 2,05 tỷ
USD, giảm 15,7% về khối lượng và giảm 18,4% về giá trị so với cùng kỳ năm
2012. Không những giảm về khối lượng và cả giá trị, giá gạo xuất khẩu cũng tiếp
tục giảm. Tương tự, mặt hàng cà phê, đã từng chiếm giữ vị trí hàng đầu trong lĩnh
vực xuất khẩu, song thời điểm này cũng đang bộc lộ những điểm yếu khi số lượng
xuất khẩu đã sụt giảm đi nhiều so với trước.
"Bi đát” nhất có lẽ phải nói đến ngành thủy sản, đặc biệt là cá tra. Hoa Kỳ là
nước nhập khẩu truyền thống mặt hàng cá tra Việt Nam nhưng hiện nay, nước này
đang khép dần cánh cửa đối với sản phẩm này. Hàng loạt những rào cản thương
mại từ Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đang trở thành những ám ảnh đối với ngành
cá tra Việt Nam.
Như vậy, rõ ràng, Việt Nam đang có nhiều thế mạnh trong lĩnh vực xuất
nhập khẩu song vẫn đang hoàn toàn bị động trước mọi biến cố của thế giới khi mà
các DN xuất khẩu vẫn bị phụ thuộc vào giá thế giới cũng như không tự tin mỗi khi
có sự vụ xảy đến với mình. Một vấn đề rất nan giải hiện nay là chính sách của ta
vẫn ở tình trạng thiếu tầm chiến lược, thiếu sự dài hơi, nên không thể tạo được
những thuận lợi cho các DN Việt Nam khi bước ra "biển lớn”. Ngoài những bất
cập về chính sách, bản thân các DN Việt Nam cũng vẫn còn tồn tại tư duy làm ăn
manh mún, không có định hướng dài hơi, vẫn vì lợi ích trước mắt mà bỏ qua
những thứ mang tính bền lâu… Và khi vẫn còn tồn tại tư duy đó trong kinh doanh
thì không chỉ thua trên "sân khách” mà ngay tại "sân nhà”, chúng ta cũng không
qua được các DN nước ngoài.
2.4. Bảng xếp hạng Độ phồn vinh (Prosperity)
Bảng xếp hạng này được Viện Legatum Inststute, London công bố hàng
năm, được khảo sát trên 110 quốc gia. Bảng xếp hạng được đánh giá trên 8 chỉ
5
tiêu: kinh tế, năng động và cơ hội, quản trị, giáo dục, y tế, độ an toàn, tự do cá
nhân và vốn xã hội.
Theo kết quả báo cáo qua các năm, xếp hạng độ phồn vinh của Việt Nam
qua các năm như sau:
+ Năm 2009: 50/110
+ Năm 2010: 60/110
+ Năm 2011: 62/110
Qua đó, xếp hạng độ phồn vinh của Việt Nam bị thụt 12 bậc trong bảng xếp hạng
trong 2 năm. Trong đó, xếp hạng từng chỉ tiêu:
STT Chỉ tiêu Điểm Xếp hạng
1 Kinh tế +1.07 40/110
2 Năng động và cơ hội -1.04 78/110
3 Quản trị -0.30 58/110
4 Giáo dục -0.80 82/110
5 Y tế +0.1 73/110
6 Độ an toàn +0.22 50/110
7 Tự do cá nhân -0.95 74/110
8 Vốn xã hội -0.80 79/110
Về kinh tế, Việt Nam đứng thứ 40/110, với +1.07 điểm, thuộc loại trung
bình khá trên thế giới. Đánh giá kinh tế ở đây không phải là về thu nhập (nếu tính
thu nhập theo đầu người thì VN thuộc vào loại trung bình yếu), mà là tổng hợp
nhiều khía cạnh, trong đó có độ phát triển, độ tiết kiệm, tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát,
độ giầu có, v.v.
2.5 Môi trường kinh doanh của Việt Nam
Theo báo cáo thường niên về Môi trường kinh doanh của Việt Nam và thế
giới “Doing Business 2014” (tính đến 6/2013) của WB và IFC công bố ngày
29/10/2013, trong đợt khảo sát năm nay, Việt Nam ở vị trí thứ 98/ 183 quốc gia
được xếp hạng về môi trường kinh doanh, thấp hơn một bậc so với bảng xếp hạng
“Doing Bussiness 2013”
Báo cáo dựa trên 10 chỉ tiêu, bao gồm: Thành lập doanh nghiệp, cấp phép
xây dựng, tiếp cận điện năng, đăng kí tài sản, vay vốn tín dụng, bảo vệ nhà đầu tư,
nộp thuế, thương mại quốc tế, thực thi hợp đồng, xử lí doanh nghiệp mất khả năng.
Trong đó 5/10 chỉ tiêu của Việt Nam bị xếp ở nhóm ngoài 100. Cụ thể:
6
Bảng 3: So sánh xếp hạng các chỉ tiêu của Việt Nam
Các tiêu chí đánh giá
Năm 2013
(trên 189 nước)
Năm 2014
(trên 183 nước)
Mức độ thuận lợi kinh doanh 99 98
1. Thành lập kinh doanh 108 109
2. Cấp phép xây dựng 28 29
3. Tiếp cận điện năng 155 156
4. Đăng ký tài sản 48 51
5. Vay vốn tín dụng 40 42
6. Bảo vệ nhà đầu tư 169 157
7. Nộp thuế 138 149
8. Thương mại quốc tế 74 65
9. Thực thi hợp đồng 44 46
10. Xử lý doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán
149 149
Qua bảng số liệu trên ta thấy, có 6 chỉ tiêu Việt Nam bị rớt điểm so với năm
ngoái, 3 chỉ tiêu tăng là bảo vệ nhà đầu tư, thương mại quốc tế và thực thi hợp
đồng. Riêng lĩnh vực nộp thuế tụt 11 bậc. Nhiều lĩnh vực sát sườn khác với doanh
nghiệp cũng ở gần mức “đội sổ” toàn cầu như về Bảo vệ nàh đầu tư xếp vị trí
157/189 nước, tiếp cận điện năng xếp hạng 156 hay xử lí doanh nghiệp phá sản xếp
vị trí 149.
WB lí giải nguyên nhân khiến Việt Nam không tăng được bậc nào vì nhiều
quốc gia đang cải thiện mạnh mẽ hơn. Trong khi đó, ở Việt Nam, nhiều lĩnh vực
“sát sườn” vẫn còn là những thách thức với các doanh nghiệp. Ví dụ, khả năng bảo
vệ nhà đầu tư của Việt nam xếp hạng thấp nhất trong 10 lĩnh vực, đứng thứ
157/189 nước. Trong lĩnh vực thuế, daonh nghiệp mất tới 1/3 thời gian làm việc
trong năm để đi đóng thuế (872 giờ, gấp 10 lần Singapo).
Các chuyên gia WB cho rằng, xếp hàng này của Việt nam vẫn không có
nhiều cải thiện mặc dù đã thực hiện 21 cải cách kể từ năm 2005 – nhiều nhất trong
khu vực Đông Á Thái Bình Dương. Và điều này cho thấy, Việt Nam vẫn còn nhiều
việc phải làm để cải thiện thứ bậc. Vì vậy, Việt Nam cần có các biện pháp tăng
cường bảo vệ nhà đầu tư và nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp trong nước.
7
2.6. Chỉ số trí tuệ toàn cầu và Đổi mới toàn cầu (GII)
Bảng xếp hạng trí tuệ toàn cầu sử dụng Chỉ số Đổi mới toàn cầu để thiết lập
bảng xếp hạng hằng năm của các quốc gia trên thế giới. Đó là một chỉ số đánh giá
về trí tuệ, về hoạt động và thành quả của hoạt động trí tuệ con người, không phụ
thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, về tài sản thừa kế, vay mượn, cướp bóc hay
những may mắn bất ngờ nào cả.
Chỉ số Đổi mới toàn cầu hay còn được gọi là chỉ số sáng tạo toàn cầu
(Global Innovation Index) được đưa ra năm 2007 bởi Tổ chức sở hữu trí tuệ toàn
cầu (WIPO), thuộc Liên Hiệp Quốc, kết hợp với một số công ty lớn và tổ chức phi
lợi nhuận khác. Mục đích của chỉ số này là đưa ra các đánh giá về độ sáng tạo/đổi
mới của mỗi quốc gia một cách toàn diện nhất.
Theo cách đánh giá truyền thống, chỉ số sáng tạo/đổi mới của quốc gia theo
các tiêu chí như số lượng tiến sĩ, số lượng bài báo nghiên cứu khoa học được công
bố, số bằng sáng chế, kinh phí dành cho R&D chiếm bao nhiêu phần trăm GDP,
Tuy nhiên, các tiêu chí đó không phản ảnh đúng nhiều mặt mức độ sáng tạo của
quốc gia. Chỉ số mới được đánh giá không chỉ dựa trên độ sáng tạo trong nghiên
cứu khoa học, mà còn chỉ số sáng tạo trong xã hội, chỉ số sáng tạo trong các mô
hình kinh doanh.
Cách đánh giá: GII được đưa ra dựa trên hai nhóm chỉ số: nhóm chỉ số đầu
vào và nhóm chỉ số đầu ra.
- Nhóm chỉ số đầu vào gắn chặt với các yếu tố quốc dân, làm nền tảng và
tiền đề cho các hoạt động đổi mới/sáng tạo. Gồm 5 chỉ số cơ bản:
+ Tổ chức (Institutions)
+ Nguồn nhân lực và nghiên cứu (Human capital and research)
+ Cơ sở hạ tầng (Infrastructure)
+ Độ chín của thị trường (Market sophistication)
+ Mức hoàn thiện kinh doanh (Business sophistication)
- Nhóm chỉ số đầu ra biểu thị cho kết quả của quá trình đổi mới/sáng tạo.
Gồm 2 chỉ số cơ bản:
+ Kết quả khoa học (Scientific outputs)
+ Thành quả sáng tạo (Creative outputs)
Bảng 4: Chỉ số Đổi mới của Việt Nam và các nước xung quanh
Năm Số Điể Việt Nam Malaysia Singapore Thái Lan
8
nước/vùng
lãnh thổ
m
cao
nhất
Điểm Bậc Điểm Bậc Điểm Bậc Điểm Bậc
2008 153 5.8 2.38 65 3.47 26 4.1 7 3.01 34
2009 130 5.28 2.97 64 4.06 25 4.81 5 3.4 44
2010 132 4.66 2.59 71 3.77 28 4.65 7 3.06 60
2011 125 74.1 36.71 51 44.0
5
31 74.11 1 43.33 48
2012 141 68.2 33.9 76 45.9 64.8 68.4 3 36.9 57
Năm 2012, với vị trí xếp hạng 76/141, Việt Nam được đánh giá là quốc gia
có hoạt động sáng tạo tích cực cùng với những nước khác như Trung Quốc và Ấn
Độ. Đến năm 2013, mặc dù Việt Nam có sự tăng trưởng về điểm số so với năm
trước, đạt 34,8 so với 33,9 điểm; nhưng vẫn giữ nguyên vị trí thứ 76 và xếp thứ 5
trong khu vực Đông Nam Á.
2.7. Năng lực cạnh tranh toàn cầu (Global Competitiveness Index - GCI)
Báo cáo cạnh tranh toàn cầu là một bản tin hàng năm được xuất bản bởi
Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) phát hành lần đầu vào năm 1979. Báo cáo này
“nhằm đánh giá khả năng cung cấp mức độ thịnh vượng cao hay thấp đối với dân
chúng ở mỗi quốc gia, trong đó có công bố “chỉ số cạnh tranh quốc gia” nhằm đo
lường khuynh hướng của các thế chế, chính sách, những nhân tố tạo thành trạng
thái hiện thời và những mức giới hạn về trạng thái thịnh vượng kinh tế”.
Dựa trên bốn yếu tố cơ bản hàng đầu được coi là ảnh hưởng tới chỉ số cạnh
tranh của quốc gia gồm: lạm phát, cơ sở hạ tầng, lao động có trình độ và mức độ
tham nhũng, WEF sẽ xếp hạng các quốc gia trên toàn cầu.
Báo cáo này đã được thực hiện hàng chục năm qua và cho thấy bức tranh
tổng quan và toàn diện về những điểm mạnh, điểm yếu của nền kinh tế các nước,
từ đó tự họ nhận định cơ hội và thách thức. Xếp hạng của WEF cũng phản ánh các
nhân tố ảnh hưởng tới môi trường kinh doanh của một quốc gia, vốn cũng là các
yếu tố cơ bản đối với tăng trưởng kinh tế bền vững.
Trong bản báo cáo xếp hạng về năng lực cạnh tranh của 148 quốc gia và
vùng lãnh thổ trên thế giới năm 2013, Việt Nam nằm trong nhóm giữa bảng với vị
trí 70, được tổng điểm là 4,18. Quốc gia đứng đầu bảng là Thụy Sỹ được 5,67
9
điểm. Trong xếp hạng năm ngoái, Việt Nam đứng ở vị trí thứ 75. Tuy thăng 5
hạng, nhưng Việt Nam vẫn bị đánh giá là có năng lực cạnh tranh kém hơn so với
nhiều quốc gia trong cùng khu vực Đông Nam Á được xếp hạng, như Singapore (vị
trí số 2), Malaysia (24), Brunei (26), Thái Lan (37), Indonesia (38) và Philippines
(59). Các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á có xếp hạng sau Việt Nam là Lào
(81), Campuchia (88) và Myanmar (139).
Báo cáo WEF cho biết, thăng 5 hạng, Việt Nam đã lấy lại được một số bậc
bị mất trong xếp hạng năm ngoái. “Tiến bộ này có được chủ yếu là kết quả của sự
cải thiện trong xếp hạng môi trường kinh tế vĩ mô (hạng 87, tăng 19 bậc)… cũng
như sự cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng giao thông và năng lượng, dù còn ở mức
thấp (hạng 82, tăng 13 bậc)”. Tổ chức này cũng nêu rõ, Việt Nam đã đạt tiến bộ về
hiệu quả thị trường hàng hóa (hạng 74, tăng 17 bậc). Tuy nhiên, theo WEF, nền
móng của nền kinh tế Việt Nam còn yếu, trong đó Việt Nam bị tụt hạng ở một số
yếu tố đánh giá như hiệu quả thị trường lao động, phát triển thị trường tài chính,
mức độ sẵn sàng công nghệ…
Nhận xét về độ tin cậy của xếp hạng của WEF, nhiều chuyên gia kinh tế nói
“chỉ mang tính tương đối và không ảnh hưởng tới niềm tin của các nhà đầu tư”.
Các thông tin và tư liệu đầu vào dùng để phân tích có chuẩn hay không còn là điều
cần phải xem xét, nhưng có thể nói đây là cơ sở giúp chính phủ các nước tham
khảo để có những phương hướng phát triển mới.
2.8. Chỉ số nhận thức tham nhũng (Corruption Perceptions Index – CPI)
Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency Internatinonal – TI), tham
nhũng hay tham ô là hành vi của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý
làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân. Tham nhũng là một hệ quả tất
yếu của nền kinh tế kém phát triển, quản lý kinh tế - xã hội lỏng lẻo, yếu kém tạo
ra nhiều sơ hở cho các hành vi tiêu cực, hiện tượng tham nhũng và các tệ nạn có
điều kiện phát triển và tại đó một phần quyền lực chính trị được biến thành quyền
lực kinh tế. Tham nhũng làm chậm sự phát triển kinh tế-xã hội “gây thiệt hại cho
nguồn ngân sách chính phủ ước lượng 30% của đầu tư hạ tầng”, làm giảm lòng tin
của công dân vào nhà nước, đến chừng mực nào đó nó gây mất ổn định chính trị,
kinh tế - xã hội.
10
Theo cách xếp hạng Nhận thức về Tham nhũng của TI, công bố năm 2010
thì Việt Nam được 2.7 trên 10 điểm (những nước có điểm số dưới 5 bị coi là có
tình trạng tham nhũng cao, những nước có điểm số cao có nghĩa là minh bạch và ít
tham nhũng hơn). Như vậy, có thể thấy “Tham nhũng ở Việt Nam đến mức báo
động”.
Bảng 5: Chỉ số tham nhũng của Việt Nam qua các năm
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Điểm 2.6 2.6 2.6 2.7 2.7 2.7 2.9 31
Hạng 107/158 111/163 123/179 121/180 120/180 116/178 112/182 123/176
Từ năm 2000-2007, chỉ số tham nhũng Việt Nam cải thiện từ 2,4 lên mức
2,6 nhưng lại tụt hạng trong thang hạng các nước do số nước được khảo sát tăng
lên. Từ sau 2007, chỉ số tham nhũng được cải thiện từ 2,6 lên 2,9, nhờ vậy thứ
hạng của Việt Nam được cải thiện lên vị trí 112/182 nước vào năm 2011. Tuy
nhiên, có thể thấy tham nhũng vẫn là mối lo ngại chính đối với Việt Nam. So sánh
hai năm 2010-2011 thì không có thay đổi đáng kể nào trong cuộc chiến chống
tham nhũng của chính phủ. Sau năm 2011 thì dùng thang điểm 100. Theo cuộc
khảo sát năm 2012 thì điểm số của Việt Nam tăng nhẹ từ 2,9 (thang 10) lên 31
(thang 100), nhưng vẫn bị tụt 11 bậc, không những so với các quốc gia tiên tiến mà
cả với các nước lân bang trong khu vực.
Cuộc khảo sát 95 quốc gia trên thế giới của TI về nạn tham nhũng năm 2013
cho biết 30% dân Việt Nam đã phải đút lót nhân viên công quyền.
55% số người
được hỏi cho rằng tham nhũng tăng lên. 38% số người tin rằng các nỗ lực của
Chính phủ Việt Nam nhằm chống tham nhũng là không có hiệu quả.
Nguyên nhân của tình trạng tham nhũng vẫn còn ở mức cao ở nước ta là do:
Nhiều biện pháp phòng ngừa tham nhũng thực hiện còn hình thức, hiệu quả thấp;
việc hoàn thiện thể chế chậm, tổ chức và hoạt động của các cơ quan chuyên trách
về chống tham nhũng còn bất cập; công tác phát hiện tham nhũng còn yếu, chưa
tương xứng với tình hình tham nhũng đang diễn ra; việc xử lý hành vi tham nhũng
có biểu hiện nương nhẹ, vẫn còn tình trạng lạm dụng để xử lý kỷ luật, hành chính,
11
không khởi tố vụ án, đình chỉ vụ án, bị can, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm; việc thu
hồi tài sản tham nhũng đạt hiệu quả rất thấp.
Vì chỉ số này dựa vào các cuộc thăm dò nên các kết quả là chủ quan và kém
tin cậy đối với các nước có ít nguồn thông tin hơn. Thêm vào đó, những gì được
định nghĩa là hợp pháp hoặc những gì được nhận thức là tham nhũng thì rất khác
nhau giữa các nền tư pháp: việc cho tặng, ủng hộ chính trị hợp pháp ở một số nền
tư pháp lại là bất hợp pháp ở các nền tư pháp khác; một vấn đề được coi như là tiền
thưởng chấp nhận được ở một nước lại bị coi là hối lộ ở một nước khác. Do vậy,
các thống kê như thế này là không chính xác hoàn toàn.
2.9. Tỷ lệ lạm phát
Chỉ số giá tiêu dùng (Consumer Price Index - CPI) là chỉ số tính theo phần
trăm để phản ánh mức thay đổi tương đối của giá hàng tiêu dùng theo thời gian. Sở
dĩ chỉ là thay đổi tương đối vì chỉ số này chỉ dựa vào một giỏ hàng hóa đại diện
cho toàn bộ hàng tiêu dùng. Đây là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất để đo
lường mức giá và sự thay đổi của mức giá chính là lạm phát. Như vậy, có thể định
nghĩa, Tỷ lệ lạm phát là sự thay đổi phần trăm hàng năm trong giá tiêu dùng so với
giá tiêu dùng năm trước.
Bảng xếp hạng Tỷ lệ lạm phát hàng năm do cơ quan CIA của Hoa Kỳ thống
kê. Trong bảng xếp hạng năm 2010 của CIA, trong tổng số 223 quốc gia và vùng
lãnh thổ xếp hạng thì Việt Nam đứng thứ 205. Điều này chứng tỏ, tỉ lệ lạm phát
của Việt Nam rất cao, cao nhất trong khu vực Đông Nam Á.
Bảng 6: Tỉ lệ lạm phát của Việt Nam và một số nước xung quanh năm 2010
Quốc gia Tỉ lệ lạm phát (%) Hạng
Xây – xen -2,2 1
Brunay 2,7 73
Sing ga po 2,8 76
Thái Lan 3.3 93
Philippin 3,8 109
Cam puchia 4,1 117
Trung Quốc 5 140
Lào 6 158
Đông Ti mo 7,8 183
Việt Nam 11,8 205
12
(Nguồn: wikipedia)
Bảng 7: Tỷ lệ lạm phát theo CPI của Việt Nam giai đoạn 1999 – 2009
Năm Lạm phát
(Giá tiêu dùng – CPI)
Phần trăm thay
đổi
1999 0,1% -98,9%
2000 -6,8% -700%
2001 0,8% 233%
2002 4% 400%
2003 3% -25%
2004 9,5% 216,7%
2005 8,4% -11,5%
2006 6,6% -18,37%
2007 12,6% 102,4%
2008 19,89% 97,4%
2009 6,52% -71,3%
2010 11,75
2011 18,13
2012 6,81
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Xét giai đoạn 1999 – 2003: giai đoạn này tỉ lệ lạm phát của nước ta rất thấp,
chỉ dừng lại ở 1 con số. Nguyên nhân chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm và
nhiều nông sản khác giảm mạnh trên thị trường thế giới như thóc, gạo, cà phê, cao
su,…trong khi chính sách tiền tệ lại liên tục được nới lỏng. Hai năm 2002 và 2003,
lạm phát tăng trở lại nhưng không quá cao.
Xét giai đoạn 2004 – 2012: Từ năm 2004 trở đi, lạm phát ở Việt Nam luôn
duy trì ở mức cao. Trong 3 năm đầu thời kì này, lạm phát tăng mạnh hơn hẳn so
với thời kì trước dù vẫn chỉ dừng lại ở 1 con số. Tuy vậy, trước tình hình đó, nước
ta đã không có những giải pháp thoải đáng. Vì lẽ đó, năm 2007 và 2008, lạm phát
của nước ta đã tăng cao và rơi vào tình trạng khó kiểm soát, chỉ số CPI tăng vọt lên
mức 2 con số. Nguyên nhân là do cùng với đà suy thoái kinh tế thế giới, đồng USD
mất giá, giá dầu thô tăng cao, giá cả lương thực và nguyên nhiên vật liệu tăng đột
biến cộng với tác động của thiên tai, dịch bệnh đã làm cho nên kinh tế Việt Nam
bộc lộ những nhược điểm cố hữu của một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển
đổi. Sau đó, nhờ những nỗ lực kịp thời mà Chính phủ đã bình ổn được lạm phát,
13
đưa nó về 1 con số vào năm 2009. Tuy vậy, ảnh hưởng lớn từ suy thoái nền kinh tế
thế giới mà lạm phát vẫn tăng cao ở nước ta trong những năm sau.
Có thể thấy, theo từng năm, sự thay đổi mức lạm phát ở Việt Nam rất biến
động.
2.10. Chỉ số hạnh phúc gia đình
Theo công bố trong báo cáo về mức độ hạnh phúc thế giới 2013 do viện trái
Đất, ĐH Columbia, Mỹ công bố ngày 10/9/2013, Việt Nam xếp thứ 63/156 quốc
gia về chỉ số hạnh phúc gia đình. Trong đó, Đan Mạch là nước hạnh phúc nhất thế
giới. Với 5,333 điểm, Việt Nam xếp thứ 63, sau nhiều quốc gia khác của thế giới,
nhưng vẫn ở trên Nga, cường quốc chỉ đứng thứ 68.
Mức độ hạnh phúc được bản báo cáo đánh giá dựa trên 3 tiêu chí: mức độ
hài lòng với cuộc sống (thang điểm từ 1 đến 10), tình trạng cảm xúc tích cực về
ngày hôm trước (với những câu hỏi như: Hôm qua bạn có cười nhiều không? Bạn
có cảm thấy vui thích không?), và tình trạng cảm xúc tiêu cực về ngày hôm trước
(bạn có thấy giận dữ hay buồn phiền không). Những câu hỏi trên được các nhà
nghiên cứu đặt ra cho người dân mỗi quốc gia, với số lượng lấy mẫu là 3000 người
trong thời gian 3 năm.
Trong khu vực châu Á, mức điểm trên trung bình này giúp Việt Nam vượt
mặt nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ như Hong Kong, Indonesia, Philippines
hay Lào. Trung Quốc, nước đang phát triển lớn thế giới và là láng giềng của Việt
Nam, kém đến 30 bậc và đứng thứ 93.
Xét trong khu vực Đông Nam Á, người dân Việt Nam có mức điểm hạnh
phúc cao thứ tư, chỉ kém hạnh phúc hơn so với người Singapore (30), Thái Lan
(36) và người Malaysia (56). Như vậy, người Việt Nam được đánh giá là có cuộc
sống hạnh phúc hơn nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á.
14
Hình 1: Bản đồ mức độ hạnh phúc của các quốc gia
2.11. Chỉ số phát triển giáo dục
Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO) phối
hợp với Bộ Giáo dục – Đào tạo công bố Báo cáo Giám sát toàn cầu về Giáo dục
cho mọi người (EDI). Theo báo cáo này, trong số 129 quốc gia được UNESCO
tiến hành khảo sát, Việt Nam đứng thứ 79 về Chỉ số phát triển GDCMN (EDI) với
0,899 điểm và là nước có chỉ số EDI đứng thứ 3/6 nước Đông Nam Á.
Bảng 8: Xếp hạng chỉ số EDI của 1 số nước trong khu vực Đông Nam Á
Nước Malaysia Indonesia Việt
Nam
Philipin Mianma Camphuchia
Điểm 0,945 0,935 0,899 0,893 0,866 0.807
Xếp
hạng
56 62 79 82 94 103
UNESCO đưa ra chỉ số EDI tập trung vào 4 mục tiêu: Phổ cập giáo dục tiểu
học, xoá mù chữ cho người lớn, cân bằng và bình đẳng giới, chất lượng giáo dục.
Giống như một số nước khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đang gặp phải
những thách thức lớn như: Giảm số lượng trẻ em thất học, cải thiện chất lượng
giáo dục, mở rộng việc chăm sóc giáo dục mầm non, tỷ lệ biết chữ ở người lớn và
tăng cường tỷ lệ tham gia giáo dục trung học.
Dưới con mắt của các chuyên gia quốc tế, trình độ giáo dục của Việt Nam
đang ở mức rất thấp. Tính trung bình, người Việt Nam trưởng thành chỉ có trình độ
15
giáo dục ở mức tiểu học (số năm đi học trung bình là 5,5 năm), trong khi kỳ vọng
chung đối với Việt Nam, người trưởng thành phải có mức giáo dục đạt trình độ
giữa phổ thông trung học (số năm học trung bình là 10,4 năm). Như vậy, giáo dục
của Việt Nam quả là đáng lo.
2.12. Nô lệ hiện đại toàn cầu (Global Slavery Index - GSI)
Trung tuần tháng 10/2013 vừa qua, tổ chức phi chính phủ Walk Free
Foundation (WFF), có trụ sở tại Úc, công bố một bản báo cáo về thực trạng “nô
lệ hiện đại” toàn cầu với bảng xếp hạng 162 quốc gia.
Theo tổng kết của WFF (do Ngoại trưởng Hoa Kỳ Clinton, cựu Thủ tướng
Anh Tony Blair và tỷ phú Bill Gates đồng sáng lập), gần 30 triệu con người trên
thế giới hiện nay đang phải sống trong vòng nô lệ, trong đó 76% tập trung tại 10
quốc gia : Ấn Độ, Trung Quốc, Pakistan, Nigeria, Ethiopia, Nga, Thái Lan, Cộng
hòa dân chủ Congo, Miến Điện và Bangladesh. Việt Nam đứng thứ 15 trong bảng
xếp hạng về số lượng người phải sống trong cảnh nô lệ và đứng thứ 64, nếu căn cứ
theo tỷ lệ phần trăm người bị ép làm nô lệ trên tổng dân số.
Theo đánh giá của một số chuyên gia, lần đầu tiên xuất hiện một bảng xếp
hạng toàn cầu bao gồm hầu hết các hình thức nô dịch con người tàn bạo nhất trong
xã hội hiện nay, từ nạn buôn người, nạn cưỡng bức lao động dưới các hình thức
khác nhau, như lao động xí nghiệp, đồng áng, tình dục hay tại gia… đến nạn tảo
hôn, làm thuê để trả nợ…
Riêng về Việt Nam, trong bản báo cáo thường niên về tình trạng buôn người
trên thế giới 2013 được Bộ Ngoại Giao Mỹ công bố hồi tháng 6/2013, Việt Nam
tiếp tục bị xếp vào Bậc 2, tức các quốc gia có vấn đề trong địa hạt buôn người.
Còn trong cuộc đối thoại nhân quyền Việt Nam – Liên hiệp Châu Âu trung
tuần tháng 09/2013, EU nhấn mạnh đến việc Việt Nam cần phải “cải thiện điều
kiện nhà tù”. Buôn người, lừa đảo, để cưỡng ép lao động tại một quốc gia khác,
cùng việc cưỡng bức lao động tại các trung tâm giam giữ là hai thực tế trong số các
hình thức nô lệ hiện đại chủ yếu tại Việt Nam.
16
17