Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

SKKN: Tìm kiếm, chọn lọc, xử lý và xây dựng hệ thống tư liệu dạy học địa lý lớp 10 từ mạng internet

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.83 MB, 59 trang )

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Đơn vị: Trường THPT Kiệm Tân
Người thực hiện: Trần Ngọc Bảy

Lĩnh vực nghiên cứu:
Quản lí giáo dục
Phương pháp giảng dạy bộ môn
Phương pháp giáo dục
Lĩnh vực khác.
Có đính kèm:
Mô hình Phần mềm Phim ảnh Hiện vật khác
Năm học: 2010-2011
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I – LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
- Ngày nay việc vào mạng Internet để tìm kiếm tư liệu, thông tin phục vụ cho
công việc và học tập đã trở nên thông dụng đối với mọi người bởi sự ứng dụng rộng
rãi của công nghệ thông tin và chính bởi sự phong phú, cập nhật của các tư liệu trên
mạng.
- Các tư liệu địa lí trên mạng Internet cũng hết sức phong phú, đa dạng, đặc biệt là
các hình ảnh, mô hình, video clip hết sức sống động và bổ ích. Tuy nhiên nó phân bố
rải rác ở nhiều địa chỉ website khác nhau, từ nhiều nguồn khác nhau. Trong xu thế đổi
mới phương pháp dạy học và hiện đại hóa các phương tiện dạy học hiện nay, người
giáo viên địa lí ngày càng đưa vào bài dạy của mình nhiều hơn các tư liệu sống động
này, ngày càng sử dụng nhiều hơn các tư liệu từ mạng phục vụ cho công tác giảng dạy.
- Chương trình địa lí 10 THPT bao gồm các nội dung địa lí làm cơ sở, nền tảng
cho các học phần Địa lí Tự Nhiên và Địa lí KT-XH nên có tính trừu tượng cao đòi hỏi
nhiều tư liệu minh họa. Việc tìm kiếm, chọn lọc, hệ thống các tư liệu ở dạng kênh hình
( hình ảnh, mô hình, video clip…) từ mạng Internet làm tư liệu có ý nghĩa rất lớn trong
việc nâng cao hiệu quả dạy học chương trình địa lí 10.
II – MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
Xây dựng được hệ thống tư liệu từ mạng Internet (gồm các tư liệu hình ảnh, mô


hình và các video clip) và in xuất thành đĩa VCD, CD phục vụ cho việc dạy học
chương trình Địa lí 10 THPT – phần tự nhiên.
III – NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Xác định cơ sở lí luận và thực tiễn của việc chọn lọc các tư liệu dạy học Địa lí
10 từ mạng Internet.
2
- Xác định các tư liệu cần thiết cho việc minh họa nội dung các bài dạy trong
chương trình Địa lí 10.
- Tìm kiếm, chọn lọc một số tư liệu mạng liên quan đến nội dung chương trình
Địa lí 10 .
- Sắp xếp, xây dựng hệ thống tư liệu ( chứa các hình ảnh, mô hình, video clip)
phục vụ cho việc dạy học các bài địa lí 10.
- In xuất thành sản phẩm.
IV – PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Về nội dung: tư liệu dạy học địa lí từ mạng Internet.
Phạm vi: chương trình địa lí 10 - phần Địa lí Tự Nhiên.
V – LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
Trong giáo trình “Phương pháp dạy học Địa lí ở nhà trường phổ thông”,2004 của
Nguyễn Trọng Phúc có đề cập đến các phương tiện dạy học hiện đại là phim giáo khoa
và băng video. Trong cuốn này tác giả nêu lên những nét cơ bản nhất về ý nghĩa, tính
chất và phương pháp sử dụng phim giáo khoa và băng video.
Trong các cuốn “ Kĩ thuật dạy học địa lí ở trường phổ thông, 2007, NXBGiáo
Dục” và “ Phương tiện dạy học Địa Lí ở trường THPT”, của PGS-TS Nguyễn Đức Vũ
có đề cập đến kĩ thuật sử dụng Internet trong dạy học địa lí và kĩ thuật sử dụng phần
mềm trình diễn Powerpoint trong dạy học địa lí. Tác giả đã nêu lên những điểm căn
bản khái quát về mạng Internet, giới thiệu những nét cơ bản về cách xây dựng các bài
giảng điện tử bằng Powerpoint, các tranh ảnh từ mạng Internet.
Mặc dù những tài liệu này chỉ đề cập đôi nét về lí thuyết về các tư liệu dạy học địa
lí từ mạng Internet nhưng chúng là cơ sở để chúng em đưa ra ý tưởng cũng như là
những tư liệu bổ ích cho việc thực hiện đề tài này.

Trong cuốn “cẩm nang sử dụng các dịch vụ Internet”, 2003 của Nguyễn Đức Toàn
- Nguyễn Hùng đã đề cập những vấn đề về cách thức sử dụng các dịch vụ từ mạng
Internet, đây là tư liệu quan trọng làm công cụ rất bổ ích cho việc tìm kiếm, chọn lọc
và xây dựng hệ thống tư liệu dạy học từ mạng Internet.
3
Tác giả: Huỳnh Hải Sơn, “Hướng dẫn tìm kiếm thông tin trên Internet”, năm
2008, bài viết trên mạng
“Sử dụng công nghệ thông tin trong dạy và học”, tài liệu chuyên khảo của "Mạng
giáo viên sáng tạo" được hỗ trợ bởi Microsoft, NXB Giáo Dục 2005.
“Internet và khai thác Internet”,tài liệu chuyên khảo của "Mạng giáo viên sáng
tạo" được hỗ trợ bởi Micrisoft, NXB Giáo Dục 2007.
Trần Đức Tuấn,“ Tăng cường sử dụng Internet trong dạy học Địa lí ở các trường
THPT”, Kỉ yếu hội thảo khoa học- Đổi mới phương pháp dạy học với sự tham gia của
các thiết bị kĩ thuật, ĐHSP Huế, 2004.
VI – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp sưu tầm, phân tích, xử lí và tổng hợp tư liệu.
Trên cơ sở mục đích, yêu cầu của đề tài đề ra để sưu tầm tài liệu, số liệu liên quan.
Từ đó chọn lọc, sắp xếp, thống kê các tài liệu, số liệu đã thu thập được theo yêu cầu
nghiên cứu của đề tài.
2. Phương pháp tìm kiếm, xử lí, tổng hợp tài liệu trên mạng Internet.
Trên cơ sở các tài liệu thu thập được từ mạng Internet, tiến hành phân tích tổng hợp
các yếu tố trong mối quan hệ tác động lẫn nhau nhằm rút ra những vấn đề phục vụ cho
việc nghiên cứu.
3. Phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin.
Là phương pháp sử dụng các thiết bị tin học, các phần mềm hỗ trợ, sử dụng các các
thông tin, các tài liệu liên quan đến đề tài từ mạng Internet để xây dựng hệ thống tư
liệu.
4. Phương pháp đối chiếu - so sánh
So sánh, đối chiếu, đánh giá những sự vật, hiện tượng để thấy được sự tương
đồng, khác biệt trong mối tương quan tổng thể, rút ra những nhận định cần thiết.

4
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC TÌM KIẾM TƯ LIỆU DẠY
HỌC TỪ MẠNG INTERNET
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Quan niệm về tư liệu dạy học từ mạng Internet
1.1.1.1. Tư liệu dạy học từ mạng Internet
Tư liệu dạy học là các tài liệu, thông tin sử dụng cho việc học tập, nghiên cứu và
truyền thụ tri thức cho học sinh. Tư liệu dạy học có nhiều nguồn khác nhau: từ nguồn
tư liệu truyền thống như sách giáo khoa, sách tham khảo, giáo trình chuyên môn, bản
đồ, tranh ảnh, các tài liệu từ các tạp chí khoa học,…Ngoài nguồn tư liệu kể trên, hiện
nay các tài liệu từ mạng Internet được sử dụng thường xuyên, rộng rãi và hết sức cần
thiết trong việc cung cấp các thông tin cập nhật cho giáo viên và học sinh.
Tư liệu dạy học từ mạng Internet là các tài liệu, thông tin dưới dạng dữ liệu số
được chọn lọc, xử lí, sắp xếp theo một hệ thống phù hợp với mục tiêu, nội dung,
phương pháp dạy học nhằm chuyển tải những tri thức khoa học cho học sinh từ đó
nâng cao hiệu quả của việc dạy và học.
Tư liệu dạy học từ mạng Internet cũng bao gồm các tài liệu ở hai dạng: kênh hình
và kênh chữ. Các tài liệu này hết sức phong phú và đa dạng. Các tài liệu ở dạng kênh
chữ phong phú và được cập nhật liên tục đảm bảo cung cấp những thông tin mang tính
thời sự. Các tư liệu ở dạng kênh hình đa dạng (hình ảnh, mô hình, video clip…) với
màu sắc, âm thanh sống động có giá trị minh họa cho nội dung và chứa đựng nhiều giá
trị nội dung ngoài phạm vi bài học.
1.1.1.2.Đặc điểm của tư liệu dạy học từ mạng
Tư liệu dạy học từ mạng Internet chứa đựng khối lượng tri thức khổng lồ, phong
phú, đa dạng. Tư liệu mạng được tổ chức thành một hệ thống được gọi là tài nguyên,
chúng được lưu ở các máy chủ, được kết nối và chia sẻ trên phạm vi toàn cầu. Với
khối lượng lớn người sử dụng, nhiều thành phần khác nhau, việc cung cấp và chia sẻ
tài liệu được diễn ra hằng ngày, trong đó nhiều công trình khoa học được công bố,
5

nhiều tài liệu quý, nhiều thông tin mới nhất được chia sẻ…thông qua các webside.
Việc tiếp cận các thông tin cũng trở nên dễ dàng hơn với việc cùng một thông tin được
đăng tải trên nhiều trang web khác nhau, dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau, do đó
người sử dụng có thể tiếp cận thông tin ở nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau, đa
dạng và đa chiều.
Từ đặc điểm trên làm cho việc lựa chọn các nguồn tài liệu chính thống, đảm bảo
tính khoa học lại là một khó khăn lớn cho người sử dụng, đặc biệt trong dạy học khi
các tài liệu này được sử dụng cho việc truyền thụ tri thức cho cả thế hệ học sinh.
Các tư liệu được tổ chức dưới dạng dữ liệu số, tức là các thông tin khi đưa vào
máy tính đã được mã hóa. Mọi thông tin khi đưa vào máy tính đều được biểu diễn
dưới dạng hệ nhị phân (là hệ đếm chỉ dùng 2 kí hiệu 0 hoặc 1 để biểu diễn). Khi một
thông tin đươc đưa vào máy tính qua quá trình xử lí và được lưu trữ và sau đó thông
tin được đưa ra khi người sử dụng truy cập. Do quá trình này thống nhất nên các thông
tin đưa ra la thống nhất trên toàn cầu.
Các tư liệu dạy học từ mạng có hình thức chuyển tải hết sức đa dạng với hình ảnh,
âm thanh sống động, màu sắc phong phú, các hiệu ứng mang tính trực quan sinh động
kích thích được hứng thú học tập cho học sinh.
1.1.1.3. Vai trò của tư liệu mạng trong dạy học Địa lí
Theo báo cáo của Trung tâm nghiên cứu kỹ thuật máy tính của Mỹ vào năm 1993,
(tạm dịch) “Con người lưu lại trong bộ nhớ được 20% những gì họ thấy và 30% những
gì họ nghe. Nhưng họ nhớ 50% những gì họ thấy và nghe; và con số này lên đến 80%
nếu họ thấy và nghe sự vật, hiện tượng một cách đồng thời.”. Trên cơ sở của những số
liệu này và quá trình giảng dạy thực tế ở trường phổ thông chúng ta có thể thấy việc
dạy học Địa lý chỉ với những phương tiện truyền thống như bảng đen, lời nói của thầy
giáo và một ít phương tiện dạy học mang tính tĩnh (bản đồ, tranh ảnh, sơ đồ) chắc chắn
hiệu quả sẽ không cao, mức độ ghi nhớ của học sinh sẽ thấp và chóng quên. Trong khi
đó nếu học sinh được xem phim tư liệu, bản đồ, sơ đồ động (được thiết kế theo logic
sự kiện), tranh ảnh với màu sắc sinh động kết hợp với lời nói của giáo viên thì khả
năng ghi nhớ của các em sẽ tăng lên. Không những thế, nếu làm được điều này chúng
ta sẽ tạo ra được một bầu không khí học tập sinh động, khơi gợi hứng thú học tập cho

6
các em đồng thời khắc sâu những kiến thức mà các em tiếp thu được. Rõ ràng, việc kết
hợp cùng một lúc hai hay nhiều phương tiện truyền thông sẽ giúp cho người học tiếp
thu thông tin nhanh, chính xác và nhớ lâu hơn.
Các tư liệu dạy học từ mạng Internet giúp sinh động hóa, linh hoạt hóa bài dạy địa
lí. Các hình ảnh, âm thanh sống động, màu sắc phong phú, có khả năng tăng sự thu hút
đối với học sinh do có tác động đến nhiều giác quan cùng một lúc, thúc đẩy học sinh
tư duy để phán đoán, phân tích, tổng hợp.
Góp phần phát triển động cơ, hứng thú học tập cho học sinh: việc sử dụng các tư
liệu từ mạng Internet đặc biệt là các đoạn phim video, các mô hình động, các hình ảnh
là phương tiện dạy học hiện đại, được sử dụng trong các phương pháp dạy học mới
khác hẳn với các phương pháp, phương tiện truyền thống mà các em thường được tiếp
xúc do đó luôn tạo cho các em một không khí mới trong quá trình học tập.
Các tư liệu từ mạng có khả năng minh họa cho nội dung bài dạy địa lí và chứa
đựng các giá trị nội dung hiện đại, khoa học. Sử dụng các tư liệu mạng giúp giáo viên
và học sinh tiếp cận, khai thác nguồn tri thức rộng lớn, hiện đại của nhân loại tránh
tình trạng tụt hậu trong quá trình hội nhập vào nền giáo dục khu vực và thế giới.
Các tư liệu dạy học từ mạng góp phần hình thành, rèn luyện kĩ năng địa lí cho học
sinh. Do tính chính xác, đầy đủ, chi tiết, sống động của các tư liệu có thể giúp rèn
luyện cho học sinh nhiều kĩ năng như nhận biết, phân tích, tổng hợp, so sánh các đối
tượng địa lí.
Các tư liệu dạy học từ mạng có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp
dạy học địa lí, chúng hỗ trợ giáo viên, học sinh sử dụng có hiệu quả thời gian của tiết
học. Do các tiện ích kể trên mà nếu được khai thác tốt, các tư liệu dạy học sẽ giúp giáo
viên điều khiển hướng dẫn học sinh nhận thức nhiều đơn vị kiến thức, giúp học sinh
tiếp thu một cách chủ động, sâu sắc và hứng thú với nội dung bài học.
Ví dụ: đối với các kiến thức địa lí đòi hỏi phải tư duy trừu tượng, giáo viên
thường phải mất nhiều thời gian để giải thích như các hiện tượng sóng, thủy triều, sự
chuyển động biểu kiến của mặt trời…nay với tư liệu dạy học từ mạng mà cụ thể là các
mô hình, các đoạn phim video trực quan giúp phân tích ngắn gọn, dễ hiểu cơ chế của

7
đối tượng trong một thời gian ngắn hơn, đảm bảo sự cân đối giữa các nội dung cần
trình bày của tiết dạy.
Về phía học sinh, các hình ảnh trực quan này sẽ giúp các em dễ dàng hình thành
tư duy địa lí, từ đó tự tin hơn để tiếp tục lĩnh hội tri thức.
1.1.2. Đặc điểm chương trình Địa lí 10.
1.1.2.1. Về cấu trúc
Chương trình địa lí 10 gồm hai phần địa lí đại cương:
Phần I: Địa lí tự nhiên gồm 4 chương
Chương I: Bản đồ
Chương II: Vũ trụ. Hệ quả các chuyển động của Trái Đất
Chương III: Cấu trúc của Trái Đất. Các quyển của Lớp vỏ địa lí.
Chương IV: Một số quy luật của Lớp vỏ địa lí
1.1.2.2 Về thời lượng
Chương trình được phân bố 1,5 tiết/tuần trong 35 tuần của năm. Trong đó học kì 1
là 2 tiết/tuần, học kì 2 là 1 tiết/tuần.
1.1.2.3 Nội dung chương trình
Chương trình gồm 2 phần: Địa lí tự nhiên đại cương và Địa lí kinh tế-xã hội đại
cương.
* Phần Địa lí tự nhiên đại cương:
- Về mặt lí thuyết, phần này tập trung vào 4 nội dung:
+ Bản đồ
Để giúp cho học sinh học tập tốt môn Địa lí, các kiến thức tối thiểu về bản đồ có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Các kiến thức này được sử dụng không chỉ đối với lớp 10,
mà còn cho cả lớp 11, 12. Kế thừa những kiến thức đã có về bản đồ học ở THCS,
chương trình này làm nổi bật các phép chiều hình bản đồ cơ bản cũng như một số
phương pháp biểu hiện các đối tượng Điạ lí trên bản đồ, sử dụng bản đồ trong học tập
và đời sống.
8
+ Vũ trụ

Các nội dung chính được đưa vào là Vũ Trụ, hệ Mặt Trời, Trái Đất và hệ quả của
vận động tự quay cũng như hệ quả của sự chuyển động quay quanh Mặt Trời của Trái
Đất.
+ Cấu trúc của Trái Đất và các quyển của lớp vỏ địa lí
• Cấu trúc của Trái Đất
• Thạch quyển, tác động của nội lực, ngoại lực đến địa hình bề mặt Trái Đất
• Khí quyển
Các nội dung chính bao gồm có khí quyển, sự phân bố nhiệt độ không khí trên trái
đất, sự phân bố khí áp và một số loại gió chính, ngưng đọng hơi nước và mưa.
• Thủy quyển
Các nội dung chủ yếu về thủy quyển là tuần hoàn của nước; một số nhân tố ảnh
hưởng đến chế độ nước của sông; một số sông lớn trên thế giới; sóng, thủy triều, dòng
biển.
• Thổ nhưỡng và sinh quyển
Về thổ nhưỡng và sinh quyển chỉ tập trung vào 2 nội dung là khái niệm và các
nhân tố hình thành thổ nhưỡng; các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển và phân bố của
sinh vật, sự phân bố sinh vật và đất trên Trái Đất
• Một số quy luật chủ yếu của lớp vỏ địa lí
Sau khi giới thiệu khái quát về lớp vỏ địa lí, 3 quy luật chính được đưa vào
chương trình là quy luật thống nhất và hoàn chỉnh của lớp vỏ địa lí, quy luật địa đới và
quy luật phi địa đới.
- Về mặt thực hành, các nội dung đều tập trung vào việc làm rõ hơn lí thuyết và
rèn luyện kĩ năng đọc, phân tích bản đồ các thành phần tự nhiên cũng như vẽ và phân
tích các biểu đồ liên quan đến các hiện tượng tự nhiên.
1.1.3. Đặc điểm sách giáo khoa địa lí 10
1.1.3.1. Về cấu trúc
9
Sách giáo khoa (SGK) Địa lí 10 ban cơ bản gồm 2 phần, 10 chương và 42 bài
trong đó có 7 bài thực hành và 35 bài lí thuyết. Trong đó:
- Phần Địa lí tự nhiên gồm 4 chương, 21 bài (trong đó riêng bài 9 là 2 tiết, còn lại

các bài đều 1 tiết), bao gồm 18 bài lí thuyết và 3 bài thực hành.
Bảng:
Chương Số tiết
Trong đó
Lí thuyết Thực hành
1. Bản đồ 4 3 1
2. Vũ trụ. Hệ quả các vận động của trái đất 2 2 0
3.Cấu trúc của trái đất. các quyển của lớp vỏ
địa lí.
14 12 2
4. Một số quy luật của lớp vỏ địa lí 2 2 0
Tổng số 22 19 3
1.1.3.2. Về nội dung
Đảm bảo tính kế thừa và phát triển, tính phổ thông, cơ bản, hiện đại và cập nhật
nhằm đáp ứng mục tiêu bộ môn đối với sách cơ bản.
Nội dung SGK địa lí 10 gồm 2 mảng kiến thức về Địa lí tự nhiên đại cương và
Địa lí kinh tế - xã hội đại cương. Tuy nhiên ở mảng kiến thức nào nó cũng thể hiện
qua kênh chữ và kênh hình.
* Kênh chữ
Kênh chữ trình bày tiêu đề của bài; trình bày các thông tin của bài trong từng
đoạn kiến thức ngắn; trình bày các câu hỏi giữa bài, câu hỏi kèm theo hình ảnh; câu
hỏi và bài tập cuối bài; trình bày tóm tắt của bài; trình bày bài đọc thêm.
Kênh chữ là phần quan trọng hàng đầu của SGK địa lí 10. Thông qua kênh
này các khái niệm cơ bản, định nghĩa, quy luật…được trình bày rõ ràng giúp cho
học sinh nhận thức được nội dung chính của bài học. Đây có thể coi là kiến thức
rất cơ bản, được chọn lọc kĩ lưỡng sao cho vừa cô đọng, khúc triết vừa phù hợp
với trình độ của học sinh.
10
* Kênh hình
Kênh hình trong SGK địa lí 10 rất phong phú, đa dạng với các 49 sơ đồ, 34 bản đồ

và lược đồ, 32 tranh ảnh ,11 biểu đồ, 6 bảng kiến thức, 23 bảng số liệu.
Hệ thống kênh hình trong SGK có ý nghĩa hết sức to lớn, trước hết nó bổ sung,
minh hoạ cho kênh chữ, là kiến thức thực tiễn chứng minh cho kênh chữ. bên cạnh đó
hệ thống kênh hình còn bổ sung cho những kiến thức còn thiếu, kênh hình trong SGK
như nguồn tri thức thứ hai, khi khai thác kênh hình sẽ giúp học sinh tìm ra được những
kiến thức mới mẻ, bổ ích, mặt khác có thể rèn luyện khả năng tư duy và kĩ năng địa lí
cho học sinh.
Hai hệ thống kênh hình và kênh chữ không tồn tại biệt lập mà chúng có mối quan
hệ mật thiết, đan xen, hoà quyện vào nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất, là công
cụ hữu ích cho học sinh tìm kiếm tri thức và rèn luyện kĩ năng địa lí.
* Các câu hỏi và bài tập
Các câu hỏi và bài tập là một bộ phận hữu cơ trong SGK địa lí 10. Các câu hỏi
thường dưới 2 dạng: Dạng câu hỏi xen kẽ trong bài và dạng câu hỏi, bài tập ở cuối bài.
Tuy mức độ có khác nhau nhưng dạng câu hỏi, bài tập cuối bài có tác dụng giúp cho
học sinh hệ thống hóa kiến thức và trong chừng mực nhất định góp phần tăng cường
rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo địa lí.
Sách có hệ thống câu hoỉ và bài tập hết sức phong phú và đa dạng với gần 200 câu
hỏi và bài tập. có các câu hỏi vận dụng trí nhớ để kiểm tra mức độ hiểu biết bài học,
tập trung vào các vấn đề trọng tâm của chương trình; có các câu hỏi phát triển tư duy
cho học sinh, yêu cầu học sinh suy luận, giải thích các vấn đề nêu ra trong bài; có các
câu hỏi và bài tập rèn luyện kĩ năng và củng cố kĩ năng đọc bản đồ, vẽ biểu đồ…
* Bài thực hành
Sách giáo khoa địa lí lớp 10 THPT có 7 bài thực hành, chiếm tỉ lệ 16,6%.
Nội dung các bài thực hành rất đa dạng, rèn luyện cho học sinh nhiều kĩ năng
khác nhau như : kĩ năng bản đồ; kĩ năng xử lí, phân tích bảng số liệu, kĩ năng vẽ, nhận
xét, giải thích biểu đồ; kĩ năng phân tích, tổng hợp, so sánh và viết báo cáo…
11
Với những đặc điểm trên, chương trình và SGK địa lí 10 đối với đề tài này có
những thuận lợi và khó khăn nhất định:
Thuận lợi: SGK địa lí 10 được trình bày logic đảm bảo tính mỹ thuật, khoa học

và tính sư phạm. Kênh hình, kênh chữ đan xen, bổ sung cho nhau để tạo nên một thể
thống nhất về kiến thức và kĩ năng. Đây là cơ sở để những người thực hiện đề tài tìm
kiếm những tư liệu hình ảnh, video bám sát nội dung chương trình, SGK địa lí 10.
Khó khăn: Hệ thống kiến thức và kĩ năng thông qua SGK địa lí 10 là không nhỏ
đặc biệt các nội dung thuộc hai phần địa lí đại cương ( ĐLTN đại cương) mang tính
khái quát, trừu tượng cao. Nên việc tìm kiếm các tư liệu từ mạng để vừa minh họa cho
các nội dung này, vừa phát triển được tư duy địa lí cho học sinh không phải la công
việc dễ dàng. Đặc biệt trong phần địa lí tự nhiên nhiều kiến thức địa lí được đánh giá
là khó, đòi hỏi các em phải phát huy tối đa trí tưởng tượng của mình khi xem các tư
liệu thì mới đạt được hiệu quả dạy học cao.
1.1.4. Đặc điểm tâm lí học sinh lớp 10
Mỗi một con người đều trưởng thành từ ghế nhà trường, đều được tiếp nhận
những nội dung kiến thức phong phú. Càng lên cao sự phong phú về kiến thức càng
tăng, mức độ khó cao hơn.
Đối với học sinh lớp 10 không còn là thiếu niên hầu hết các em đã là đoàn viên,
thanh niên. Các em đã trưởng thành nên có kinh nghiệm hơn trong cuộc sống thực
tiễn. Rèn luyện cho chính mình những kĩ năng, kĩ xảo nhất định và cả lòng nhiệt huyết.
Một số em được sự hướng dẫn của giáo viên đã bắt đầu hình thành những tư tưởng
hướng nghiệp nhất định, ý thức bản ngã cao.
Ở lứa tuổi 14-15 tồn tại trong các em các tư tưởng trẻ con lẫn người lớn cho nên
tâm sinh lí cực kì phức tạp. Các em sẽ tiếp xúc nhiều môn đặc biệt ở lớp 10 các em
được làm quen với môi trường mới, được học những môn học có tính chất đại cương
với nhiều khái niệm trừu tượng, khái quát và sâu sắc hơn. Mặc dù vậy ở lứa tuổi này
các em rất nhạy cảm và có sự phối hợp nhịp nhàng của các cơ quan vận động. Các em
bắt đầu biết tư duy một cách độc lập, sáng tạo và có cả tính phê bình và tự phê bình.
Chính những đặc điểm đó đã giúp học sinh thực hiện các thao tác tư duy phức tạp, đó
12
là cơ sở để hình thành thế giới quan.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Xu hướng thay đổi phương pháp dạy học hiện nay

Nghị quyết Trung Ương 4 khoá VII đã xác định “Khuyến khích tự học” phải “Áp
dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy
sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”.
Nghị quyết Trung Ương 2 khoá VIII tiếp tục khẳng định: “Đổi mới mạnh mẽ
phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư
duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp dạy học tiên tiến và
phương tiện hiện đại vào trong quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự
học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học.
Điều 24.2, Luật giáo dục quy định: “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh”.
Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 (Ban hành kèm theo Quyết định số
201/2001/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ Tướng Chính Phủ), ở mục 5.2
ghi rõ: “ Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri
thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong
quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông
tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp; phát triển năng của mỗi cá
nhân, tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên trong quá trình học
tập,…”
Với những định hướng chung nêu trên dạy học nói chung và dạy học Địa lí nói
riêng đang có những thay đổi mạnh mẽ, cơ bản trên nhiều phương diện mà trước hết là
trong phương pháp dạy học. Từ lối dạy học thầy đọc-trò chép sang thầy tổ chức, chỉ
đạo, hướng dẫn và học sinh chủ động, tích cực làm việc với nguồn tri thức mới dưới sự
chỉ đạo của giáo viên.
13
Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng dạy học hiện đại với sự kết hợp những thành
tựu công nghệ thông tin đã và đang diễn ra một cách khá phổ biến ở các ngành học,
cấp học. Công nghệ thông tin với tư cách là một phương tiện hỗ trợ cho việc dạy học

đang chứng tỏ những ưu thế và hiệu quả trong quá trình dạy học nói chung và đối với
bộ môn Địa Lý nói riêng.
Ngày nay, sự bùng nổ thông tin khoa học kỹ thuật trên toàn thế giới, kiến thức
hình thành rất nhanh, do đó nhu cầu tiếp nhận thông tin tăng nhanh cả về chất lượng và
số lượng, để đáp ứng nhu cầu trên cần phải có đổi mới về mục tiêu và phượng pháp
đào tạo, những cải cách cả về nội dung, phượng pháp và hình thức đào tạo theo hướng
tích cực hoá quá trình đào tạo.
Nhằm đáp ứng yêu cầu, phát triển của khoa học kỹ thuật và đời sống xã hội, công
nghệ giáo dục đã xuất hiện và có vị trí nhất định trong lý luận dạy học hiện đại trong
đó việc sử dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật vào quá trình dạy học nhằm thực
hiện mục đích dạy học với hiệu quả cao. Trong những năm gần đây, Tin học đã phát
triển rất mạnh đã tạo nên cuộc cách mạng trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, chính
trị, xã hội Xác định tầm quan trọng của Tin học, ngày 17-10-2000, Bộ chính trị đã ra
chỉ thị 58-CT/TW về đẩy mạnh và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thực hiện việc nghiên cứu đổi mới phượng
pháp dạy học nhằm bồi dưỡng cho học sinh các phương pháp nhận thức khoa học, phát
triển năng lực tự giải quyết vấn đề, thông qua hoạt động tự giác, tích cực, tự lực của
bản thân học sinh để chiếm lĩnh kiến thức, hình thành năng lực của học sinh trong quá
trình dạy và học đã thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà lý luận dạy học, các
giáo viên phổ thông
Bởi vậy, việc đưa vào bài dạy địa lí các hình ảnh, mô hình động, các đoạn video
clip…từ mạng Internet có vai trò quan trọng trong việc giúp giáo viên đổi mới phương
pháp dạy học sang hướng tích cực. Bởi lẽ, học sinh phải tăng cường hoạt động, sử
dụng phối hợp nhiều giác quan vào việc lĩnh hội tri thức như vừa nghe, nhìn và phải tư
duy phân tích, so sánh…Đồng thời giáo viên hạn chế lối dạy đọc-chép nhưng phải
chuẩn bị bài dạy học một cách kĩ lưỡng hơn, đa dạng hơn về phương pháp dạy học,
hình thức tổ chức dạy học, phương tiện dạy học…
14
1.2.2. Hiện đại hóa phương tiện dạy học
Phương tiện dạy học (PTDH) không chỉ đơn giản là những hình ảnh bên ngoài

của sự vật, hiện tượng mà là sự “ vật chất hóa” các tri thức địa lí. PTDH còn là “hình
ảnh kép” của phương pháp dạy học. Mối phương pháp dạy học với đặc trưng là một hệ
thống các hoạt động của giáo viên và học sinh nhằm đạt mục đích nhất định, đòi hỏi
phải có phương tiện và thiết bị dạy học phù hợp. Có nghĩa là nói đến phương pháp dạy
học là nói đến phương tiện, thiết bị dạy học và ngược lại. Chúng có sự thống nhất hữu
cơ với nhau, hòa vào trong nhau, ở một khía cạnh nào đó phương tiện dạy học cũng là
một yếu tố quan trọng để đạt đến mục tiêu dạy học. Nó vừa là công cụ dạy học vừa là
nguồn tri thức cần tìm tòi, khám phá để rút ra những nội dung cần thiết cho nhân thức
của mình.
Thông qua việc sử dụng các phương tiện dạy học, giáo viên có điều kiện thuận lợi
để trình bày bài giảng một cách tinh giản, đầy đủ, sâu sắc…giúp học sinh đào sâu
những tri thức đã lĩnh hội, kích thích hứng thú nhận thức, năng lực quan sát, phân tích,
tổng hợp để rút ra được những kết luận cần thiết có độ tin cậy. Đặc biệt trong xu thế
đổi mới phương pháp dạy học như hiện nay thì các phương tiện, thiết bị dạy học lại
cáng đóng vai trò quan trọng trong việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
Nếu không có các phương tiện dạy học thì đồng nghĩa với việc “dạy chay” và lối dạy
học “ thầy đọc-trò chép”.
Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và kĩ thuật vi tính, càng
ngày các phương tiện, thiết bị kĩ thuật dạy học hiện đại càng được sử dụng thường
xuyên và phổ biến, do đó càng có điều kiện cho việc các giáo viên tăng cường sử dụng
các tài liệu từ mạng Internet trong bài dạy địa lí, và nhiều khi có thể nói việc tìm kiếm,
sử dụng tư liệu mạng Internet trở thành một nhu cầu tất yếu trong quá trình dạy học.
Trong dạy học hiện nay có rất nhiều loại PTDH truyền thống lẫn hiện đại được
đưa vào sử dụng khá phổ biến:
Bảng 1.1: So sánh giữa PTDH truyền thống và PTDH hiện đại
Các PTDH truyền thống Các PTDH hiện đại
- Bản đồ, biểu đồ, lược đồ, sơ đồ… - Phim video giáo khoa
15
- Các tài liệu tham khảo, SGK, tranh
ảnh, hình vẽ…

- Hình vẽ của giáo viên trên bảng
- Số liệu thống kê, bảng kiến thức,
phiếu học tập…
- Máy chiếu overhead
- Máy vi tính
1.2.3. Sự phát triển của mạng Internet
Internet là một hệ thống thông tin máy tính toàn cầu có thể được truy nhập công
cộng gồm các máy tính được liên kết với nhau trên phạm vi toàn thế giới. hệ thống này
truyền thông tin theo kiểu nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên một giao
thức liên mạng đã được chuẩn hoá (giao thức IP).
Về danh nghĩa, Internet là một mạng phi thương mại, không có trạm điều hành
trung tâm và không thuộc về một cá nhân, tổ chức hay chính phủ nào. Internet có xuất
xứ từ mạng ARAPnet vào năm 1969 ( một mạng nội bộ thô sơ giữa Bộ quốc phòng
Hoa kì và một số trường đại học và phòng thí nghiệm của chính phủ). Mạng Internet
mang lại rất nhiều tiện ích hữu dụng như hệ thống thư điện tử (email), trò chuyện trực
tuyến (chat), truy tìm dữ liệu (search), các dịch vụ thương mại và chuyển ngân, các
dịch vụ về y tế giáo dục như chữa bệnh hoặc tổ chức các lớp học từ xa…
Từ những năm giữa thập kỉ 90, Internet đã phát triển cực kì mạnh mẽ và được ứng
dụng rất rộng rãi trong nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hoá và giáo dục. ở nhiều nước trên
thế giới, đặc biệt là ở các nước phát triển, Internet đã trở thành một công cụ rất hữu
hiệu đối với dạy học địa lí hiện đại không chỉ trong các trường đại học mà còn cả trong
các trường phổ thông. Với sự hỗ trợ của mạng Internet dạy học địa lí đã có những biến
đổi to lớn không chỉ về nội dung dạy học mà cả phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học.
Hiện nay ở nước ta, hầu hết các trường từ trung học cơ sở (THCS) cho đến trung
học phổ thông (THPT) ở các địa phương đều đã được trang bị phòng máy tính phục vụ
16
cho môn tin học. Tuy nhiên, tùy mức độ phát triển kinh tế ở khu vực nơi trường “đóng
đô” mà mức đầu tư có khác nhau.
Năm 2006, Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức đưa môn tin học vào chương trình

đào tạo ở 2 cấp THCS và THPT. Ngoài ra, một số trường có điều kiện đưa thêm môn
tin học vào chương trình “hướng nghiệp dạy nghề” cho học sinh tự chọn. chương trình
tin học ở phần “hướng nghiệp dạy nghề” dạy tương tự hoặc một phần của chương trình
đào tạo chứng chỉ tin học. Việc đưa tin học trở thành một nhiệm vụ đào tạo đã buộc
các trường đầu tư máy tính và các thiết bị.
Hiện nay, nhiều trường ở các cấp học phổ thông đã trang bị được máy chiếu
(projector) để giáo viên dùng vào tiết bài giảng điện tử. Tuy nhiên, phần lớn những
trường này thường mới chỉ có một máy chiếu và một máy tính xách tay (laptop) phục
vụ cho bài giảng điện tử. Có trường để máy chiếu cố định trong phòng học đa chức
năng, giáo viên đăng ký lịch sử dụng phòng này, đến giờ học bài giảng điện tử, toàn bộ
học sinh tập trung tại đây. Tùy vào điều kiện nhà trường, số bài giảng điện tử trong
một học kỳ của một giáo viên có khác nhau, nhưng ít nhất phải có một bài giảng trong
học kỳ. Do không thành thạo trong việc sử dụng máy tính và khai thác nguồn thông
tin, tư liệu phục vụ cho bài giảng điện tử có sẵn trên mạng Internet nên việc soạn bài
giảng điện tử đối phần lớn giáo viên là cả một vấn đề, tốn nhiều thời gian và công sức.
Đối với công tác quản lý, các trường đã bắt đầu sử dụng các phần mềm phục vụ cho
các công việc hàng ngày.
Trong báo cáo về tình hình công tác khoa học công nghệ năm học 2004-2005, Bộ
GD-ĐT luôn khẳng định sau 30 tháng thực hiện bản thoả thuận, đã có 98% các trường
THPT kết nối Internet và tính đến tháng 6/2005, cả nước có 33% trường THCS được
kết nối.
CHƯƠNG II: PHƯƠNG PHÁP TÌM KIẾM TƯ LIỆU DẠY HỌC TỪ
MẠNG INTERNET
2.1. Tổng quan về các công cụ hỗ trợ tìm kiếm tư liệu mạng.
2.1.1. Phần mềm tin học
17
Phần mềm (tiếng Việt còn được gọi là nhu liệu; tiếng Anh: software) là một tập
hợp những câu lệnh được viết bằng một hoặc nhiều ngôn ngữ lập trình theo một trật tự
xác định nhằm tự động thực hiện một số chức năng hoặc giải quyết một bài toán nào
đó. (Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

Sản phẩm phần mềm được phân loại như sau :
* Theo phương thức hoạt động :
- Phần mềm hệ thống dùng để vận hành máy tính và các phần cứng máy tính, ví
dụ như các hệ điều hành máy tính Windows XP, Linux, Unix, các thư viện động (còn
gọi là thư viện liên kết động; tiếng Anh: dynamic linked library - DLL) của hệ điều
hành, các trình điều khiển (driver), phần sụn(firmware) và BIOS. Đây là các loại phần
mềm mà hệ điều hành liên lạc với chúng để điều khiển và quản lý các thiết bị phần
cứng.
- Phần mềm ứng dụng để người sử dụng có thể hoàn thành một hay nhiều công
việc nào đó, ví dụ như các phần mềm văn phòng (Microsoft Offices, Lotus 1-2-3,
FoxPro), phần mềm doanh nghiệp, phần mềm giáo dục, cơ sở dữ liệu, phần mềm trò
chơi, chương trình tiện ích, hay các loại phần mềm ác tính.
- Các phần mềm chuyển dịch mã bao gồm trình biên dịch và trình thông dịch: các
loại chương trình này sẽ đọc các câu lệnh từ các mã nguồn được viết bởi các lập trình
viên bằng một ngôn ngữ lập trình và dịch nó sang dạng ngôn ngữ máy mà máy tính có
thể hiểu đưọc, hay dịch nó sang một dạng khác như là tập tin đối tượng (object file) và
các tập tin thư viện (library file) mà các phần mềm khác có thể hiểu để vận hành máy
tính thực thi các lệnh .
* Theo khả năng ứng dụng :
- Những phần mềm không phụ thuộc, nó có thể được bán cho bất kỳ khách hàng
nào trên thị trường tự do. Ví dụ: phần mềm về cơ sở dữ liệu như Oracle, đồ họa như
Photoshop, Corel Draw, soạn thảo và xử lý văn bản, bảng tính Ưu điểm: Thông
thường đây là những phần mềm có khả năng ứng dụng rộng rãi cho nhiều nhóm người
sử dụng. Khuyết điểm: Thiếu tính uyển chuyển, tùy biến.
18
- Những phần mềm được viết theo đơn đặt hàng hay hợp đồng của một khách
hàng cụ thể nào đó (một công ty, bệnh viện, trường học ). Ví dụ: phần mềm điều
khiển, phần mềm hỗ trợ bán hàng
Ưu điểm: Có tính uyển chuyển, tùy biến cao để đáp ứng được nhu cầu của một
nhóm người sử dụng nào đó.

Khuyết điểm: Thông thường đây là những phần mềm ứng dụng chuyên ngành
hẹp.
2.1.2. Các phần mềm được sử dụng trong đề tài
Đa số các phần mềm được sử dụng trong đề tài đều là các phần mềm ứng dụng.
Cụ thể:
2.1.2.1. Phần mềm hỗ trợ download Internet Download Manager (IDM)
IDM là phần mềm hỗ trợ download đứng đầu thế giới hiện nay, nó giúp người sử
dụng tải các tài nguyên từ Internet về máy với tốc độ nhanh gấp 400-500%, có thể đặt
lịch và khôi phục các file bị gián đoạn do mất kết nối, lỗi mạng, tắt máy, hoặc mất điện
đột ngột.
Giao diện đồ họa đơn giản tạo cho người dùng cảm giác thân thiện và dễ dàng khi
sử dụng. Internet Download Manager có nguyên lý tăng tốc download thông minh với
công nghệ phân đoạn dữ liệu linh hoạt và tải nhiều phần an toàn để tăng tốc độ
download của bạn. Không giống như các chương trình quản lý và tăng tốc khác,
Internet Download Manager tự động phân đoạn trong suốt quá trình tải, xử lý và tái sử
19
Hình 2.1 : Cửa sổ giao diện của phần mềm Internet Download
Manager 5.19
dụng các kết nối sẵn có mà không cần thêm giai đoạn kết nối và đăng nhập để đạt
được hiệu suất tăng tốc tốt nhất. Các tính năng khác bao gồm hỗ trợ đa ngôn ngữ, xem
trước file nén, tải về theo chuyên mục, đặt lịch chuyên nghiệp, âm báo hiệu cho các
thao tác, hỗ trợ HTTPS, xử lý các file chờ, giúp đỡ và hướng dẫn bằng HTML, tăng
cường bảo vệ máy khỏi virus khi tải dữ liệu hoàn thành, cải tiến quá trình với file có
dung lượng lớn (hữu ích cho các kết nối sử dụng chính sách cân bằng truy cập hoặc
FAP như Direcway, Direct PC, Hughes, vv), và nhiều chức năng khác.
Không những thế, IDM còn có thể giúp người dùng download dễ dàng các clip,
các bài nhạc ở tất cả các trang, kể cả những trang dấu link download : YouTube,
Google Video, MySpaceTV, . . . chỉ với 1 click chuột.
Tầm quan trọng của phần mềm này đối với đề tài là rất lớn. Vì ngoài những dạng
tài liệu dưới dạng văn bản hoặc hình ảnh có thể sao chép trực tiếp, thì dạng tài liệu

video clip và phim giáo khoa thì phải tải (download) về máy từ các đướng dẫn file.
Tuy vậy nếu tải về bằng ứng dụng có sẵn của Windows thì tốc độ tải rất chậm, thêm
vào đó dung lượng một video thường rất lớn (10-80Mb) và cần một thời gian khá dài,
điều đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ của đề tài và tiền bạc. Nhờ có phần mềm này,
tốc độ tải video tăng lên rất nhanh, tải được nhiều dạng video và ở nhiều trình duyệt
khác nhau của bất kì ở trang Web nào. Đa phần các video tải về thuộc dạng video FLV
(Flash Video). Một điểm nữa là phần mềm này có thể tải cùng một lúc từ 10-20 video
tùy theo cài đặt, nhờ vậy dạng tài liệu video khá phong phú và đa dạng.
2.1.2.2. Pazera Free FLV to AVI Converter
Pazera Free FLV to AVI Converter là công cụ chuyển đổi video miễn phí giúp
chuyển đổi các tập tin Flash Video (FLV, SWF) sang AVI hoặc MPEG. Đó là các tập
tin có thể chơi với bất kỳ máy nghe nhạc video. các tập tin FLV thường được sử dụng
trong Internet bởi các dịch vụ như YouTube hoặc Google Video.
20
Các tập tin FLV thường được sử dụng trong Internet của YouTube, Google Video
và các dịch vụ video khác. Đó là các tập tin không được hỗ trợ bởi Windows Media
Player và các phương tiện truyền thông phổ biến khác chơi. Để hiển thị FLV video bạn
cần phải chuyển đổi tập tin sang định dạng đáng tin cậy hơn, chẳng hạn như AVI hay
MPG.
The Pazera Free FLV to AVI Converter giao diện là một rất đơn giản và thân
thiện. Để chuyển đổi các tập tin flash video, chỉ cần kéo và thả chúng vào cửa sổ chính
và bấm nút CONVERT.
Đối với đề tài thì phần mềm này có tác dụng chuyển đổi định dạng đuôi video .flv
sang đuôi .avi hoặc .mpg. Đây là những đuôi video có thể sử dụng trong Powerpoint
để giảng dạy và Movie maker để chỉnh sửa, biên tập lại. Phần mềm này dễ dàng sử
dụng, không cần nhiều thời gian tìm hiểu. Phần mềm này cũng thực hiện chuyển đổi
nhiều file video cùng một lúc. Trong thời gian nó chuyển đổi chúng ta có thể làm được
nhiều việc khác. Đây cũng là một phần mềm khá quan trọng, bởi vì các video tải về đa
phần là đuôi flv, rất khó sử dụng trong các ứng dụng khác. Trong khi nhiều người
dùng cấp cao có thể tùy chỉnh các thông số video và âm thanh mã hóa được sử dụng

bởi bộ mã hóa: bitrate âm thanh và video codec, âm thanh và video, khung hình / giây,
lấy mẫu tần số, độ phân giải, khối lượng và khác thì dùng phần mềm này rất tiện lợi và
tiết kiệm được thời gian
2.1.2.3. Windows Live Movie Maker for Windows 7
21
Hình 2.3: Cửa sổ giao diện của phần mềm Windows Live Movie Maker
Hình 2.2: Cửa sổ giao diện của phần mềm Pazera Free FLV to AVI
Hãng Microsoft vừa tung ra trên mạng, phiên bản mới nhất Windows Live Movie
maker v14. Windows movie maker này là một công cụ hoàn toàn miễn phí từ
Microsoft giúp bạn có thể biến đổi từ các hình ảnh, đoạn video clip của bạn thành ra
các video, slideshow thật đáng nể.
Phiên bản Windows Live Movie Maker mới nhất này cho phép bạn tạo ra nhiều
video hay slideshow dạng HD`( nghĩa là 420p, 720p và cả 1080p) cũng như các độ
phân giải SD (bình thường) như trước đây Nó cũng có rất nhiều hiệu ứng chuyển tiếp
làm cho phim bạn thêm sinh động, thật bắt mắt
Điều đáng tiếc duy nhất là phiên bản .Windows Live Movie Maker mới này chỉ
chạy được trong Vista hay Windows 7, hoàn toàn không chạy trong Windows XP.
* Các tính năng mới nhất là:
Làm phim nhanh và thật dễ dàng: Tự động biến đổi các video clip của bạn cũng
như hình ảnh thành ra các phim cực kỳ hay . Automovie thêm vào tựa đề, các đoạn
chuyển tiếp và hiệu ứng và làm tương thích chúng lại tất cả cho bạn. Nếu bạn có
nhiều thì giờ, hãy chỉnh sửa lại các video clip thêm vào các hoạt hình, nhiều hiệu ứng
thị giác cho thật sinh động. Tất cả đều thực hiện sau không đầy 1 phút.
Cải thiện chỉnh sửa: bạn có thể thay đổi các phim video clip của bạn bằng các
công cụ chỉnh sửa của Movie maker Cắt tỉa lại video clip để còn lại những phần mà
bạn muốn trình diển, xem thôi. Thêm vào để tựa, chuyển tiếp nhạc nền và hiệu ứng
làm mờ đi hay phóng to ra đều được .
Trong đề tài này, việc biên tập lại các video là việc hết sức cần thiết. vì đa phần
các video này đều lấy từ các nguồn ở nước ngoài, không phải ngôn ngũ tiếng Việt. Để
22

hiểu và sử dụng được các video này ta phải biên tập lại, hay nói cách khác là đưa ngôn
ngữ tiếng việt (phụ đề) vào video để mọi người cùng hiểu. Phần mềm này còn có tác
dụng cắt video tùy ý, tạo hiệu ứng, việc trích xuất sản phẩm nhanh chóng và độ nét
cao, hình ảnh sắc nét…
2.1.2.4. MTD9 EVA (Phần mềm dịch thuật)
Với mtd9 EVA, bạn có thể:
* Tra cứu từ Anh sang Việt, từ Việt sang Anh, giải thích mục từ tiếng Việt, từ viết
tắt tiếng Anh, tham khảo các tiếp đầu ngữ và tiếp vĩ ngữ v.v Tự động tra từ trên
những phần mềm khác như các trang html của trình duyệt Web, Word, Excel,
PowerPoint, email…
* Có thể nghe phát âm của từ bằng cách nhắp vào hình loa trong cửa sổ AutoLook
này. Ta muốn tra từ tiếng Việt hay tiếng Anh đều được, mtdEVA2 tự động nhận biết
đó là từ Việt hay Anh và đưa nghĩa từ phù hợp và chính xác. Ngoài ra, không chỉ từ
đơn, mtdEVA2 còn tra từ ghép, cụm từ
* Dịch tự động một đoạn văn khi có kết nối internet vào máy chủ của Lạc Việt.
mtdEVA9 còn có khả năng dịch trực tiếp đoạn văn bản tiếng Anh (có thể trong file
Word, PDF hay trang web):
* Tra chéo từ Việt sang Anh và Anh sang Việt tức thời.
23
Hình 2.4 : Cửa sổ giao diện của phần mềm MTD9 EVA
* Cập nhật thông tin thường xuyên từ máy chủ của Lạc Việt. Kể từ nay, Lạc Việt
mtd sẽ có tính năng tự động cập nhật các bản update sửa lỗi và cập nhật mục từ mới
qua tính năng Update Online.Thêm bớt Từ điển .
Để tạo ra điểm mới trong đề tài này, việc mở rộng nguồn tìm kiếm ra các nguồn
tài liệu từ nước ngoài đòi hỏi chúng ta cần biết ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh. Với
vốn từ vựng ít ỏi, phần mềm này là một người phiên dịch hiệu quả khi chuyển các từ
khóa tìm kiếm sang tiếng anh để tìm kiếm tư liệu và dịch tài liệu sang tiếng việt để
tăng tính cập nhật về kiến thức mới. nó có thể dịch cả đoạn văn nếu kết nối với
Internet, hoặc dịch từng phần. Ngoài việc làm mới thêm tư liệu, người làm cũng tăng
thêm vốn từ vựng tiếng Anh.

2.1.3. Các thiết bị lưu trữ
2.1.3.1. Đĩa cứng DVD
DVD (còn được gọi là “Digital Versatile Disc” hoặc “Digital Video Disc”) là một
định dạng lưu trữ đĩa quang phổ biến. Công dụng chính của nó là lưu trữ video và lưu
trữ dữ liệu.
DVD có nhiều điểm giống CD: chúng đều có đường kính 12 cm cho loại tiêu
chuẩn, hay 8 cm cho loại nhỏ. Nhưng DVD có cách lưu dữ liệu khác, với cách nén dữ
liệu và các lớp quang học có khả năng chứa nhiều dữ liệu hơn CD gấp 7 lần hoặc hơn
thế nữa. Về cấu trúc phần mềm, DVD cũng khác CD ở chỗ chúng đều chứa hệ tập tin,
gọi là UDF, một phiên bản mở rộng của tiêu chuẩn ISO 9660 cho CD chứa dữ liệu.
Sự khác nhau về thuật ngữ DVD thường được mô tả phương pháp dữ liệu được
lưu trư trễn đĩa: DVD-ROM có dữ liệu chỉ có thể đọc mà không thể ghi, DVD-R và
DVD+R có thể ghi một lần và sau đó có chức năng như DVD-ROM, và DVD-RAM,
DVD-RW, or DVD+RW chứa dữ liệu có thể xóa và ghi lại nhiều lần.
DVD sử dụng ánh sáng laser diode có bước sóng 650nm, khác với bước sóng 780
nm đối với CD. Việc làm này cho phép tạo nên những điểm nhỏ hơn trên bề mặt đĩa
(1.32 micromet cho DVD còn 2.11 micromet đối với CD). Tốc độ ghi của DVD là 1X,
là 1350 kB/s (1318 KiB/s), trong ổ đĩa và những mẫu DVD đầu tiên. Các mẫu gần đây
hơn đã đạt tốc độ 18X hoặc 20X, nghĩa là 18 hoặc 20 lần nhanh hơn.
24
Đĩa DVD chính là thiết bị lưu trữ chủ yếu khi trích xuất ra sản phẩm, vì ngoài tài
liệu là hình ảnh và văn bản thì video chiếm một dung lượng khá lớn (khi chưa biên tập
lại video thì dung lượng mà nó chiếm tới là 10Gb). Dự kiến sau khi trích xuất sản
phẩm là từ 5-7Gb. Do đó, chỉ có đĩa DVD mới đủ điều kiện lưu trữ, hơn nữa đây là
thiết bị dễ sử dụng và tiện lợi.
2.1.3.2. Ổ cứng
Ổ đĩa cứng, hay còn gọi là ổ cứng (tiếng Anh: Hard Disk Drive, viết tắt: HDD) là
thiết bị dùng để lưu trữ dữ liệu trên bề mặt các tấm đĩa hình tròn phủ vật liệu từ tính.
Nó là loại bộ nhớ "không thay đổi" (non-volatile), có nghĩa là chúng không bị mất dữ
liệu khi ngừng cung cấp nguồn điện cho chúng.

Ổ đĩa cứng là một thiết bị rất quan trọng trong hệ thống bởi chúng chứa dữ liệu
thành quả của một quá trình làm việc của những người sử dụng máy tính. Những sự hư
hỏng của các thiết bị khác trong hệ thống máy tính có thể sửa chữa hoặc thay thế được,
nhưng dữ liệu bị mất do yếu tố hư hỏng phần cứng của ổ đĩa cứng thường rất khó lấy
lại được. Ổ cứng thường được gắn liền với máy tính để lưu trữ dữ liệu cho dù chúng
xuất hiện muộn hơn so với những chiếc máy tính đầu tiên.
Toàn bộ cơ chế đọc/ghi dữ liệu chỉ được thực hiện khi máy tính (hoặc các thiết bị
sử dụng ổ đĩa cứng) có yêu cầu truy xuất dữ liệu hoặc cần ghi dữ liệu vào ổ đĩa cứng.
Việc thực hiện giao tiếp với máy tính do bo mạch của ổ đĩa cứng đảm nhiệm.
HDD có tác dụng lớn trong việc lưu trữ dữ liệu trong máy tính (để bàn, laptop)
với dung lượng rất lớn, thường từ 40 – 500Gb. Nó không những chứa dữ liệu mà nó
chứa các phần mềm xử lý của máy tính. Nói cách khác, HDD là nơi chứa mọi tài
nguyên của máy tính.
2.1.3.3. Thẻ nhớ
Thẻ nhớ là một dạng bộ nhớ mở rộng của các thiết bị số cầm tay (Các thiết bị số
cầm tay bao gồm: PocketPC, SmartPhone, Điện thoại di động, Thiết bị giải trí số di
động, Máy ảnh số, Máy quay số ). Thẻ nhớ sử dụng công nghệ flash để ghi dữ liệu.
Thẻ nhớ thường có kích thước khá nhỏ nên thường sử dụng cho các thiết bị số cầm
tay.
25

×