BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
NÔNG THỊ HỒNG LIÊN
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG VIẾT ĐÚNG CHÍNH TẢ
CHO HỌC SINH LỚP 3 TRƯỜNG TIỂU HỌC LĂNG HIẾU -
TRÙNG KHÁNH - CAO BẰNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
SƠN LA, NĂM 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
NÔNG THỊ HỒNG LIÊN
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG VIẾT ĐÚNG CHÍNH TẢ
CHO HỌC SINH LỚP 3 TRƯỜNG TIỂU HỌC LĂNG HIẾU -
TRÙNG KHÁNH - CAO BẰNG
Chuyên ngành: Lí luận và phƣơng pháp dạy học Tiếng Việt
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Trần Thị Thanh Hồng
SƠN LA, NĂM 2014
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài này em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Trần
Thị Thanh Hồng, người đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, các cô những người trực tiếp giảng
dạy, trang bị cho em những kiến thức quý báu trong thời gian chúng em học tập
tại Trường.
Xin cảm ơn các thầy, cô giáo và các em HS lớp 3 Trường Tiểu học Lăng
Hiếu –Trùng Khánh – Cao Bằng đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình tìm
hiểu thực tiễn dạy học chính cho học sinh dân tộc thiểu số.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới tập thể lớp K51 ĐHGD Tiểu học B, cũng
như gia đình, bạn bè những người luôn quan tâm, động viên và nhiệt tình giúp
đỡ chúng tôi hoàn thành đề tài này.
Xin trân trọng cảm ơn !
Sơn La, tháng 5 năm 2014
Ngƣời thực hiện
Nông Thị Hồng Liên
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
GV: giáo viên
HS: học sinh
SGK: sách giáo khoa
GD – ĐT: giáo dục và đào tạo
DTTS: dân tộc thiểu số
HSDT: học sinh dân tộc
TMĐ: tiếng mẹ đẻ
TV: tiếng Việt
VD: ví dụ
NXB: nhà xuất bản
MỤC LỤC
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu 4
5. Giả thiết khoa học 4
6. Phương pháp nghiên cứu 4
7. Cấu trúc đề tài 5
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG 6
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 6
1.1. Cơ sở lí luận 6
1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến nội dung nghiên cứu 6
1.1.2. Tầm quan trọng của phân môn Chính tả ở tiểu học 8
1.1.3. Một số nguyên tắc cơ bản trong dạy học chính tả 10
1.1.4. Cơ sở khoa học của việc dạy học chính tả 12
1.2. Cơ sở thực tiễn 17
1.2.1. Chương trình phân môn Chính tả lớp 3 17
1.2.2. Thực trạng rèn kỹ năng chính tả cho HS lớp 3 của GV 19
TIỂU KẾT 27
CHƢƠNG 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG VIẾT ĐÚNG CHÍNH
TẢ CHO HỌC SINH LỚP 3 TRƢỜNG TIỂU HỌC LĂNG HIẾU -
TRÙNG KHÁNH - CAO BẰNG 29
2.1. Giáo dục cho HS về tầm quan trọng của chính tả 29
2.2. Vận dụng các phương pháp dạy học tiếng Việt vào dạy học chính tả lớp 3… 31
2.2.1. Phương pháp phân tích ngôn ngữ 30
2.2.2. Phương pháp giao tiếp 32
2.2.3. Phương pháp rèn luyện theo mẫu 34
2.2.4. Phương pháp trò chơi 35
2.3. Rèn luyện kĩ năng viết đúng cho HS qua các bài tập chính tả 37
2.3.1. Hướng dẫn HS làm các bài tập chính tả sửa lỗi phụ âm đầu 38
2.3.2. Hướng dẫn HS làm các bài tập chính tả sửa lỗi phần vần 39
2.3.3. Hướng dẫn HS làm các bài tập chính tả sửa lỗi thanh điệu 39
2.4. Hướng dẫn HS Sử dụng qui tắc viết hoa 40
2.4.1. Quy tắc viết hoa tên người 40
2.4.2. Quy tắc viết hoa địa danh 41
2.4.3. Quy tắc viết hoa tên các huân chương, danh hiệu, giải thưởng 41
2.4.4 . Quy tắc viết hoa tên các cơ quan, tổ chức chính trị, xã hội 41
2.4.5. Quy tắc viết hoa trong phép đặt câu, viết hoa tỏ thái độ kính trọng, viết
hoa tên riêng của các sự vật khác 42
2.4.6. Viết hoa các trường hợp khác 42
TIỂU KẾT 42
CHƢƠNG 3: THỂ NGHIỆM SƢ PHẠM 44
3.1. Những vấn đề chung 44
3.1.1. Mục đích thể nghiệm sư phạm 44
3.1.2. Đối tượng, thời gian, địa bàn thể nghiệm 44
3.1.3. Nội dung thể nghiệm và tiêu chí đánh giá thể nghiệm 44
3.1.4. Tiến trình thể nghiệm 45
3.2. Kết quả thể nghiệm 45
TIỂU KẾT 48
PHẦN KẾT LUẬN 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1.1. Môn Tiếng Việt bước đầu dạy cho học sinh (HS) nhận biết được
những tri thức sơ giản, cần thiết bao gồm ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ nghĩa,
ngữ pháp, chính tả. Trên cơ sở đó, rèn luyện các kĩ năng ngôn ngữ: nghe, nói,
đọc, viết nhằm giúp học sinh sử dụng tiếng Việt (TV) có hiệu quả trong suy nghĩ
và trong giao tiếp. Mục tiêu của phân môn Chính tả là sự cụ thể hoá mục tiêu của
môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học "hình thành và phát triển ở học sinh năng lực sử
dụng tiếng Việt (đặc biệt là kĩ năng viết); góp phần rèn luyện cho học sinh những
thao tác tư duy cơ bản; cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về tự nhiên
và xã hội để góp phần giáo dục và hình thành nhân cách cho học sinh". (Lê
Phương Nga, Nguyễn Trí (2002) Phương pháp dạy học Tiếng Việt, NXB ĐHSP)
1.2. Chữ viết có vai trò rất quan trọng đối với con người, cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng đã nói “Chữ viết là một sự biểu hiện của nết người, dạy cho HS
viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện các tính cẩn thận, tính kỉ
luật và lòng tự trọng". Vì vậy chữ viết cần phải đúng, đẹp, chữ viết sai chính tả
hiệu quả giáo dục sẽ giảm xuống, hậu quả khó lường trước được. Chữ viết là kí
hiệu bằng hình ảnh, thị giác ghi lại bằng tiếng nói, mỗi đường nét tương ứng với
một âm thanh có ý nghĩa của tiếng nói. Một tổ hợp gồm chuỗi các hình nét được
liên kết theo những cách thức nhất định để ghi lại lời nói âm thanh và trở thành
phương tiện truyền đạt nội dung.
Vì vậy, việc dạy đúng chính tả phải được coi trọng ngay từ buổi đầu đối với
HS tiểu học. Phân môn Chính tả ở tiểu học có nhiệm vụ chủ yếu rèn luyện cho
học sinh nắm các quy tắc và thói quen viết đúng với chuẩn chính tả Tiếng Việt.
Cùng với các phân môn khác, Chính tả giúp cho HS chiếm lĩnh văn hóa Việt-
Công cụ để giao tiếp, tư duy. Ngay từ bậc tiểu học, HS cần phải được môn học
chính tả một cách khoa học, cẩn thận để có sử dụng công cụ này suốt những
năm tháng trong thời kỳ học tập ở nhà trường cũng như suốt cuộc đời.
1.3. Thực tế áp dụng những yêu cầu trên vào giảng dạy tiếng Việt (TV) nói
chung và môn Chính tả nói riêng ở các trường tiểu học vùng Đông Bắc còn gặp
2
nhiều khó khăn. Điều đó cũng ảnh hưởng nhiều đến việc học tập các môn học
khác. Nếu không có những biện pháp khắc phục kịp thời thì sẽ làm mất đi sự
thống nhất của TV.
Cụ thể là trên địa bàn trường Tiểu Học Lăng Hiếu – Trùng Khánh – Cao
Bằng, hiện tượng HS viết sai chính tả, đặc biệt là sai phụ âm "ch - tr" chiếm một
tỷ lệ khá lớn. Vấn đề này có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên
nhân cơ bản và quan trọng nhất là do HS ở đây có thói quen phát âm sai, lẫn lộn
giữa các âm "gh- kh ; s - x ; ch - tr " dẫn đến viết sai. Bên cạnh đó, về phương
pháp, một số GV chưa chú ý áp dụng phương pháp hợp lý khi dạy chính tả.
Trùng Khánh là một huyện nằm ở phía Đông bắc của tỉnh Cao Bằng. Trùng
Khánh có 2 dân tộc Tày - Nùng cùng sinh sống, nên HS và người dân chịu ảnh
hưởng của phương ngữ. Tâm lí HS dân tộc (HSDT) rụt rè hay xấu hổ, các em
chưa có thói quen nói TV nên thường ngại nói, khi có cơ hội các em thường
quay về với tiếng mẹ đẻ quen thuộc của mình, kể cả trong lớp học. HSDT vì
chưa làm chủ được TV nên thiếu chủ động, thường thụ động trả lời câu hỏi,
không mấy khi dám đặt câu hỏi.
1.4. Trong thời gian thực tập tại Trường Tiểu học Lăng Hiếu –Trùng
Khánh – Cao Bằng chúng tôi thấy các em HS người dân tộc trong quá trình học
tập và sử dụng ngôn ngữ hàng ngày còn mắc nhiều lỗi chính tả mà nguyên nhân
chủ yếu là do trước khi vào bậc tiểu học, HS thường sử dụng tiếng địa phương
quá nhiều. Để có một số biện pháp sửa lỗi chính tả cho HS lớp 3 Trường Tiểu
Học Lăng Hiếu với mục đích là để nâng cao chất lượng viết đúng, viết đẹp cho
HS chúng tôi mạnh dạn chọn nội dung “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng
chính tả cho học sinh lớp 3 Trường Tiểu học Lăng Hiếu – Trùng Khánh – Cao
Bằng” để nghiên cứu, cũng là nêu lên thực tế và biện pháp khắc phục các lỗi đó,
không ngoài mong muốn là đưa các em HS người dân tộc thu hẹp khoảng cách
về nhận thức đối với HS là người dân tộc Kinh.
2. Lịch sử vấn đề
Thực tiễn đề tài này, các tác giả đã quan tâm nghiên cứu các công trình sau:
3
Giáo trình “Phương pháp dạy học tiếng Việt cho HS dân tộc cấp Tiểu học’’
Bộ giáo dục – đào tạo (GD –ĐT), dự án phát triển giáo viên (GV) tiểu học,
Nhà xuất bản gíao dục (NXB GD), Hà Nội (2006), tác giả đã đề cập tới những
mục tiêu cơ bản của dạy môn Chính tả cho HS dân tộc thiểu số, chỉ ra một
hạn chế trong việc thực hiện các yêu cầu phân môn Chính tả ở vùng dân tộc.
Tài liệu còn đề cập đến những nguyên nhân cơ bản nhất của việc mắc lỗi
chính tả của HS dân tộc thiểu số.
Công trình “Vui học tiếng Việt”- Trần Mạnh Hưởng, tập 1 (2002), NXB-
GD, tác giả nhấn mạnh những kiến thức tiếng Việt cơ bản giúp HS luyện tập
thành thạo các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, các em sẽ suy nghĩ mạch lạc, diễn
đạt trong sáng, có khả năng làm chủ được tiếng nói và chữ viết của dân tộc.
Giáo trình “Dạy học chính tả ở tiểu học” Hoàng Văn Thung, Đỗ Xuân
Thảo (1995), NXB GD, tác giả đã đề cập đến khái niệm chính tả, vị trí của phân
môn Chính tả, những nhiệm vụ và mục tiêu của phân môn Chính tả ở Tiểu học.
Giáo trình “Chữ viết và dạy chữ viết ở tiểu học” Lê A (1982), NXB ĐHSP,
tác giả đã đề cập tới vị trí, tính chất, nhiệm vụ của phân môn chính tả ở tiểu học,
cơ sở khoa học của việc dạy học chính tả, chương trình (sách giáo khoa) SGK
dạy chính tả.
Công trình nghiên cứu “Đổi mới phương pháp dạy học tiểu học” Bộ GD-
ĐT, dự án phát triển GV tiểu học, NXB GD, Hà Nội, (2005), tác giả đã chỉ ra
những đổi mới trong nội dung và phương pháp bài dạy phân môn chính tả theo
chương trình sách giáo khoa mới. Nắm được bản chất và phương pháp dạy học
chính tả theo hướng tích cực hóa hoạt động của HS.
Các công trình nghiên cứu trên là những tiền đề lí luận quý báu để tác giả
thực hiện khóa luận "Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học
sinh lớp 3 trường Tiểu học Lăng Hiếu – Trùng Khánh – Cao Bằng” .
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua nghiên cứu lí luận và thực tiễn của dạy - học chính tả lớp 3, từ đó nhằm
đề xuất một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho HS lớp 3 trường
4
Tiểu học nói chung và Trường Tiểu học Lăng Hiếu - Trùng Khánh- Cao Bằng
nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tiến hành đề tài tác giả thực hiện nhiệm vụ:
- Tìm hiểu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy học chính tả ở
trường Tiểu học nói chung.
- Khảo sát, thống kê phân loại lỗi, chỉ ra thực trạng mắc lỗi của HS lớp 3
Trường Tiểu học Lăng Hiếu – Trùng Khánh – Cao Bằng.
- Đề xuất một số biện pháp sửa lỗi chính tả cơ bản cho HSDTTS
- Tiến hành thiết kế giáo án và dạy thể nghiệm.
- Tổng hợp, so sánh, đối chiếu kết quả bước đầu thể nghiệm và rút ra tính
khả thi của vấn đề nghiên cứu.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập chung nghiên cứu các biện pháp rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho
học sinh lớp 3 Trường Tiểu học Lăng Hiếu – Trùng Khánh – Cao Bằng.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Do khả năng và thời gian có hạn nên chúng tôi chỉ tiến hành điều tra, khảo
sát HS lớp 3 Trường Tiểu học Lăng Hiếu - Trùng Khánh - Cao Bằng.
5. Giả thiết khoa học
Sửa lỗi cho HS nói chung và nhất là HS dân tộc nói riêng còn gặp nhiều
khó khăn. Nên chúng tôi giả định rằng nếu xây dựng được một số biện pháp sửa
lỗi chính tả một cách khoa học sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy học chính tả
cho HS dân tộc thiểu số lớp 3 nói riêng và trong nhà trường tiểu học nói chung.
Khoá luận được nghiệm thu là tài liệu tham khảo cho các bạn sinh viên Khoa
Tiểu học – Mầm non Trường Đại học Tây Bắc.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Đọc tham khảo tài liệu, phân tích, tổng hợp khái quát hóa các vấn đề tài liệu
có liên quan để làm cơ sở lí luận cho khóa luận.
5
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng phiếu
- Phương pháp trắc nghiệm
Chúng tôi sử dụng phương pháp này để thống kê và phân loại lỗi chính tả
cơ bản HS dân tộc thiểu số thường mắc phải, nắm được thực trạng, nguyên nhân
mắc lỗi để từ đó đề xuất biện pháp khắc phục.
- Phương pháp thể nghiệm để so sánh, đối chiếu rút ra nhận xét đánh giá
tính khả thi của khoa luận.
6.3. Phương pháp toán học
Sử dụng thống kê để xử lí thông tin, số liệu.
6.4. Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm
Tổng kết, đánh giá kết quả của đề tài và những mặt còn hạn chế, rút kinh
nghiệm.
6.5. Phương pháp thực nghiệm
Trên cơ sở đưa ra những biện pháp khắc phục lỗi chính tả cho HS lớp 3
trường Tiểu học Lăng Hiếu – Trùng Khánh – Cao Bằng chúng tôi đã tiến hành
thiết kế và dạy thể nghiệm.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận nội dung chính của khóa luận được
chia làm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Biện pháp sữa lỗi chính tả cho HS
Chương 3: Thể nghiệm sư phạm
6
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến nội dung nghiên cứu
1.1.1.1. Chính tả là gì
Chính tả là hệ thống các quy tắc về cách viết thống nhất cho các từ của một
ngôn ngữ. Nói cách khác chính tả là những chuẩn mực của ngôn ngữ viết được
thừa nhận trong ngôn ngữ toàn dân. Nó là phương tiện thuận lợi cho việc lưu
truyền thông tin, đảm bảo cho người viết, người đọc thống nhất những điều đã viết.
Chính tả trước hết là sự quy định có tính chất xã hội bắt buộc gần như tuyệt
đối, nó không cho phép con người vận dụng quy tắc một cách linh hoạt có tính
chất sáng tạo.
Một ngôn ngữ văn hóa không thể không có chính tả thống nhất, chính tả
thống nhất thì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ không bị trở ngại giữa các địa
phương trong cả nước, cũng như giữa các thế hệ đời trước với đời sau.
Chính tả thống nhất là một trong những biểu hiện của trình độ văn hóa phát
triển của một dân tộc.
1.1.1.2. Thế nào là chuẩn chính tả?
Thật vậy muốn thống nhất được chính tả thì phải có chuẩn chính tả. Chuẩn
chính tả là việc chuẩn hóa hình thức chữ viết của ngôn ngữ. Chuẩn chính tả phải
được quy định rõ ràng, chi tiết tới từng từ của tiếng Việt và phải được mọi người
tuân theo. Vấn đề đặt ra là chuẩn chính tả phải được xây dựng sao cho hợp lí, có
độ tin cậy và sức thuyết phục cao. Chuẩn chính tả có tính chất bắt buộc gần như
tuyệt đối, chẳng hạn không thể viết là “ghách sáo, chia dẻ ” Mà phải viết là
“khách sáo, chia sẻ…”
Chuẩn chính tả có tính chất ổn định cao, rất ít thay đổi, thường giữ nguyên
trong thời gian dài nên thường tạo thành thói quen, tạo nên tâm lí trong lối viết
của người bản ngữ.
7
Mặc dù vậy, chuẩn chính tả không phải là bất biến, khi chuẩn chính tả đã
lỗi thời sẽ dần dần được thay thế bằng nhưng chuẩn chính tả mới.
Ví dụ (VD): Chuẩn chính tả cũ: Đày tớ, trằm trồ
Chuẩn chính tả mới: Đầy tớ, trầm trồ …
Cũng như chuẩn ngôn ngữ khác chuẩn ngôn ngữ chính tả là kết quả của sự
lựa chọn giữa nhiều hình thức chính tả đang cùng tồn tại.
1.1.1.3. Rèn kĩ năng chính tả
Trường tiểu học là nơi đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con người mới
có trình độ văn hoá và cũng là nơi có trách nhiệm rèn luyện cho các em việc giữ
gìn và sử dụng đúng ngôn ngữ Tiếng Việt. Chính từ nơi đây nhà trường đã đào
tạo nền móng đầu tiên cho HS biết giữ gìn, biết bảo vệ và phát triển ngôn ngữ
của dân tộc. Vì vậy dạy cho HS về tiếng Việt một cách cơ bản có hệ thống là
một điều hết sức quan trọng. Trong quá trình giảng dạy môn Tiếng Việt điều cơ
bản nhất là làm thế nào cho HS, đọc đúng biết dùng từ chính xác, đặt câu đúng
ngữ pháp. Biết sử dụng đúng nội dung để diển đạt những điều mình muốn nói
bằng các ngôn ngữ thích hợp, chính xác làm cho người đọc, người nghe hiểu
được dể dàng.
Vì vậy trang bị cho HS một hệ thống tri thức ngôn ngữ của Tiếng Việt
qua các kĩ năng nghe, đọc, nói, viết để làm công cụ cho các môn khoa học khác,
làm công cụ giao tiếp trong xã hội; Tình trạng HS phát âm chưa được chuẩn,việc
rèn cho HS viết đúng chính tả để diển đạt nội dung đúng là một điều hết sức
quan trọng. Tình trạng viết sai lỗi chính tả của HS còn nhiều nguyên nhân là do
các em phát âm không chuẩn, không đúng, nghe không chính xác dẫn đến viết
sai lỗi chính tả.
Làm thế nào để các em biết phát âm đúng, viết đúng chính tả, viết đúng
ngữ pháp Tiếng Việt. Biết phân biệt nghĩa được các từ đó là điều băn khoăn, lo
lắng đối với người làm công tác giáo dục. Vậy việc rèn luyện chính tả cho học
sinh là vấn đề cần thiết nhất tạo cho HS viết đúng chữ viết. Hiện nay trình độ
học sinh nắm và viết Tiếng Việt còn thấp. Bên cạnh những HS viết đúng nói rõ
ràng mạch lạc, còn có HS chưa biết dùng và viết đúng Tiếng Việt một cách
8
thành thạo để diễn đạt ý nghỉ của mình, nhiều em phát âm sai, viết sai chính tả,
dùng từ không đúng, không biết đặt câu, chấm câu do không nắm vững Tiếng
Việt, nên lời nói, lời văn của các em còn rời rạc vì vậy rèn cho HS kĩ năng viết
đúng chính tả là một việc làm cấp thiết và hết sức cần thiết.
1.1.2. Tầm quan trọng của phân môn Chính tả ở tiểu học
1.1.2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ, của phân môn Chính tả ở Tiểu học
Mục tiêu của phân môn Chính tả là sự cụ thể hóa mục tiêu của phân môn
Tiếng Việt ở Tiểu học, hình thành và phát triển HS năng lực sử dụng tiếng Việt (
đặc biệt là kĩ năng viết) góp phần rèn luyện cho HS những thao tác tư duy cơ
bản, cung cấp cho HS những hiểu biết sơ giản về tự nhiên, xã hội để góp phần
giáo dục và hình thành nhân cách cho HS.
Cùng với phân môn Tập Viết, phân môn Chính tả có nhiệm vụ là giúp HS
nắm vững qui tắc chính tả, hình thành kĩ năng chính tả, nói cách khác là giúp HS
hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả, củng cố và hoàn thiện các
tri thức cơ bản về hệ thống ngữ âm và chữ viết tiếng Việt, trang bị cho HS công
cụ để học tập và giao tiếp xã hội. Ngoài ra phân môn còn rèn cho HS một số kĩ
năng, phẩm chất tốt như : tính cẩn thận, chính xác, bồi dưỡng cho HS lòng yêu
quí tiếng Việt và chữ viết của tiếng Việt.
1.1.2.2. Vị trí, tính chất của dạy học chính tả ở trường tiểu học
Bốn hoạt động vô cùng quan trọng trong hoạt động ngôn ngữ của con
người là nghe, nói, đọc và viết. Xét dưới góc độ chức năng giao tiếp thì nói và
viết là hoạt động tạo lập lời nói, còn nghe và đọc là hoạt động tiếp nhận lời nói.
Còn xét dưới góc độ phương diện giao tiếp thì nghe và nói là hoạt động âm
thanh, đọc và viết là hoạt động bằng chữ viết. Cả bốn hoạt động này luôn có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thực hiện hoạt động này là tiền đề thực hiện
bốn hoạt động kia và ngược lại. Tuy nhiên, ở trong mỗi hoạt động lại có những
đặc điểm riêng, giữ vị trí riêng trong hoạt động chung của mỗi con người cũng
như trong dạy học ở nhà trường, trong đó là một kĩ năng vô cùng quan trọng là
rèn luyện cho HS.
9
Trong thực tiễn dạy học Chính tả cùng với tập viết, tập đọc, tập nói giúp
cho người đọc chiếm lĩnh được tiếng Việt văn hóa, công cụ để giao tiếp, tư duy
và học tập. Từ đó hình thành và phát triển ở HS năng lực sử dụng tiếng Việt (đặc
biệt là kĩ năng viết) góp phần rèn luyện cho HS thao tác tư duy cơ bản, cung cấp
cho HS những hiểu biết sơ giản về tự nhiên xã hội để góp phần giáo dục và hình
thành nhân cách cho HS.
Tính thực hành là đặc trưng nổi bật của dạy học Chính tả, thông qua việc
thực hành luyện tập HS được hình thành các kĩ năng, kĩ xảo chính tả. Trong
phân môn Chính tả, các đơn vị kiến thức lí thuyết, quy tắc chính tả không dược
dạy riêng mà dạy tổng trong hệ thống bài tập chính tả. Nội dung, cấu trúc của
bài chính tả trong SGK Tiếng Việt tiểu học mới thể hiện rõ tính chất thực hành,
điều này cũng thể hiện rõ khuynh hướng giao tiếp của SGK trong chương trình
mới; Tính thực hành của việc dạy Tiếng Việt ở trường Tiểu học qui định chi
phối toàn bộ việc lựa chọn nội dung và yêu cầu về kĩ năng chính tả khi tổ chức
dạy Chính tả cho HS.
Chính tả còn có vị trí hết sức quan trọng là rèn cho HS biết quy tắc chính tả
và có thói quen viết chữ, ghi tiếng Việt đúng và chuẩn. Đồng thời khi HS hình
thành được kỹ năng đọc thông viết thạo là một tiền đề quan trọng trong việc lĩnh
hội kho tàng tri thức và văn hóa của nhân loại được lưu trữ và ghi lại trong sách
vở. Đối với HS tiểu học, biết viết là điều kiện để các em học tập các môn học
khác trong chương trình.
Đối với người sử dụng tiếng Việt, viết đúng chính tả là chứng tỏ người đó
có trình độ văn hóa về mặt ngôn ngữ. Viết đúng chính tả giúp HS có điều kiện
sử dụng tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong việc học tập các môn văn hóa, trong
việc viết các văn bản, thư từ …
Như vậy, rõ ràng việc viết nói chung và việc sửa lỗi chính tả nói riêng có vị
trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động làm giàu tri thức của các em. Việc viết
đúng chính tả không chỉ đơn giản là viết để viết, viết xong để đấy mà sâu hơn
nữa còn phải giúp các em hiểu được nội dung văn bản, biết được mình đang viết
gì và cần viết cái gì để nắm được cái hay, cái đẹp trong câu chữ, trong ngôn ngữ
tiếng Việt và hiểu được ý nghĩa của chúng.
10
Chính tả mang tính chất thực hành. Thông qua luyện tập liên tục kết hợp với
việc ôn tập các quy tắc chính tả HS sẽ có kĩ năng viết đúng các chữ ghi tiếng Việt.
Do đó không có tiết học quy tắc chính tả riêng, các quy tắc đều được học thông qua
các hoạt động thực tiễn để hình thành kỹ năng, kĩ xảo chính tả cho HS
1.1.3. Một số nguyên tắc cơ bản trong dạy học chính tả
1.1.3.1. Một nguyên tắc cơ bản trong dạy học chính tả có hiệu quả mà các nhà
nghiên cứu đã đề ra đó là tuân thủ: chính âm - chính tả - ngữ nghĩa.
Chữ viết của Tiếng Việt là chữ viết ghi âm nên nguyên tắc chính tả chủ
yếu của tiếng Việt là nguyên tắc ngữ âm học, nghĩa là mỗi âm vị được thể hiện
bằng một tổ hợp chữ cái, mỗi âm tiết, mỗi từ có một cách viết nhất định. Do đó
việc viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sử viết đúng. Để phát huy
một cách có ý thức. Đặc biệt là những vùng phương ngữ, việc dạy chính tả phải
theo sát nguyên tắc này. Nghĩa là phải tôn trọng việc phát âm, lấy phát âm để
điều chỉnh chữ viết.
VD: Âm vị /t/ được biểu thị bằng chữ cái "t"
Âm vị /b/ được biểu thị bằng chữ cái"b"
Ngữ âm học thực hành chủ yếu tập trung vào rèn luyện phát âm đúng. Phát
âm đúng gắn liền với viết đúng (chính âm gắn liền với chính tả). Do đó cơ chế
của việc viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sở viết đúng. Để phát
huy một cách có ý thức, đặc biệt là vùng phương ngữ việc dạy chính tả cần phải
theo sát nguyên tắc này. Nghĩa là phải tôn trọng việc phát âm, lấy phát âm để
điều chỉnh chữ viết.
- Mạch kiến thức về quy tắc chính tả
Hệ thống hoá những hiểu biết về cách viết đúng các âm đầu, vần, thanh
điệu của các từ thuộc vốn từ đã học theo chủ điểm. Hệ thống hoá về quy tắc viết
tên người, tên địa lý Việt Nam và nước ngoài.
- Mạch kỹ năng viết chính tả: nghe - viết, nhớ - viết một đoạn văn hoặc
đoạn thơ, trình bày bài viết theo quy định.
+ Viết đúng các từ ngữ dễ sai lẫn trong các bài chính tả nghe - viết, nhớ -
viết, cụ thể là:
11
- Các từ có âm đầu hoặc âm chính có nhiều cách viết
- Các từ có vần khó xuất hiện trong các bài chính tả.
- Các từ mà phát âm của tiếng địa phương lệch so với chuẩn.
+ Các tên người, tên địa lý Việt Nam và nước ngoài
Việc một HS hoàn thành một bài chính tả trọn vẹn (không mắc bất kì một
lỗi chính tả nào) được hoàn thiện dần từ lớp1 đến lớp 3. Nhưng thực tiễn dạy
học cho thấy trong day học chúng ta không nên biến những kiến thức đơn giản
thành những kiến thức phức tạp mà nên đơn giản hoá những kiến thức phức tạp để
HS dễ tiếp cận và tiếp thu hơn. Đối với HS lớp 3 cũng vậy, dù yều cầu của một tiết
Chính tả còn ở mức đơn giản nhưng người dạy không nên chỉ chờ đợi vào những
điều tốt đẹp ngày mai, mà ngay từ hôm nay, ngay từ lúc này cần phải biết sửa chữa
những sai sót, phải biết giúp HS ghi nhớ những quy tắc chính tả đơn giản đầu tiên
ấy để làm tiền đề vững chắc cho sự hoàn thiện ở các lớp học tiếp theo.
Thực tế cho thấy GV dạy chính tả nói chung và GV dạy phân môn Chính
tả lớp 3 trường Tiểu học trường Tiểu học Lăng Hiếu - Trùng Khánh - Cao Bằng
nói riêng chưa thực sự coi trọng và tuân thủ nguyên tắc chính âm - chính tả -
ngữ nghĩa vào dạy học Chính tả cho HS. Điều đó chứng tỏ việc HS nắm được
các nguyên tắc để viết chính tả là hết sức cần thiết đối với mỗi người GV khi
dạy - học phân môn Chính tả trong Tiếng việt.
1.1.3.2. Sự kết hợp hài hòa và thành thạo của 4 kĩ năng: nghe - nói - đọc - viết
Như chúng ta đã biết, ở Tiểu học có nhiệm vụ hết sức quan trọng đó là việc
hình thành bốn kĩ năng: nghe - nói - đọc - viết cho HS.
Từ vị trí và nhiệm vụ của phân môn ở tiểu học; chính tả được dạy, được chú ý
trên tất cả các phân môn Tiếng Việt như Tập đọc, Tập làm văn, Từ ngữ,
Ngữ pháp, và còn dạy với tính cách là một phân môn độc lập. Chính vì vậy, để
giúp các em học tốt phân môn Chính tả hay nói cách khác là để giúp HS nói, viết
hiểu đúng Tiếng Việt thì GV phải giải quyết hai phần việc liên quan chặt chẽ với
nhau đó là dạy lý thuyết và dạy cả thực hành cho các em, để từ đó tạo cho các
em năng lực thực hành đồng thời rèn luyện kỹ năng nghe - nói- đọc - viết đúng
tiếng Việt.
12
Ngoài ra, việc dạy học phân môn chính tả phải đảm bảo hầu hết các
nguyên tắc của giáo dục học một cách khoa học. Nếu dựa vào tâm lý của trẻ việc
dạy học phải phù hợp theo từng lứa tuổi, theo từng đối tượng một cách chặt chẽ.
Bên cạnh đó GV phải chú ý vận dụng các kết quả của tâm lý học như các
quy luật tiếp thu tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo để từ đó khi dạy học chính
tả có thể biết được sản phẩm của lời nói được sản sinh ra như thế nào, vai trò
của ngôn ngữ trong sự phát triển tư duy để hình thành kĩ năng nói, viết ra sao.
Qua thực tế cho thấy chữ viết của các em HS lớp 3 trường Tiểu học Lăng
Hiếu - Trùng Khánh - Cao Bằng vẫn còn rất xấu và dẫn đến sai nhiều lỗi chính tả,
nhiều HS có chữ viết tương đối khá, trình bày rõ ràng, sạch sẽ nhưng vẫn còn mắc
lỗi chính tả trong bài viết. Vậy mỗi GV cần phải có phương pháp thích hợp nhằm
hướng dẫn, tổ chức cho HS viết chính tả, đồng thời GV cần phải biết kết hợp hài
hòa và thành thạo bốn kĩ năng : nghe- nói - đọc - viết vào trong dạy học Chính tả.
1.1.4. Cơ sở khoa học của việc dạy học chính tả
1.1.4.1. Cơ sở tâm sinh lí
Mục đích của việc nghiên cứu cơ sở tâm lý học là hình thành năng lực viết
thành thạo, thành thục chữ viết tiếng Việt theo các chuẩn chính tả đến giúp hình
thành các kĩ xảo chính tả "kĩ xảo là những yếu tố tự động hóa của hoạt động có
ý thức được tạo ra trong quá trình thực hiện hoạt động đó " (định nghĩa của B.M
Chép.Lốp), việc hình thành kĩ xảo chính tả là giúp viết đúng chính tả một cách
tự động hóa không cần trực tiếp nhờ tới các quy tắc chính tả, không cần đến sự
tham gia của ý chí. Được chia thành hai con đường có ý thức và không có ý
thức trong dạy chính tả.
Cách không có ý thức (máy móc, cơ giới) dạy chính tả không cần đến sự
tồn tại quy tắc chính tả. Không cần hiểu mối quan hệ giữa các ngữ âm và chữ
viết, những cơ sở từ và ngữ pháp của chính tả, mà chỉ đơn thuần là việc viết
đúng từng trường hợp, từng từ cụ thể. Nhưng cách này thông thường chỉ áp
dụng cho những lớp đầu cấp. Chính vì vậy việc giảng dạy chính tả không có ý
thức có tồn tại một số hạn chế như: tốn nhiều thời gian, công sức, không phát
triển được tư duy, chỉ củng cố trí nhớ máy móc ở một mức độ nhất định.
13
Bên cạnh đó, việc dạy chính tả còn bằng con đường có ý thức hay còn gọi
là ý thức tự giác. Bắt đầu từ việc nhận thức các quy tắc, các mẹo chính tả từ đó
tiến hành luyện tập và từng bước đạt kĩ xảo chính tả. Chính vì vậy con đường có
ý thức này được áp dụng ở những lớp cuối cấp và việc dạy chính tả một cách có
ý thức vừa tiết kiệm được thời gian, công sức và là con đường ngắn nhất, có
hiệu quả nhất.
Để viết được chữ và viết đúng chính tả con người phải vận dụng hai yếu tố
chính đó là vận dụng cơ bắp và thao tác trí óc của người viết. Kĩ năng chính tả là
phối hợp thuần thục: ngón tay, bàn tay, cổ tay, cánh tay để sử dụng bút thể hiện
đúng các chữ đảm bảo sự khu biệt và tốc độ chữ viết nhanh.
Hình thành kĩ năng chính tả là khẳng định vai trò của ý thức, sự thuần thục
của chính tả không phải là sự suy tính cần phải đặt những chữ cái phù hợp
những vị trí nào. Đành rằng đó cũng là kết quả dạy học cuối cùng đạt được. Tuy
nhiên, điều đó không có nghĩa là con đường hình thành kĩ xảo là con đường vô
thức theo A.I.Tôm.Xơn.
Kĩ năng chính tả là hoạt động có ý thức đạt tới mức tự động hóa một cách
tự giác mức độ thông thạo viết đúng các chữ cái ở mọi vị trí cần thiết của chúng,
nó phụ thuộc vào hoạt động cơ bắp và thần kinh của các bộ phận cơ thể trực tiếp
tham gia vào các hoạt động.
Chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ âm, viết chính tả tiếng Việt chủ yếu là
ghi âm tiết thể hiện các thành phần âm vị đoạn tính hay siêu đoạn tính trong cấu
trúc âm tiết thành chữ các biểu tượng về âm tiết và cách viết các âm tiết.
Viết chính tả là sự tái tạo mẫu chữ, là kĩ năng hoạt động ghi nhớ các biểu
tượng về âm tiết và cách viết âm tiết.
HS Tiểu học thường hiếu động, chóng nhớ, chóng quên, do đó GV cần hình
thành cho các em kĩ xảo chính tả một cách tự động hóa, không cần phải nhờ đến
những quy tắc chính tả, không cần sự tham gia của ý chí. Để đạt điều này có thể
tiến hành theo hai cách: Có ý thức và không có ý thức, với cách không có ý thức
thường tốn thời gian, công sức, GV phải luyện cho HS thường xuyên qua đó
củng cố trí nhớ máy móc ở mức độ nhất định.
14
Với cách có ý thức, GV cần cho HS bắt đầu từ việc nhận thức các quy tắc,
các “mẹo” luật chính tả. Nội dung kiến thức phải bắt đầu từ dễ đến khó, tránh
nhàm chán mà phải học mà chơi chơi mà học. Thông qua luyện tập dần dần hình
thành những kỹ xảo chính tả bằng con đường có ý thức, đó là con đường ngắn
nhất, có hiệu quả cao. Cần vận dụng cả hai phương pháp để rèn luyện chính tả
cho HS tiểu học. Trong đó cách không có ý thức thường được sử dụng đối với
các lớp đầu cấp, cách có ý thức thường sử dụng ở các lớp cuối cấp.
HS tiểu học không phải bao giờ cũng viết đúng, đọc đúng. Do những yếu tố
ảnh hưởng đến khả năng viết đúng chính tả ( TMĐ, yếu tố sinh lí, yếu tố xã hội )
nên hầu như các em đều viết chính tả theo cảm tính, mặt khác do kĩ năng viết
chính tả còn ít, hạn chế nên việc viết đúng, chính xác còn khó khăn. Đây là cơ
sở để đề xuất các biện pháp rèn kĩ năng Chính tả cho HS lớp 3 trường Tiểu học -
Lăng Hiếu - Trùng Khánh - Cao Bằng.
1.1.4.2. Cơ sở ngôn ngữ học
Từ cơ sở sinh lí học đã nêu trên, để hạn chế được lỗi chính tả cho HS,
người GV cần nắm chắc, hiểu, vận dụng và giảng dạy cho HS một số nguyên tắc
chính tả tiếng Việt sau đây:
Một là: Chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ âm.
Theo nguyên tắc này chính tả phải biểu hiện đúng âm hưởng của từ, phát
âm thế nào thì viết thế ấy.
Giữa cách đọc và cách viết phải thống nhất với nhau, được nghe đọc đúng
thì HS sẽ viết đúng. Bởi vậy tiếng Việt là chữ ghi âm vị nên nguyên tắc này là
nguyên tắc cơ bản nhất. Nó thể hiện ở chỗ cách viết của mỗi từ thể hiện đúng âm
cần đọc của từ. Quan hệ giữa âm và chữ là quan hệ 1-1 nguyên tắc này đòi hỏi
GV phải phát âm chuẩn thì HS mới viết đúng. Nếu với nguyên tắc này ở một số
địa phương phát âm lệch chuẩn, HS không thể dựa hoàn toàn vào cách phát âm
thực tế của địa phương nhất định nào đó vì phát âm sai lệch so với chính âm.
GV phải sửa chữa, vạch rõ cách phát âm sai lệch phương ngữ để các em hiểu rõ
và tự sửa chữa.
- Bắc bộ: sai phụ âm đầu: ch/tr, d/gi/r, c/k/q/l/n.
- Trung bộ: sai thanh điệu: ( ?/ ~) , ( suy nghĩ, sạch sẽ)
15
Sai vần: ie/ yê, ươ/ ưu, ( con hươu/con hiêu, uống rượu/uống riệu)
- Nam bộ: Sai vần: v/d (vô nam/dô nam), i/y. Hay đồng hóa hai âm cuối n/ng
(luôn luôn/ luôn luông), t/k (tuốt tuột/ tuốc tuộc), (bay nhảy/bay nhải).
Hai là: Nguyên tắc chính tả ngữ nghĩa
Chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ âm học nhưng trong thực tế muốn viết
đúng chính tả việc nắm nghĩa của từ là cơ sở giúp người học viết đúng chính tả.
VD: Nếu GV đọc một từ có hình thức ngữ âm là “za” thì HS có thể lúng
túng, khó xác định chữ viết nhưng nếu đọc chọn vẹn là “gia đình”, “da thịt” hay
“ra vào”… thì các em sẽ hiểu nghĩa các từ đó và viết đúng.
Ba là: Nguyên tắc chính tả có ý thức
Là loại chính tả nhằm phát hiện ra quy tắc chính tả từ cơ sở đó mà viết
đúng chính tả. HS cần nắm chắc một số quy tắc làm căn cứ để viết đúng các từ,
các chữ nằm trong phạm vi quy tắc mà không cần gắng sức ghi nhớ cách viết
của từng từ một. Dạy chính tả theo đường này có những thuận lợi sau: khi nắm
được các quy tắc chính tả các em sẽ nắm được cách viết đúng mà không phải ghi
nhớ máy móc; rút ngắn được thời gian rèn luyện, nhanh chóng hình thành các kĩ
năng kĩ xảo chính tả; qua so sánh, phân tích đối chiếu, khái quát hóa, trừu tượng
hóa…. Từ đó rút ra quy tắc chính tả, HS được rèn luyện khả năng tư duy.
VD1: Chữ viết thể hiện của âm vị “k” khi nó đứng trước các nguyên âm hàng
trước (i, e, ê, yê ) thì được viết tắt là “k”. Khi nó đứng trước các nguyên âm hàng sau
(o, a, u, ô) thì được viết là “c”. Khi nó đứng trước âm đệm “u” thì được viết là “q”.
VD2: Đứng trước các nguyên âm hàng trước (i, e, ê, yê) được viết là “gh”,
âm vị “y” được viết là “ngh”. Đứng trước các nguyên âm hàng sau (a, ă, â, …)
viết là “g”, âm vị “y” viết là “ng”.
Từ cơ sở lí luận trên, để hạn chế lỗi chính tả cho HS GV cần nắm chắc các
quy tắc chính tả và phải có trình độ lí luận khoa học để áp dụng tốt vào thực tiễn.
1.1.4.3. Một số qui tắc chính tả Tiếng việt.
Nét viết: đều đứng (vuông góc với dòng kẻ). Mặc dù vậy các em vẫn có thể
viết chữ nghiêng và viết nét thanh nét đậm để chữ được thêm phong phú, đa
dạng, đẹp mắt.
16
Kích thước chữ: người ta lấy khoảng cách giữa hai dòng kẻ liền nhau làm
một đơn vị cự li để viết chữ. Căn cứ vào đơn vị cự li dòng kẻ người ta xây dựng
được cự li các chữ.
Độ cao chữ tiếng Việt (bao gồm chữ viết thường, viết hoa và chữ số)
Thứ nhất, mẫu các chữ viết thường:
+ Nhóm có độ cao 1 đơn vị: a, ă, â, e, ê, o, ô, ơ, i, u, ư, m, n, x, v.
+ Nhóm độ cao 1,25 đơn vị: r, s
+ Nhóm có độ cao 2 đơn vi: d, đ, p, q.
+ Nhóm có độ cao 2,5 đơn vị: b, g, h, k, l, y.
Thứ hai, mẫu chữ viết hoa:
+ Chiều cao của các chữ viết hoa là 2,5 đơn vị, riêng chữ Y và G được viết
cao 4 đơn vị.
Thứ ba, mẫu chữ số: chiều cao của chữ số là 2 đơn vị.
- Vị trí dấu thanh:
Trong mỗi chữ, dấu thanh luôn đặt ở chữ ghi âm chính của vần. Trong
tiếng Việt có 6 dấu thanh: thanh nặng, thanh huyền, thanh sắc, thanh ngã, thanh
hỏi, thanh ngang, trong đó một dấu thanh không là thanh ngang. Các thanh đều
được đặt trên các âm chính, riêng thanh nặng đặt dưới âm chính.
Trong các chữ ghi tiếng có bán âm đầu (âm đệm), thì dấu thanh cũng được
ghi ở âm chính (dù sau âm chính không có âm cuối vần).
VD: túy, nhảy, ….
Trong các tiếng có nguyên âm đôi thì dấu thanh được ghi như sau: nếu sau
nguyên âm đôi có âm cuối thì dấu thanh được nghi ở chữ thứ hai nguyên âm đôi.
VD: chiếu, trước,……
Nếu nguyên âm đôi không có âm cuối thì dấu thanh được nghi ở chữ thứ
nhất nguyên âm đôi.
VD: tía, mía, lửa, …
- Cách nhận biết tốt nhất về g và gh, ng và ngh.
Sự nhận biết tốt nhất là dựa vào khả năng kết hợp của chúng với nguyên
âm đứng trước các nguyên âm hàng trước (iê, i, e, ê ). Âm “gờ” viết là “gh”,
âm “ngờ” viết là “ngh”.
17
Khi đứng trước các nguyên âm hàng sau (o, ô, u, uô, a, ă , ). Âm “gờ”
viết là “g”, âm “ngờ” viết là “ng.
Từ cơ sở lí luận trên, để hạn chế lỗi chính tả cho HS GV cần nắm chắc các
quy tắc chính tả và phải có trình độ lí luận khoa học để áp dụng tốt vào thực tiễn.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Chương trình phân môn Chính tả lớp 3
1.2.1.1. Mục tiêu dạy học chính tả lớp 3
Phân môn Chính tả lớp 3 chủ yếu tập trung rèn luyện kỹ năng viết chính
tả chính xác cho HS thông qua các bài tập chính tả, HS lớp 3 nắm được quy tắc
viết của chữ quốc ngữ, nắm được cách viết đúng các từ có âm đầu, vần, thanh
điệu HS địa phương hay mắc lỗi do ảnh hưởng của phát âm. HS có viết đúng
chính tả thì mới viết đúng chuẩn chính tả và do đó các em mới có thể giao tiếp
tốt bằng văn bản.
Do vậy mục tiêu của phân môn chính tả lớp 3 là trang bị một số kiến thức về
quy tắc chính tả tiếng Việt, rèn luyện kỹ năng nghe, kỹ năng viết đúng chính tả,
thái độ cẩn thận, yêu cái đẹp trong giao tiếp bằng chữ tiếng Việt.
1.2.1.2. Nội dung chương trình Sách giáo khoa phân môn Chính tả lớp 3
Bảng 1: Số bài, thời lượng học và nội dung chương trình
Số tiết/
tuần
Hình đọc
Nội dung
Học kỳ I :
2 tiết/ tuần,
tổng số 30
tiết
Học kỳ II :
2 tiết/ tuần,
tổng số 30
tiết
- Nghe - viết,
- Nhớ viết
- Viết chính tả đoạn văn, đoạn thơ theo các hình
thức nghe – viết, nhìn – viết, nhớ - viết. Viết tên
riêng Việt Nam, tên riêng nước ngoài đơn giản.
Phát hiện và sửa lỗi chính tả trong bài.
- Hai dạng chính tả: Chính tả đoạn bài và chính tả
âm vần.
- Bài tập được phân thành bài tập bắt buộc và bài
tập lựa chọn. Bài tập lựa chọn đặt trong dấu ngoặc
đơn để các GV lựa chọn bài tập thích hợp.
18
Ở lớp 3 mỗi tuần có hai tiết chính tả, dưới hai hình thức chính tả: chính tả
nhớ - viết, chính tả tập chép. Bài chính tả dài 60 chữ, tốc độ viết 60- 70 chữ/15
phút, yêu cầu chữ viết đúng mẫu, đều nét, rõ ràng, sạch sẽ, không mắc lỗi chính
tả thông thường (không mắc quá 5 lỗi/một bài) và phải đánh dấu câu đúng vị trí.
Bảng 2: Yêu cầu cần đạt (chuẩn kiến thức và kĩ năng)
STT
Chuẩn kiến thức và kĩ năng
1
Biết cách viết hoa tên riêng Việt Nam, tên riêng nước ngoài (phiên âm).
2
Nghe – viết, nhớ - viết bài chính tả có độ dài khoảng 60 – 70 chữ trong
15 phút, không mắc quá 5 lỗi, trình bày đúng qui định, bài viết sạch
3
Viết đúng tên riêng Việt Nam và một số tên riêng nước ngoài.
4
Biết phát hiện và sửa lỗi chính tả trong bài viết.
5
Nghe – viết bài chính tả có độ dài 70 chữ, trong đó có các từ chứa âm,
vần khó hoặc từ có âm, vần, thanh dễ viết sai do ảnh hưởng của cách
phát âm địa phương, tên riêng Việt Nam, tên riêng nước ngoài.
Bảng 3: Cấu tạo một bài chính tả trong SGK lớp 3
Cấu trúc của bài chính tả
nhìn – viết
Cấu trúc của bài chính tả
nghe – viết
-Mục 1:
+ Nhìn - viết (đoạn, bài): là bài tập
đọc đã học.
+ Nhận xét về chính tả (cách viết
hoa, dấu câu, tìm các từ khó có yêu
cầu viết đúng) (kí hiệu?)
-Mục 2: Bài tập (có thể có bài tập
giải mẫu – kí hiệu M)
-Mục 3: Bài tập (có thể có bài tập
giải mẫu – kí hiệu M)
-Mục 1:
+ Nghe – viết (đoạn,bài): là đoạn,
bài đã học trong môn tập đọc.
+ Nhận xét về chính tả – kí hiệu?
-Mục 2, 3: Bài tập (có thể có bài
giải mẫu – kí hiệu M)
19
Từ bảng 3 ta thấy hình thức chính tả Nghe – viết có đặc trưng của chính tả
Tiếng việt bởi vì chữ viết Tiếng việt là chữ viết ghi âm. Yêu cầu của hình thức
này là học sinh nghe từng từ, từng cụm từ, câu do GV đọc. Vừa nghe vừa tái hiện
lại hình thức chữ viết của từng từ, cụm từ tức là HS phải có khả năng chuyển hóa
âm thanh thành chữ viết.
HS phải viết đủ số âm tiết đã nghe, viết đúng nhanh theo tốc độ quy định.
Đối với loại hình thức chính tả này HS phải nghe- nhớ- viết. Việc nghe - viết
phải gắn liên với việc hiểu nội dung cụm từ, câu, văn bản, đoạn bài thì mới có
thể viết đúng. Bởi vì chính tả Tiếng việt không chỉ là chính tả ngữ âm mà còn là
chính tả ngữ nghĩa.
Kiểu chính tả nhớ - viết có đặc điểm riêng. Trong kiểu bài này, bài viết
chính tả là toàn bài hoặc trích đoạn từ một bài tập đọc đã được HS tìm hiểu và học
thuộc trước đó. Điểm tựa của bài viết này không phải là bài viết in/ chép sẵn (như ở
kiểu bài tập chép) cũng không phải là bài đọc của GV (như ở kiểu bài nghe - viết
hoặc kiểu bài so sánh) mà chính là khả năng ghi nhớ và tái hiện văn bản của chính
bản thân mình. Cho nên hình thức Chính tả nhớ - viết chỉ thực hiện ở giai đoạn HS
đã quen thuộc chữ viết Tiếng việt tức là từ lớp 3 trở lên.
1.2.2. Thực trạng rèn kỹ năng chính tả cho HS lớp 3 của GV
1.2.2.1. Thuận lợi cơ bản
Trùng Khánh là một huyện nằm ở phía Đông bắc của tỉnh Cao Bằng, Trùng
Khánh có 2 dân tộc Tày – Nùng chủ yếu cùng sinh sống. Trong đó Tày chiếm
khoảng 45% và Nùng chiếm 47% và 8% là dân tộc khác.
Trường Tiểu học Lăng Hiếu cách thị trấn Trùng Khánh khoảng 5km về phía
Đông. Với vị trí và giao thông đi lại còn khá khó khăn so với các trường tiểu học
trong huyện, mặc dù vậy công tác giáo dục luôn được quan tâm chặt chẽ.
Trường có tổng diện tích mặt bằng 2000m2, năm học 2013 - 2014 nhà
trường có tổng số 8 lớp với tổng số 220 HS trong đó dân tộc tày chiếm 120 HS,
dân tộc Nùng 100 HS .
Tổng số cán bộ giáo viên: 15 (nam 3), Đảng viên 4, trong đó: