Tải bản đầy đủ (.pdf) (230 trang)

giáo trình sinh lý bệnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (747.52 KB, 230 trang )

Chương 1
KHÁI NIỆM VỀ BỆNH
Trong phân công xã hội, người thầy thuốc đảm trách nhiệm vụ đấu
tranh chống bệnh tật. Vậy người đó phải có một quan niệm đúng đắn về
đối thủ ấy, tức là bệnh, phải cố nắm được bản chất của nó thì mới làm tốt
được trách nhiệm của mình.
Vậy bệnh là gì ? Câu hỏi này đã được đặt ra ngay khi có con người
trên trái đất, nhưng câu trả lời luôn luôn thay đổi qua các thời đại với
những tiến bộ của khoa học nói chung và y học nói riêng. Nó phản ánh
cuộc đấu tranh giữa quan điểm duy tâm và quan điểm duy vật, trong đó
quan điểm duy tâm lùi dần để cuối cùng đi đến sự toàn thắng của quan
điểm duy vật.
I. Sơ lược về quá trình hình thành những khái niệm về bệnh
Khi chưa có khoa học thì mọi hiện tượng tự nhiên đập vào các giác
quan con người đều mang tính chất thần bí. Do đó có quan niệm về bệnh
như là tác dụng của những sức mạnh tối tăm lên cơ thể con người như ma
làm, quỷ ốp Trong những giai đoạn tôn giáo phát triển thì đó sẽ là trời
đánh, thánh vật, là sự trừng phạt của đức chúa trời Coi bệnh như vậy thì
tất nhiên muốn tránh hoặc khỏi bệnh là phải cầu trời, khấn Phật, trấn áp
ma tà, quỷ dữ.
1. Thời kỳ cổ đại
1
Trong những thời kỳ cổ đại, mỗi nền văn minh đều có những triết lý
khác nhau về vũ trụ, về con người, về sự sống Chúng là cơ sở cho những
khái niệm về bệnh cho từng thời kỳ. Ví dụ như trong thời kỳ cổ Trung
Hoa, quan niệm về vũ trụ là vạn vật đều do hai lực là “âm, dương” và năm
nguyên tố là ngũ hành hình thành. Con người, một thứ tiểu vũ trụ nên mọi
trạng thái đều phụ thuộc vào tình trạng cân bằng giữa hai lực và ngũ hành
ấy. Vậy bệnh xuất hiện khi có rối loạn âm dương, có thay đổi quy luật
tương sinh tương khắc của ngũ hành. Về mặt triết lý mà nói thì sức khỏe là
một tình trạng cân bằng, hòa hợp giữa một số những nhân tố khác nhau và


bệnh là khi mất cân bằng hòa hợp đó. Khái niệm mất cân bằng này còn
thấy ở nhiều nền văn minh cổ đại khác như trong nền văn minh Hy Lạp -
La Mã thì đó là sự cân bằng của những nguyên tố “đất, khí, lửa và nước”
hay của bốn dịch “máu đỏ, máu đen, mật vàng và niêm dịch”. Khái niệm
bệnh là mất cân bằng nội môi vẫn còn được phát triển trong thời kỳ cận
đại (với khái niệm cân bằng nội môi của Claude Bernard) và hiện nay.
Khoa học phát triển thì người ta luôn tìm cách giải thích hiện
tượng bệnh lý bằng các thành tựu của khoa học đặc biệt của ngành vật lý
và hóa học, rồi gần đây là ngành sinh học phân tử.
2. Khái niệm cơ học
Descartes xem cơ thể con người như một bộ máy và cho rằng bệnh
xảy ra khi bộ máy sinh vật ấy bị hỏng hóc không khác gì như khi máy móc
bị thiếu nhiên liệu, dầu mỡ hoặc bánh xe răng bị mòn gẫy Quan niệm
này đơn giản quá mức hoạt động của cơ thể. Nhưng như ngày nay khoa
học đã tiến bộ nhiều, nhiều nhà bác học lại phát triển khái niệm này dưới
ánh sáng của những thành tựu mới. Họ cho rằng cả lý lẫn hóa học cho đến
2
bây giờ vẫn chưa đủ khả năng để giải thích nhiều hiện tượng sống thì đó
cũng không phải lý do để rời bỏ khỏi khái niệm cơ học về bệnh. Nhà lý
học nổi tiếng Schroedinger cho rằng sự khác biệt giữa những sinh vật và
những vật không phải là sinh vật chỉ là sự khác biệt giữa một quá trình cực
kỳ phức tạp với một quá trình tương đối đơn giản. Theo ông ta không có
một sự khác biệt cơ bản giữa các hiện tượng của môn phỏng sinh học, môn
điều khiển học nữa.
3. Khái niệm hóa học
Ngay từ thời Trung cổ, môn hóa học thần bí đã phát triển để tìm
“thuốc trường sinh” hay “hòn đá hóa vàng”. Nhưng cũng từ đó mà khái
niệm hóa học về bệnh đã bắt nguồn, cho rằng bệnh là hậu quả rối loạn cân
bằng các hóa chất trong cơ thể. Dù sao cũng phải chờ những thành tựu về
hóa học của những thế kỷ sau khái niệm ấy mới rõ nét. Jean Baptiste van

Helmon (1577 - 1644) tại Bỉ rồi Sylvius (1614 - 1672) tại Hà Lan cho rằng
mọi quá trình sinh lý trong cơ thể đều do hoạt động của các enzyme đặc
hiệu khác nhau. Sylvius đặc biệt nghiên cứu các dịch như dịch dạ dày,
mật, tụy và đi đến kết luận là việc theo dõi các acid và base trong cơ thể
không những giúp soi sáng bản chất của sự sống mà còn cho hướng chữa
bệnh nữa. Đến thế kỷ thứ XIX khái niệm này thể hiện rõ ràng nhất trong
khái niệm về sự “hằng định nội môi” của Claude Bernard. Theo ông thì
giữa nội môi và ngoại cảnh có một mối quan hệ khăng khít; nhưng ngoại
cảnh luôn luôn thay đổi, để giữ nội môi không thay đổi, cơ thể sống có cả
hàng loạt chức năng bảo vệ, điều hòa. “Bệnh và chết chỉ là rối loạn hoặc
tan vỡ cơ chế đó”. Khái niệm ấy cho đến ngày nay vẫn còn được nhiều
người chứng minh và phát triển. Như Hans Selye đưa ra ý kiến bệnh là rối
loạn của khả năng thích nghi sau khi nhận thấy rằng đứng trước các kích
3
động (stress), cơ thể phản ứng lại tùy theo mức độ của kích động qua 3
thời kỳ: báo động, đề kháng và kiệt quệ. Trong các thời kỳ đó, trục tuyến
yên - thượng thận hoạt động mạnh và luôn có một cân bằng giữa những
nội tiết tố được bài tiết ra (theo Selye là giữa corticoid đường và corticoid
khoáng) có những đặc tính đối kháng nhau về tác dụng trên quá trình bệnh
lý. Trong những thập niên cuối của thế kỷ XX này sự phát triển của sinh
học phân tử đã giúp làm sáng tỏ nhiều cơ chế sinh bệnh ở mức độ phân tử
và lý thuyết phân tử đã được Linus Pauling đưa ra để chỉ những bệnh do
có sai sót trong cấu trúc phân tử của các chất sinh học.
4. Các khái niệm về hoạt động tâm- thần kinh
Một vấn đề mà từ khi có con người cho đến tận cuối thế kỷ XX này vẫn
còn là một đề tài tranh luận gay go, đó là hoạt động của thần kinh, là sự
sống. Theo cổ Ai Cập thì cơ thể sống khác cơ thể chết là còn có “sinh khí”,
mà theo Ấn Độ thì đó là “linh hồn”. Khi chết thì “sinh khí” hoặc “linh
hồn” bay biến ra khỏi thể xác. Những quan niệm huyền bí như vậy tồn tại
qua nhiều thế kỷ. Ngay như Descartes người sáng lập trường phái cơ học

về cấu trúc và chức năng của cơ thể, về bệnh tật cũng vẫn còn phân biệt
thể xác vô trí với linh hồn chạy bên trong các cơ, mạch máu và não. Thế
kỷ thứ XVII có phái linh hồn mới (neovitalisme) với Geerges Ernerst
Stahl. Theo ông thì linh hồn được gọi là “anima” là sức mạnh bảo vệ, ngăn
cản cơ thể sống khỏi bị thối rữa như khi đã chết. Theo Hoffmann linh hồn
duy trì cơ thể trong một thế cân bằng là sức khỏe và bệnh có thể hoặc là
một sự thiếu hụt, hoặc là tình trạng thừa chất liệu sống đó. Đến thế kỷ thứ
XVIII có Anton Mesmer đã làm sống lại một học thuyết đã có tại phương
Đông từ cổ xưa; đó là học thuyết chiêm tinh cho rằng các vì sao có ảnh
4
hưởng đến hoạt động của mọi sinh vật thông qua “một hoạt chất từ tính”.
Theo ông ta thì mặt trời, mặt trăng và các vì sao cố định ảnh hưởng lẫn
nhau trong vũ trụ, tạo ra và điều hòa triều lên xuống tại quả đất, không
những tại hải dương mà cả trong không gian nữa; cũng như vậy chúng ảnh
hưởng đến vạn vật sống, qua một chất chuyển động làm vận động mọi vật
trong những mối tương quan hài hòa. Mesmer đã nổi danh vì đã chữa được
nhiều bệnh khác nhau chỉ bằng cái gọi là “hoạt chất từ tính đó”, nhưng
thực sự như kết luận của Hội đồng khoa học của vua Louis XVI lúc bấy
giờ chỉ là bằng ám thị, nghĩa là bằng tâm lý liệu pháp. Điều này nói lên
rằng trong y học, ngoài những yếu tố vật chất cần chú ý thì yếu tố tâm
thần cũng rất quan trọng mà chưa được chú ý đến mức độ thích đáng.
Ngay cho đến thế kỷ thứ XX này vai trò của thần kinh, tâm thần trong cơ
chế bệnh sinh vẫn còn là vấn đề tranh cãi rất quyết liệt giữa các trường
phái.
Freud cho rằng bệnh chỉ là sản phẩm của sự chèn ép ý thức trên tiềm
thức của một xung đột tâm lý. Dựa trên triết lý của Fichte và Hegel cho
rằng ý thức của con người luôn luôn được tổng hợp không ngừng qua
những kinh nghiệm sống. Freud cho rằng trong cuộc sống bình thường có
ý thức của chúng ta có nhiều ý kiến và động lực nảy nở từ tiềm thức mà ra.
Điều quan trọng là nhiều ý kiến và sự ham muốn về ý thức đó lại bị dồn ép

xuống tiềm thức nghĩa là bị vứt bỏ không được trở thành ý thức. Cái lực
ức chế dồn ép ấy, mà Freud gọi là “kẻ thanh tra nội tâm” chỉ cho chuyển
từ tiềm thức thành ý thức những ý kiến mà nó đồng tình. Những ý kiến bị
dồn ép về tiềm thức vẫn tồn tại, vẫn có khả năng sống dồi dào của chúng;
sức sống ấy Freud gọi là “libido” đặc biệt rất mạnh đối với những bản
năng cơ bản của con người, ví dụ như bản năng sinh dục. Vì không có lối
5
thoát nên những ý kiến bị dồn ép sẽ tìm những cách biểu hiện khác như
mộng mị, lãng trí thậm chí bằng những hiện tượng bệnh lý như suy
nhược tâm thần, isteri, hay theo học trò của Freud thì ngay cả những bệnh
thực thể khác nữa.
Trường phái Nga, tiếp thu các công trình của các nhà bác học Nga như
Setchenov, Botkin và đặc biệt của Pavlov, đã đề ra học thuyết thần kinh
của bệnh. Theo thuyết này, nội môi và ngoại cảnh là một khối thống nhất
mà trong đó hoạt động của thần kinh đặc biệt của thần kinh cao cấp đóng
vai trò quyết định về khả năng thích ứng của cơ thể (tức nội môi đối với
những thay đổi ở bên ngoài). Sự kết hợp chặt chẽ của vỏ não và những
đoạn dưới của hệ thần kinh, giữa các hệ thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai,
giữa thần kinh và nội tiết, có tác dụng điều hòa chính xác và kịp thời mọi
hoạt động con người, bảo đảm mối tương quan thống nhất giữa nội môi và
ngoại cảnh. Vậy “bệnh là do rối loạn hoạt động phản xạ của hệ thần kinh,
rối loạn mối tương quan giữa các khu vực khác nhau của hệ thần kinh là
cơ chế phát triển của bệnh”. Học thuyết đó xác nhận vai trò tổ chức của hệ
thần kinh trong sự phát triển của bệnh nghĩa là từ thần kinh có thể sinh ra
mọi thứ bệnh. Các người theo học thuyết ấy đã “suy diễn ra rằng phản xạ
bệnh lý là cơ sở duy nhất của sự phát triển bệnh”.
Về nửa cuối của thế kỷ thứ XX này với sự phát triển và kết hợp của
nhiều môn học có liên quan đến thần kinh như điện sinh lý, sinh học thần
kinh, hóa học tế bào, người ta đã thấy vai trò quan trọng của các receptor
khác nhau trên bề mặt các tế bào thần kinh. Những receptor này không

những giữ vai trò dẫn truyền các xung động có tính chất điện hoặc chuyển
hoạt động hóa học thành hoạt động điện học ở mức độ tế bào, mà còn làm
nổi lên vai trò cực kỳ phức tạp và lý thú của rất nhiều chất protid đơn giản
6
trong dẫn truyền xung động, trong thay đổi chức năng của tế bào từ những
chức năng dẫn truyền đến chức năng ký ức, đến tăng cường hay ức chế
một cảm giác Người ta đã thấy rõ hơn những hoạt động thần kinh ở mức
độ phân tử và một số bệnh thần kinh đã được hiểu rõ về cơ chế bệnh sinh.
II. Khái niệm khoa học về bệnh
Có lẽ cho đến bây giờ cũng vẫn chưa đủ dữ kiện cho một khái niệm khoa
học về bệnh. Cho nên cần có một thái độ thực tiễn hơn tức là khi nói đến
bệnh cần chú ý đến một số điểm chắc sẽ giúp cho thầy thuốc luôn luôn có
thái độ xử lý đúng đắn hơn là có một khái niệm mang nhiều tính chất triết
lý nhưng không đầy đủ, hạn chế về mặt áp dụng thực tế.
Theo tiến hóa luận khoa học thì mọi sinh vật là từ những chất hữu cơ tổ
chức lại thành đơn bào, sau những tế bào lại được tổ chức lại càng ngày
ngày càng phức tạp thành những cơ thể sinh vật có các cơ quan chức phận
khác nhau, có những hoạt động biệt hóa nhưng đều nhằm một mục đích
chung là duy trì sự tồn tại và phát triển giống nòi. Do đó nếu đi từ thế giới
vi mô sang thế giới vĩ mô, tất cả những màng ngăn cách các khu vực
(trong tế bào, giữa các tế bào với nhau, giữa các cơ quan trong cơ thể và
giữa cơ thể với ngoại môi ) chỉ có tính chất tương đối mà sự thực giữa
các khu vực đó trao đổi rất mật thiết, có tác động qua lại ảnh hưởng lẫn
nhau mặc dù mỗi khu vực vẫn giữ tính chất riêng của mình. Như vậy sinh
vật nói chung và con người nói riêng có tính chất thống nhất bên trong,
7
giữa trong (nội môi) và ngoài (ngoại môi), song lại vẫn có mâu thuẫn vì
đối với mỗi khu vực thì cái bên ngoài vẫn có tính hay thay đổi hơn, do đó
mỗi khu vực luôn luôn giữ được tính chất riêng của nó nhờ vào khả năng
bảo vệ, thích nghi bù trừ mà cơ thể duy trì được sự hằng định tương đối

của nội môi, duy trì được sự hoạt động bình thường. Quan niệm như vậy
sẽ dẫn đến một số đặc điểm cần chú ý để hiểu bệnh là gì.
1. Bệnh có tính chất một cân bằng mới kém vững bền
Sự hằng định nội môi mà Claude Bernard đã từng nói đến là kết quả của
một cân bằng sinh lý giữa hai quá trình, quá trình tân tạo và quá trình tiêu
hủy. Ví dụ như glucose huyết là kết quả của sự cân bằng giữa tiêu và tạo
glucose; nhiều tình trạng sinh học khác cũng như vậy. Khi có một yếu tố
về bệnh xâm nhập vào trong cơ thể thì lập tức cơ thể đó phản ứng bảo vệ,
sẽ có những hoạt động nhằm duy trì tình trạng cân bằng bị nhiễu loạn bởi
yếu tố ấy. Cho nên trong mỗi quá trình bệnh lý luôn luôn xảy ra hai hiện
tượng gắn liền với nhau và ảnh hưởng lẫn nhau: hiện tượng hủy hoại bệnh
lý và hiện tượng phòng ngự sinh lý. Đứng trước mọi tác nhân có khả năng
làm thay đổi tình trạng hằng định của cơ thể thì cơ thể sẽ tích cực chống
đỡ lại nhờ khả năng bảo vệ. Chính cuộc đấu tranh này tạo ra một cân bằng
mới (vì có thêm yếu tố bệnh lý, phản ứng bảo vệ với những sản phẩm của
chúng); nhưng cân bằng này không kéo dài, thường có xu hướng thay đổi
hoặc theo hướng phục hồi về cân bằng cũ tức là lành bệnh, hoặc cân bằng
tiến triển càng ngày càng bất lợi cho cơ thể, không thích hợp với sự sống,
vượt quá khả năng bảo vệ của cơ thể thì dẫn đến tử vong. Đó cũng là tính
chất kém bền vững của cân bằng mới. Đó cũng là quan niệm biện chứng
về sự sống và chết, lành và bệnh là hai mặt của hiện tượng sinh học.
8
Hiểu bệnh là một cân bằng mới kém vững bền sẽ quyết định thái độ của
người thầy thuốc không những tìm mọi cách hạn chế những hiện tượng
hủy hoại bệnh mà còn phải tăng cường những hiện tượng phòng ngự sinh
lý, hướng sự tiến triển của bệnh về cân bằng sinh lý. Trong y học hiện đại
vào những năm cuối của thế kỷ thứ XIX và đầu thế kỷ thứ XX, người ta
chú trọng quá nhiều vào nguyên nhân gây bệnh, những tổn thương do các
nguyên nhân đó gây ra mà chú ý chưa đúng mức đến sức đề kháng của cơ
thể đứng trước sự tấn công của yếu tố bệnh lý. Trái lại trong y học cổ đại,

nhất là trong y học phương Đông, vì chưa biết rõ nguyên nhân cho nên
người ta đã chú ý rất nhiều đến sức đề kháng của cơ thể bị bệnh, tìm mọi
cách để làm “vượng” cái thể trạng hơn là chú ý đến nguyên nhân. Đó là
hai hướng cực đoan mà người thầy thuốc hiện nay cần dung hòa khi hiểu
rõ rằng trong cơ thể bị bệnh tồn tại cả hai quá trình, hủy hoại bệnh lý và
phòng ngự sinh lý.
2. Bệnh hạn chế khả năng thích nghi của cơ thể
Trong khi ngoại môi luôn luôn thay đổi mà nội môi lại đòi hỏi một tình
trạng hằng định tương đối thì như vậy cơ thể phải luôn luôn tìm cách thích
ứng với biến đổi của ngoại cảnh. Đứng trước những thay đổi mạnh mẽ của
môi trường bên ngoài, cơ thể cũng phải vận dụng những cơ chế thích ứng
mạnh mẽ thậm chí có thể dẫn tới một tình trạng bệnh lý mà Selye đã coi
như “bệnh thích nghi”.
Thực ra khi ngoại môi thay đổi mạnh mẽ đến mức thay đổi cả mức cân
bằng của nội môi thì cũng như khi yếu tố gây bệnh tạo nên tình trạng bệnh
lý, khả năng thích nghi của cơ thể sống vẫn còn, song rõ ràng bị hạn chế.
Ví dụ như khi cơ thể bị sốt, khả năng điều hòa nhiệt vẫn còn, người sốt ra
9
lạnh vẫn có thể phản ứng tăng tạo nhiệt, vào nóng vẫn có tăng thải nhiệt
nhưng những phản ứng đó không mạnh mẽ như là khi khỏe. Hay như khả
năng điều hòa glucose huyết của người bị xơ gan rõ ràng bị hạn chế và
càng hạn chế nếu quá trình xơ càng rộng.
Nhận rõ khả năng thích nghi của cơ thể bị hạn chế khi mắc bệnh sẽ giúp
cho người thầy thuốc đánh giá đúng tính quan trọng của công tác phòng
bệnh ngay khi cơ thể chưa mắc bệnh. Trong công tác điều trị những người
làm công tác thú y cũng phải tìm cách bảo vệ khả năng thích ứng của cơ
thể đến mức tối đa; ví dụ như trong điều trị bằng hormone không được
ngừng đột ngột để tránh tuyến bị thiểu năng vì không thích ứng kịp.
Ngược lại cũng cần hạn chế những kích thích đòi hỏi cơ thể phải đáp ứng
thích nghi quá mạnh.

3. Bệnh hạn chế tính năng sản xuất
Khi gia súc bị bệnh, tính năng sản xuất giảm, giảm sức cày kéo, giảm
tăng trọng, giảm sản lượng trứng, sữa.vv
10
Chương 2
BỆNH NGUYÊN HỌC
11
Bệnh nguyên học hay nguyên nhân bệnh học là môn khoa học nghiên
cứu những nguyên nhân gây bệnh và điều kiện phát sinh ra bệnh.
Việc nghiên cứu nguyên nhân gây bệnh có ý nghĩa rất lớn trong công tác
phòng trị bệnh cho gia súc gia cầm. Có nắm được nguyên nhân thì mới
định ra được phương pháp điều trị chính xác và có biện pháp hữu hiệu
ngăn ngừa sự xâm nhập của chúng vào cơ thể.
I. Một số quan niệm sai lầm về bệnh nguyên
1. Thuyết nguyên nhân đơn thuần
Thuyết này cho rằng vi khuẩn là nguyên nhân của mọi bệnh, hễ có vi
khuẩn là có bệnh. Với thái độ cực đoan, quá nhấn mạnh đến vai trò của
một nguyên nhân gây bệnh là vi khuẩn, thuyết này đã bỏ qua vai trò và
ảnh hưởng của những điều kiện khác thuận lợi cho sự phát sinh của bệnh,
cũng không chú ý đến cơ chế bảo vệ của cơ thể chống lại sự đột nhập của
các yếu tố gây bệnh và nó cũng không xét đến các ảnh hưởng khác trong
bệnh nguyên học.
Thực tế cho thấy rằng trong nhiều bệnh không phát hiện thấy vi khuẩn
và ngược lại trong nhiều trường hợp có vi khuẩn nhưng lại không thấy
bệnh xuất hiện.
Một quan niệm sai lầm, phiến diện về bệnh nguyên học như trên, chỉ chú
ý đến một nguyên nhân gây bệnh, tất nhiên cũng sẽ dẫn đến sai lầm trong
công tác phòng bệnh và điều trị bệnh. Việc chống lại các yếu tố gây bệnh,
nhất là vi khuẩn một cách tích cực cũng mới chỉ là một mặt trong công tác
phòng bệnh và điều trị. Còn có những mặt khác cùng không kém phần

quan trọng là tạo ra những điều kiện, những hoàn cảnh để yếu tố gây bệnh
không phát huy được tác dụng như tăng cường sức đề kháng của cơ thể.
2. Thuyết điều kiện đơn thuần
12
Thuyết này cho rằng bệnh tật là do kết quả tác động tổng hợp của một
số điều kiện và những điều kiện đó có thể gây bệnh mà không cần có
những nguyên nhân đặc hiệu. Quan niệm này là hoàn toàn sai lầm bởi vì
từng điều kiện tách riêng ra cũng như nhiều điều kiện kết hợp lại không
thể quyết định được sự phát sinh ra bệnh và tính đặc hiệu của bệnh. Các
điều kiện chỉ có tác dụng tạo nên cơ sở dễ dàng cho bệnh phát sinh khi có
nguyên nhân tác động.
Học thuyết này còn mang tính chất tiêu cực là cùng một lúc đưa ra
nhiều điều kiện đòi hỏi phải thỏa mãn thì mới có thể giải quyết được vấn
đề bệnh tật. Vì vậy, nó gây trở ngại cho công tác phòng bệnh và điều trị.
Nó đã không phân biệt nguyên nhân và điều kiện và cũng không chỉ rõ
được vai trò của mỗi yếu tố trong quá trình gây bệnh.
3- Thuyết thể tạng đơn thuần
Nguyên nhân gây bệnh không phải từ ngoài tới mà chính là do đặc
điểm của cơ thể, do thể tạng của con vật mà ra. Đây là quan niệm của
thuyết di truyền máy móc, nó không kể đến các yếu tố ngoại cảnh tác động
lên quá trình phát triển và di truyền của sinh vật. Như vậy là nó chống lại
việc vệ sinh phòng dịch, bảo vệ sức khỏe cho gia súc để ngăn ngừa bệnh
tật.
II. Quan niệm khoa học về bệnh nguyên
Một quan niệm đúng đắn về bệnh nguyên học phải nêu lên mối quan hệ
đúng đắn giữa nguyên nhân và điều kiện gây bệnh.
13
1. Nguyên nhân có vai trò quyết định và điều kiện thì phát huy tác dụng
của nguyên nhân. Nguyên nhân gây bệnh là yếu tố có hại, khi tác động lên
cơ thể sẽ quyết định bệnh phát sinh và các đặc điểm của bệnh. Những yếu

tố gây bệnh đó phải đạt tới một cường độ nhất định (độc lực, liều lượng
cao ). Đặc điểm của bệnh cũng chính là do nguyên nhân quyết định và
chính dựa vào những đặc điểm của bệnh mà ta có thể khám phá ra nguyên
nhân để từ đó mà xác định phương pháp cần thiết để điều trị.
Song nguyên nhân gây bệnh chỉ có thể phát huy tác dụng trong những điều
kiện nhất định. Ví dụ: Bệnh tụ huyết trùng gà phát triển dưới tác dụng của
Pasteurella nhưng phải ở cơ thể yếu, dinh dưỡng kém và đặc biệt là khi
thời tiết thay đổi đột ngột.
Cường độ của yếu tố gây bệnh cũng là một điều kiện.
Như vậy, những yếu tố cụ thể là những điều kiện gây bệnh thuận lợi mà
khi thiếu nó thì bệnh chưa phát sinh. Nhưng ngược lại, nếu có đầy đủ các
điều kiện mà không có nguyên nhân thì bệnh cũng không phát sinh được.
Nguyên nhân và những điều kiện nhất định gây nên một bệnh được gọi
chung là những yếu tố bệnh nguyên.
2. Trong những điều kiện nhất định, nguyên nhân có thể trở thành điều
kiện, nghĩa là trong những hoàn cảnh nào đó, một số yếu tố có thể là
nguyên nhân nhưng trong hoàn cảnh khác nó có thể trở thành điều kiện. Ví
dụ nuôi dưỡng kém là nguyên nhân của suy dinh dưỡng, thiếu vitamin
trong khẩu phần là một trong những nguyên nhân của bệnh thiếu vitamin
song có thể là điều kiện cho các bệnh nhiễm khuẩn phát triển.
3. Quy luật nhân quả trong bệnh nguyên học
- Mỗi bệnh (tức hậu quả) đều có nguyên nhân nhất định gây ra và nguyên
nhân có trước hậu quả. Nguyên nhân gây bệnh, dù từ ngoài vào hay từ
trong ra, đều tác dụng lên cơ thể mà sinh ra hậu quả là bệnh. Bất cứ bệnh
nào cũng đều do nguyên nhân nhất định gây nên.
- Có nguyên nhân nhưng không nhất thiết phát sinh ra hậu quả (bệnh) khi
không có điều kiện.
14
Trên đây đã nói về mối liên quan giữa nguyên nhân và điều kiện. Song
cũng cần phải chú ý rằng phản ứng của sinh vật còn phụ thuộc vào nhiều

yếu tố. Đáp ứng của sinh vật đối với yếu tố gây bệnh có thể thay đổi tùy
theo điều kiện bên ngoài cũng như bên trong. Vì vậy, cùng một nguyên
nhân trong những điều kiện nhất định thì tác động gây nên bệnh nhưng ở
những điều kiện khác thì không gây ra bệnh, và phản ứng tính thay đổi tùy
theo từng cá thể. Cùng nguyên nhân có thể có những hậu quả khác nhau
tùy theo điều kiện. Cùng một nguyên nhân nhưng tùy nơi tác động và tùy
theo đáp ứng của cơ thể mà bệnh cảnh có thể khác nhau. Ví dụ, tụ cầu
khuẩn có thể gây nên áp xe khi vào trong da, gây nên ỉa lỏng khi vào ruột
và gây nhiễm khuẩn huyết khi vào máu.
Một hậu quả có thể do nhiều nguyên nhân gây ra. Ví dụ : Viêm, sốt là
những quá trình bệnh lý điển hình trong đó các triệu chứng rất dễ dàng
được xác định song lại do rất nhiều nguyên nhân gây nên.
Như vậy: Một quan niệm khoa học về bệnh nguyên học phải có tính chất
toàn diện, nhìn nhận cả vai trò của nguyên nhân, điều kiện cũng như thể
tạng, xác định đúng đắn tầm quan trọng và vị trí nhất định của mỗi yếu tố
trong quá trình gây bệnh. Ngăn ngừa nguyên nhân, hạn chế tác dụng của
điều kiện gây bệnh, tăng cường hoạt động tốt của thể tạng, đó là những
mặt hoạt động tích cực và rất quan trọng trong công tác điều trị và phòng
bệnh. Trong điều trị, yêu cầu đặt ra là không chỉ tìm ra được nguyên nhân
mà còn phải thấy được cả những điều kiện trong đó có bệnh cảnh diễn ra.
III. Phân loại các yếu tố bệnh nguyên
Người ta thường phân các yếu tố bệnh nguyên ra làm 2 loại: Yếu tố bên
ngoài và yếu tố bên trong. Trong thực tế, hai loại yếu tố này thường tương
tác lẫn nhau và tạo nên những hoàn cảnh cụ thể của từng căn bệnh.
1. Yếu tố bên ngoài
1.1. Yếu tố cơ học
15
Chấn thương gây tổn thương các cơ quan, làm hư hại các tổ chức
của cơ thể. Nó có thể dẫn đến sốc chấn thương do cơ chế phát sinh qua
đường thần kinh và thể dịch.

1.2. Yếu tố lý học
- Nhiệt độ
Nhiệt độ cao quá 50°C tác động cục bộ có thể gây thoái hóa protid tế
bào, đặc biệt là phá hủy các enzym. Tùy theo nhiệt độ cao thấp và thời
gian tác động có thể gây nên những mức độ khác nhau từ ban đỏ đến
bỏng.
Nhiệt độ khi tác động lên toàn thân có thể gây nên các hiện tượng cảm
nóng, cảm nắng. Cảm nóng có thể xảy ra với tất cả các loại gia súc làm
việc nặng nhọc trong điều kiện mùa hè, nhất là vào những ngày oi bức,
nắng gay gắt hoặc trong hoàn cảnh nhiệt độ và độ ẩm cao, không thoáng
gió và ngột ngạt, bí thở, không đảm bảo điều kiện cho việc trao đổi nhiệt
của cơ thể dẫn tới tích nhiệt trong cơ thể, gây rối loạn toàn thân. Trường
hợp này thường gặp khi vận chuyển gia súc trong các toa xe chật vào mùa
hè nhất là đối với các gia súc báo, lông dày. Cảm nắng (say nắng) thường
gặp khi gia súc chăn thả ở cánh đồng không có bóng mát về mùa hè, do tác
động trực tiếp của ánh nắng mặt trời lên đầu và toàn thân, kích thích hệ
thần kinh trung ương, gây hưng phấn các trung khu, về sau thì ức chế và
cuối cùng là liệt các trung khu quan trọng đối với sự sống. Nhiệt độ thấp
dưới 0 cũng gây tổn thương các enzim tế bào, tác động cục bộ gây hiện
tượng giá thương, có thể gây hoại tử. Tác động lên toàn thân gây cảm
lạnh. Cơ chế chủ yếu của cảm lạnh là cơ thể bị mất nhiệt gây nên sự rối
loạn. Cảm lạnh thường dẫn tới các bệnh đường hô hấp, bệnh khớp, bệnh
thận và giảm sức đề kháng chung của cơ thể tạo điều kiện cho các mầm
bệnh xâm nhập và phát huy tác động.
- Tia phóng xạ
Tia phóng xạ do những chất phóng xạ sử dụng trong công nghiệp hoặc
trong chiến tranh phát ra gây tổn thương theo 2 cơ chế chính:
16
+ Phá hủy các enzim của tế bào như enzim phosphorylase, ATPase, các
enzim oxy hóa có nhiều trong nhân tế bào. (Các tế bào đang phát triển

càng dễ bị phá hủy).
+ Các tia phóng xạ khi gặp nước trong tế bào sẽ gây ra một loạt phản ứng
như:
H
2
O

2H
+
+ O

H
2
O + O


H
2
O
2
Các chất này có tính oxy hóa mạnh dễ dàng gây tổn thương cho các tế bào
sống.
Các loài động vật khác nhau có độ mẫn cảm khác nhau đối với các tia
phóng xạ. Ví dụ, với tia phóng xạ ion hóa thì gia cầm có thể chịu được liều
lượng gấp 2, 3 lần so với cừu và dê.
- Dòng điện
Tác dụng của dòng điện phụ thuộc vào điện thế và tính chất của dòng
điện. Dòng điện một chiều tác dụng nhanh hơn dòng điện xoay chiều.
Điện thế càng cao càng nguy hiểm. Dòng điện xoay chiều tần số thấp từ
25 đến 50 chu kỳ/giây là nguy hiểm nhất, còn dòng điện tần số cao trên

100.000 ck/giây lại không nguy hiểm.
Cơ chế tác dụng của dòng điện:
+ Gây co cứng các cơ, nhất là cơ tim làm tim ngừng đập.
+ Gây bỏng nếu cường độ cao. Vết bỏng do điện rất lâu lành vì tổ chức
phía dưới bị thoái hóa.
+ Gây nên hiện tượng điện ly vì cơ thể là môi trường điện giải.
1.3. Yếu tố hóa học.
Tác động của các chất hóa học phụ thuộc vào liều lượng và thành phần
của các chất ấy. Thường nó gây ngộ độc cho các gia súc nhất là các acid,
kiềm, muối của các kim loại như chì, thủy ngân, đồng. Các loại chất này
thường gây tổn thương các enzym tế bào như enzym có nhóm SH chẳng
hạn. Các chất hữu cơ như alcaloid, glucosid chiết xuất từ thực vật hay các
17
chất do động vật tiết ra như nọc rắn nọc ong tùy theo từng thứ mà có các
tác động khác nhau.
1.4. Yếu tố sinh học.
Những sinh vật từ nhỏ đến lớn, rất nhiều loại có thể gây bệnh cho người
và gia súc, gia cầm. Có thể kể từ các loại nấm đến các loại virus, vi khuẩn
và các ký sinh trùng. Người ta phân các bệnh do các yếu tố sinh vật gây
nên ra làm 2 loại:
- Bệnh truyền nhiễm
- Bệnh ký sinh trùng
2. Yếu tố bên trong
2.1. Yếu tố di truyền
Đó là những biến đổi bệnh lý thông qua cơ chế di truyền từ thế hệ trước
sang thế hệ sau qua tế bào sinh dục mang gen bệnh. Qua nghiên cứu người
ta đã thấy một số bệnh phát sinh là do thiếu một số gen chỉ huy tổng hợp
nên các loại enzym mà thiếu các enzym ấy sẽ phát sinh ra bệnh. Ví dụ:
Bệnh phenylxeton niệu là do thiếu phenylalanine hydroxylase nên
phenylalanin không chuyển thành tyrozin được mà phân hủy thành

phenylxeton và được đào thải ra ngoài theo nước tiểu.
2.2.Yếu tố thể tạng
Tổng hợp các đặc điểm chức năng và hình thái của cá thể được gọi là
thể tạng. Những đặc điểm này được hình thành trên cơ sở tính di truyền và
quyết định những phản ứng của cơ thể đối với tác nhân bên ngoài trong
quá trình sống. Như vậy thể trạng có tính chất rất phức tạp trong đó yếu tố
di truyền đóng vai trò chủ chốt, quyết định. Trước một yếu tố gây bệnh,
những cơ thể có thể tạng khác nhau sẽ có đáp ứng khác nhau. Hay nói
cách khác thể tạng là cơ sở vật chất của tính phản ứng và chịu ảnh hưởng
của một số yếu tố nhất định như chủng loại, giới tính, tuổi tác, hoạt động
của hệ thần kinh nội tiết và môi trường mà trong đó con vật sinh sống.
Thay đổi môi trường sống có thể làm thay đổi phản ứng tính của cơ thể và
do đó làm thay đổi phần nào thể tạng.
18
19
Chương 3
SINH BỆNH HỌC
Sinh bệnh học là môn học nghiên cứu những quy luật cơ bản của sự
phát sinh, phát triển, diễn biến và kết thúc của một quá trình bệnh lý hay
nói tóm lại là cơ chế sinh bệnh. Nắm được cơ chế sinh bệnh là yêu cầu cơ
bản trong công tác phòng trị bệnh, trên cơ sở đó có thể ngăn chặn sớm
được những diễn biến xấu của bệnh, hạn chế được tác hại, đồng thời xác
định những biện pháp tích cực để bảo vệ sức khoẻ cho gia súc, gia cầm.
I. Vai trò của yếu tố bệnh nguyên
Yếu tố bệnh nguyên đóng vai trò quan trọng trong diễn biến của bệnh. Tuỳ
theo cường độ, vị trí và thời gian tác động mà diễn biến của bệnh có thể
khác nhau.
1. Về cường độ tác dụng của yếu tố gây bệnh
Khi cường độ lớn (Yếu tố lý học, hóa học riêng yếu tố sinh học phải
có số lượng nhiều hoặc độc lực cao) bệnh thường cấp tính, diễn biến

nhanh và nguy hiểm. Nếu cường độ các yếu tố gây bệnh nhỏ thì bệnh có
thể rất nhẹ hoặc không xảy ra.
2.
Thời gian tác dụng của yếu tố gây bệnh
Thời gian tác dụng cũng còn phụ thuộc vào cường độ. Nếu cường độ
lớn thì dù thời gian ngắn, yếu tố gây bệnh cũng đã có thể gây ra bệnh.
Song đối với sinh vật phải chú ý đến hiện tượng cộng kích thích gặp trong
nhiễm khuẩn. Berling đã thí nghiệm và thấy rằng có thể làm chết con vật
20
thí nghiệm bằng liều lượng ít hơn liều gây chết, nếu tiêm thành nhiều lần
mặc dù tổng các liều nhỏ đó chưa bằng liều gây chết.
3. Vị trí tác dụng

Tuỳ theo nơi tác dụng của yếu tố gây bệnh mà quá trình gây bệnh có thể
khác nhau.
Ví dụ: Vi trùng lao khi vào phổi, vào hạch lâm ba, vào khớp gối hay vào
màng não thì quá trình gây bệnh hoàn toàn khác nhau. Ta có thể làm thí
nghiệm dùng nước muối 20% (NaCl) tiêm vào động mạch và tĩnh mạch
của thỏ ta thấy có những phản ứng khác nhau. Ngược lại, có thể có trường
hợp các yếu tố gây bệnh khác nhau tác động vào những vị trí khác nhau
nhưng lại gây ra qúa trình bệnh lý giống nhau. Ví dụ hiện tượng viêm, sốt
là những triệu chứng chung của nhiều bệnh.
4. Đường lây lan của nguyên nhân gây bệnh trong cơ thể
Đường lây lan thường phụ thuộc vào tính chất của nguyên nhân gây
bệnh và vị trí phát sinh bệnh. Thông thường bệnh nguyên lan theo 3 đường
chính:
4.1. Lan theo tổ chức: Từ nơi phát bệnh lan rộng ra các vùng lân cận tiếp
giáp.
4.2. Lan theo thể dịch: Các yếu tố bệnh nguyên là độc tố, vi khuẩn, virus
thường lan theo dịch lâm ba, máu đến toàn thân.

4.3.Lan theo thần kinh: Các yếu tố bệnh nguyên là những xung động đau,
các loai virus như virus bệnh dại, độc tố uốn ván.
Trong thực tế khi bệnh phát sinh thì các yếu tố bệnh nguyên thường lan
theo nhiều đường đồng thời, chứ không chỉ theo riêng một đường nào,
song tùy thuộc vào loại yếu tố bệnh nguyên và vị trí tác động có thể có
đường lan truyền chủ yếu mà chúng ta nắm được để kịp thời ngăn chặn.
21
II. Ảnh hưởng của cơ thể tới quá trình sinh bệnh
Theo thuyết thần kinh của Pavlop thì cơ thể là một khối thống nhất, các
cơ quan, mô bào đều có sự liên hệ chặt chẽ với nhau và chịu sự điều tiết
chung của hệ thần kinh. Bất cứ một cơ quan nào, hoạt động nào cũng đều
chịu sự điều tiết chung của vỏ não. Vì vậy, các quá trình bệnh lý dù xảy ra
ở bộ phận cục bộ nào cũng phụ thuộc vào trạng thái chung của cơ thể, và
ngược lại thông qua cung phản xạ nó ảnh hưởng tới toàn thân.
Mối liên quan giữa toàn thân và cục bộ: Toàn thân khoẻ mạnh thì sức đề
kháng tại chỗ tốt, yếu tố gây bệnh khó xâm nhập, hoặc khi đã xâm nhập
rồi thì dễ bị tiêu diệt nhanh chóng hoặc đào thải ra ngoài. ở cơ thể khoẻ vết
thương mau lành. Chế độ dinh dưỡng tốt sẽ đảm bảo sức khoẻ cho cơ thể.
Ảnh hưởng của cục bộ tới toàn thân: Bất kỳ một tổn thương nào ở cục bộ
cũng ảnh hưởng tới toàn thân, gây đau đớn kích thích tới thần kinh, các
chất độc tại ổ viêm vào cơ thể gây nên trạng thái nhiễm độc. Nếu nhiễm
khuẩn đã có đáp ứng miễn dịch của cơ thể thì vẫn có ảnh hưởng nhất định
đến toàn bộ chức năng của các cơ quan khác, gây mệt mỏi kém tiêu hoá,
bỏ ăn, ít tiết sữav.v Vì vậy có thể nói bất kỳ một quá trình bệnh lý nào
cũng là biểu hiện tại chỗ của tình trạng bệnh lý toàn thân.
III. Quá trình bệnh lý
Trong một cơ thể bị bệnh ta có thể nhận thấy được nhiều hiện tượng
bệnh lý khác nhau. Các hiện tượng đó bao gồm:
1. Phản ứng bệnh lý
Đó là phản ứng của tế bào, của tổ chức hay cơ quan đối với tác nhân gây

bệnh với cường độ và chất lượng vượt ra ngoài giói hạn bình thường. Ví
dụ: Khi bị lạnh, cơ thể phản ứng lại bằng cách giảm thải nhiệt, tăng sản
nhiệt trong cơ thể. Đó là phản ứng sinh lý, nhưng nếu trung tâm điều hoà
nhiệt bị rối loạn dẫn đến sự hoạt động quá mức của cơ quan sinh nhiệt thì
sinh ra sốt, còn trong một số bệnh khác thì biểu hiện phản ứng ho, nôn
Về thực chất đó là phản ứng bảo vệ sinh lý nhưng nếu quá mức thì sẽ gây
bệnh.
22
2. Quá trình bệnh lý
Đó là một phức hợp gồm nhiều phản ứng bệnh lý. Ví dụ trong quá trình
viêm ta thấy có phản ứng vận mạch (co, giãn mạch), phản ứng tăng sinh tế
bào, phản ứng của thần kinh. Trong quá trình sốt, ngoài phản ứng tăng sản
nhiệt còn có nhiều phản ứng nhằm giảm thải nhiệt. Quan niệm về quá trình
bệnh lý bao gồm cả quá trình diễn biến của bệnh.
3. Trạng thái bệnh lý
Đó là quá trình bệnh lý biến chuyển chậm, kéo dài thành cố tật. Ví dụ:
Liệt, cắt đoạn chi là những trạng thái bệnh lý.
Trong quá trình phát triển, bệnh thường diễn biến qua nhiều giai đoạn, mỗi
giai đoạn như vậy gọi là một khâu.
Các khâu này thường kế tiếp nhau theo một trình tự nhất định gọi và có
liên quan mật thiết với nhau. Điều quan trọng là trong nhiều quá trình
bệnh lý, những khâu sau lại có tác động ngược trở lại khâu trước làm cho
tình trạng bệnh lý nặng thêm.
Ví dụ: Bệnh lợn đóng dấu mãn tính. Vi khuẩn lợn đóng dấu gây viêm nội
tâm mạc, loét sùi van tim do đó ảnh hưởng đến tuần hoàn chung gây thiếu
oxy, dẫn đến gây rối loạn chuyển hoá rồi tác động trở lại gây phì đại tim
dẫn đến suy tim, thiếu oxy và lặp lại thành vòng kín. Kiểu tác động như
vậy giữa các khâu tạo thành vòng xoắn ốc gọi là vòng xoắn bệnh lý. Nắm
được sự tiến triển của bệnh, ta có thể phát hiện được khâu chính trong quá
trình sinh bệnh và có tác động cần thiết ngăn cản diễn biến xấu của vòng

xoắn.
IV. Các giai đoạn phát triển của bệnh
1. Thời kỳ ủ bệnh (nung bệnh)
Thời kỳ này bắt đầu từ khi tác nhân gây bệnh xâm nhập vào cơ thể và
bắt đầu phát huy tác dụng đến khi cơ thể có những phản ứng đầu tiên. ở
thời kỳ này khả năng thích ứng của cơ thể còn mạnh, nên những rối loạn
23
còn chưa thể hiện. Thời kỳ này dài hay ngắn là phụ thuộc vào điều kiện
bên ngoài, trạng thái cơ thể và đặc tính của từng tác nhân gây bệnh, vào vị
trí tác động của tác nhân gây bệnh. Vì vậy, các bệnh truyền nhiễm có thời
gian nung bệnh khác nhau như: Bệnh nhiệt thán từ 1-5 ngày, bệnh uốn ván
từ 7-15 ngày, bệnh dại từ 1-3 tháng.
2. Thời kỳ tiền phát
Thời kỳ này bắt đầu từ khi cơ thể có những phản ứng đầu tiên đến khi
bắt đầu xuất hiện những triêụ chứng chủ yếu. Ở giai đoạn này nguyên
nhân gây bệnh tác động mạnh, khả năng thích ứng của cơ thể giảm, con
vật có một số biểu hiện dấu hiệu của bệnh gọi là tiền chứng. Ví dụ như
trạng thái con vật thay đổi, ủ rũ, bỏ ăn, tim mạch và hô hấp thay đổi, thân
nhiệt tăng, xung huyết ở niêm mạc
3. Thời kỳ toàn phát
Thời kỳ này bắt đầu từ khi cơ thể có những triệu chứng rõ rệt cho đến
khi có những chuyển biến đặc biệt, các rối loạn cơ năng biểu hiện rõ ràng,
các triệu chứng điển hình cho từng loại bệnh được thể hiện, sự rối loạn
trao đổi chất và tổn thương bệnh lý ở thời kỳ này là nặng nề nhất.
4. Thời kỳ kết thúc
Thời kỳ này dài hay ngắn chủ yếu phụ thuộc vào từng loại bệnh. Có thể
bệnh dần dần thuyên giảm, cường độ các triệu chứng giảm dần rồi mất
hẳn, cũng có thể các triệu chứng tăng lên, rối loạn cơ năng càng nghiêm
trọng, không thể khôi phục được. Thời kỳ kết thúc tuy phức tạp nhưng
thường diễn biến dưới 3 hình thức khác nhau.

4.1. Khỏi hoàn toàn: Các nguyên nhân gây bệnh hết tác dụng, các triệu
chứng bệnh biến mất, các tổn thương được phục hồi hoàn toàn, các chức
năng của các cơ quan trở lại bình thường, khả năng lao động và tính năng
sản xuất được phục hồi hoàn toàn. Đối với một số bệnh truyền nhiễm thì
khả năng phản ứng của cơ thể thay đổi, phát sinh trạng thái miễn dịch đối
với bệnh vừa mắc ( bệnh đậu, bệnh tỵ thư).
24
4.2. Khỏi không hoàn toàn: Các nguyên nhân gây bệnh đã ngừng hoạt
động, các triệu chứng chủ yếu đã hết song về cấu tạo và chức năng thì
chưa được khôi phục hoàn toàn (như cứng khớp sau khi bị tổn thương ở
khớp, mất khả năng tiết sữa sau khi viêm vú) hoặc còn để lại những dấu
vết của bệnh (hẹp, hở van tim sau khi viêm nội tâm mạc). Trong nhiều
trường hợp, sự lành bệnh chỉ là biểu hiện bên ngoài, qua một thời gian
bệnh có thể trở lại (hiện tượng tái phát). Hiện tượng tái phát có thể được
giải thích bởi lý do là khi sức đề kháng của cơ thể yếu mà yếu tố gây bệnh
chưa bị tiêu diệt hoàn toàn nên có cơ hội phát triển hoặc tái nhiễm. Trong
một số trường hợp, bệnh tái phát trở lại mà không có nhân tố gây bệnh như
trường hợp sốt nhớ cơn (bệnh sốt rét ở người). Theo thuyết thần kinh thì
trường hợp này được giải thích là quá trình bệnh lý trước đây đã để laị một
vết hằn trên hệ thống thần kinh trung ương, và khi có tác dụng của kích
thích mới, bệnh lại theo vết cũ tái phát.
4.3. Chết
Chết là giai đoạn cuối cùng của sự sống, cơ thể không thể thích nghi với
những biến đổi của điều kiện tồn tại. Những nguyên nhân chính dẫn đến
cái chết :
- Ngừng hoạt động của tim như liệt tim, vỡ tim, tắc mạch.
- Ngừng hô hấp, liệt trung khu hô hấp do xuất huyết não, thiếu máu hành
tuỷ, bị ngộ độc.
Chết có thể nhanh-đột tử, nhưng thường thì xảy ra từ từ, qua một giai
đoạn (giai đoạn hấp hối). Người ta phân giai đoạn hấp hối ra làm 3 thời

kỳ:
- Thời kỳ ngưng cuối cùng: Tim và hô hấp ngừng tạm thời (trong vòng
0,5-1,5 phút), mất phản xạ mắt, đồng tử mở rộng, vỏ não bị ức chế, các
hoạt động sống đều bị rối loạn.
- Thời kỳ hấp hối: Xuất hiện hô hấp trở lại-thở ngáp cá, tim đập yếu, phản
xạ có thể xuất hiện trong thời kỳ này, hoạt động của tuỷ sống ở mức tối đa
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×