Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Lạm phát thất nghiệp 5 năm (2009 2013)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.94 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
MÔN HỌC: KINH TẾ VĨ MÔ

Đề tài: Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5
năm gần đây (2009 – 2013). Phân tích mối quan hệ giữa
lạm phát và thất nghiệp của Việt Nam trong 5 năm trên.
Giáo viên: Vũ Thị Thanh Huyền
Lớp học phần:1463MAEC0111
Nhóm: 12

Năm học 2014
Nhóm 12 bao gồm các thành viên
ST
T
Họ và tên Mã sinh viên Điểm thảo luận
1 Tô Hoài Thanh 13D180111
2 Trương Thị Thanh 13D180249
3 Lê Chí Thành 13D160329
4 Nguyễn Chí Thành 13D160038
5 Hà Nguyễn Phương Thảo 13D160185
6 Vũ Thị Thảo 13D160108
7 Vũ Thị Phương Thảo 13D160332
8 Võ Tiến Thịnh 13D160040
9 Hoàng Thị Giang
Lời mở đầu:
Hiện nay, khi đất nước đang trên đà phát triển, chúng ta ngày càng thấy
được tầm quan trọng của vấn đề tăng trưởng, lạm phát và thất nghiệp. Đây cũng
là ba vấn đề cơ bản lớn của kinh tế vĩ mô. Chúng cũng được xem như là các chỉ
tiêu để đánh giá mức độ thành công của một nền kinh tế vì vậy nghiên cứu về ba
vấn đề này luôn là một việc làm quan trọng và cần thiết. Tuy vậy, sự tác động và
ảnh hưởng qua lại giữa tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp là hết sức


phức tạp. Trong đó, lạm phát và thất nghiệp là những vấn đề không hề xa lạ, đó
chính là đặc điểm của nền kinh tế hàng hóa. Ở mỗi thời kỳ kinh tế sẽ có mức
lạm phát và thất nghiệp khác nhau. Trong thời kỳ gần đây, kinh tế thế giới có
nhiều biến động, bên cạnh đó là cuộc khủng hoảng toàn cầu khiến lạm phát tăng
cao ở nhiều nước.
Trong tình hình kinh tế thế giới hiện nay, đặc biệt là ở Việt Nam, một yêu
cầu được đặt ra là phải nghiên cứu, tìm hiểu về lạm phát, thất nghiệp và mối
quan hệ giữa chúng.
Vì vậy, đề tài này sẽ đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu về lạm phát,thất nghiệp
và mối quan hệ giữa lạm phát với thất nghiệp của Việt Nam, đồng thời minh họa
trên số liệu thực tế của Việt Nam trong những năm gần đây.
Trong quá trình làm bài có nhiều sai xót mong cô và các bạn góp ý để bài
thảo luận của nhóm 12 được hoàn thiện hơn. Chúng em xin cảm ơn!
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT.
I, LẠM PHÁT
1.Khái niệm lạm phát
Lạm phát xảy ra khi mức giá cả chung thay đổi. Khi mức giá tăng lên được gọi
là lạm phát, khi mức giá giảm xuống được gọi là giảm phát. Vậy lạm phát là sự
tăng lên của mức giá cả trung bình theo thời gian.
2.Các chỉ số đo lường lạm phát
CPI – Consumer Price Index – Chỉ số giá tiêu dùng: là chỉ số được sử dụng để
đo lường tính hiệu quả của chính sách tiền tệ, tình hình lạm phát trong tiêu dùng
và có tác động lớn tới quyết định lãi suất của Ngân hàng Trung ương.
PPI – Producer Price Index – Chỉ số giá sản xuất: Trong khi CPI do luờng lạm
phát gây nên bởi sự tăng lên của giá cả hàng hóa đầu ra thì PPI đo lường mức
tăng giá trong nền kinh tế bị gây nên bởi sự tăng lên của giá phí trong sản xuất.
Dùng để dự đoán CPI.
PCE – Persional Consumption Expenditure - Chi tiêu tiêu dùng cá nhân: Chỉ số
này tăng cho thấy chi tiêu tăng, kéo theo giá bị áp lực tăng theo, do đó được coi
là một trong các chỉ số dùng để dự đoán mức độ lạm phát trong nền kinh tế.

Trong đó: gp: tỷ lệ lạm phát (%)
: chỉ số giá thời kỳ nghiên cứu
: chỉ số giá thời kỳ gốc
3.Phân loại lạm phát
Lạm phát thể hiện những mức độ nghiêm trọng khác nhau. Chúng được phân
thành ba cấp: Lạm phát vừa phải, Lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
 Lạm phát vừa phải: được đặc trưng bằng giá cả tăng chậm và có thể dự
đoán được. Tỷ lệ lạm phát hàng năm là một chữ số.
 Lạm phát phi mã: tỷ lệ tăng giá trên 10% đến < 100% được gọi là lạm
phát 2 hoặc 3 con số. Đồng tiền mất giá nhiều, lãi suất thực tế thường
âm.Thị trường tài chính không ổn định ( do vốn chạy ra nước ngoài).
 Siêu lạm phát : tỷ lệ tăng giá khoảng trên 1000% /năm. Đồng tiền gần như
mất giá hoàn toàn. Các giao dịch diễn ra trên cơ sở hàng đổi hàng tiền
không còn làm được chức năng trao đổi. Nền tài chính khủng hoảng.
4.Nguyên nhân lạm phát
 Lạm phát do cầu kéo: Lạm phát do sự tăng lên về cầu (nhu cầu tiêu dùng
của thị trường tăng) được gọi là “lạm phát do cầu kéo”.
 Lạm phát do chi phí đẩy: Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền
lương, máy móc, thuế Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng lên
thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng lên, vì thế
mà giá thành sản phẩm cũng sẽ tăng lên và mức giá chung của toàn thể
nền kinh tế cũng sẽ tăng được gọi là “lạm phát do chi phí đẩy”.
 Lạm phát do cơ cấu: Với ngành kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp
tăng dần tiền công “danh nghĩa” cho người lao động. Nhưng cũng có
những nhóm ngành kinh doanh không hiệu quả, doanh nghiệp cũng theo
xu thế đó buộc phải tăng tiền công cho người lao động. Nhưng vì kinh
doanh kém hiệu quả các doanh nghiệp này buộc phải tăng giá thành sản
phẩm để đảm bảo mức lợi nhuận và làm phát sinh lạm phát.
 Lạm phát do cầu thay đổi: Khi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ về một
mặt hàng nào đó, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên.

Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng
nhắc, thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó
mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung
tăng lên, dẫn đến lạm phát.
 Lạm phát do xuất khẩu: Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn
tổng cung, khi đó sản phẩm được thu gom cho xuất khẩu khiến lượng
hàng cung cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung trong nước
thấp hơn tổng cầu. Khi tổng cung và tổng cầu mất cân bằng sẽ nảy sinh
lạm phát.
 Lạm phát do nhập khẩu: Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng thì giá bán sản
phẩm đó trong nước sẽ tăng lên. Khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội
lên sẽ hình thành lạm phát.
 Lạm phát tiền tệ: Khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng làm cho
lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.
5.Tác hại của lạm phát
-Tác hại thứ nhất là làm cho tiền tệ không còn giữ được chức năng thước đo giá
trị do đó xã hội không thể tính toán hiệu quả, điều chỉnh các hoạt động kinh
doanh của mình.
-Thứ hai, tiền tệ bị mất giá nên các biểu thuế không thể điều chỉnh kịp với mức
độ tăng bất ngờ của lạm phát và do vậy tác dụng điều chỉnh của thuế bị hạn chế.
-Thứ ba, phân phối lại thu nhập, làm cho một số người nắm giữ các hàng hóa có
giá trị tăng đột biến giàu lên nhanh chóng và những người có các hàng hóa mà
giá cả của chúng không tăng hoặc tăng chậm và người giữ tiền bị nghèo đi.
-Thứ tư, kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hóa, bất động sản, vàng bạc…gây
ra tình trạng khan hiếm hàng hóa không bình thường và lãng phí.
-Thứ năm, xuyên tạc bóp méo các yếu tố của thị trường làm cho các điều kiện
của thị trường bị biến dạng.
-Thứ sáu, sản xuất phát triển không đều, vốn chạy vào những ngành nào có lợi
nhuận cao.
-Thứ bảy, ngân sách bội chi ngày càng tăng trong khi các khoản thu ngày càng

giảm về mặt giá trị.
-Thứ tám, đối với ngân hàng, lạm phát làm cho hoạt động bình thường của ngân
hàng bị phá vỡ, ngân hàng không thu hút được các khoản tiền nhàn rỗi trong xã
hội.
-Thứ chín, đối với tiêu dùng,làm giảm sức mua thực tế của nhân dân về hàng
tiêu dùng và buộc nhân dân phải giảm khối lượng hàng tiêu dùng, đặc biệt là đời
sống cán bộ công nhân viên ngày càng khó khăn. Mặt khác lạm phát cũng làm
thay đổi nhu cầu tiêu dùng. Từ đó làm giàu cho những người đầu cơ tích trữ.
6.Biện pháp kiềm chế lạm phát
 Đối với chính sách tiền tệ:
- Quy định tốc độ tăng trưởng tín dụng phải giữ ở mức dưới 20%
- Trong tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 15 -16% và ưu tiên
cho việc phát triển nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp
hỗ trợ và khối doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Thắt chặt tín dụng đối với lĩnh vực phi sản xuất đặc biệt là bất động
sản và chứng khoán. Ngoài ra còn giảm tỷ lệ dư nợ đối với lĩnh vực
này.
- Đưa ra chính sách bình ổn thị trường ngoại tệ và vàng nhằm đáp
ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối. Hiện nay
chính phủ đang cầm giao dịch mua bán ngoại tệ tại thị trường tự do
và cấm các cửa hàng vàng cá nhân giao dịch mua bán vàng miếng.
 Đối với chính sách tài khóa:
- Phấn đấu tăng thu ngân sách khoảng 7 – 8% so với dự toán đã được
quốc hội thông qua.
- Sắp xếp lại chi thường xuyên nhằm tiết kiệm thêm 10% chi thường
xuyên trong 9 tháng còn lại.
- Cắt giảm bội chi ngân sách xuống dưới 5% GDP.
- Giám sát chặt chẽ và rà soát lại nợ chính phủ, quốc gia và không
mở rộng đối tượng được chính phủ bảo lãnh.
- Đối với đầu tư công: Chính phủ quyết định cắt giảm tối thiểu 10%

lượng vốn theo kế hoạch tín dụng đầu tư từ ngân sách.
II, THẤT NGHIỆP
1. Khái niệm
- Lao động: là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất
và các giá trị tinh thần của xã hội
- Việc làm: là mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập và không vi phạm
pháp luật.
- Lực lượng lao động: là số người trong độ tuổi lao động đang có việc làm hoặc
chưa có việc làm nhưng đang tìm kiếm việc làm
- Thất nghiệp: là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động,
không có việc làm và đang tìm kiếm việc làm
2. Các chỉ tiêu thể hiện tình trạng thất nghiệp
 Số người thất nghiệp. Được tính theo 2 cách
- Thống kê theo các dấu hiệu thất nghiệp
- Tính tự lực lượng lao động xã hội và người có việc làm
Số người thất nghiệp = Tổng lực lượng lao động xã hội – số người trong danh
sách lao động của các đơn vị lao động
 Tỷ lệ thất nghiệp: là tỷ lệ % số người thất nghiệp so với tổng số người
trong độ tuổi lao động.

3. Phân loại thất nghiệp
 Phân theo đặc tính của người thất nghiệp (tuổi tác, giới tính, ngành
nghề,lãnh thổ, dân số, dân tộc, chủng loại…)
 Phân loại theo lý do thất nghiệp (bỏ việc, mất việc, chưa có việc, ngoại
lệ…)
 Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp:
- Thất nghiệp tạm thời: là loại thất nghiệp xảy ra khi có một số người
lao động đang trong thời gian tìm kiếm một nơi làm phù hợp hơn
hoặc những người mới bước vào thị trường lao động đang chờ
việc…Loại thất nghiệp này tồn tại ngay cả khi thị trường lao động

cân bằng.
- Thất nghiệp cơ cấu (thất nghiệp bất cân xứng): Xảy ra khi có sự mất
cân đối về mặt cơ cấu giữa cung và cầu lao động. Đây là loại thất nghiệp
gắn với sự biến động cơ cấu kinh tế và khả năng cung trên thị trường lao
động. Nguyên nhân là do thiếu kỹ năng và khác biệt về nơi cư trú.
- Thất nghiệp do thiếu cầu (thất nghiệp chu kỳ): xảy ra khi nền kinh
tế suy thoái làm cho toàn bộ thị trường mất cân bằng dẫn đến thất
nghiệp gia tăng.
- Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường: khi tiền công được ấn định
cao hơn mức tiền công cân bằng. Do sự không linh hoạt của tiền
lương chủ yếu do việc quy định mức lương tối thiểu của người lao
động.
4. Tác hại.
 Đối với cá nhân người lao động:
- Giảm thu nhập
- Kỹ năng chuyên môn mai một
- Hạnh phúc gia đình bị đe dọa
 Đối với xã hội:
- Sản lượng nền kinh tế giảm sút
- Chính phủ phải tăng chi tiêu cho viện trợ
- Tệ nạn xã hội, tội phạm gia tăng.
5. Nguyên nhân
 Lý thuyết tiền công linh hoạt (quan điểm của trường phái cổ điển):
- Quan điểm: giá cả và tiền lương hết sức linh hoạt vì vậy thị trường
lao động luôn luôn tự điều chỉnh để đạt được trạng thái cân bằng.
- Nguyên nhân: Do đó thất nghiệp xảy ra khi mức tiền lương trong
nền kinh tế không chịu sự quyết định bởi các lực lượng thị trường
mà chịu sự ấn định của Chính phủ, Nhà nước, các tổ chức Công
đoàn làm cho mức tiền lương trong nền kinh tế cao hơn mức tiền
lương cân bằng thực tế trên thị trường lao động. Vì vậy trên thị

trường lao động xuất hiện dư cung lao động =>gia tăng số người
thất nghiệp
 Lý thuyết tiền công cứng nhắc
- Quan điểm: giá cả tiền lương hết sức cứng nhắc
- Nguyên nhân: thất nghiệp xảy ra do sự suy giảm của tổng cầu trong
thời kỳ suy thoái kinh tế dẫn đến mức cầu chung về lao động giảm
xuống đường cầu lao động dịch chuyển sang trái trong khi P, W
không đổi dẫn đến toàn bộ thị trường lao động bị mất cân bằng
2.6 Biện pháp.
 Đối với thất nghiệp chu kỳ.
- Thực hiện chính sách tài khóa mở rộng
- Thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng
- Tăng tổng cầu
 Đối với thất nghiệp tự nhiên.
- Phát triển thị trường lao động, tăng cường hoạt động dịch vụ và
giới thiệu việc làm.
- Tăng cường đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực
- Tạo thuận lợi trong việc cư trú, di cư lao động
- Chuyển dịch CCKT nông nghiệp và nông thôn, khuyến khích đầu
tư tư nhân
- Cắt giảm trợ cấp thất nghiệp
- Giảm thuế suất biên đối với thu nhập
III, MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ THẤT NGHIỆP.
Khi nói đến mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp, các nhà kinh tế
thường đề cập đến khái niệm “đánh đổi”. A.W. Phillips đã phát hiện ra rằng thất
nghiệp giảm thì lương có khuynh hướng tăng, lương tăng sẽ làm tăng giá cho
thấy mối quan hệ nghịch giữa tỉ lệ thất nghiệp và lạm phát. Như vậy, thất nghiệp
giảm sẽ kéo theo tình trạng lạm phát tăng. Như vậy ta thấy giữa lạm phát và thất
nghiệp có sự đánh đổi với nhau.
1.Đường phillips ban đầu

Khi nói đến quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp, các nhà kinh tế cho rằng trong
thời kì ngắn thì lạm phát càng cao và thất nghiệp càng giảm. Điều này đang
được mô tả trong đồ thị là đường cong phillips. Đường cong phillips là hàm tỷ lệ
nghịch,thể hiện mối quan hệ trao đổi giữa lạm phát và thất nghiệp. Đây là mối
quan hệ thực nghiệm chưa phải quy luật kinh tế. Đường Phillips được xây dựng
hoàn chỉnh và có dạng như sau:
gp = - ε (u - u
*
) (*)
Trong đó: gp - tỷ lệ lạm phát.
u - tỷ lệ thất nghiệp thực tế.
u
*
- tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
ε - độ dốc đường Phillips.
Đường này cho thấy những đặc điểm sau đây:
- Lạm phát bằng không khi thất nghiệp thực tế bằng tỷ lệ tự nhiên.
- Khi thất nghiệp thực tế thấp hơn thất nghiệp tự nhiên thì lạm phát xảy ra.
- Độ dốc ε càng lớn thì một sự tăng, giảm nhỏ của thất nghiệp sẽ gây ra sự
tăng, giảm đáng kể về lạm phát. Độ lớn của của tiền lương. Nếu tiền lương có độ
phản ứng mạnh thì ε lớn, nếu có tính ì cao thì ε nhỏ (đường Phillips sẽ xoay
ngang). Nếu đường Phillips gần như nằm ngang thì lạm phát phản ứng rất kém
với thất nghiệp.
2. Đường Phillips mở rộng
Thực tế ngày nay giá cả đã không hạ xuống theo thời gian do có lạm phát dự
kiến, vì thế đường Phillips đã được mở rộng thêm bằng việc bao gồm cả tỷ lệ
lạm phát dự kiến và có dạng như sau:

gp = gp
e

-
ε
(u-u
*
) (**)
gp
e
là tỷ lệ lạm phát dự kiến.
Đường này cho thấy khi thất nghiệp thực tế bằng thất nghiệp tự nhiên thì
lạm phát bằng tỉ lệ dự kiến. Nếu thất nghiệp thực tế cao hơn thất nghiệp tự nhiên
thì tỷ lệ lạm phát thấp hơn tỷ lệ dự kiến. Đường này gọi là đường Phillips ngắn
hạn ứng với thời kỳ mà tỷ lệ lạm phát dự kiến chưa thay đổi. Trong thời kỳ này
nếu có những cú sốc cầu, giả sử tổng cầu tăng lên nhanh, nền kinh tế đi dọc
đường Phillips lên phía trên, lạm phát tăng và thất nghiệp giảm.
Khi không có sự tác động của các chính sách, vì giá tăng lên thì MS
r
↓ (do
MS
r
= MS
n
/P), lãi suất tăng lên và AD dần dần được điều chỉnh trở lại mức ban
đầu => lạm phát và thất nghiệp sẽ quay trở về trạng thái ban đầu nhưng khi lạm
phát đã được dự kiến, tiền lương và các chi phí khác cũng được điều chỉnh theo
tỉ lệ lạm phát nên giá cả dừng lại ở tỉ lệ dự kiến và thất nghiệp trở lại mức tự
nhiên, đường Phillips sẽ dịch chuyển từ PC
1
=> PC
2
. Tại E, gp ≠ 0 do gp = gp

c
.
Riêng các cơn sốt cung (như tăng giá dầu lên) sẽ đẩy chi phí sản xuất và giá cả
lên, sản lượng và việc làm giảm xuống. Như vậy, cả thất nghiệp và lạm phát
tăng lên – không có sự đánh đổi giữa thất nghiệp và lạm phát trong ngắn hạn –
đó là thời kỳ đình trệ nhất
Khi chính phủ tăng MS liên tục để giữ cho AD không giảm và mức thất
nghiệp không tăng, nền kinh tế vẫn đạt sản lượng như cũ nhưng giá cả đã tăng
lên theo tỉ lệ tăng tiền. Như vậy, sự điều tiết bằng chính sách tiền tệ và tài khóa
giữ cho nền kinh tế ổn định sản lượng, khi gặp cơn sốt cũng phải trả giá bằng
lạm phát cao hơn.
3. Đường Phillips dài hạn (LPC)
Trong ngắn hạn, tỉ lệ thất nghiệp thực tế có thể không bằng tỉ lệ thất nghiệp
dự kiến nhưng trong dài hạn, chúng sẽ bằng nhau bởi tác động của các chính
sách tài khóa và tiền tệ. Đó là cơ sở để xây dựng đường Phillips dài hạn:
0 = - ԑ (u - u*)
Hay: u = u*
Như vậy, tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên (xét trong dài hạn) cho dù tỉ lệ lạm
phát thay đổi như thế nào. Vậy trong dài hạn lạm phát và thất nghiệp không có
mối quan hệ với nhau.
gp
0
U
U*
ok
LP
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM
TRONG 5 NĂM GẦN ĐÂY (2009-2013)
I, THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
1. Diễn biến lạm phát năm 2009

Không có đột biến lớn, không bất thường về quy luật, diễn biến chỉ số giá
tiêu dùng năm 2009 cho cảm giác khá trầm lắng. Nhưng trong một năm nền kinh
tế trầm, thăng phức tạp, CPI vẫn có sự đảo chiều tương ứng.
Trên biểu đồ, tốc độ CPI tăng theo tháng đạt đỉnh điểm 4 lần trong năm
qua, ở các tháng 2, 6, 9 và 12 , với các mức tăng là 1.17%, 0.55%, 0.62% và
1,38%. Trong 8 tháng đầu tiên, diễn biến của chỉ số giá là biểu hiện của kìm
nén, ít nhiều theo tính quy luật và cho cảm nhận an toàn. Tuy nhiên trong 4
tháng còn lại, đường biểu diễn xóc nhẹ, báo hiện những đột biến, để rồi tăng dần
và dựng ngược lên trong tháng tận cùng của năm, hiện thực hóa lơ lửng đâu đó
nguy cơ tái lạm phát.
Trong tháng 1/2009 CPI tăng nhẹ lện 0.3%. Nhưng đếnn tháng 2 Tết Kỷ
Sửu và rằm tháng Giêngg kéo giá lương thực, thực phẩm và nhiều loại hàng hóa,
dịch vụ lên cao. Ở đỉnh cao thứ nhất, CPI tăng 1.17% trước khi đảo chiều giảm
-0.17% trong tháng 3 ngay sau đó.
Từ tháng 4 đến tháng 8 chỉ số giá hạ nhiệt còn tăng 0.24% vào tháng 8.
Mức chênh lệch trong giai đoạn này chỉ 0.31% và gần như không có đột biến
lớn. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tính cho tới
tháng 8/2009 đã có sự cải thiện. So với cùng kỳ năm trước, mức tăng đạt 18.4%,
loại trừ yếu tố giá còn tăng 9.3%. Trong khi đó giá một số nguyên liệu trên thế
giới bắt đầu hồi phục, đặc biệt là mặt hàng xăng dầu.
Bước sang tháng 9, đã xuất hiện những diễn biến ngược dòng, CPI đạt đỉnh
ở mức tăng 0.62% rồi tạm “ nghỉ” ở mức tăng 0.37% ở tháng 10 sau đó. So với
thời kỳ trước, các con số ở đỉnh và đáy tương ứng đều cao hơn, báo hiệu những
tiềm ẩn của lạm phát tiếp tục gia tăng.
Năm 2009 khép lại với chỉ số giá chấp nhận được trong tất cả các mức so
sánh. Nhưng sự gia tăng mạnh mẽ của chỉ số CPI tháng cuối cùng của năm
khiến niềm vui chưa thể trọn vẹn trong những ngày đón năm mới 2010.
2.Diễn biến lạm phát năm 2010
Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng (CPI ) năm 2010 cao ở đầu và cuối năm,
thấp ở giữa năm. Diễn biến CPI năm 2010 như hình chiếc cốc, tạo bởi mức

chênh lệch giữa tháng tăng đỉnh và đáy lên đến 1.5% khá tương đồng với năm
2007. Hai điểm cao nhất đều được tạo thành từ mức tăng xấp xỉ 2% của tháng 2
và tháng 12, trong khi đáy kéo dài từ tháng 4 đến tháng 8, chỉ “ bay là là” xung
quanh mức 0% xác định kỷ lục ngược với xu thế kể trên.
Xuống chậm trong quý đầu năm, “ ru ngủ ’’ bằng mức tăng rất thấp giữa
năm, để rồi dốc ngược rất sớm trong tháng 9, kéo dài mức tăng trên 1% liên tiếp
3 tháng sau đó, diễn biến CPI năm 2010 hình thành nên hai thời điểm thay đổi
cảm nhận về lạm phát, sau các cú đột biến “ lao dốc” và “ bốc đầu” . Lo ngại
lạm phát một lần nữa được “treo” vào mức tăng 1.98% của tháng 12/2010.
Nhìn cả vào năm 2010, diễn biến CPI gần như song hành cùng với những
thay đổi chính sách vĩ mô và can thiệp thị trường từ cơ quan chức năng. Năm
2011 đang đến đóng lại một năm lạm phát không đạt chỉ tiêu, nhưng còn neo lại
những đoán định về hướng điều chỉnh chính sách có thể điều chỉnh trong năm
2011.
3.Diễn biến lạm phát năm 2011
Diễn biến lạm phát năm 2011 khá phức tạp, thể hiện ở việc tăng cao những
tháng đầu năm và giảm dần từ quý II. Từ đầu năm đến tháng 5, chỉ số giá tiêu
dùng gia tăng ở mức cao. Tuy nhiên, lạm phát đã có xu hướng giảm từ tháng 6
khi triển khai thực hiện Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP của Chính phủ bắt đầu
vẫn phát huy hiệu quả. Đến hết tháng 11/2011, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng tới
17.5% so với cuối năm 2010. Trong 4 tháng cuối năm, lạm phát đã bắt đầu có
dấu hiệu giảm tốc, chỉ dưới 1% mỗi tháng.
Tuy nhiên lạm phát tháng 12 lại có dấu hiệu nhích lên so với 2 tháng trước
đó. Cụ thể lạm phát tháng 10 và tháng 11 là 0.36% và 0.39%, nhưng lạm phát
tháng 12 lên 0.53%.
Do kỳ vọng nền kinh tế tốt hơn trong năm 2011 nên đã đặt mục tiêu định
hướng kiềm chế CPI dưới 7%, đạt tốc độ tăng trưởng GDP 7.5%. Tuy nhiên
kinh tế thế giới lại có những diễn biến bất ngờ, giá vàng, nhiên liệu tăng, Nhật
Bản lại bị thảm họa do sóng thần, chính trị bất ổn ở Lybia, nợ công ở châu Âu…
có tác động đến toàn cầu và tất nhiên không trừ Việt Nam. Trong bối cảnh đó

diễn biến lạm phát năm 2011 tăng nhanh rất có khả năng lặp lại năm 2008. Giá
cả của nhiều mặt hàng thiết yếu tăng nhanh ảnh hưởng đến đời sống hằng ngày
của người dân. Lãi suất, chi phí yếu tố đầu vào tăng làm cho hoạt động kinh
doanh của doanh nhiệp gặp khó khăn.
Chỉ số giá tiêu dung CPI tháng 7 năm 2011 tăng 22,16% so với cùng kỳ
năm 2010, là mức tăng rất cao so với các năm gần đây. Bình quân tháng 7 tăng
16,95%, so với tháng 12 năm 2010 tăng 14,64%. Trong đó tháng 1: 1,74%;
tháng 2: 2,09%; tháng 3: 2,17%; tháng 4: 3,32%; tháng 5: 2,21%; tháng 6:
1,29%; tháng 7: 1,17%. Lạm phát cơ bản tháng 6 tăng 14,88% so với cùng kỳ
năm 2010 và tăng 9,1% so với tháng 12 năm 2010. Tốc độ tăng có xu hướng
chậm lại từ tháng 5. Trong đó, tháng 1: 1,58%, tháng 2: 1,57%, tháng 3: 1,63%,
tháng 4: 1,83%, tháng 5: 1,39%, tháng 6: 0,76%.
Cấu phần có ảnh hưởng lớn nhất đến CPI là hàng ăn và dịch vụ ăn uống
tăng 21,2% và chiếm tỉ trọng 59,1%( lương thực tăng 9,8%, chiếm tỉ trọng
5,6%; thực phẩm tăng 26,12% chiếm tỉ trọng 44,5%). Nhóm phương tiện đi lại,
bưu điện tăng 19,05% chiếm tỉ trọng 11,8%. Nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng
tăng 14,15% chiếm tỉ trọng 10,6%
Mặc dù CPI có xu hướng giảm tốc từ tháng 5 nhưng trong cả giai đoạn,
CPI hàng tháng đều có tốc đọ tăng cao hơn so với tháng trước và là mức tăng
cao nhất so với cùng thời điểm trong vòng 3 năm qua. Sau đó CPI giảm dần
trong 2 tháng tiếp theo và CPI tháng 6 dừng lại ở 1,09%. Tuy CPI chỉ tăng nhẹ
nhưng lại khiến gia tăng quan ngại về lạm phát tăng tốc trong những tháng cuối
năm.
4.Diễn biến năm 2012 - 2013
Bước sang năm 2012, lạm phát được kiềm chế ở mức 6,81%. Trong năm
2012, có tới 7 tháng CPI chỉ tăng dưới 1%, còn lại hầu hết chỉ tăng dưới 0,5%.
CPI bình quân của nhiều nhóm hàng năm nay có sự biến động và khác xu hướng
so với năm trước. Nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng thấp hơn so với mức
tăng chung( lương thực tăng 3,26%, thực phẩm tăng 8,14%, CPI bình quân tăng
9,21%). Nhóm dịch vụ y tế có sự thay đổi lớn với chỉ số giá tăng mạnh ở mức

20,37% cao hơn nhiều so với năm 2011.Chỉ số giá nhóm giáo dục vẫn duy trì
mức tăng cao, chỉ số giá nhóm bưu chính viễn thông vẫn duy trì ở mức
giảm( năm 2012 giảm 1,11%). Tháng 12-2012 chỉ số giá vàng tăng 0,46%, chỉ
số giá USD tăng 0,03% so với tháng trước.
Tổng Cục trưởng Tổng Cục thống kê Đỗ Thức cho biết chỉ số giá tiêu dung
tháng 12 xấp xỉ mức tăng 6,52% của năm 2009, thấp hơn nhiều so với mức tăng
11,75% của năm 2010 và mức tăng 18,13% của năm 2011 nhưng lại là năm có
nhiều biến động bất thường. Cụ thể chỉ số giá tiêu dung không tăng quá cao
trong 2 tháng đầu năm nhưng lại tăng cao nhât vào tháng 9, và tăng chậm dần
trong những tháng cuối năm.
Năm 2013 lạm phát được xem là thấp nhất trong 10 năm qua ở mức 6,04%.
Ngày 23/12, Tổng cục Thống kê công bố Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng
12/2013 và cả năm 2013. Theo đó, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2013 tăng
0,51% so với tháng trước và tăng 6,04% so với tháng 12/2012. Chỉ số giá tiêu
dùng bình quân năm 2013 tăng 6,6% so với bình quân năm 2012.Theo Tổng cục
Thống kê, trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, nhóm nhà ở và vật liệu xây
dựng có chỉ số giá tháng 12/2013 so với tháng trước tăng cao nhất với mức tăng
2,31%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,57%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống
tăng 0,49% Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá giảm gồm:
giao thông giảm 0,23%; bưu chính viễn thông giảm 0,01%.
KẾT LUẬN: Qua quá trình phân tích về lạm phát qua các năm từ 2009 cho tới
2013, chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng lạm phát không ngừng biến động thất
thường theo mỗi năm. Mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh
tế thế giới nhưng nhờ có các chính sách kịp thời của Nhà nước và các cấp lãnh
đạo mà đất nước ta đã vượt qua cuộc khủng hoảng, tiến tới phát triển bền vững
hơn.
II, NGUYÊN NHÂN GÂY LẠM PHÁT
Năm 2010, tỷ lệ lạm phát là 11,8%, tăng 9,19% so với năm 2009. Giá hàng hóa
và sản phẩm công nghiệp tăng vẫn là những nguyên nhân chính gây ra tình trạng lạm
phát tăng cao trong những năm gần đây. Tỉ trọng thương mại so với GDP lên đến gần

150% và đồng Việt Nam mất giá cùng với sự tăng giá hàng hóa trên thế giới đã ảnh
hưởng trực tiếp tới mặt bằng giá trong nước. Ngoài ra, các cú sốc nguồn cung như lụt
lội nghiêm trọng tại các tỉnh miền Trung cũng góp phần gây ra lạm phát.
Năm 2011, tỷ lệ lạm phát diễn biến phức tạp. Trong 5 tháng đầu năm, tỷ lệ lạm
phát tăng liên tục, tiếp tục đà tăng của 2 tháng cuối năm 2010, đỉnh điểm là vào tháng
04/2011, tỷ lệ lạm phát ở mức 3,32%, cao nhất trong vòng 22 tháng trở lại trước. Sau
đó, tỷ lệ lạm phát các tháng bắt đầu giảm dần; đến cuối năm 2011, tỷ lệ lạm phát năm
2011 là 18,58%, tăng hơn 100% so với năm 2010. Vậy nguyên nhân gì dẫn đến lạm
phát năm 2011 tăng cao đột biến so với năm 2010?
Như chúng ta đã biết, lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô là bất lợi lớn đối với
khuyến khích và thu hút đầu tư; làm cho môi trường kinh doanh ở nước ta kém cạnh
tranh hơn so với các nước khác. Lạm phát cao, biến động liên tục đã làm gia tăng chi
phí sản xuất, giảm lợi nhuận; làm cho các kế hoạch đầu tư trung và dài hạn trở nên rủi
ro hơn và không dự tính được một cách chắc chắn. Hệ quả là, các doanh nghiệp nói
chung không những phải cắt giảm đầu tư phát triển, mà có thể phải cắt giảm cả quy mô
sản xuất hiện hành để đối phó với lạm phát cao.
Thực tế cho thấy, lượng vốn FDI đăng ký bốn tháng đầu năm 2011 chỉ bằng 52%
của cùng kỳ năm ngoái. Lần đầu tiên trong hơn 10 năm qua, số doanh nghiệp đăng ký
mới và số vốn đăng ký đã giảm xuống, chỉ bằng khoảng 75% của cùng kỳ năm ngoái.
Điều tra của Hiệp hội doanh nghiệp châu Âu cũng cho thấy chỉ số lạc quan kinh doanh
của các doanh nghiệp thành viên ở Việt Nam năm 2011 đã giảm đáng kể. Lạm phát
cao (nhưng tiền lương và thu nhập bằng tiền khác của người lao động không tăng lên
tương ứng) đã làm cho thu nhập thực tế của họ giảm xuống.
Thực trạng lạm phát ở nước ta như trình bày trên đây có nhiều nguyên nhân. Giá
cả trên thị trường thế giới tăng cao và các điều kiện quốc tế bất lợi khác rõ ràng có tác
động đến giá cả và lạm phát ở nước ta. Tuy vậy, lạm phát cao kéo dài và sự chênh lệch
rất lớn giữa lạm phát ở nước ta và các nước trong khu vực, kể cả các nước có nền kinh
tế mở hơn, chứng tỏ các nguyên nhân chủ quan, bên trong vẫn là chủ yếu.
Nguyên nhân sâu xa, bao trùm và cơ bản nhất của thực trạng lạm phát hiện nay bắt
nguồn từ mô hình tăng trưởng và cách thức mà chúng ta sử dụng để đạt được mục đích

tăng trưởng. Tăng trưởng của chúng ta cho đến nay chủ yếu vẫn dựa vào mở rộng đầu
tư, nhưng đầu tư nhìn chung lại kém hiệu quả, nhất là đầu tư nhà nước. Tổng đầu tư xã
hội nhiều năm liền luôn ở mức cao từ 40-42% GDP; hệ số sinh lời từ đồng vốn đầu tư
(viết tắt là ICOR) cao và đang có xu hướng gia tăng. Trong giai đoạn 2006-2011 hệ số
này của khu vực nhà nước là 10,2, của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 9,7, và của
khu vực tư nhân trong nước là 5. Đóng góp của yếu tố vốn vào tăng trưởng trong giai
đoạn nói trên chiếm khoảng 65%; các yếu tố khác như đổi mới công nghệ, tri thức và kỹ
năng, phương thức tổ chức quản lý,… góp phần chưa đáng kể. Do đó, cái giá hay phí
tổn phải trả cho một đơn vị tăng trưởng là rất lớn và có xu hướng tăng thêm. Tuy mô
hình và cách thức tăng trưởng đã tới hạn nhưng chúng ta vẫn dựa vào đó để đạt được
mục tiêu tăng trưởng, do đó về ngắn hạn thì cách chủ yếu để đạt tăng trưởng đó là mở
rộng đầu tư. Do đó, tốc độ tăng trưởng tín dụng, tổng phương tiện thanh toán, thâm hụt
tài khóa gia tăng, thâm hụt cán cân thanh toán gia tăng… tất cả những điều đó là nguyên
nhân mang tính nội tại làm cho lạm phát của chúng ta trong mấy năm qua luôn ở mức
cao và cao hơn nhiều so với các nước.
Khoảng giữa tháng 02/2011, Chính phủ ra quyết định điều chỉnh tăng giá điện
thêm 15,28% so với giá bình quân năm 2011. Đến 29/03/2011, Bộ Tài chính lại ra
quyết định tăng giá bán lẻ các loại xăng dầu thêm 2.000-2.800 đồng một lít. Việc tăng
giá điện và xăng dầu làm cho giá cả một loạt các mặt hàng tăng cao, đặc biệt là giá cả
các yếu tố đầu vào của sản xuất tăng, làm chi phí sản xuất tăng, tổng cung giảm.
Đường tổng cung dịch chuyển sang trái, làm giá tăng và sản lượng giảm. Áp dụng vào
thực tiễn ta thấy quả nhiên việc tăng giá điện và xăng dầu vào thời điểm tháng 2 và
tháng 3/2011 đã góp phần không nhỏ vào làm tăng tỷ lệ lạm phát hàng tháng, và đỉnh
điểm là tháng 4/2011 (3,32%).
Nguyên nhân tiếp theo làm cho tỷ lệ lạm phát năm 2011 là tình trạng đầu tư công
dàn trải và thiếu hiệu quả. Theo thống kê mỗi năm Việt Nam đầu tư công khoảng 17-
20% GDP, trong khi các nước trong khu vực chỉ dưới 5% như Trung Quốc 3,5%,
Indonesia 1,6%; quy mô vốn đầu tư công của nước ta trong 10 năm qua đã tăng tới 3,2
lần, trung bình mỗi năm tăng 13,9 % . Tuy nhiên hiệu quả đầu tư công của Việt Nam
hiện còn rất kém, điển hình như hoạt động thua lỗ của Vinashin, công ty cho thuê tài

chính VFII. Ngay trong Nghị quyết 11, Chính phủ cũng đặt ưu tiên giảm đầu tư công
và nâng cao hiệu quả đầu tư công trong thời gian tới.
Tình trạng thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại diễn ra trong thời gian dài
cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho lạm phát càng leo thang. Trong giai
đoạn 2005 – 2010, thâm hụt ngân sách liên tục gia tăng từ mức 7,1 nghìn tỷ năm 2005
lên mức 115.900 tỷ đồng năm 2009 và mức 69 nghìn tỷ năm 2010; nhập siêu cũng gia
tăng mạnh từ mức 4,3 tỷ USD lên mức 12,2 tỷ USD năm 2009, ước xấp xỉ 12,4 tỷ
USD năm 2010 và nhập siêu trong đã lên đến khỏang 15 tỷ USD. Tình trạng này nếu
tiếp tục kéo dài gây khó khăn cho việc hoạch định triển khai chính sách tỷ giá, nỗ lực
giảm thâm hụt ngân sách của Chính phủ và quá trình tăng trưởng bền vững của nền
kinh tế.
Trong những tháng đầu năm 2011, đồng Việt Nam mất giá so với đồng đôla Mỹ,
trong khi đồng đôla Mỹ mất giá tương đối so với một số đồng tiền trên thế giới như
Euro, Bảng Anh.
Việc đồng Việt Nam mất giá làm cho giá hàng Việt Nam xuất khẩu khi tính theo
ngoại tệ sẽ rẻ hơn, làm cho lượng hàng xuất khẩu tăng và tổng cầu tăng. Giá cả trong
nước do vậy cũng dần tăng lên, và lạm phát lúc này xuất phát từ nguyên nhân cầu kéo.
Tuy nhiên, đồng thời khi đó giá các đầu vào sản xuất như máy móc, nguyên vật liệu,
xăng dầu mà Việt Nam phải nhập khẩu tăng lên khi tính bằng Việt Nam đồng. Chi phí
sản xuất tăng lên làm giảm tổng cung, và do vậy giá cả đầu ra cũng tăng theo. Lúc này,
lạm phát xảy ra xuất phát từ nguyên nhân chi phí đẩy. Ngoài ra, việc đồng Việt Nam
mất giá làm cho người dân mất lòng tin ở đồng nội tệ. Thay vì giữ nội tệ, người dân
chuyển sang tích lũy vàng và ngoại tệ. Điều này càng làm tình trạng lạm phát những
tháng đầu năm 2011 nặng nề thêm.
Ngoài các nguyên nhân nói trên, thì các nguyên nhân tốc độ tăng trưởng tín dụng
quá cao nhưng chất lượng thấp, thị trường chứng khoán ảm đảm, thị trường bất động
sản đóng băng, tình trạng vàng hóa, đô la hóa và sự gia tăng của tổng phương tiện
thanh toán… cũng là một trong những nguyên nhân khiến tình trạng lạm phát năm
2011 trở nên trầm trọng hơn so với năm 2010.
III, TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT VÀ CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ

1. Tác động
 Đối với lĩnh vực sản xuất
Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra
biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản
xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán
kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh - sản xuất ở một vài doanh nghiệp có
thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế.
 Đối với lĩnh vực lưu thông
Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm
hàng hoá. Các nhà doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực
lưu thông. Thậm chí khi lạm phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư
vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải rủi ro cao. Do đó nhiều người
tham gia vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền
ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy
vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm
thúc đẩy lạm phát gia tăng.
 Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị
thu hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ
thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng
được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá
nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người
hiện có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là
những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng.
Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa.
Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ
không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của
cải hình thức tiền mặt.
 Đối với chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá.

Khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động
của giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được
những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà
nước thiếu vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho
các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm…Một khi ngân sách nhà
nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế
xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được.
2. Biện pháp
a. Biện pháp tình thế
Thứ nhất, tăng cường sản xuất trong nước, tận dụng những nguyên liệu đầu
vào mà các doanh nghiệp sản xuất được trong nước, nhờ đó giảm được lượng
nhập khẩu từ nước ngoài. Tăng cường dự trữ những vật tư để tránh bị động
trước những biến động của thị trường thế giới.
Thứ hai, Các ngành Tài chính – Ngân hàng cần phấn đấu tăng thu, tiết kiệm
chi ngân sách, phát triển mạnh mẽ các phương thức thanh toán không dùng tiền
mặt, nâng cao chất lượng tín dụng và tích cực giải quyết nợ tồn đọng, cần sử
dụng các chính sách tiền tệ một cách nhanh nhạy, khôn khéo để phòng tránh và
giảm thiểu những rủi ro.
Thứ ba, Nhanh chóng khôi phục lại đàn gia cầm, phát triển chăn nuổi gia
súc, tôm cá. Đẩy mạnh sự chuyển dịch cây trồng, con giống trong nông nghiệp,
phát triển đánh băt thủy hải sản trên cơ sở áp dụng rộng rãi khoa học kỹ thuật
tiên tiến và bảo vệ môi trường.
Thứ tư, Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả và đồng bộ chính sách tài chính tiền
tệ để bình ổn thị trường, kiềm chế lạm phát phù hợp với xu thế hội nhập, bảo
đảm tương quan giữa giá trong nước và giá thị trường quỗc tế và quan hệ cung
cầu trên thị trường.
Đối với các chính sách đầu tư, cần tiếp tục thực hiện các giải pháp đẩy
mạnh thu hót các nguồn vốn đầu tư trong nước để đáp ứng đủ vốn cho mục tiêu
tăng trưởng, đồng thời kiên quyết thực hiện các biện pháp để nâng cao chất
lượng và hiệu quả tăng trưởng kinh tế. Biện pháp hàng đầu là kiểm soát các dự

án đầu tư mới, thực hiên nghiêm ngặt các biện pháp chống thất thoát, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Tiếp tục thực hiện phát hành
công trái, trái phiếu chính phủ để đáp ứng nhu cầu đầu tư, đồng thời hạn chế
được cung tiền.
Đối với chính sách thuế cần sử dụng linh hoạt, trước mắt cần giảm thuế
nhập khẩu đối với những mặt hàng có sự biến động bất thườn, thúc đẩy các
doanh nghiệp tiết kiêm chi phí, hạ giá thành, tạo điều kiện hạ giá bán sản phẩm,
không để xẩy ra tình trạng các doanh nghiệp lợi dụng giá đầu vào tăng để tăng
giá tuỳ ý, làm thiệt hại đến người tiêu dùng.
Đối với chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thực hiện chính
sách tiền tệ nới lỏng thận trọng linh hoạt. Chủ động can thiệp vào thị trường
ngoại tệ khi tỷ giá hối đoái có những biến động bất thường thông qua việc tăng
cung ngoại tệ hợp lý, ổn định tỷ giá để không làm tăng chi phí nhập khẩu.
b. Biện pháp dài hạn
Thứ nhất, có chính sách điểu hành giá dài hạn để thúc đẩy sản xuất, bảo vệ
lợi ích hợp pháp của người sản xuất, người tiêu dùng và ích lợi của nhà nước.
Về lâu dài Chính phủ cần có chiến lược chú trọng phát triển nguồn nguyên liệu,
xây dựng cơ sở nguyên liệu trong nước tránh phụ thuộc quá nhiều vào nước
ngoài và đặc biệt là chiến lược nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp và cả nền kinh tế. Đối với việc điều hành giá cả, trước mắt chưa thực
hiện tăng giá đối với các mặt hàng thiết yếu do nhà nươc định giá như giá điện,
than, xi măng, xăng dầu; các mặt hàng do các doanh nghiệp nhà nước cung ứng
như: gía cước vận tải công cộng, vận tải đường sắt, đường thủy, đường hàng
không. Tiếp tục thực hiện chính sách giảm giá đối với các dịch vụ bưu chính
viễn thông theo lé trình.
Thứ hai, Kiểm soát chặt chẽ chi phí sản xuất, chi phí lưu thông giá thành và
giá cả đối với các hàng hoá, dịch vụ độc quyền hoặc quan trọng thiết yếu. Tập
trung chỉ đạo trước hết đối với các ngành chịu tác động lớn do tăng giá, hạn chế
tối đa các tác động tiêu cực của sự biến động giá cả tới sản xuất. Về phía các
doanh nghiệp cần có biện pháp tiết kiệm nghiêm ngặt chi phí sản xuất, hạ giá

thành, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh để ổn định giá sản phẩm bán ra.
Trước mắt thực hiện tốt chỉ thị thực hiện tiết kiệm 10% xăng dầu của thủ tướng
Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ chi phí sản xuất và giá bán của các sản phẩm độc
quyền, chống tình trạng lợi dụng tăng giá bán phi kinh tế của các doanh nghiệp.
Thứ ba, tăng cường năng lực quản lý điều hành thị trường, chống đầu cơ,
độc quyền hoặc liên kết độc quyền về gía, lũng đoạn thị trường. Mục tiêu là đảm
bảo cân đối quan hệ cung cầu trên thị trường trong mọi tình huống, không để
mất cân đối cung cầu giữa sản xuất trong nước và nhập khẩum, giữâ các vùng
miền, giữa các thời kỳ trong năm. Trước mắt cần tập trung quản lý, điều hoà
việc thu mua gạo xuất khẩu, có tiến độ xuất khẩu gạo hợp lý, tránh tình trạng
tranh mua tranh bán đẩy giá lên. Tiếp tục thực hiện chủ trương kiểm soát để phá
giá độc quyển trong nhập khẩu và phân phối thuốc chữa bệnh, kỉêm soát chặt
chẽ việc phân phối thuốc trong các bệnh viện. Có biện pháp kiên quyết chống
đầu cơ, buôn lậu, gian lận thương mại; sắp xếp lại mạng lưới phân phối lưu
thông hàng hoá hợp lý, điều hoà tốt việc lưu thông các mặt hàng hóa thiết yếu
như sắt thép, xi măng, phân bón, xăng dầu….không để mất cân đối cung cầu.
Thứ tư, thực hiện tốt công tác thu nhập phân tích dự báo giá cả thị trường
và thông tin, tuyên truyền về chính sách điều hành giá cả thị trường. Sớm hoàn
thiện phương pháp tính toán chỉ số giá và chỉ số lạm phát cơ bản để tạo căn cứ
chính xác, tin cậy cho việc điều hành chính sách tài chính tiền tệ. Nâng cao chất
lượng công tác phân tích, dự báo giá cả thị trường trong nước và thế giới phục
vụ cho việc xây dựng chính sách quản lý điều hành giá của nhà nước. Chú trọng
tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng để doanh nghiệp và người
tiêu dùng hiểu rõ chính sách và sự điều hành giá cả của nhà nước, mối quan hệ
giữa giá cả trong nước và gía cả thị trường quốc tế trong bối cảnh hội nhập để
ngăn ngõa tác động tâm lý đẩy giá lên cao.
CHƯƠNG 3: MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ
THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2009 – 2013.
I, LẠM PHÁT VÀ THẤT NGHIỆP NĂM 2009
Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn,

thách thức. Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008
đã đẩy kinh tế thế giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường
xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh
vực kinh tế-xã hội khác của nước ta. Nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành nhạy
bén, kịp thời, tập trung và quyết liệt của Đảng, Chính phủ; sự nỗ lực và chủ
động khắc phục khó khăn, sự sáng tạo của các Bộ, Ngành, địa phương, các tập
đoàn kinh tế, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và của toàn dân nên nước ta đã ngăn
chặn được suy giảm kinh tế, càng về cuối năm càng nâng cao được tốc độ tăng
trưởng. Mức lạm phát năm 2009 không cao, chỉ ở mức 1 con số là 6.88%. Giá
tiêu dùng năm 2009 tương đối ổn định. Tỉ lệ thất nghiệp tăng, điển hình là dân
số trong độ tuổi lao động cả nước là 55 triệu người thì có 1,3 triệu người thất
nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp là 2,9% (cao hơn so với 2.38% của năm 2008). Tuy
nhiên điều này hoàn toàn đúng với đường cong Phillips.
II, LẠM PHÁT VÀ THẤT NGHIỆP NĂM 2010
Sang đến năm 2010, mặc dù sau khủng hoảng, kinh tế toàn cầu phục hồi
chậm, nhưng kinh tế nước ta đã sớm ra khỏi tình trạng suy giảm và có mức tăng
trưởng khá cao. Riêng trong tháng 12, chỉ số CPI tăng mạnh nhất. Việc CPI năm
2010 tăng ở mức 2 con số không nằm ngoài dự báo khi từ tháng 9 chỉ số này đã
liên tục tăng mạnh. Nhìn chung năm 2010 là một năm chỉ số giá có diễn biến
phức tạp. Trong năm 2010,có 50,51 triệu người trong độ tuổi lao động, thì có
1,45 triệu người thất nghiệp, chiếm tỷ lệ 2,88% lực lượng lao động, giảm so với
năm 2009 (2.9%). So sánh với năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp chung đã giảm
0,02%, thất nghiệp thành thị giảm 0,17% trong khi thất nghiệp nông thôn lại
tăng thêm 0,02%. Năm 2009, các tỷ lệ tương ứng là 2,9%; 4,6%; 2,25%.
III, LẠM PHÁT VÀ THẤT NGHIỆP NĂM 2011
Bước vào năm 2011, tình hình trong nước và quốc tế đã xuất hiện những
khó khăn, thách thức mới. Trong giai đoạn này, lạm phát Việt Nam tăng rất cao.
Vào tháng 3/2011, tỉ lệ lạm phát cao nhất trong vòng 2 năm qua với gần 14%.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, giá tiêu dùng tăng với nhịp độ 13.9%, chỉ
số giá sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 23.12% so với cùng kì năm

ngoái… Trong quý II của năm, lạm phát gia tăng mạnh. Chỉ số giá tiêu dùng
CPI tăng rất cao, giá tiêu dùng tháng 6/2011 so với tháng 12/2010 đã lên đến
13.29%. Đầu quý IV, CPI cả nước tăng 0.36% so với tháng 9, so với tháng
12/2010 thì tăng 17.05%.

×