Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

luận văn tốt nghiệp kinh tê Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Ý Yên giai đoạn 2002 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.29 KB, 89 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xuất phát điểm là một nước nông nghiệp, Việt Nam luôn quan tâm,
chú trọng đến sự phát triển của nông nghiệp. Sự phát triển của nông nghiệp
là nền tảng, động lực thúc đẩy các ngành kinh tế nói riêng và toàn bộ nền
kinh tế nói chung. Bởi nông nghiệp, xét theo góc độ của kinh tế, là ngành
sản xuất vật chất đầu tiên, lâu đời và quan trọng nhất trong tiến trình phát
triển của lịch sử loài người. Từ khi ra đời đến nay, nông nghiệp luôn đóng
vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự sinh tồn của loài người
[23: tr.185]. Ăngghen đã khẳng định: nông nghiệp là ngành có ý nghĩa
quyết định đối với toàn bộ thế giới cổ đại và hiện nay nông nghiệp lại càng
có ý nghĩa như thế. Các Mác cũng đã từng nói, con người trước hết phải có
ăn sau đó mới nói đến các hoạt động khác. Ông đã chỉ rõ: nông nghiệp là
ngành cung cấp tư liệu sinh hoạt cho con người… và việc sản xuất ra tư
liệu sinh hoạt là điều kiện đầu tiên cho sự sống của họ và của mọi lĩnh vực
sản xuất nói chung [dẫn theo 23: tr.185]. Điều này khẳng định được vai trò
đặc biệt quan trọng của nông nghiệp trong việc nâng cao mức sống dân cư,
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia cũng như sự ổn định chính trị - xã hội
của đất nước [23: tr.185].
Ở nước ta, nông nghiệp luôn gắn liền và song hành cùng với nông
thôn. Trước đây, khi đất nước mới thống nhất nền kinh tế chưa phát triển
thì bộ mặt của nông thôn được đặc trưng bởi nông nghiệp. Trong cơ cấu
GDP kinh tế nông thôn của hầu hết các vùng miền thì tỉ lệ đóng góp của
ngành nông nghiệp đều rất lớn. Ý Yên - Nam Định cũng là huyện không
nằm ngoại lệ.
Với hơn 70% dân số cả nước sống ở vùng nông thôn [22: tr.95], việc
phát triển kinh tế nông nghiệp góp phần “nâng cao mức sống dân cư” - tiền
đề thúc đẩy sự tăng trưởng của kinh tế chung cả nước. Mục tiêu “dân giàu
1
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh” đã được đề ra từ Đại hội
Đảng VI (1986) và luôn được đề cập và nhấn mạnh đến ở tất cả các kì đại


hội tiếp theo. Để cụ thể hóa mục tiêu ấy thì tiến hành “công nghiệp hóa -
hiện đại hóa (CNH - HĐH) nông nghiệp nông thôn” là con đường ngắn
nhất để rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế nhanh mạnh, bền vững, nâng cao đời sống vật chất cũng như
tinh thần của nhân dân [3: tr.18-34]. Tuy nhiên quá trình CNH - HĐH nông
nghiệp diễn ra không giống nhau ở các địa phương, nó bị chi phối bởi
nhiều yếu tố trong đó có điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội.
Ý Yên nằm trong vùng ô trũng Hà - Nam - Ninh của đồng bằng Bắc
Bộ, là vùng đất “trăm nghề” với các làng nghề truyền thống nổi tiếng với
các sản phẩm như đồ đồng, đồ gỗ mỹ nghệ, đồ mây tre đan [10: tr.70].
Bước vào thế kỉ mới Ý Yên cùng hòa mình vào công cuộc thực hiện CNH -
HĐH nông nghiệp của cả nước để nâng cao đời sống cũng như chất lượng
cuộc sống của nhân dân. Ngày nay quê hương Ý Yên đã có nhiều đổi khác,
các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh mẽ góp phần làm thay
đổi tỉ trọng các ngành kinh tế trong cơ cấu kinh tế nông thôn của huyện. Tuy
vậy nông nghiệp vẫn là ngành chiếm tỉ trọng lớn nhất và có vai trò đặc biệt.
Là một người con sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Ý Yên, em muốn
hiểu rõ hơn về sự phát triển kinh tế của địa phương mình, đặc biệt là sự
chuyển dịch của kinh tế nông nghiệp. Vì thế, em đã lựa chọn đề tài
“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Ý Yên giai đoạn 2002 -
2012” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận của mình.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ và giới hạn của đề tài.
2.1. Mục tiêu
Mục tiêu của đề tài là phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát
triển nông nghiệp và hiện trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
huyện Ý Yên trong giai đoạn 2002 – 2012, từ đó đưa ra các giải pháp thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp hiệu quả và bền vững.
2
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích đề ra, đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề

sau đây:
- Tổng quan một số vấn đề lý luận về kinh tế nông nghiệp và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế nông nghiệp và sự chuyển
dịch của cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Ý Yên.
- Phân tích thực trạng cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Ý Yên trong giai
đoạn 2002 - 2012.
- Định hướng và các giải pháp để phát triển kinh tế nông nghiệp và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Ý Yên một cách hiệu quả.
2.3. Giới hạn của đề tài nghiên cứu
Về nội dung nghiên cứu: Nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm các
lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp chế biến và các dịch vụ phục
vụ trong nông nghiệp. Vì vậy nội dung nghiên cứu về sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp rất rộng lớn và đa dạng. Tuy nhiên, do những hạn
chế về nguồn tư liệu và thời gian thực hiện, nên đề tài chỉ tập trung làm rõ
sự chuyển dịch về cơ cấu ba ngành chính của sản xuất nông nghiệp là trồng
trọt, chăn nuôi và thủy sản.
Về phạm vi lãnh thổ nghiên cứu: Khu vực nông thôn huyện Ý Yên
bao gồm 31 xã và 1 thị trấn.
Về thời gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp của huyện giai đoạn 2002 - 2012.
3. Các quan điểm nghiên cứu
3.1. Quan điểm tổng hợp
Trên một lãnh thổ, các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội luôn có mối
quan hệ mật thiết với nhau, tạo nên một thể thống nhất và hoàn chỉnh. Mặt
khác, nội dung nghiên cứu của ngành nông nghiệp rất đa dạng và phức tạp,
liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh có quy mô và bản chất khác
nhau, nhưng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau [8: tr.2]. Vì vậy, trong đề tài
3
này, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện Ý Yên được

nghiên cứu trong mối quan hệ chặt chẽ với các điều kiện tự nhiên, kinh tế -
xã hội và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
3.2. Quan điểm lãnh thổ
Trong không gian, các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội không đồng
nhất mà có sự khác biệt giữa lãnh thổ này với lãnh thổ khác. Quan điểm
lãnh thổ trong nghiên cứu đòi hỏi người nghiên cứu tìm ra sự khác biệt đó
[8: tr.3]. Tìm hiểu sự chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Ý
Yên cần tìm ra những nét độc đáo, riêng biệt, đồng thời đặt nó trong mối
quan hệ với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh Nam
Định và cả nước.
3.3. Quan điểm lịch sử viễn cảnh
Mọi sự vật hiện tượng địa lý đều có cách thức, quy luật phát triển
riêng và thay đổi dần trong không gian. Để làm rõ được đề tài ta cần xem
xét sự biến đổi cấu trúc của của các yếu tố kinh tế trong từng thời gian cụ
thể xác định. Vận dụng quan điểm này ta thấy được quá trình hình thành và
phát triển của các ngành kinh tế, các tiểu vùng lãnh thổ, các thành phần
kinh tế trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
3.4. Quan điểm phát triển bền vững
Quan điểm phát triển bền vững đòi hỏi phải đảm bảo sự bền vững về
cả ba mặt: kinh tế, xã hội và môi trường. Về mặt kinh tế, đó là tốc độ tăng
trưởng, hiệu quả và sự ổn định của nền kinh tế. Dưới góc độ xã hội, phải
chú trọng đến việc xóa đói giảm nghèo, xây dựng thể chế và bảo tồn di sản
văn hóa dân tộc. Còn về phương diện môi trường là giữ gìn tính đa dạng
sinh học, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, ngăn chặn sự ô nhiễm và xuống
cấp của môi trường [23: tr.15].
Nông nghiệp là ngành sản xuất trực tiếp số một, tạo ra sản phẩm nuôi
sống xã hội trên cơ sở khai thác các điều kiện tự nhiên. Ngày nay biến đổi
khí hậu ngày càng gia tăng đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự sinh trưởng và
4
phát triển của cây trồng vật nuôi. Vì thế khi đề ra những phương hướng,

giải pháp để phát triển kinh tế nông nghiệp hiệu quả ta phải xét đến các yếu
tố trên quan điểm phát triển bền vững, đặt nông nghiệp trong mối quan hệ
với tự nhiên và các ngành kinh tế khác.
4. Các phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thu thập, xử lý, tổng hợp nguồn tài liệu
Phương pháp thu thập tài liệu là phương pháp truyền thống được sử
dụng trong các nghiên cứu nói chung và nghiên cứu địa lí kinh tế - xã hội
nói riêng. Khoa học không thể phát triển được nếu thiếu tính kế thừa, thiếu
sự tích lũy những thành tựu của quá khứ [23: tr.15].
Để tiến hành nghiên cứu được đề tài chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp của Ý Yên thì thu thập, xử lí và tổng hợp tài liệu rất quan trọng.
Nguồn tài liệu phục vụ cho đề tài được thu thập tại các phòng ban như
Phòng Nông nghiệp, Phòng Thống kê, Phòng Tài nguyên và Môi trường
của huyện Ý Yên. Tài liệu thu thập được dưới nhiều dạng: bảng thống kê,
tài liệu thành văn sau đó phải tiến hành chọn lọc, phân tích, tổng hợp số
liệu phục vụ bài nghiên cứu.
4.2. Phương pháp thống kê
Thống kê là phương pháp được sử dụng nhiều trong khoa học xã hội
nói chung và khoa học địa lí nói riêng. Trong đề tài nghiên cứu, phương
pháp thống kê được sử dụng tích cực. Trên cơ sở số liệu đã thu thập được,
tiến hành thống kê số liệu để phân tích, xác định mối quan hệ giữa các bộ
phận của ngành nông nghiệp với nhau và giữa ngành nông nghiệp với các
ngành khác .
4.3. Phương pháp bản đồ, biểu đồ
Bản đồ là mô hình thu nhỏ của các đối tượng địa lí trên thực địa, giúp
cho việc nghiên cứu và thể hiện kết quả nghiên cứu cũng như sự phân bố
của các đối tượng địa lí một cách khoa học và trực quan [8: tr.4]. Trong đề
tài này, bản đồ được sử dụng như một nguồn tư liệu cần thiết và không thể
5
thiếu. Đồng thời, tác giả đi sâu tiến hành biên tập các bản đồ hiện trạng sản

xuất nông nghiệp của huyện Ý Yên năm 2002 và năm 2012.
Biểu đồ được sử dụng để phản ánh quy mô, quá trình thay đổi của các
hiện tượng kinh tế theo thời gian hoặc không gian. Cùng với bản đồ, biểu
đồ làm cụ thể hóa các sự vật hiện tượng, giúp cho việc thể hiện các kết quả
nghiên cứu trở nên trực quan và sinh động. Trong đề tài, có nhiều đối
tượng địa lí được trực quan hóa bằng biểu đồ như diện tích đất nông
nghiệp, diện tích sản lượng lương thực giai đoạn 2002 - 2012, số lượng đàn
gia súc, gia cầm…
4.4. Phương pháp thực địa
Nghiên cứu địa lý là nghiên cứu không gian, lãnh thổ, nghiên cứu sự
sắp xếp, phân bố, mối quan hệ của các đối tượng trên địa bàn nghiên cứu.
Vì vậy thực địa là phương pháp mang lại hiệu quả cao thông qua việc tìm
hiểu, kiểm định các thông tin thu được từ các nguồn khác nhau. Đồng thời
nâng cao sự hiểu biết, đánh giá về mối liên hệ giữa lý thuyết và thực tế. Để
đảm bảo được tính thực tiễn và khoa học của đề tài, tác giả đã tiến hành
điều tra và khảo sát thực tế sản xuất nông nghiệp huyện Ý Yên, phục vụ
cho kết quả nghiên cứu của đề tài. Đó là việc liên kết giữa lý luận và sự
phân bố của các cây trồng, vật nuôi trên thực tế; giải thích được sự phân bố đó
và chụp ảnh được những sản phẩm tiêu biểu cho nền nông nghiệp huyện.
5. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần nội dung khóa luận gồm 4
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kinh tế nông nghiệp và sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp.
Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế nông nghiệp và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Ý Yên giai đoạn 2002 – 2012.
Chương 3: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện
Ý Yên giai đoạn 2002 - 2012.
6
Chương 4: Định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp Ý Yên có hiệu quả.
Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
7
1. Khái niệm kinh tế nông nghiệp
Nông nghiệp theo nghĩa rộng (bao gồm cả lâm và ngư nghiệp) cũng
như theo nghĩa hẹp là một ngành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân
[dẫn theo 12: tr.3]. Trải qua quá trình phát triển lâu dài nông nghiệp trở
thành một ngành kinh tế độc lập tương đối, gồm các phân ngành như trồng
trọt, chăn nuôi. Trong trồng trọt thì có trồng cây lương thực, cây công
nghiệp, cây ăn quả… Trong chăn nuôi có chăn nuôi gia súc, gia cầm…
Kinh tế nông nghiệp là các hoạt động kinh tế diễn ra trên địa bàn nông
thôn bao gồm các hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp
tạo ra các sản phẩm vật chất đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm của
nhân dân, làm nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến và làm
nguồn hàng xuất khẩu mang lại giá trị.
2. Khái niệm cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ chủ yếu về chất lượng và
số lượng tương đối ổn định của các yếu tố kinh tế, các bộ phận của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong một hệ thống tái sản xuất xã hội
với những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định vào một khoảng thời gian
nhất định [11: tr.9].
Cơ cấu kinh tế có thể thay đổi để phù hợp với yêu cầu phát triển của
nền kinh tế trong từng thời kì. Một cơ cấu kinh tế hợp lý là nền kinh tế có
sự kết hợp hài hòa giữa các ngành kinh tế nhằm khai thác tốt nhất, có hiệu
quả nhất các nguồn lực của địa phương để phát triển kinh tế với tốc độ
nhanh, ổn định, bền vững, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân cả
về vật chất lẫn tinh thần.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một tổng thể các mối quan hệ kinh tế
trong khu vực nông nghiệp có mối liên hệ hữu cơ với nhau về mặt chất và

lượng, tác động qua lại lẫn nhau trong những không gian và thời gian nhất
8
định, phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, tạo thành một
hệ thống kinh tế trong nông nghiệp [15: tr.12].
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một bộ phận hợp thành, không thể tách
rời của cơ cấu kinh tế nông thôn. Nó đóng vai trò quan trọng trong nền kinh
tế của nông thôn đặc biệt là đối với những nước đang phát triển. Nước ta xuất
phát điểm là nước nông nghiệp, 70% dân số sống ở nông thôn chính vì thế
kinh tế nông nghiệp là nguồn đảm bảo cho đời sống của cộng đồng dân cư.
2.1. Đặc trưng của cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp được hình thành và vận động trên cơ sở
điều kiện tự nhiên và mức độ lợi dụng, khai thác cải thiện điều kiện tự
nhiên. Cơ cấu nông nghiệp hướng tới sự chuyển dịch nhằm khai thác tối
ưu và cải thiện điều kiện tự nhiên để có lợi cho con người nhất. Cơ cấu
kinh tế nông nghiệp phụ thuộc chặt chẽ vào các điều kiện tự nhiên, đồng
thời nó có thể bị chi phối bởi các điều kiện kinh tế - xã hội như khoa học kĩ
thuật, con người có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nông
nghiệp và sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính khách quan và được hình thành
do sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Cơ
cấu kinh tế nông nghiệp luôn biến đổi phù hợp với những điều kiện kinh tế
- xã hội, với sự phát triển của khoa học kĩ thuật với những yêu cầu nhất
định của xã hội [5: tr.17].
Trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở nước ta trồng trọt luôn chiếm tỉ
trọng cao hơn so với chăn nuôi trong cơ cấu ngành và ở đồng bằng cây
lương thực, thực phẩm chiếm tỉ trọng lớn hơn so với cây công nghiệp.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một hệ thống mở có mối quan hệ tác
động qua lại với các hệ thống khác và mối quan hệ này ngày càng được mở
rộng trong quá trình phân công và hợp tác lao động [11: tr.11].

9
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp thay đổi khi nền sản xuất hàng hóa ra đời
[11: tr.23]. Trước đây sản xuất nông nghiệp vẫn mang tính tự túc, tự cấp thì
hoạt động chủ yếu là trồng cấy lương thực và chăn nuôi gia súc, kinh tế hộ
nông dân đóng vai trò quyết định. Sau này khi nông nghiệp tiến đến thời kì
sản xuất hàng hóa thì cơ cấu nông nghiệp đa dạng hơn cả về ngành sản xuất
lẫn hình thức, lúc này sản xuất nông nghiệp đã được đa dạng hóa, nhiều cây
trồng vật nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao đã được đưa vào sản xuất.
Máy móc, công nghệ kỹ thuật mới cũng được đưa vào sử dụng ngày một
nhiều. Quy mô sản xuất cũng lớn hơn với sự xuất hiện của hàng loạt các
trang trại mang tính chuyên môn hóa.
2.2. Nội dung của cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là khái niệm biểu đạt tổng thể các hoạt
động kinh tế - xã hội liên quan đến các lĩnh vực nông - lâm - ngư chủ yếu
diễn ra trên địa bàn nông thôn, nội dung của nó bao gồm cơ cấu ngành kinh
tế (trồng trọt, chăn nuôi, trồng, khai thác rừng, đánh bắt và nuôi trồng thủy
sản) cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế (thành phần kinh tế Nhà
nước, tư nhân, cá thể, hộ gia đình). Trong đó cơ cấu kinh tế theo ngành có
tầm quan trọng đặc biệt.
2.2.1. Cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp
Đây là nội dung quan trọng nhất của cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phản
ánh số lượng, vị trí các ngành, các bộ phận cấu thành nên nông nghiệp
[13: tr.11].
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất hình thành đầu tiên của xã hội
loài người từ khi ra đời đến nay, nông nghiệp luôn đóng vai trò không thể
thay thế trong phát triển kinh tế nói chung và đảm bảo sinh tồn của loài
người nói riêng [23: tr.185]. Theo nghĩa hẹp, nông nghiệp bao gồm các
ngành trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp. Theo nghĩa rộng nông
nghiệp còn bao gồm cả lâm và ngư nghiệp.
Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế trong đó:

10
- Trồng trọt là ngành nông nghiệp ra đời đầu tiên. Trong trồng trọt, bên
cạnh cây lương thực còn có các cây công nghiệp, cây ăn quả, cây rau đậu,
cây dược liệu, cây cảnh Trồng trọt cung cấp lương thực, thực phẩm cho
con người và nguyên liệu cho công nghiệp.
- Chăn nuôi cung cấp thực phẩm có nguồn gốc động vật cho con người,
cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, cung cấp sức kéo, phân
bón cho ngành trồng trọt và các mặt hàng có giá trị xuất khẩu [13: tr.11].
- Dịch vụ nông nghiệp: khi nền nông nghiệp hàng hóa phát triển mang tính
chuyên môn hóa cao thì dịch vụ nông nghiệp ra đời và trở thành một ngành
trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Dịch vụ nông nghiệp bao gồm các loại
hình dịch vụ từ khâu đầu vào đến khâu bảo quản, chế biến và đầu ra cho
sản phẩm [11: tr.13]. Dịch vụ nông nghiệp góp phần làm tăng hiệu quả
trong nông nghiệp bằng việc làm tăng giá trị sản phẩm hàng hóa.
Lâm nghiệp là ngành kinh tế quốc dân có nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ
và sử dụng rừng để phát huy lợi ích kinh tế, công ích xã hội và tác dụng
bảo vệ môi trường trên cơ sở những phương thức sản xuất và kinh tế nhất
định [23: tr.12]. Lâm nghiệp được hình thành và hoạt động trên cơ sở vai
trò, chức năng và tác dụng của rừng và đất lâm nghiệp đối với đời sống
kinh tế xã hội trên các hệ sinh thái khu vực toàn quốc. Lâm nghiệp bao
gồm các ngành trồng và khoanh nuôi rừng, khai thác lâm sản, dịch vụ và
các hoạt động lâm nghiệp khác.
Ngư nghiệp là ngành nuôi trồng và khai thác các loài thủy sản bao
gồm cả thủy sản nước ngọt (trong các ao, hồ, đầm ruộng, sông ngòi…) và
thủy sản nước lợ, nước mặn ở ven biển và đại dương.
Tùy thuộc vào đặc điểm tự nhiên của từng vùng mà trong cơ cấu
ngành nông nghiệp có sự khác biệt về tỉ trọng của các ngành. Ở nước ta nếu
xét nông nghiệp trên góc độ của trồng trọt và chăn nuôi thì trồng trọt vẫn
chiếm tỉ trọng cao hơn chăn nuôi. Trồng trọt và chăn nuôi có mối quan hệ chặt
chẽ, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Trồng trọt phát triển với quy mô sản xuất

lớn tạo ra nguồn thức ăn cho chăn nuôi phát triển theo hướng hàng hóa.
11
Vị trí của các ngành trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp có thể thay đổi
theo thời gian, ở nước ta trong những năm gần đây tỉ trọng của ngư nghiệp
có xu hướng tăng trong khi tỉ trọng của nông nghiệp theo nghĩa hẹp giảm.
Đây cũng chính là một trong những định hướng phát triển nông nghiệp để
khai thác tốt hơn các nguồn lực phát triển của đất nước, của địa phương.
2.2.2. Cơ cấu lãnh thổ nông nghiệp
Mỗi một lãnh thổ có nét đặc thù riêng về điều kiện tự nhiên cũng như
kinh tế - xã hội, đó cũng chính là tiền đề để phát triển kinh tế của các vùng
nhưng cũng là nguyên nhân gây ra sự khác biệt trong cơ cấu kinh tế của các
địa phương. Sự phân bố các ngành kinh tế trên một đơn vị lãnh thổ chính là
sự sắp xếp các ngành sản xuất vật chất và dịch vụ nhằm khai thác tốt nhất
tiềm năng cũng như lợi thế so sánh của vùng.
Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ là biểu hiện của phân công lao động trong
nông nghiệp trên một lãnh thổ nhất định, được hình thành chủ yếu dựa vào
sự bố trí sản xuất nông nghiệp theo một không gian nhất định [23: tr.13].
Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đã tạo nên các đơn vị
lãnh thổ nông nghiệp và từ đó hình thành cơ cấu lãnh thổ nông nghiệp.
Nói cách khác cơ cấu lãnh thổ nông nghiệp chính là sự sắp xếp các
ngành trong nông nghiệp trên các lãnh thổ nông nghiệp (cây gì, con gì phân
bố ở đâu, diễn tiến theo thời gian như thế nào trên cùng một lãnh thổ). Sự
phân hóa này phụ thuộc vào từng lãnh thổ cụ thể, nếu lãnh thổ không có
sự phân hóa về điều kiện tự nhiên thì cũng không có sự phân hóa trong
nông nghiệp.
2.2.3. Cơ cấu thành phần kinh tế nông nghiệp
Cơ cấu thành phần kinh tế được hình thành trên cơ sở tổ chức nền
kinh tế theo các hình thức khác nhau về tư liệu sản xuất. Cơ cấu thành phần
kinh tế là những lực lượng kinh tế quan trọng để thực hiện cơ cấu kinh tế
ngành [23: tr.13]. Từ khi đổi mới Nhà nước ta đã chủ trương phát triển kinh

12
tế nhiều thành phần nhằm phát huy hết tiềm năng sẵn có cho công cuộc
phát triển đất nước.
Hiện nay trong kinh tế nông nghiệp có những thành phần kinh tế sau:
- Kinh tế Nhà nước: có vai trò định hướng, dẫn dắt, tạo sự ổn định cho phát
triển nông nghiệp. Kinh tế nhà nước nắm những vị trí then chốt, các công
trình thuộc cơ sở hạ tầng và phúc lợi trong nông nghiệp. Đây là lực lượng
kinh tế nòng cốt, có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy chuyển dịch
trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp [11: tr.14].
- Kinh tế tập thể: bao gồm các hình thức đa dạng trong sản xuất nông
nghiệp, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Kinh tế hợp tác xã trong thời kì
đầu đổi mới hoạt động kém hiệu quả, trong giai đoạn gần đây có xu hướng
chuyển đổi thành hợp tác xã kiểu mới hoạt động năng động và có hiệu quả
hơn [11: tr.14].
- Kinh tế tư nhân: hoạt động phổ biến dưới dạng hộ gia đình và trang trại.
Đây là thành phần kinh tế chiếm đại đa số trong nền nông nghiệp nước ta,
có vai trò to lớn trong việc khai thác tiềm năng đất đai, sức lao động, vốn,
kinh nghiệm sản xuất. Tuy nhiên sản xuất vẫn mang tính manh mún tự
phát, hạn chế về kĩ thuật và chậm đổi mới [13: tr.14].
- Kinh tế tư bản tư nhân: chiếm một tỷ lệ không cao trong nông nghiệp
nhưng năng động, nhạy bén trong cơ chế thị trường [13: tr.14].
- Kinh tế tư bản Nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: chiếm tỷ lệ
rất nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp song có ưu thế lớn về vốn, công nghệ
hiện đại và khả năng quản lí tiên tiến [11: tr.14].
3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Kinh tế nông thôn là thành phần cơ bản tạo nên nền kinh tế nói chung.
Kinh tế nông thôn bao gồm các hoạt động sản xuất nông - lâm - ngư, các
hoạt đông tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn trong đó sản xuất
nông nghiệp là hoạt động chính. Để đẩy mạnh quá trình CNH - HĐH nông
thôn thì chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đóng một vai trò hết sức to

lớn, nó được thể hiện cả trong nội bộ ngành và tỉ trọng của ngành nói
13
chung so với các ngành kinh tế khác (công nghiệp – xây dựng và dịch vụ)
trong cơ cấu kinh tế chung của cả nước.
Cũng như cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang
tính khách quan, lịch sử, xã hội và luôn luôn gắn liền với sự phát triển của
lực lượng sản xuất, sự phân công lao động xã hội, chuyển dịch từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp của các quy luật tự nhiên, kinh tế [12: tr.6].
3.1. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là quá trình thay đổi các yếu
tố và mối quan hệ giữa các yếu tố trong cấu trúc nông nghiệp [11: tr.15].
Hiểu cách khác chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là quá trình làm
biến đổi cấu trúc và các mối quan hệ tương tác trong hệ thống theo những
định hướng và mục tiêu nhất định, nghĩa là đưa hệ thống từ một trạng thái
nhất định sang trạng thái tối ưu để đạt hiệu quả mong muốn, thông qua sự
điều khiển ý thức của con người, trên cơ sở vận dụng đúng đắn các quy luật
khách quan [12: tr.13]. Đơn giản hóa đó là sự phát triển của các ngành kinh
tế thuộc lĩnh vực nông nghiệp dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các
ngành và làm thay đổi mối quan hệ tương tác giữa chúng so với một thời
điểm trước đó.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là kết quả của quá trình phát
triển vừa chịu tác động của các yếu tố khách quan như điều kiện tự nhiên,
kinh tế - xã hội vừa chịu tác động của các yếu tố chủ quan như sự can thiệp
của nhà nước bằng các chính sách xã hội. Sự chuyển dịch này có thể theo
hướng tiến bộ hay không tiến bộ, mang lại kết quả kinh tế mong muốn hay
không mong muốn và do đó, có thể làm cho hệ thống kinh tế phát triển
hay trì trệ, lâm vào khủng hoảng hay tụt hậu xa hơn so với các khu vực
kinh tế khác.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp được xem xét trên 3 góc độ:
chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần và cơ cấu lãnh thổ kinh tế.

14
Chuyển dịch cơ cấu ngành là sự thay đổi tỷ trọng giữa các ngành và
nhóm ngành trong nội bộ ngành nông nghiệp nhằm khai thác tốt hơn các
nguồn lực của địa phương. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành hiện nay là
hướng đến một nền nông nghiệp hàng hóa, sản xuất thâm canh, đa dạng
hóa theo hướng sản xuất lớn tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa có giá trị.
- Trong ngành trồng trọt, xu hướng độc canh cây lương thực đã được hạn
chế dần thay vào đó là việc trồng những loại cây có năng suất cao, có giá trị
hàng hóa lớn [11: tr.15].
- Trong ngành chăn nuôi, những vật nuôi có giá trị dinh dưỡng tốt, mang lại
giá trị cao được chú trọng phát triển.
Chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ kinh tế nông nghiệp chính là sự bố trí các
ngành sản xuất và dịch vụ theo không gian cụ thể nhằm khai thác tiềm năng
và lợi thế so sánh của vùng [13: tr.16]. Xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế
lãnh thổ theo hướng đi vào chuyên môn hóa và tập trung hóa sản xuất hình
thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn, tập trung có hiệu quả cao, mở
rộng mối quan hệ với các vùng chuyên môn khác, gắn bó cơ cấu kinh tế
của từng vùng với cả nước.
Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế: đang diễn ra với xu hướng đa
dạng hóa các thành phần kinh tế, Đảng và Nhà nước luôn khuyến khích tất
cả các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực phát triển nông nghiệp
nông thôn song kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo và then chốt
[13: tr.16].
3.2. Xu hướng chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Nông nghiệp là nền tảng để thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển
bởi đặc thù của nó là cung cấp lương thực thực phẩm cho nhu cầu thiết yếu
của đời sống xã hội. Từ một nước nhập khẩu lương thực, nền nông nghiệp
lạc hậu Việt Nam đã vươn lên thành nước xuất khẩu gạo, điều, cà phê nhất
nhì thế giới và có sự đóng góp khá lớn trong cơ cấu GDP của nền kinh tế
quốc dân. Nông nghiệp cũng giống các ngành kinh tế khác bản thân nó

luôn luôn vận động biến đổi để phù hợp với sự tương quan giữa quan hệ
15
sản xuất và lực lượng sản xuất. Chuyển dịch, thay đổi là xu hướng khách
quan, tất yếu và trong những năm tới cơ cấu nông nghiệp sẽ chuyển dịch
theo các xu hướng:
3.2.1. Phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa và mở rộng sự hợp tác
Xu hướng này đảm bảo cho nền nông nghiệp phát triển theo đúng xu
thế chung của thế giới và phù hợp với điều kiện của các nước đang phát
triển. Nền nông nghiệp cần chuyển sang sản xuất hàng hóa, kết hợp với
việc mở rộng hợp tác (giữa các ngành, các địa phương, các vùng trong
nước và trên phạm vi quốc tế) nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu
quả kinh tế [13: tr.23].
3.2.2. Chuyển từ độc canh thuần nông sang đa canh, đa dạng hóa các sản
phẩm nông nghiệp, gắn liền nông nghiệp với công nghiệp chế biến và
dịch vụ
Nông nghiệp cổ truyền của nước ta chủ yếu trồng cây lương thực.
Trước Đổi mới do đặc điểm của nền sản xuất nông nghiệp và tác động của
các yếu tố khách quan nên trong một thời gian dài nước ta thiếu lương
thực, chúng ta tập trung sản xuất lương thực đảm bảo sự sinh tồn. Nhưng
ngày nay nhu cầu về lương thực đã được đảm bảo, không những thế Việt
Nam còn vươn lên là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Đây chính là
cơ sở để đa dạng hóa các sản phẩm nông nghiệp. Đồng thời để nâng cao
hiệu quả sản xuất và tăng thêm giá trị cho sản phẩm thì phải gắn liền nông
nghiệp với công nghiệp chế biến và dịch vụ. Nông nghiệp phải giải quyết
vấn đề lương thực - thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
Công nghiệp phát triển phục vụ sản xuất nông nghiệp, thu hút lao động dư
thừa trong nông nghiệp [11: tr.23].
3.2.3. Chuyển từ sản xuất manh mún, phân tán sang sản xuất tập trung,
chuyên môn hóa, quy mô hợp lí, phát huy lợi thế
Ngành nông nghiệp nước ta còn manh mún, phân tán, trình độ phân

công chuyên môn hóa còn thấp dẫn đến năng suất, sản lượng nông sản và
16
hiệu quả kinh tế thấp. Vì vậy nông nghiệp phải phát triển theo hướng tập
trung, hình thành các vùng chuyên môn hóa để thuận lợi trong việc áp dụng
khoa học công nghệ, mở rộng thị trường tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng
nhu cầu trong nước và phục vụ xuất khẩu [11: tr.24].
3.2.4. Chuyển từ kĩ thuật thủ công, lạc hậu, sản xuất theo tập quán cũ
sang cơ cấu kinh tế dựa trên kĩ thuật công nghệ hiện đại
Muốn chuyển từ nền nông nghiệp cổ truyền sản xuất tự cấp tự túc
sang nền nông nghiệp hiện đại sản xuất theo hướng hàng hóa thì việc thay
đổi phương thức sản xuất cũ, kĩ thuật thủ công, lạc hậu sang phương thức
sản xuất mới gắn với kĩ thuật và công nghệ hiện đại là việc rất cần thiết để
nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Để làm được điều đó,
trước hết phải phân công lại lao động và chuyên môn hóa sản xuất. Kỹ
thuật và công nghệ hiện đại chỉ phát huy hiệu quả trên cơ sở lao động đã
được phân công, có trình độ chuyên môn cao và sản xuất được tiến hành
theo hướng chuyên môn hóa gắn với nhu cầu thị trường [11: tr.25].
3.2.5. Hình thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo
Phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp
của nền kinh tế. Hiện nay, cơ cấu kinh tế nông nghiệp đang chuyển dịch
theo hướng tiến bộ, phát triển đa dạng tất cả các thành phần kinh tế nhằm
giải phóng sức lao động, huy động mọi nguồn lực cho phát triển. Trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và then chốt [11: tr.25].
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nông nghiệp và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Sự phát triển của bất kì ngành kinh tế nào cũng chịu sự tác động của
nhiều nhân tố khác nhau, mỗi nhân tố có vai trò, vị trí và ảnh hưởng khác
nhau, có những nhân tố tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển nông
nghiệp, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhưng cũng có nhiều

nhân tố kìm hãm, tác động tiêu cực. Tổng hợp các nhân tố tác động cho
17
phép chúng ta tìm ra các lợi thế so sánh của mỗi vùng, mỗi địa phương.
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nông nghiệp và sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp được chia làm 2 nhóm:
4.1. Nhóm nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất số một, phụ thuộc rất nhiều
vào tự nhiên, vì thế điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển nông nghiệp. Nhóm nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên ảnh hưởng
đến nông nghiệp bao gồm: vị trí địa lí, điều kiện khí hậu, thời tiết, đất đai,
nguồn nước, rừng, khoáng sản và các yếu tố sinh học khác. Sản xuất nông
nghiệp thực sự có hiệu quả khi ta bố trí hệ thống cây trồng vật nuôi phù
hợp với điều kiện tự nhiên [15: tr.17].
Trong các nhân tố trên 3 nhân tố quan trọng nhất đó là khí hậu, đất đai
và nguồn nước.
Khí hậụ là nhân tố đầu tiên tác động đến ngành sản xuất nông nghiệp,
khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa có sự phân hóa Bắc - Nam, Đông - Tây và
phân hóa theo đai cao cho phép nước ta phát triển một nền nông nghiệp
nhiệt đới với sự đa dạng của cơ cấu cây trồng vật nuôi. Khí hậu là nhân tố
quyết định trực tiếp đến nuôi con gì, trồng cây gì. Những bất thường của
thời tiết như bão, lũ lụt, hạn hán, sương muối, băng giá… thường gây ra
những ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp ở địa phương. Tính
mùa của khí hậu quy định tính mùa trong sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm
nông nghiệp [23: tr.191]. Vì thế khi muốn phát triển nông nghiệp hay
chuyển đổi cơ cấu cây trồng thì ta phải quan tâm đến các yếu tố thích nghi
của chúng đối với khí hậu của địa phương. Hiện nay do biến đổi khí hậu
nên giới hạn sinh thái của cây trồng có sự thay đổi, vì thế khi phát triển
nông nghiệp ta cần phải quan tâm đến vấn đề này.
Đất đai: đất trồng là tư liệu sản xuất chủ yếu, là cơ sở để tiến hành
trồng trọt và chăn nuôi. Không thể sản xuất nông nghiệp nếu không có đất

đai. Quỹ đất, cơ cấu sử dụng đất, các loại đất, độ phì của đất ảnh hưởng rất
18
lớn đến quy mô và phương hướng sản xuất, cơ cấu và sự phân bố cây
trồng, vật nuôi mức độ thâm canh và năng suất cây trồng [23: tr.191].
Tài nguyên đất của nước ta rất đa dạng , phân hóa theo tổ hợp của các
nhân tố hình thành đất. Ở đồng bằng chủ yếu là đất phù sa, ở đồi núi là đất
feralit hình thành trên các loại đá (đá axit, đá bazơ, đá vôi, đá biến chất).
Tính chất và độ phì của đất ảnh hưởng đến cơ cấu và năng suất cây trồng.
Đất có độ phì cao sẽ tạo thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng và phát triển.
Đất đai đa dạng, nhiều chủng loại sẽ tạo ra sự đa dạng về cây trồng nhưng
sẽ hạn chế quy mô sản xuất cũng như sự chuyên môn sâu trong quá trình
phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa [9: tr.20-21].
Nguồn nước là yếu tố rất cần thiết sống còn cho sự sinh trưởng và phát triển
của cây trồng cũng như vật nuôi nhất là trong giai đoạn tích lũy năng lượng.
Mạng lưới sông ngòi nước ta dày đặc với 2360 con sông dài trên 10 km
và lượng nước mưa dồi dào đã tạo nên nguồn cung cấp nước phong phú cho
sự phát triển nông nghiệp [9: tr.16]. Sự phân hóa lượng mưa trong hai mùa
mưa - khô đã tạo ra sự khó khăn nhất định trong sự phát triển nông nghiệp.
Ngày nay hệ thống thủy lợi đã được quan tâm đầu tư nên việc cung cấp nước
vào mùa khô và tiêu úng vào mùa mưa đã hạn chế được những bất lợi liên
quan đến nguồn nước trong quá trình sản xuất nông nghiệp.
Ngoài ra vị trí địa lí cũng như các điều kiện tự nhiên khác cũng ảnh
hưởng rất lớn đến việc phát triển nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp. Vị trí thuận lợi để xây dựng mạng lưới giao thông vận tải
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu trao đổi khi nền nông nghiệp
bước sang thời kì sản xuất hàng hóa, sản phẩm nông nghiệp được chuyên
môn hóa với quy mô lớn, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu nhanh hơn. Và
ngược lại, vị trí địa lí bị cô lập, giao thông khó khăn sẽ tạo ra sự khép kín
trong sự phát triển kinh tế của vùng nói chung và của kinh tế nông nghiệp
nói riêng.

19
4.2. Nhóm nhân tố thuộc về điều kiện kinh tế - xã hội
Nhóm nhân tố này luôn tác động mạnh mẽ đến sự hình thành và biến
đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Các nhân tố kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới
sự phát triển nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp bao
gồm thị trường, hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, cơ sở hạ
tầng nông thôn, sự phát triển của khu công nghiệp và đô thị, dân số và lao
động bao gồm cả số lượng và chất lượng (trình độ dân trí, trình độ chuyên
môn hóa, tập quán sản xuất…).
Dân cư và lao động: ảnh hưởng tới hoạt động nông nghiệp dưới hai
góc độ là lực lượng sản xuất trực tiếp và là nguồn tiêu thụ các nông sản.
Dưới góc độ là lực lượng sản xuất trực tiếp để tạo ra các sản phẩm nông
nghiệp, nguồn lao động được coi là nhân tố quan trọng để phát triển theo
chiều rộng (mở rộng diện tích, khai hoang) và theo chiều sâu (thâm canh,
tăng vụ). Dưới góc độ là nguồn tiêu thụ, cần quan tâm đến truyền thống,
tập quán ăn uống, quy mô dân số với khả năng sản xuất lương thực, thực
phẩm [23: tr.194].
Con người còn là nhân tố có ý nghĩa quyết định trong việc hình thành
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp vì cơ cấu nông nghiệp mang
tính khách quan nhưng hình thành nhanh hay chậm, hợp lí hay không hợp lí
lại do tác động chủ quan của con người [15: tr.19].
Thị trường: là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nông
nghiệp nhất là khi nông nghiệp đang phát triển theo xu hướng hàng hóa.
Thị trường còn là căn cứ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Nhu
cầu đa dạng của con người không ngừng biến đổi và tăng thêm đòi hỏi thị
trường phải đáp ứng. Vì thế tất yếu phải đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ,
như vậy không chỉ dừng lại ở cơ cấu kinh tế nông nghiệp truyền thống mà
đòi hỏi phải có sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng ngày càng đa dạng có
hiệu quả đi theo với sự phát triển của nhu cầu thị trường [15: tr.17-18].
Phát triển thị trường sản xuất nông thôn sẽ tạo điều kiện tiêu thụ nông sản

20
phẩm với tốc độ nhanh từ đó tạo ra thúc đẩy tái sản xuất mở rộng các loại
hàng hóa, sản phẩm đang có nhu cầu lớn, ổn định; từ đó thúc đẩy nông
nghiệp phát triển và chuyển dịch theo hướng CNH - HĐH.
Khoa học công nghệ: đã thực sự trở thành đòn bẩy thúc đẩy sự tăng
trưởng và phát triển nông nghiệp [23: tr.194]. Khoa học công nghệ được
coi là lực lượng vật chất trực tiếp. Việc ứng dụng công nghệ mới vào các
khâu canh tác, giống mới, chế biến và bảo quản sản phẩm sẽ làm thay đổi
trạng thái sản xuất, đẩy mạnh sự phân công lao động tạo thêm ngành nghề
mới trong nông nghiệp làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng hiện đại, hiệu quả cao
[15: tr.19]. Ngày nay sự phát triển của các công nghệ gen, công nghệ vi
sinh đã tạo ra nhiều giống cây trồng vật nuôi có khả năng chống chịu tốt
với những biến đổi của thời tiết và mang lại năng suất cao đã được nghiên
cứu và đưa vào áp dụng tại nhiều địa phương, điều này giúp cho ngành
nông nghiệp đạt được sự tăng trưởng mạnh mẽ về giá trị trong khi tỉ trọng
trong GDP có xu hướng giảm.
Cơ sở hạ tầng nông thôn: Các ngành sản xuất vật chất nhất là nông
nghiệp muốn phát triển để đáp ứng nhu cầu của thị trường thì yếu tố tiên
quyết đó là phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Đây là các yếu tố mở
đường, tạo nền cơ sở cho sự phát triển của tất cả các ngành sản xuất. Giao
thông vận tải làm cho quá trình vận chuyển nông sản hàng hóa thuận lợi
làm giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt
việc hệ thống điện khí hóa nông thôn sẽ thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo
hướng hàng hóa phục vụ nhu cầu của thị trường.
Chính sách phát triển nông nghiệp: nông nghiệp ngày nay đang phát
triển theo hướng hàng hóa, chính vì thế cần có những chính sách cụ thể để
phát triển nông nghiệp theo những mục tiêu đã xác định. Nông nghiệp là
một trong những lĩnh vực được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm chú
trọng phát triển [22: tr.192]. Đã có nhiều chính sách được thực thi và mang

21
lại hiệu quả cao trong nông nghiệp như chính sách dồn điền đổi thửa tích tụ
lại ruộng đất, chính sách hỗ trợ giá nông phẩm cũng như các chính sách
cho nông dân vay vốn với lãi suất thấp trong thời gian dài để đầu tư vào
phát triển các ngành trong nông nghiệp.
Chương 2: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NÔNG
NGHIỆP VÀ SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP HUYỆN Ý YÊN.
22
1. Điều kiện tự nhiên
1.1. Vị trí địa lí
Ý Yên là huyện đồng bằng nằm ở phía Tây của thành phố Nam Định,
có tọa độ địa lý 20
0
13’ - 20
0
17’B và 105
0
55’ - 106
0
09’ Đ; phía Bắc giáp
tỉnh Hà Nam, phía Đông Bắc giáp huyện Vụ Bản, phía Đông Nam giáp
huyện Nghĩa Hưng, phía Tây và phía Nam giáp tỉnh Ninh Bình lấy sông
Đáy làm ranh giới. Diện tích toàn huyện là 24 173 ha. Dân số đạt 227 818
người (năm 2012). Gồm 32 đơn vị hành chính (31 xã và 1 thị trấn)
[20: tr.4].
Ý Yên là cửa ngõ phía tây của tỉnh Nam Định, là cầu nối trung chuyển
giữa tỉnh Nam Định với tỉnh Ninh Bình và các tỉnh phía nam. Thị trấn Lâm
là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của huyện, cách thành phố Nam
Định 25 km, cách thành phố Ninh Bình 9km. Đây là thị trường lớn để giao

lưu, tiêu thụ hàng hóa, trao đổi kỹ thuật công nghệ, thông tin và kinh
nghiệm quản lý kinh doanh [20: tr.4].
Ý Yên có mạng lưới giao thông đường sắt, đường bộ, đường sông
thuận lợi. Đó là các tuyến quốc lộ 10, tỉnh lộ 12, 64, 56, 57 và tuyến đường
cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình được hoàn thành và đưa vào sử dụng tháng
7/2012. Mạng lưới sông Đáy, sông Đào cũng hòa nhịp tạo sự liên hoàn vào
hệ thống giao thông của toàn huyện tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển, giao lưu kinh tế với các huyện trong tỉnh và các tỉnh trong cả nước
[20: tr.4]. Và với nông nghiệp mạng lưới giao thông vận tải thuận tiện đã
giúp nông dân phân phối các sản phẩm nông nghiệp đầu ra một cách dễ
dàng, và cung cấp máy móc, phân bón, giống khi có nhu cầu.
1.2. Địa hình và thổ nhưỡng
Cũng giống như nhiều vùng đất trong ô trũng Hà - Nam - Ninh, Ý Yên
là vùng đất hình thành sớm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, là
vùng đất thấp trũng hơn cả, địa hình lại không đều, có vùng đất rất cao có
23
vùng lại rất thấp nên sản xuất nông nghiệp gặp những khó khăn nhất định.
Ngoài ra địa hình xen lẫn một vài đồi núi thấp nằm rải rác tập trung ở phía
Bắc huyện [20: tr.5].
Với tổng diện tích đất tự nhiên của toàn huyện là 24 173 ha, quỹ đất
đưa vào sử dụng của toàn huyện gần như tuyệt đối, chiếm tới 99,3% diện
tích đất tự nhiên [19]. Đất đai của Ý Yên khá đa dạng thành phần cơ giới
chủ yếu là đất thịt nặng, đất thịt trung bình và đất cát pha, tạo điều kiện
thuận lợi để phát triển tiềm năng nông nghiệp, đặc biệt là trồng lúa nước và
nuôi trồng thủy sản. Ở một số vùng đất ven sông trong và ngoài đê có thể
phát triển mạnh trồng rau màu và cây công nghiệp [20: tr.5].
Biểu đồ 1: Cơ cấu sử dụng đất tự nhiên của huyện Ý Yên năm 2012 (%)
Nguồn: [19]
Trong cơ cấu sử dụng đất tự nhiên của vùng, đất nông nghiệp chiếm
đa số 72,5% diện tích (17 536 ha). Đất đai của huyện đa dạng và có tính

không đồng nhất giữa các vùng. Theo “Báo cáo điều chỉnh quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đai huyện Ý Yên đến năm 2010” [20], trên địa bàn
huyện có 10 loại đất, trong đó đất phù sa có tầng đốm rỉ chiếm tỉ lệ cao
nhất (27%) được phân bố ở các xã Yên Thành, Yên Thọ, Yên Lương… sau
đó là đất phù sa glây chua (15,4% diện tích) có ở Yên Minh, Yên Mỹ, Yên
Bình… Ngoài các loại đất phù sa còn có đất xám, đất cát và đất phèn
24
[20: tr.8]. Đây cũng điều kiện phải quan tâm trong quá trình chuyển đổi cơ
cấu cây trồng phù hợp với từng loại đất để đạt được hiệu quả kinh tế cao.
1.3. Khí hậu
Khí hậu là nhân tố ảnh hưởng lớn đến tính chất của cây trồng, vật
nuôi. Cũng giống như các huyện khác trong tỉnh Ý Yên mang đầy đủ
những đặc điểm của tiểu vùng khí hậu đồng bằng sông Hồng, là khu vực
nhiệt đới, gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều, có 4 mùa rõ rệt [20: tr.5].
- Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 23 - 24
0
C, số tháng có nhiệt độ
trung bình lớn hơn 20
0
C từ 8 - 9 tháng. Mùa đông nhiệt độ trung bình là
18,9
0
C, tháng lạnh nhất là tháng 1 và 2. Mùa hạ nhiệt độ trung bình là 27
0
C,
tháng nóng nhất là tháng 7 và 8 [20: tr.5].
- Độ ẩm: Độ ẩm không khí tương đối cao, trung bình

năm từ 80 - 85%,
giữa tháng có độ ẩm lớn nhất và tháng có độ ẩm nhỏ nhất chênh lệch không

nhiều. Tháng có độ ẩm cao nhất là 90% (tháng 3), tháng có độ ẩm thấp nhất
là 81% (tháng 11) [20: tr.5].
- Chế độ mưa: Lượng mưa trung bình năm từ 1700 - 1800 mm, tuy nhiên
lượng mưa phân bố không đều trong năm. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng
10, lượng mưa chiếm gần 80% lượng mưa của năm, các tháng mưa nhiều là
tháng 7, 8, 9. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa chiếm
20% lượng mưa năm. Các tháng mưa ít nhất là 12, 1, 2 có tháng hầu như
không có mưa. Có những năm mưa muộn làm ảnh hưởng đến việc gieo
trồng cây vụ đông và mưa sớm ảnh hưởng đến việc thu hoạch vụ chiêm
xuân [20: tr.5].
- Nắng: Hằng năm trung bình có tới 250 ngày nắng, tổng số giờ nắng từ
1650 – 1700 giờ. Vụ hè thu có số giờ nắng cao khoảng 1100 - 1200 giờ,
chiếm khoảng 70% số giờ nắng của cả năm [20: tr.5].
- Gió: Hướng gió thịnh hành thay đổi theo mùa, tốc độ gió trung bình cả
năm từ 2 - 2,3 m/s. Mùa đông hướng gió thịnh hành là gió Đông Bắc với
tần suất 60 - 70%, tốc độ gió trung bình 2,4 - 2,6 m/s, những tháng cuối
25

×