Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

tác động của thuế thu nhập doanh nghiệp đối với tăng trưởng kinh tế áp dụng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.23 KB, 23 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới ở nước ta nhằm xây dựng một nền kinh tế
hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa đă thu được nhiều thành quả tốt đẹp.
Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển tương đối ổn định và dần
chuyển sang một thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá -
hiện đại hoá và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Trong cơ chế
mới này, thuế được nhìn nhận là một công cụ hữu hiệu của Nhà
nước để điều tiết nền kinh tế. Thuế vừa đáp ứng được nguồn thu
cho ngân sách, vừa thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, kích
thích đầu tư, đồng thời góp phần đảm bảo công bằng xă hội.
Trong xu thế hội nhập quốc tế, các quốc gia không thể tự
tách mình ra khỏi đời sống kinh tế thế giới. Hệ thống pháp luật
thuế của mỗi quốc gia không những phải đáp ứng các điều kiện
kinh tế - xă hội của đất nước mà đi hỏi phải có sự tương thích nhất
định với hệ thống pháp luật thuế các nước trong khu vực và quốc
tế. Lựa chọn áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) thay thế
“thuế lợi tức” là một trong những minh chứng khẳng định chính
sách hội nhập của Nhà nước ta. Nền kinh tế nước ta đang trong
thời kỳ chuyển đổi, các quan hệ kinh tế phát triển với tốc độ nhanh
chóng. Do đó, hệ thống pháp luật thuế cần phải thay đổi để phản
ánh kịp thời “hơi thở” thời đại.
Chiến lược phát triển kinh tế năm 2001 - 2010 được nêu
trong văn kiện Đại hội Đảng: “Tạo môi trường pháp luật bình
đẳng, thuận lợi cho các doanh nghiệp cạnh tranh, hợp tác để
phát triển; tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp theo hướng
đơn giản, thống nhất, không phân biệt đầu tư trong nước, đầu tư
nước ngoài, nuôi dưỡng nguồn thu, hiện đại hoá công tác thu
thuế của Nhà nước”. Thuế nói chung và thuế TNDN nói riêng
không thể tách riêng khỏi hệ thống pháp luật và đi hỏi chủ trương


hoàn thiện của Đảng và Nhà nước. Vì thế, những thay đổi căn bản
này sẽ góp phần đưa công cụ thuế nói chung và thuế TNDN nói
riêng trở thành công cụ hữu hiệu điều tiết nền kinh tế phù hợp với
chiến lược phát triển lâu dài trong thời gian tới ở Việt Nam.
Xét về tỷ lệ doanh nghiệp trên dân số (1000 người dân mới
có 1 doanh nghiệp), nước ta đứng ở vị trí khiêm tốn trong số các
nước đang phát triển và thấp hơn khoảng 20 lần so với các nước
phát triển. Chính v́ vậy, chỉnh sửa và bổ sung hệ thống luật pháp để
doanh nghiệp phát triển, trong đó có luật thuế TNDN là rất cần
thiết.
Năm 2009, Luật thuế TNDN 2008 bắt đầu có hiệu lực đă
minh chứng cho sự nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong việc nắm
bắt nhu cầu, mong muốn của nhân dân ta trong việc thay đổi nội
dung thuế TNDN 2003 cho phù hợp hoàn cảnh hiện tại. Thuế
TNDN đang dần phát huy những ưu điểm của mình trong việc mở
rộng phạm vi điều chỉnh, một số điểm quy định đối tượng nộp
thuế, thuế suất, chế độ miễn giảm…Tuy nhiên, Luật thuế TNDN
2008 có hiệu lực từ 01/01/2009 mới được thi hành một thời gian
ngắn nhưng thực tế đă cho thấy tồn tại những bất cập cần điều
chỉnh, thể hiện qua việc phải ban hành khá nhiều thông tư hướng
dẫn gây khó khăn cho việc thực hiện. tiểu luận Tốt nghiệp với đề
tài “tác động của thuế thu nhập doanh nghiệp đối với tăng
trưởng kinh tế (áp dụng tại Việt Nam)” chủ yếu tập trung tìm ra
thực trạng thuế TNDN, những hạn chế cần khắc phục, sửa đổi và
kiến nghị một vài giải pháp hoàn thiện cho quá trình áp dụng Luật
thuế TNDN 2008.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Tiểu luận nhằm làm rõ cơ sở lư luận và thực tiễn về thuế
TNDN, những điểm mới của Luật thuế TNDN 2008, thực trạng
pháp luật thuế TNDN ở Việt Nam và kiến nghị những giải pháp

hoàn thiện hơn nữa pháp luật thuế TNDN.
Xuất phát từ mục đích đó, tiểu luận có ba nhiệm vụ là:
- Hệ thống hoá khái niệm, đặc điểm, lịch sử phát triển của
thuế TNDN nói chung và pháp luật thuế TNDN nói riêng;
- Sau đó, tiểu luận nêu ra những điểm mới của Luật thuế
TNDN 2008, đồng thời phân tích bình luận những ưu, nhược điểm
của các chế định cụ thể của pháp luật thuế TNDN hiện hành, tập
trung vào các vấn đề gây tranh căi hiện nay và thực tế bộc lộ
những hạn chế cần hoàn thiện;
- Cuối cùng, trên cơ sở phân tích những vấn đề của pháp luật
thuế TNDN, tiểu luận đưa ra những ư kiến đóng góp cho việc hoàn
thiện pháp luật thuế TNDN cho phù hợp với điều kiện kinh tế Việt
Nam cũng như xu hướng chung của thế giới.
3. Kết cấu của đề tài
Tiểu luận gồm có những nội dung chính sau đây:
- Phần một: Phần mở đầu
- Phần hai: Phần nội dung:
+ Khái quát chung về thuế TNDN và pháp luật thuế
TNDN;
+ Thực trạng pháp luật thuế TNDN tại Việt Nam;
+ Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật thuế TNDN.
- Phần ba: Phần kết luận, tài liệu tham khảo.
PHẦN HAI: NỘI DUNG
Chương I: Khái quát chung về thuế thu nhập doanh
nghiệp
Thuế thu nhập doanh nghiệp xuất hiện rất sớm trong lịch sử phát
triển của thuế . Hiện nay ở các nước phát triển, thuế thu nhập
doanh nghiệp giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo ổn
định nguồn thu ngân sách Nhà nước và thực hiện phân phối thu
nhập.

I. KHÁI NIỆM THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP
1. Vì sao cần phải có thuế thu nhập doanh nghiệp.
Thuế thu nhập doanh nghiệp xuất hiện rất sớm trong lịch sử
phát triển của thuế . Hiện nay ở các nước phát triển, thuế thu nhập
doanh nghiệp giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo ổn
định nguồn thu ngân sách Nhà nước và thực hiện phân phối thu
nhập. Mức thuế cao hay thấp áp dụng cho các chủ thể thuộc đối
tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là khác nhau, điều đó phụ
thuộc vào quan điểm điều tiết thu nhập và mục tiêu đặt ra trong
phân phối thu nhập của từng quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử
nhất định. Thuế thu nhập doanh nghiệp ra đời bắt nguồn từ các lý
do chủ yếu sau:
Thuế thu nhập doanh nghiệp ra đời bắt nguồn từ yêu cầu thực
hiện chức năng tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
Sự ra đời của thuế thu nhập doanh nghiệp xuất phát từ nhu cầu tài
chính của Nhà nước
2. khái niệm về thuế thu nhập doanh nghiệp.
Thuế thu nhập doanh nghiệp là một loại thuế trực thu đánh
vào lợi nhuận của các doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày
10/5/1997 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999 thay cho
Luật thuế lợi tức.
Cùng với công cuộc cải cách thuế bước I năm 1990, Luật thuế
lợi tức đã được ban hành. Tuy nhiên qua 8 năm thực hiện, Luật
thuế lợi tức dần dần bộc lộ nhiều nhược điểm và không còn phù
hợp với tình hình kinh tế Việt Nam trong giai đoạn mới: giai đoạn
mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế
giới. Vì vậy, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã được ban hành
nhằm đảm bảo sự phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế

trong giai đoạn mới
3. Vai trò của thuế thu nhập doanh nghiệp trong nền kinh tế
thị trường
· Thuế thu nhập doanh nghiệp là công cụ quan trọng để Nhà
nước thực hiện chức năng tái phân phối thu nhập, đảm bảo
công bằng xã hội.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta, tất cả các
thành phần kinh tế đều có quyền tự do kinh doanh và bình đằng
trên cơ sở pháp luật. Các doanh nghiệp với lực lượng lao động có
tay nghề cao, năng lực tài chính mạnh thì doanh nghiệp đó sẽ có ưu
thế và có cơ hội để nhận được thu nhập cao; ngược lại các doanh
nghiệp với năng lực tài chính, lực lượng lao động bị hạn chế sẽ
nhận được thu nhập thấp, thậm chí không có thu nhập. Ðể hạn chế
nhược điểm đó, Nhà nước sử dụng thuế thu nhập doanh nghiệp làm
công cụ điều tiết thu nhập của các chủ thể có thu nhập cao, đảm
bảo yêu cầu đóng góp của các chủ thể kinh doanh vào ngân sách
Nhà nước được công bằng, hợp lý.
· Thuế thu nhập doanh nghiệp là nguồn thu quan trọng của
ngân sách Nhà nước.
Phạm vi áp dụng của thuế thu nhập doanh nghiệp rất rộng, gồm
cá nhân, nhóm kinh doanh, hộ cá thể và các tổ chức kinh tế có hoạt
động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có phát sinh lợi
nhuận. Nền kinh tế thị trường nước ta ngày càng phát triển và ổn
định, tăng trưởng kinh tế được giữ vững ngày càng cao, các chủ
thể hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ngày càng mang lại
nhiều lợi nhuận thì khả năng huy động nguồn tài chính cho ngân
sách Nhà nước thông qua thuế thu nhập doanh nghiệp ngày càng
dồi dào.
· Thuế thu nhập doanh nghiệp là công cụ quan trọng để góp
phần khuyến khích, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển

theo chiều hướng kế hoạch, chiến lược, phát triển toàn diện của
Nhà nước.
Nhà nước ưu đãi, khuyến khích đối với các chủ thể đầu tư, kinh
doanh vào những ngành, lĩnh vực và những vùng, miền mà Nhà
nước có chiến lược ưu tiên phát triển trong từng giai đoạn nhất
định.
· Thuế thu nhập doanh nghiệp còn là một trong những công
cụ quan trọng của Nhà nước trong việc thực hiện chứng năng
điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ phát
triển kinh tế nhất định.
Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế có vai trò quan trọng
trong hệ thống pháp luật thuế của Việt Nam, song để phát huy một
cách có hiệu qủa vai trò của thuế thu nhập doanh nghiệp, chúng ta
cần phải xem xét nó dưới nhiều khía cạnh, kể cả những kinh
nghiệm xử lý của nước ngoài.
4. Đặc điểm
- Là loại thuế thu nhập nên thuế TNDN mang đầy đủ đặc
điểm của thuế thu nhập thông thường.
Thứ nhất: thuế thu nhập có đối tượng đánh thuế là thu nhập
Trong hệ thống thuế ở các nước, có nhiều loại thuế khác nhau, có
đối tượng tính thuế, đối tượng nộp thuế khác nhau, nhưng suy đến
cùng th́ bất kỳ loại thuế nào cũng đều lấy từ thu nhập của người
dân trong xă hội để tập trung vào quỹ NSNN. Tuy nhiên, không
phải loại thuế nào cũng là thuế thu nhập. Thuế thu nhập khác với
thuế tiêu dùng, thuế tài sản ở chỗ: thuế thu nhập là loại thuế trực
thu đánh trực tiếp vào thu nhập của các cơ sở sản xuất kinh doanh
khi có thu nhập chịu thuế phát sinh. Đối với thuế tiêu dùng là loại
thuế gián thu đánh vào việc sử dụng thu nhập của người dân, thông
qua việc người dân sử dụng thu nhập để mua hàng hoá, dịch vụ
tiêu dùng, phần thu nhập mà Nhà nước lấy đi của họ được cộng

vào trong giá bán của hàng hoá, dịch vụ.Vì thế, người chịu thuế,
người nộp thuế là không đồng nhất (người tiêu dùng là người chịu
thuế, người kinh doanh hàng hoá, cung ứng dịch vụ là người nộp
thuế). Đối với thuế tài sản là loại thuế đánh vào thu nhập tích luỹ
đă được vật hoá dưới dạng tài sản của tổ chức, cá nhân trong xă
hội. Về bản chất, thuế tài sản cũng là thuế trực thu nhưng có đối
tượng đánh thuế là tài sản. Mặc dù, tài sản và thu nhập đều là của
cải của một chủ thể có được nhờ những nguồn lợi thu được từ các
hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, giữa chúng cũng có sự khác nhau, cụ
thể: tài sản là khối lượng của cải của một chủ thể ở một thời điểm
nào đó, c̣n thu nhập là số của cải thu được của một chủ thể trong
khoảng thời gian nhất định. Như vậy, thu nhập của một thời kỳ sẽ
không bao gồm thu nhập ở thời kỳ trước, còn tài sản lúc cuối kỳ thì
bao gồm tất cả các thu nhập của các kỳ trước đó cộng lại. Vì vậy,
khái niệm “tài sản” phải gắn với yếu tố thời điểm, c̣n khái niệm
“thu nhập” gắn với yếu tố khoảng thời gian nhất định;
Thứ hai: thuế TNDN là thuế trực thu, ngoài mục tiêu tạo nguồn
thu cho NSNN, nó còn có mục tiêu điều tiết kinh tế, điều hoà thu
nhập xă hội nên thường gắn liền với chính sách kinh tế xă hội của
Nhà nước. Bởi vậy, pháp luật thuế thu nhập ở các nước thường có
những quy định về chế độ ưu đăi, miễn, giảm thuế để đảm bảo
chức năng khuyến khích của thuế thu nhập hoặc thực hiện việc áp
dụng đánh thuế theo biểu thuế luỹ tiến từng phần đối với một số
khoản thu nhập chịu thuế để thực hiện các mục tiêu điều tiết;
Đối với thuế thu nhập, ngoài việc xác định các khoản thu nhập
chịu thuế còn phải xác định nguồn gốc thu nhập, địa điểm phát
sinh thu nhập, thời hạn cư trú của chủ sở hữu thu nhập, tính ổn
định của thu nhập… Trong phần xác định thu nhập chịu thuế, phải
xác định được các khoản khấu trừ hợp lý để tiến hành khấu trừ khi
tính thuế nhằm bảo đảm mục tiêu công bằng và khuyến khích đối

với đối tượng nộp thuế;
Thứ tư: Nguồn luật điều chỉnh quan hệ thuế thu nhập bao gồm
các văn bản QPPL thuế quốc gia và văn bản QPPL thuế quốc tế.
Bởi thuế thu nhập là thuế trực thu nên nó có thể là đối tượng được
điều chỉnh bởi hiệp định tránh đánh thuế hai lần.Bên cạnh đó, thuế
TNDN cũng mang đặc điểm riêng của loại thu nhập doanh nghiệp
dưới góc độ phân biệt với thuế thu nhập cá nhân như về đối tượng
nộp thuế là tổ chức sản xuất kinh doanh sản xuất hàng hoá, dịch
vụ; về thu nhập bị đánh thuế; về cách tính thuế tính đến yếu tố như
doanh thu, chi phí, về ưu đăi thuế…
Chương II: Thực trạng về thuế thu nhập doanh nghiệp
I. Những kết quả đạt được
- Thứ nhất: Luật thuế TNDN đã có tác động tích cực trong việc
cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Luật thuế TNDN hiện
hành đã bỏ thu thuế bổ sung và hạ mức thuế từ 32% xuống 28%
đối với doanh nghiệp trong nước; bãi bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra
nước ngoài (3%, 5%, 7%) đối với nhà đầu tư nước ngoài để
chuyển từ mức thuế TNDN 25% sang áp dụng chung mức thuế
28% như các doanh nghiệp trong nước. Việc điều chỉnh giảm mức
thuế đối với doanh nghiệp trong nước không chỉ tạo thuận lợi cho
các doanh nghiệp mới thành lập mà còn tạo thêm tiềm lực tài chính
cho các doanh nghiệp đang hoạt động (chủ yếu là doanh nghiệp
nhà nước) đổi mới thiết bị, bổ sung vốn đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Theo số liệu thống kê
năm 2006, chỉ tính riêng 45 Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà
nước, vốn kinh doanh đã được tích luỹ, bổ sung thêm gần 5.300 tỷ
đồng, quỹ đầu tư phát triển tăng gần 13.000 tỷ đồng và quỹ dự
phòng tài chính để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh tăng
khoảng 2.000 tỷ đồng. Luật thuế TNDN hiện hành cũng quy định
chính sách ưu đãi trên cơ sở chọn mức ưu đãi thuế cao nhất trong

Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam để áp dụng chung cho doanh nghiệp trong nước và
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã khắc phục sự khác biệt đối xử
trong ưu đãi đầu tư, tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng, thúc
đẩy đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài cùng phát triển, góp
phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế cao trong những năm vừa
qua.
- Thứ hai: Góp phần bảo đảm nguồn thu quan trọng của NSNN.
Mặc dù đã hạ mức thuế và áp dụng các mức ưu đãi cao nhưng số
thu NSNN về thuế TNDN vẫn bảo đảm tăng trưởng do có tác động
cải thiện môi trường đầu tư, doanh nghiệp trong nước và doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài đều phát triển về số lượng, quy mô và
hiệu quả kinh doanh, mức thuế hợp lý tác động đến việc tự giác sự
tuân thủ tốt hơn Trong giai đoạn 2004 – 2007, số thu thuế
TNDN (không kể thu từ dầu khí) đạt mức bình quân trên 30 ngàn
tỷ đồng/năm với mức tăng trưởng bình quân hàng năm gần 17%.
Luật thuế TNDN đã góp phần bảo đảm nguồn thu quan trọng của
NSNN, đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng về đầu tư phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng của đất
nước.
- Thứ ba: thúc đẩy cải cách hành chính trong quản lý thuế và ưu
đãi đầu tư: Luật thuế TNDN áp dụng cơ chế doanh nghiệp tự tính,
tự khai, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực của
số liệu đã kê khai thay cho cơ chế cơ quan thuế tính thuế, thông
báo thuế, quyết toán thuế. Việc ban hành và thực thi Luật thuế
TNDN đã đánh dấu một bước tiến về cải cách thủ tục hành chính
trong quản lý thuế và đầu tư khi đề cao trách nhiệm của doanh
nghiệp trong việc lựa chọn, xác định điều kiện và mức ưu đãi thuế
mà không cần giấy phép, giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. Nhờ việc
chuyển sang cơ chế mới, cơ quan thuế có điều kiện tập trung

nguồn lực vào công tác tuyên truyền, hỗ trợ, kiểm tra, giám sát để
giúp cho doanh nghiệp thực hiện tốt các quy định của pháp luật.
II. Một số hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, trong quá trình thực
hiện và trước yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn tới,
Luật thuế TNDN đã bộc lộ một số hạn chế, tồn tại như sau:
-Thứ nhất: mức thuế suất 28% tuy phù hợp với tình hình thực tế
khi ban hành nhưng đến nay chưa thực sự cạnh tranh trong thu hút
đầu tư nước ngoài do các nước trong khu vực đã có sự điều chỉnh
giảm (ví dụ Trung Quốc đã hạ thuế suất từ 33% xuống 25%);
- Thứ hai: ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp còn dàn trải, phức
tạp, chưa phát huy hiệu quả phân bổ nguồn lực trong đầu tư để đáp
ứng yêu cầu về phát triển kinh tế theo vùng và lãnh thổ, nhất là thu
hút đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn;
- Thứ ba: căn cứ tính thuế (bao gồm thu nhập chịu thuế, chi phí
được trừ và không được trừ) chưa thực sự minh bạch, chưa phù
hợp với thông lệ quốc tế;
- Thứ tư: một số nội dung đã được điều chỉnh bởi các luật khác
như Luật quản lý thuế, Luật thuế thu nhập cá nhân… .
Vì vậy, để phát huy hơn nữa những ưu điểm của thuế TNDN cần
thiết phải sửa đổi Luật thuế TNDN hiện hành để khắc phục những
tồn tại nêu trên nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước trong giai đoạn tới như Chương trình cải cách hệ
thống thuế đến năm 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
tại Quyết định số 201/2004/QĐ-TTg ngày 06/12/2004 đề ra là:
“hoàn thiện theo hướng giảm mức thuế suất, giảm diện miễn, giảm
thuế; thống nhất mức thuế suất và ưu đãi thuế giữa các thành phần
kinh tế để khuyến khích đầu tư và đảm bảo bình đẳng trong cạnh
tranh.”

Chương III: Những vấn đề cần được xem xét, hoàn thiện.
Giải pháp 1: Về phạm vi điều chỉnh của Luật
Ngày 21 tháng 11 năm 2007, Quốc hội đã thông qua Luật thuế thu
nhập cá nhân có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009, trong đó các
cá nhân, hộ kinh doanh đang nộp thuế TNDN được chuyển sang
nộp thuế theo Luật thuế thu nhập cá nhân. Trước đó, Luật quản lý
thuế (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2007) đã quy định các nội
dung về quản lý thuế bao gồm đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế,
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm thuế TNDN.
Vì vậy, Luật thuế TNDN sửa đổi lần này chỉ quy định về các nội
dung chính sách để bảo đảm sự thống nhất về thể thức văn bản
Luật theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Dự thảo Luật đề nghị bổ sung 01 điều quy định về phạm vi điều
chỉnh của Luật : đối tượng nộp thuế, thu nhập chịu thuế, thu nhập
được miễn thuế, căn cứ tính thuế, cách tính thuế và ưu đãi thuế thu
nhập doanh nghiệp.
Giải pháp 2: Về đối tượng nộp thuế
Đối tượng nộp thuế TNDN theo Dự thảo Luật này chỉ còn bao gồm
các tổ chức, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Hiện nay, ở nước ta đã có các tổ chức thuộc Hội khuyến nông, Hội
khuyến học, Hội người cao tuổi, Hội bảo trợ người tàn tật và các
tổ chức phi chính phủ nước ngoài được phép hoạt động tại Việt
Nam (Hội đồng Anh, Cộng đồng Pháp ngữ, Trung tâm giáo dục
của Hội đồng Bộ trưởng các nước ASEAN, ). Đây là các tổ chức
có tham gia tích cực vào một số lĩnh vực của đời sống xã hội, cung
cấp một số dịch vụ công mang tính tự nguyện, từ thiện (đào tạo, tư
vấn đời sống, pháp luật, hoạt động giao lưu, phát triển văn hoá,
nghiên cứu khoa học ). Thu nhập từ hoạt động của các tổ chức
này được sử dụng cho mục đích, tôn chỉ được pháp luật thừa nhận
như nêu trên, mà không phân chia. Tuy nhiên, Luật thuế TNDN và

các văn bản hướng dẫn hiện hành chưa quy định rõ về đối tượng
nộp thuế và chính sách điều tiết thu nhập đối với các tổ chức có thu
nhập không chia mà áp dụng chung cơ chế, chính sách điều tiết
như doanh nghiệp nên phần nào có ảnh hưởng đến sự phát triển
các hoạt động của các tổ chức đó.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy các nước cũng quy định những đối
tượng này thuộc đối tượng nộp thuế TNDN nhưng có những quy
định đặc thù về thu nhập chịu thuế, chi phí được trừ khi tính thuế
TNDN khác với quy định áp dụng cho các doanh nghiệp. Để phù
hợp với tình hình thực tiễn nước ta, tham khảo có chọn lọc kinh
nghiệm của các nước, Dự thảo Luật quy định cụ thể hơn về đối
tượng nộp thuế và bổ sung chính sách điều tiết thu nhập (trình bày
tại điểm 3 và 4 dưới đây) đối với tổ chức có hoạt động kinh tế, có
thu nhập nhưng không chia lợi nhuận cho chủ sở hữu.
Các quy định về quyền đánh thuế của nước ta đối với các tổ chức
nước ngoài hoạt động tại Việt Nam hoặc có thu nhập phát sinh tại
Việt Nam hiện hành đang được quy định tại các văn bản dưới luật
nay cũng được đưa vào Dự thảo lần này để nâng cao cơ sở pháp lý
trong thực hiện.
Giải pháp 3: Về thu nhập chịu thuế, thu nhập miễn thuế và thu
nhập tính thuế
Luật hiện hành quy định thu nhập chịu thuế là phù hợp với thực
tiễn tại thời điểm ban hành nhưng trước diễn biến thực tế của đời
sống xã hội thì một số quy định không còn phù hợp, cần phải sửa
đổi như sau:
- Về thu nhập chịu thuế : Trước đây, các doanh nghiệp được giao
đất để kinh doanh nhà, cơ sở hạ tầng theo giá thấp nhưng giá bán
nhà, cơ sở hạ tầng cùng với việc chuyển quyền sử dụng đất theo
giá thị trường nên có thu nhập siêu ngạch. Vì vậy Luật có quy định
thu thuế TNDN bổ sung. Tuy nhiên, kể từ năm 2005, thực hiện quy

định của Luật đất đai, các trường hợp được giao đất để kinh doanh
bất động sản phải thực hiện đấu giá đất, nộp theo giá đất sát giá thị
trường nên không còn lợi nhuận siêu ngạch để thu bổ sung. Mặt
khác, hoạt động kinh doanh bất động sản bao gồm cả việc bán nhà,
tài sản gắn với việc chuyển quyền sử dụng đất nên khó có thể xác
định riêng thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất với thu nhập từ
bán tài sản trên đất. Vì vậy, để phù hợp với thực tế, nay đề nghị bỏ
quy định thu bổ sung đối với chuyển quyền sử dụng đất mà áp
dụng chính sách riêng đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất
động sản, bao gồm cả chuyển nhượng đất và tài sản trên đất. Thu
nhập này không được áp dụng ưu đãi thuế.
- Về thu nhập miễn thuế: Luật hiện hành quy định thu nhập được
miễn thuế tại nhiều điều khác nhau như tại Điều 2 quy định miễn
thuế đối với thu nhập từ nông nghiệp của hợp tác xã ; Điều 19 quy
định miễn thuế đối với một số loại thu nhập từ thực hiện hợp đồng
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, dịch vụ kỹ thuật trực
tiếp phục vụ nông nghiệp,… . Ngoài ra, còn có một số loại thu
nhập xét về bản chất và ý nghĩa đối với kinh tế xã hội thì cần xem
xét không thu thuế, như: thu nhập của doanh nghiệp từ hoạt động
góp cổ phần, liên doanh liên kết (đã nộp thuế tại đơn vị nhận vốn
góp), các khoản tài trợ nhận được của tổ chức có thu nhập không
chia dùng cho hoạt động từ thiện, nhân đạo, văn hoá, giáo dục,
nghệ thuật, nghiên cứu khoa học và các hoạt động xã hội khác vì
mục tiêu hoà bình, hữu nghị, phát triển kinh tế - xã hội; thu nhập
do người sau cai nghiện làm ra.
Để phù hợp với thực tế nêu trên, bảo đảm rõ ràng, minh bạch và
thể hiện được chính sách điều tiết đối với từng loại thu nhập, Dự
thảo Luật lần này đề nghị quy định rõ thu nhập chịu thuế, thu nhập
được miễn thuế (không phải tính thuế) và thu nhập tính thuế trên
cơ sở sắp xếp lại các Điều 2, Điều 19 của Luật hiện hành. Các nội

dung sửa đổi này được thể hiện trong Dự thảo Luật tại Điều 3 (thu
nhập chịu thuế), Điều 4 (thu nhập được miễn thuế) và Điều 8 (xác
định thu nhập tính thuế).
Giải pháp 4:Về các khoản chi được trừ và các khoản chi không
được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế
Luật thuế TNDN quy định cả chi phí được trừ và chi phí không
được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế. Cách quy định này là
phù hợp với thực tiễn khi ban hành vì có thể giúp cho doanh
nghiệp đối chiếu để tự kê khai.
Tuy nhiên, do thực tế nền kinh tế luôn vận động và phát triển theo
cơ chế thị trường, hoạt động của doanh nghiệp theo xu hướng kinh
doanh đa ngành, đa lĩnh vực,… nên đã phát sinh nhiều khoản chi
mới mà quy định hiện hành chưa bao quát được hết dẫn đến việc
hiểu và vận dụng khác nhau giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý
nhà nước (kiểm toán, thanh tra, thuế), tạo cơ hội để sinh ra cơ chế
“xin – cho”.
Để khắc phục hạn chế này, bảo đảm rõ ràng, minh bạch, tạo thuận
lợi cho cho doanh nghiệp chủ động trong hạch toán kinh doanh,
thực hiện tốt cơ chế tự khai, tự nộp, tự xác định nghĩa vụ thuế theo
quy định của Luật quản lý thuế một cách có hiệu quả, Dự thảo
Luật đề nghị sửa đổi theo hướng: quy định điều kiện để xác định
khoản chi được trừ, liệt kê cụ thể các khoản không được trừ; những
khoản không được liệt kê thì đương nhiên doanh nghiệp được tính
vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập.
Giải pháp 5: Về cách tính thuế
Để thực hiện các cam kết quốc tế trong hiệp định tránh đánh thuế
hai lần, Luật thuế TNDN hiện hành đã có quy định về việc xác
định cơ sở thường trú và phương pháp xác định thu nhập chịu thuế
theo nguyên tắc ưu tiên áp dụng các điều khoản của hiệp định nếu
khác với quy định của nội luật. Căn cứ vào đó, Chính phủ đã quy

định cụ thể đối với thu nhập nhận được ở nước ngoài.
Đến nay, ta đã tham gia nhiều cam kết quốc tế ở cấp Chính phủ có
liên quan đến thuế TNDN như: xác định nghĩa vụ thuế đối với
doanh nghiệp nước ngoài để bảo đảm quyền thu thuế của Việt
Nam, quy định về tránh đánh thuế hai lần, Qua tổng kết, đánh giá
cho thấy các cam kết này đã được thực hiện ổn định và đi vào cuộc
sống thời gian qua nhưng chưa được thể hiện rõ trong Luật thuế
TNDN. Vì vậy, cần phải đưa các nội dung cam kết này vào Luật
thuế TNDN để đảm bảo tính minh bạch và pháp lý cao hơn.
Giải pháp 6: Về nơi nộp thuế TNDN
Luật thuế TNDN quy định doanh nghiệp kê khai, nộp thuế tại tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương nơi đóng trụ sở chính. Quy định
này là phù hợp với giai đoạn vừa qua là doanh nghiệp thường có
trụ sở điều hành tại địa bàn địa phương nơi kinh doanh. Luật quản
lý thuế tiếp tục kế thừa quy định nộp thuế TNDN tại nơi đóng trụ
sở chính trong Luật thuế TNDN và đã tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp trong hạch toán tập trung, điều hành.
Tuy nhiên hiện nay các doanh nghiệp thường có cơ sở kinh doanh
tại nhiều địa phương khác với địa phương đặt trụ sở chính. Tại
những nơi này, chính quyền địa phương phải cung cấp nhiều dịch
vụ phục vụ cho sản xuất – kinh doanh như: bệnh viện, trường học,
nhà ở công nhân, vệ sinh môi trường, trật tự trị an nhưng không
có nguồn thu vì thuế TNDN được nộp tại nơi đóng trụ sở chính. Để
giải quyết vấn đề này nhằm đảm bảo sự hài hoà mối quan hệ giữa
quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp với các địa phương nơi
doanh nghiệp mở các nhà máy, cơ sở sản xuất hoặc thực hiện hoạt
động sản xuất kinh doanh cần sửa đổi quy định về việc nộp thuế
thu nhập doanh nghiệp theo hướng tạo điều kiện cho doanh nghiệp
thực hiện nghĩa vụ đóng góp cho ngân sách địa phương.
Giải pháp 7: Về thuế suất và ưu đãi thuế

Luật hiện hành quy định thuế suất phổ thông là 28%. Để khuyến
khích đầu tư phát triển sản xuất, Luật quy định ba (03) mức thuế
suất ưu đãi là 10%, 15% và 20% áp dụng trong thời gian tương
ứng là 15 năm, 12 năm và 10 năm kể từ khi bắt đầu kinh doanh;
thời gian miễn thuế tối đa là 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế,
giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tuỳ thuộc vào nhiều tiêu
chí ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư theo quy định của
pháp luật về đầu tư. Ngoài ra, Luật còn quy định miễn thuế, giảm
thuế đối với dự án đầu tư mở rộng và một số trường hợp chính
sách kinh tế - xã hội khác như khuyến khích ứng dụng khoa học,
công nghệ, sử dụng lao động là đối tượng xã hội.
Về thuế suất: Tại thời điểm ban hành Luật thuế TNDN (2003), việc
quy định mức thuế suất 28% đã được cân nhắc, tính toán kỹ, vừa
bảo đảm thống nhất giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài,
vừa bảo đảm thấp hơn các nước có điều kiện về cơ sở hạ tầng tốt
hơn ta: Mã-lai-xi-a (32%), Thái Lan (30%), Phi-lip-pin (35%) In-
đô-nê-xi-a (30%, riêng thuế suất đối với doanh nghiệp trong lĩnh
vực khai thác mỏ, dầu khí, thuỷ điện từ 30% đến 45%) và Trung
Quốc (33%).
Gần đây, do tác động của quá trình toàn cầu hóa, cạnh tranh giữa
các quốc gia ngày càng gay gắt hơn nên nhiều nước trên thế giới
và trong khu vực đã sử dụng thuế TNDN như la một công cụ quan
trọng để tăng sức hấp dẫn thu hút đầu tư. Xu hướng quốc tế gần
đây cho thấy nhiều nước chuyển từ ưu đãi nhiều ngành, lĩnh vực
sang ưu đãi theo diện rộng, khuyến khích tổng thể nền kinh tế bằng
chính sách điều tiết thuế TNDN hợp lý (hạ thuế suất), chỉ tập trung
ưu đãi để phát triển một số rất ít ngành mũi nhọn và vùng đặc biệt
khó khăn. Ví dụ: Trung Quốc bên cạnh việc hạ thuế suất thuế
TNDN từ 33% xuống còn 25% còn xoá bỏ (theo lộ trình 5 năm)
hầu hết các ưu đãi thuế, kể cả ưu đãi đối với các doanh nghiệp đầu

tư nước ngoài trước đây. Đối với lĩnh vực, Trung quốc chỉ còn ưu
tiên cho doanh nghiệp có công nghệ cao đồng thời là công nghệ
mới; đối với địa bàn Trung quốc chỉ có ưu đãi thuế cho các doanh
nghiệp đầu tư vào các vùng tự trị và khó khăn ở phía Tây;
Singapore đã hạ thuế suất thuế TNDN từ 20% xuống còn 19%;
Philipines giảm từ 35% xuống 30%.
Vì vậy để khuyến khích tổng thể nền kinh tế, tạo thuận lợi cho
cộng đồng doanh nghiệp có điều kiện tăng tích luỹ, tích tụ, thêm
nguồn lực để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh và cũng là tăng
khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực, dự thảo Luật dự
kiến hạ mức thuế suất phổ thông từ 28% xuống 25%, bỏ thu thuế
bổ sung đối với thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
chuyển quyền thuê đất để áp dụng chung mức thuế suất của hoạt
động kinh doanh bất động sản.
Về ưu đãi thuế: Để thống nhất không phân biệt đối xử giữa các
thành phần kinh tế, giữa đầu tư trong nước với đầu tư nước ngoài,
các quy định về ưu đãi thuế được tổng hợp từ tất cả các văn bản
pháp luật ban hành từ lúc nền kinh tế nước ta mới mở cửa, môi
trường đầu tư kém hấp hẫn, cơ sở hạ tầng còn khó khăn, trên
nguyên tắc chọn mức ưu đãi cao nhất, thuận lợi nhất.
Các chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp nêu trên đã phát
huy tác dụng tích cực trong cải thiện môi trường đầu tư trong
những năm đầu mới ban hành. Tuy nhiên, trước thực tế phát triển
kinh tế, xã hội thì chính sách ưu đãi này ngày càng bộc lộ nhược
điểm dàn trải, phức tạp; chưa đáp ứng được yêu cầu là công cụ
phân bổ nguồn lực để phát triển kinh tế theo vùng và lãnh thổ, nhất
là các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
Do ưu đãi dàn trải vừa theo ngành nghề, lĩnh vực, vừa theo địa bàn
(90% số lượng ngành kinh tế cấp II được hưởng ưu đãi thuế; 32%
số huyện thuộc diện ưu đãi và 24% số huyện thuộc diện đặc biệt

ưu đãi; 154 Khu công nghiệp, Khu chế xuất, 10 Khu kinh tế, 23
Khu kinh tế cửa khẩu do Trung ương thành lập; hàng trăm khu
công nghiệp nhỏ và vừa, cụm công nghiệp do địa phương thành
lập, chưa kể các điểm công nghiệp, cũng thuộc diện ưu đãi) nên
các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, đều tập trung
chủ yếu vào các Khu công nghiệp, Khu chế xuất hoặc những địa
bàn thuận lợi tại TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai,
Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu, Vĩnh Yên, Hải Dương, Hưng Yên,
Bắc Ninh.
Vì vậy, để chính sách ưu đãi thuế phát huy tác dụng là công cụ tạo
sự chuyển biến trong phân bổ nguồn lực, thực hiện thu hút đầu tư
có chọn lọc, có hiệu quả, nâng cao chất lượng nhà đầu tư,… dự
thảo Luật đề nghị: Cùng với việc hạ mức thuế suất chung từ 28%
xuống 25% như nêu trên, chính sách ưu đãi thuế được cải cách
theo hướng vừa đơn giản, vừa tạo khoảng cách đủ lớn giữa các
mức ưu đãi, tăng sức hấp dẫn để thu hút đầu tư vào các địa bàn khó
khăn, kém phát triển và một số ngành nghề mũi nhọn. Cụ thể như
sau:
+ Giữ nguyên mức ưu đãi cao nhất về thuế thu nhập doanh nghiệp
(thuế suất 10% trong 15 năm và miễn thuế tối đa trong 4 năm,
giảm 50% số thuế tối đa trong 9 năm tiếp theo đối với các doanh
nghiệp mới thành lập, hoạt động tại địa bàn có điều kiện kinh tế -
xã hội đặc biệt khó khăn và các doanh nghiệp mới thành lập, hoạt
động trong các lĩnh vực mũi nhọn như: công nghệ cao, nghiên cứu
và phát triển, các lĩnh vực được xã hội hoá gồm: giáo dục - đào
tạo, y tế, văn hoá - nghệ thuật, thể thao và bảo vệ môi trường. Đối
với các trường hợp đặc biệt thì có thể được hưởng thuế suất 10%
trong thời gian dài hơn theo quy định củaChínhphủ.
+ Giữ mức thuế suất 20% trong thời gian 10 năm, được miễn thuế
tối đa 2 năm và giảm 50% tối đa 4 năm áp dụng với các địa bàn

kinh tế - xã hội khó khăn như hiện hành. Đồng thời bỏ mức thuế
suất 15% là mức thuế suất hiện hành chủ yếu áp dụng đối với các
dự án thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư và thực hiện tại địa bàn
có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn để vừa đơn giản, vừa tạo sức
hấp dẫn của các mức ưu đãi 10% và 20% như nêu trên.
+ Các trường hợp đầu tư mở rộng, đầu tư theo chiều sâu sẽ được
trích khấu hao nhanh hơn so với mức thông thường thay thế cho
việc giảm thuế hiện nay để bảo đảm tính khả thi và minh bạch.
+ Thời gian bắt đầu tính ưu đãi thuế là năm đầu tiên có doanh thu.
+ Ngoài ra, dự thảo Luật còn quy định ưu đãi mới cho tất cả các
doanh nghiệp: được trích đến 10% thu nhập trước khi tính thuế
hàng năm để lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ, như quy
định tại Điều 45 của Luật chuyển giao công nghệ nhằm tạo thuận
lợi, khuyến khích doanh nghiệp chủ động đầu tư phát triển, ứng
dụng công nghệ mới, đổi mới thiết bị (đã được Chính phủ nhất trí
trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội).
Xét về mặt tổng thể, việc thiết kế thuế suất và các ưu đãi thuế nêu
trên đảm bảo duy trì được chính sách ưu đãi hiện hành (thậm chí
còn ưu đãi cao hơn), tạo được động lực khuyến khích mới cho toàn
bộ nền kinh tế như Chương trình cải cách thuế đến năm 2010 đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt sau khi Bộ Chính trị đã có ý
kiến. Bên cạnh đó, hệ thống chính sách ưu đãi này khắc phục được
các hạn chế, tồn tại của chính sách hiện hành về tính phức tạp, dàn
trải và hạn chế trong việc ưu tiên phân bổ nguồn lực cho vùng đặc
biệt khó khăn. Đồng thời, hệ thống ưu đãi này bảo đảm cải thiện
được môi trường đầu tư, kinh doanh của nước ta phù hợp với xu
thế của các nước trên thế giới và trong khu vực, nâng cao tính cạnh
tranh cộng đồng doanh nghiệp và nền kinh tế.
Việc điều chỉnh giảm thuế suất và sắp xếp lại ưu đãi thuế như trên
đây về cơ bản bảo đảm sẽ không ảnh hưởng đến số thu ngân sách.

Tuy có giảm thuế do hạ thuế suất phổ thông từ 28% xuống 25%
nhưng bù lại, với chính sách ưu đãi đồng bộ và môi trường đầu tư,
kinh doanh thuận lợi hơn, cùng với việc tăng trưởng kinh tế sẽ tạo
nên sự tăng trưởng nguồn thu một cách bền vững, ổn định trong
tương lai. Ngoài ra, việc sửa đổi lần này còn bảo đảm tính rõ ràng,
minh bạch trong xác định chi phí được trừ, thu nhập chịu thuế, ưu
đãi thuế cũng sẽ khuyến khích doanh nghiệp nâng cao tính tự giác
trong kê khai nộp thuế, trên cơ sở đó bảo đảm tăng thu trong dài
hạn.
Giải pháp 8: Về điều kiện ưu đãi thuế
Luật hiện hành vừa quy định về thủ tục, vừa quy định về điều kiện
để hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Luật quản lý thuế đã
bãi bỏ các quy định về quản lý thuế trong các luật thuế, do đó Dự
thảo Luật chỉ quy định về điều kiện để hưởng ưu đãi theo hướng kế
thừa quy định hiện hành.
PHẦN 3: KẾT LUẬN
Như vậy qua bài tiểu luận chúng ta dã đề cập một số vấn đề về
thuế thu nhập doanh nghiệp nói chung và thuế thu nhập doanh
nghiệp ở Việt Nam nói riêng
Trước hết ta có thể chắc chắn rằng thuế thu nhập doanh nghiệp là
một sắc thuế hết sức cần thiết đối với mọi quốc gia. Hầu hết các
nước đều phải dựa vào thuế thu nhập đặc biết là thuế thu nhập
doanh nghiệp đây là nguồn thu lớn nhất.
Ở nước ta, nguồn thu này còn thấp nhưng dần dần cũng phải
hướng tới những mục tiêu lớn hơn.
Trong những năm tới, trước yêu cầu phát triển mạnh mẽ của các
thị trường và các thành phần kinh tế,yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế ngày càng sâu rộng

×