Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng môn toán cũng như các môn học khác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.35 KB, 11 trang )

A . ĐẶT VẤN ĐỀ
Để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng học tập của học sinh, đặc biệt là chất lượng môn
Tốn lớp 5. Việc đổi mới PPDH nhằm giúp HS yếu kém môn Tốn cũng như môn học khác đạt
kết quả tốt hơn là điều hết sức cần thiết đối với người giáo viên. Thực tế trong địa phương nơi
tôi đang công tác giảng dạy có rất nhiều học sinh học yếu môn Tốn. Vậy làm thế nào để các em
học yếu môn Tốn vươn lên đạt mức trung bình để cuối năm không có học sinh lưu ban? Đó là
điều quan trọng đặt ra đối với giáo viên như điều trăn trở đối với bản thân tôi để có giải pháp
thích hợp đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng môn Tốn. Vì vậy trong quá trình giảng dạy tôi
đã rút ra “Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn Tốn cũng như các môn học khác.
B. NỘI DUNG
I. Thực trạng
1. Thực trạng về giáo viên
a. Ưu điểm
- Về mặt kiến thức: GV đã truyền thụ một cách chính xác, đầy đủ các nội dung của bài học cho
học sinh.
- Về mặt phương pháp: GV đã có sự phối hợp hài hồ hợp lý các PP giảng dạy để làm nổi bật
được trọng tâm của bài.
- Để giúp học sinh năm vững kiến thức, GV đưa ra ví dụ minh hoạ gần gũi với các em và yêu
cầu các em đưa ra ví dụ khác minh hoạ.
b. Tồn tại
- Trong khi dạy bài mới, GV chưa thực sự quan tâm đến đối tượng HS mà chỉ chú ý đến trình
độ chung của cả lớp.
- Giáo viên chưa đưa ra được hình thức và phương pháp phù hợp để các em tiếp thu bài tốt hơn,
có hứng thú khi học bài.
- Một số giáo viên chủ quan, dạy chưa đến nơi đến chốn nên khi gặp một bài tốn cụ thể, học
sinh không xác định được dạng tốn đó neen không giải được bài tốn.
2. Thực trạng về học sinh
1
Đa số các em đều nắm được kiến thức cơ bản của chương trình và vận dụng thực tế vaò giải
tốn. Các em có hứng thú học tập vì kiến thức phù hợp với nhận thức và trình độ của học sinh.
Tuy nhiên vẫn còn có những học sinh chưa năm được kiến thức cơ bản , chưa tóm tắt được bài


tốn, chưa xác định được dạng tốnvà có em chưa thành thạo các phép tính cộng, trừ, nhân, chia
với số tự nhiên.
Qua số liệu khảo sát đầu năm, tôi thấy chất lượng là vấn đề đáng lo ngại. Lớp 5A dó tôi phụ
trách có 24 em chất lượng môn tốn chỉ đạt như sau.
Tổng số học sinh Giỏi, Khá Trung bình Yếu
24 3%-15,5% 15%- 62,5% 6%-25%
Tuy đã lên lớp 5 nhưng có những em cộng, trừ, nhân, chia các phép tính đơn giản chưa
thành thạo, Chưa nhận dạng được bài tốn, bảng cửu chương chưa thuộc, không vận dụng được
quy tắc, công thức vào giải tốn. Các em thường lúng túng khi giải các bài tốn có nhiều phép
tính, bài tốn có lời văn, đặc biệt là với số thập phân, chưa nói đến các bài tốn điển hình.
3. Nguyên nhân tồn tại
Qua tìm hiểu thực tế tôi thấy một số nguyên nhân dẫn đến việc học sinh học yếu môn Tốn
như sau:
a. Về phía giáo viên:
- Giáo viên được đào tạo cơ bản không đồng đều.
- Năng lực, tố chất một số người chỉ mới đáp ứng uêi cầu kiến thức cơ bản.
- Một số ít giáo viên chưa thực sự có biện pháp giúp đỡ học sinh yếu cũng như chưa dành sự
quan tâm cho các em.
b. Về phía giáo học sinh
- Một số em chưa thực sự chăm chỉ trong học tập.
- Mục đích học tập của các em chưa rõ ràng, ý thức học tập chưa cao và đáng chú ý là do
học sinh lười học, các em chưa xác định được học để làm gì? Học cái gì? Học cho ai? Vì thế
không xác định được nhiệm vụ của mình là học tập cho tốt.
- Học sinh chưa cps phương pháp lĩnh hội tri thức, các em không thuộc bài, không thuộc các
quy tắc nên không biết vận dụng vào làm bài tập Tốn.
2
- Các em nắm kiến thức cũ chưa chắc, lại tiếp xúc với nhiều kiến thức mới nên rất khó nhọc
trong quá trình học tập môn Tốn.
c. Về phía phụ huynh:
- Trong gia đình, bố mẹ không quan tâm đến việc học tập của con cái làm cho các em không

chịu khó học tập.
- Đa số nhân dân còn khó khăn nên chưa cung cấp đầy đủ, kịp thời các điều kiện cụ thể cho
các em học tập. Đặc biệt hơn một số gia đình thất học, bố mẹ không học đến nơi đến chốn
nên con cái không có người kèm cặp dạy dỗ, ảnh hưởng đến năng lực học tập của cac em.
4. Với một lớp như vậy, tôi đã có những suy nghĩ và quan tâm tìm phương pháp giảng dạy để
đưa chất lượng của lớp lên cao đặc biệt là giúp đỡ 6 em học yếu môn Tốn cuối năm đạt trung
bình. Trước tiên đi sâu tìm hiểu nguyên nhân yếu kém của từng HS, phân loại học sinh yếu kém
từng mặt, hiểu được hồn cảnh của từng em. Trên cơ sở kết quả năm học 2007-2008, kết quả
khảo sát chất lượng đầu năm , kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kì và nkiểm tra hàng tuần
trên lớp( ó số liệu cụ thể, có bài kiểm tra, nhưng do phạm vi đề tài hẹp nên tôi không đưa vào).
Kết quả phân loại như sau:
Số học sinh yếu kém Chưa nắm chắc kiến thức
cơ bản
Không áp dụng được quy tắc
vào giải tốn
6 2 4
Qua kết quả phân loại trên, thiết nghĩ cần có biện pháp giúp học sinh khắc sâu kiến thức cơ
bản và áp dụng quy tắc vào giải tốn.
*) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Học sinh yếu kém lớp 5 trong phạm vi các phép tính số thập phân.
*) Phương pháp:
Để rèn luyện cho học sinh học yếu môn tốn học tập tốt hơn tôi sử đụng các phương pháp sau:
- Phương pháp quan sát, điều tra
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp luyện tập, thực hành
3
II. Giải quyết vấn đề
1. Khắc sâu kiến thức cơ bản đã học
Theo tôi nghĩ, trước hết học sinh cần phải nắm chắc kiến thức cơ bản của bài học và cần cung
cấp một số kiến thức thực tế, chúng ta biết rằng tốn học bắt nguồn từ thực tế và trở lại thực tế

phục vụ thực tế. Vì vậy cần rèn luyện cho học sinh nắm chắc kiến thức cơ bản của những lớp
trước rồi mới dạy từng phần.
a. Đối với những học sinh chưa thuộc bảng cửu chương :
Những giờ lên lớp, tôi thường gọi những em này dọc bảng cửu chương nhân trước, hết bảng
cửu chương nhân rồi mới đến bảng cửu chương chia. Thời gian ở lớp có hạn nên tôi đã giao
khốn cho các em về nhà đọc, đến lớp kiểm tra bằng cách cho em làm các bài tốn nhẩm sắp
xếp không theo thứ tự.
Ví dụ: Tính nhẩm
3 x 5 = … 2 x 9 = … 45: 5 = …
6 x 7 = … 5 x 8 = … 64 : 8 = …
4 x 6 = … 9 x 5 = … 72 : 8 = …
Học sinh phải thuộc bảng cửu chương mới làm được các bài tập trên, như vậy các em sẽ nhớ lâu
hơn.
b. Đối với những em chưa thành thạo các phép tính cộng, trừ, nhân, chia:
Hướng dẫn các em những bài tốn đơn giản với một phép tính sau đó mới cho các em thực hiện
tính giá trị biểu thức có 4 phép tính, có dấu ngoặc đơn. Khi thực hieenj phép tính cần hướng dẫn
cụ thể từng phép tính, thứ tự thực hiện các phép tính có cả cộng trừ nhân chia lẫn lộn, có dấu
ngoặc đơn.
Ví dụ: Tính
342 1657 732 1698 6
+ - x
68 359 43
4
- Đối với bài tập này hướng dẫn các em cộng trừ theo hàng( chú ý có nhớ ) và nhân chia
theo quy tắc.
- Các em có thể tính được:
342 1657 732 1698 6
+ - 43 49 283
68 359 2196 18
410 1298 2928 0

31446
Ví dụ 2:Tính
318 : ( 19 + 34) =
Cần hướng dẫn các em thực hiện các phép tính trong ngoặc đơn trước rồi mới thực hiện phép
chia.
Các em có thể làm như sau:
318 : ( 19 + 34 )
= 318 : 53
= 6
2. Aùp dụng các quy tắc đã học vào giải tốn
a. Đối với tốn tìm x hoặc tính theo thứ tự thực hiện phép tính trong biểu thức>
- Đối với những em chưa biết tìm x trong 4 phép tính tôi phải hướng dẫn lại về các thành
phần trong phép tính cộng, trừ , nhân, chia. Hướng dẫn các em tìm x từ những phép tính
đơn giản rồi mới nâng dần lên từ số tự nhiên rồi mới chuyển sang số thập phân.
Ví dụ1: Tìm x
5
125 - x = 103 162 : x = 9
Nhiều học sinh đã làm như sau
125 - x = 103 162 : x = 9
x = 103 + 125 x = 9 x 162
x = 228 x = 1458
Như vậy, học sinh nắm vững cách tìm thành phần trong một biểu thức.
Trước hết tôi cho học sinh nhắc llại thành phần của phép tính sau đó cho các em thực hiện tìm
các thành phần đó.
+ Trong từng biểu thức trên số chưa biết x được gọi là gi?(số trừ, số chia).
+ Muốn tìm số trừ, số chia chưa biết ta làm thế nào?
Từ đó HS biết hướng đi của bài tốnvà làm được bài khác
125 - x = 103 162 : x = 9
x = 125 - 103 x = 162 : 9
x = 22 x = 18

đối với loại tốn này điều cốt lõi nhất là học sinh phải xác định được thành phần của phép tính,
cách tìm các thành phần của nó sau đó mới đến khả năng tính tốn.
Ví dụ 2: Tính giá trị các biểu thức sau:
38, 92 + 12,7 x 3,2
Nhiều học sinh đã làm:
38, 92 + 12,7 x 3,2 = 51,62 x 3,2
= 165,184 (sai)
Các em đã nhầm rằng thực hiện từ trái qua phải chứ không phải thực hiện nhân trước, phép
cộng sau nên dẫn đến kết quả sai như vậy.
Hoặc có một số em có kết quả như sau:
38, 92 + 12,7 x 3,2 = 38,92 + 406,4 ( sai)
= 79,56
Số học sinh này thứ tự thực hiện đúng nhưng khi tính đặt tính và đặt dấu phẩy ở kết quả sai dẫn
đến làm sai.
6
Tôi phải giảng lại thật kĩ dạng tốn này, yêu cầu các em học thuộc quy tắc trước khi giải tốn.
Thực hiện nhiều lần với bài tốn đơn giản. Khi HS đã hiểu được, tôi cho áp dụng giải nhiều bài
tập đa dạng hơn.
Ví dụ: Với bài trên tôi cho học sinh giải trước bài tập sau:
18 + 12 x 3 = 18 + 36
= 54
Aùp dụng để giải bài tốn trên:
38,92 + 12,7 x 3,2 = 38,92 + 40, 64
= 79,56
Ví dụ 3: Tính
(131,4 – 80,8) : 2,3 + 21,84 x 2 (Bài 2 trang 79-SGK Tốn 5)
Một số em đã thực hiện phép nhân, chia trước, cộng trừ sau hoặc bỏ sót phép tính dẫn đến kết
quả sai.
Đây là bài tốn phức tạp hơn nên cần hướng dẫn HS từng bước như sau:
Bước 1: Tính trong dấu ngoặc đơn

Bước 2: Làm phép tính chia và phép tính nhân
Bước 3: Làm phép tính cộng
Chú ý phép tính nào chưa thực hiện thì hạ xuống không được bỏ qua sẽ sót phép tính.
- Hướng dẫn học sinh trình bày bài:
Tính:
(131,4 – 80,8) : 2,3 + 21,84 x 2
= 50,6 : 2,3 + 21,84 x 2
= 22 + 43,68
= 65,68
b. Đốùi với học sinh chưa biết vận dụng quy tắc vào giải tốn:
Qua tìm hiểu ta thấy thực ra những em này chưa thuộc quy tắc cũng như công thức để tính. Vì
vậy cần cho HS học thuộc quy tắc cũng như công thức tính. Khi HS đã thuộc mới cho học sinh
7
vận dụng vào giải tốn. Trước hết là đối với số tự nhiên đơn giản mới đến số thập phân. Với
phương pháp này tuy mất nhiều thời gian nhưng HS quen dần và nắm được bài.
Ví dụ 4:
May 25 bộ quần áo như nhau hết 70 m vải. Hỏi may 6 bộ quần áo như thế hết bao nhiêu mét
vải? (Bài 2 –n trang 68 – SGK Tốn 5).
Trước khi làm bài tập này cho học sinh làm một bài tương tự với số chia hết, kết quả là một số
tự nhiên sau đó mới cho áp dụng để giải.
Ví dụ: May 3 bộ quần áo hết 9 m vải. Hỏi may 6 bộ quần áo như thế hết bao nhiêu mét vải?
Học sinh dễ dàng giải được như sau:
Giải
May một bộ quần áo hết số mét vải là:
9 : 3 = 3 ( m )
May 6 bộ quần áo hết số mét vải là:
3 x 6 = 18 ( m )
Đáp số: 18 m
Aùp dụng để giải bài tốn trên
Giải

Mỗi bộ quần áo may hết số mét vải là:
70 : 25 = 2,8 (m)
May 6 bợ quần áo hết số mét vải là:
2,8 x 6 = 16,8 (m)
Đáp sô: 16,8m
Ví dụ 5: Một cửa hàng bỏ ra 6 000 000đồng tiền vốn.
biêt cửa hàng đó lãi 15%. Tính số tiền lãi.(Bài 2- Trang 79 –SGK Tốn 5)
Hướng dẫn học sinh giải bài tốn này như sau:
- trước hết cho học sinh nhận dạng bài tốn.
(Đây là bài tốn về tìm tỷ số phần trăm của mốt số).
- Yêu cầu học sinh thuộc quy tắc và công thức tính.
8
- Cho học sinh tính phần trăm của một số đơn giản:
Ví dụ: Tìm 15% của 60.
Học sinh sẽ tìm được:
100
1560x
= 9
Áp dụng để giải bài tốn:
Giải
Số tiền lãi là:
100
156000000x
= 900 000 (đ)
Đáp số: 900 000 đồng
3. Phối hợp giữa giáo viên và gia đình học sinh.
- Tôi thường kèm cặp, động viên những học sinh có hồn cảnh khó khăn. Trong các cuộc
họp phụ huynh, tôi đã báo cáo cụ thể mức độ học tập của từng em đểphụ huynh có cơ sở
tạo điều kiện kèm cặp học sinh. Ngồi ra, tôi còn tạo điều kiện giúp đỡ học sinh vào
những buổi học tỡi, phụ huynh chịu trách nhiệm đưa đón các em đi về. Từ đó phụ huynh

đã có phần chăm lo việc học tập của con hơn. Vì thế vận dụng giáo dục nhà trường với
gia đình là rất cần thiết trong quá trình giáo dục học sinh.
- Hướng dẫn cách giúp đỡ các em học ở nhà cho phụ huynh qua một số bài tốn mẫu trong
SGK.
- Ví dụ: Viết số thập phân thích hợp vào chỗ chấm( theo mẫu).
315cm = m 234cm = m
506 cm = m 34 dm = m
Mẫu : 315 cm = 3,15 m
Cách làm: 315 cm = 300 cm + 15 cm = 3m15cm
= 3
100
15
m = 3,15m
Ví dụ 2: Viết thành tỷ số phần trăm (theo mẫu)
a. 19 và 30 b. 45 và 61 c. 1,2 và 26
9
Mẫu: a. 19 : 30 = 0,6333 = 63,33%
Sau một thời gian theo dõi, giúp đỡ công phu và nhiệt tình tôi thấy học sinh có ý thức
học tập hơn. Hầu như em nào cũng thuộc bảng cửu chương, biết tìm x trong 4 phép
tínhthành thạo, biết giải tốn có lời văn, biết vận dụng quy tắc vào giải tốn, biết thực hiện các
phép tính cộng, trừ, nhân, chia thành thạo.
Khi đã có ý thức học tập tốt môn Tốn thì các các môn học khác các em cũng yêu thích ,
tự giác học tập hơn.
c. Kết quả từng đợt kiểm tra định kỳ như sau:
Thời gian Khá - Giỏi Trung bình yếu
Giữa kì I 4% - 16,7% 15% - 62,5% 5% - 20,8%
Cuối kì I 6% - 25% 14% - 58,3% 4% - 16,7%
Giữa kì II 7% - 29,2% 17% - 70,8% 0% - 6%
Có được kết quả như vậy là một quá trình kiên trì rèn luyện cho học sinh của bản thân
tôi trong thời gian qua. Tuy kết quả còn ở mức độ khiêm tốn nhưng nó cũng góp phần đưa

chất lượng lớp tôi lên đáng kể, gây được nhiều tình cảm cho phụ huynh học sinh và đặc biệt
là gây được hứng thú học tập ở các em, khuyến khích được các em vươn lên trong học tập.
III. Bài học kinh nghiệm
Từ những kết quả đạt được trong quá trình giảng dạy tôi thấy việc giúp đỡ học sinh yếu
kém môn Tốn là việc quan trọng. Để nâng cao chất lượng học tập cho học sinh nói chung,
học sinh lớp 5 nói riêng, người giáo viên cần phải :
- Nắm được yêu cầu kiến thức cơ bản các phép tính về số thhạp phân cũng như kiến thức
cơ bản của chương trình Tốn 5.
- Dạy học sinh nắm chắc kiến thức cơ bản các phép tính về số thập phân thông qua số tự
nhiên.
- Rèn luyện cho học sinh nắm chắc kiến thức cơ bản, vận dụng quy tắc vào giải Tốn.
Trước hết phải thuộc quy tắc và công thức tính, vận dụng thành thạo các phép tính, với
số đơn giantrước khi áp dụng giải tốn.
10
- Từ việc nắm chắc kiến thức cơ bản, cho học sinh luyện tập thực hành các phép tính mẫu
sau đó mở rộng ra các bài tốn phức tạp hơn.
- Một yêu cầu quan trọng đối với giáo viên là: Giáo viên phải yêu nghề, mến trẻ, hết lòng
vì nghề nghiệp, vì học sinh tìm tòi phương pháp giảng dạy thích hợp.
- giáo viên phải nám chắc từng đối tượng học sinh, từng cá nhân cụ thể để có phương
pháp thích hợp
- Trong quá trình dạyhọc, giáo viên cần kết hợp cùng gia đình, cần động viên nhắc nhỏ
kịp thời để các em cố gắng.
C. KẾT LUẬN
Trên đây là một phần nhỏ của bản thân to åitong việc giúp đỡ học sinh lớp 5 học yếu
môn Tốn. Tôi viết ra với mong muốn được chia sẻ kinh nghiệm và học hỏi. Rất mong nhận
được sự góp ý của bạn bè đồng nghiệp để tìm tòi được phương pháp hồn thiện hơn và để
cùng đạt được mục đích chung là nâng cao chất lượng của học sinh.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Ngày 14 tháng 4 năm 2009
Người viết


11

×