Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Thực trạng vốn xã hội Việt Nam: Hai vấn đề cần bàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (49.75 KB, 7 trang )

Thực trạng vốn xã hội Việt Nam: Hai vấn đề cần
bàn
Hoàng Tụy
Để cải thiện thực trạng vốn xã hội của chúng ta,
có hai vấn đề nổi bật cần lưu ý: một là đánh giá
đúng kết cấu nền tảng xã-hội-tâm-lý biểu hiện ở
các đặc trưng tính cách, phong tục, tập quán,
cách suy nghĩ, lối sống của người Việt; thứ hai là
xem xét tình trạng phát triển của xã hội dân sự,
tức là những tổ chức tự nguyện của người dân
trong sinh hoạt của cộng đồng bên ngoài thị
trường và nhà nước.
Về vấn đề thứ nhất, đã có nhiều người bàn về
những điểm mạnh, yếu, những cái hay, dở của
người Việt. Ở đây tôi chỉ muốn nêu lên một số
nhược điểm tính cách mà theo tôi có tầm ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển của văn hóa, khoa
học, giáo dục.
Cách đây hơn 10 năm, trong một hội thảo về đặc
trưng văn hóa dân tộc ở TP. HCM tôi có nhấn
mạnh yếu kém của người Việt về đầu óc tưởng
tượng. Nói cho chính xác, trí tưởng tượng của
người Việt không thuộc loại xuất sắc trên thế giới.
Nhận xét đó có thể chạm tự ái dân tộc của nhiều
người, nhưng tôi nghĩ đó là thực tế chúng ta cần
thẳng thắn nhìn nhận. Điều này thật ra cũng
chẳng có gì lạ đối với một dân tộc bị đô hộ hàng
nghìn năm, triền miên phải chống nhiều kẻ thù
xâm lược lớn hơn, mạnh hơn gấp bội, tất nhiên trí
tưởng tượng của dân tộc chỉ có thể phát huy
mạnh mẽ trong chiến tranh giữ nước. Nhưng


cũng chính vì thế trí tưởng tượng của người Việt
bị hạn chế trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống
bình thường. Chẳng hạn, trong kiến trúc truyền
thống, ta không có công trình nào tầm cỡ như
Angkor Wat của người Khmer. Trong kho tàng văn
học, những tác phẩm hay nhất của ta cũng lấy
cốt truyện dựa theo Tàu. Ta ít có những pho
truyện lớn, với nhiều tình tiết phức tạp hay ý
tưởng kỳ lạ độc đáo, lôi cuốn người đọc vào
những thế giới tưởng tượng nửa thực nửa hư như
ở nhiều nền văn học lớn khác trên thế giới. Hoàn
cảnh lịch sử cũng đã giam hãm ông bà ta quá lâu
trong lối học từ chương khoa cử, nên tư duy bị gò
bó, chúng ta thiếu những nhà tư tưởng lớn, những
triết gia tầm cỡ nhân loại. Tóm lại, gia tài để lại
về trí tưởng tượng sáng tạo của chúng ta phải nói
là khiêm tốn. Trong thời đại kinh tế tri thức, đây là
một nhược điểm mà nếu không cố gắng khắc
phục nhanh ta sẽ luôn ở thế yếu trong sự cạnh
tranh với thế giới. Einstein từng nói một câu nổi
tiếng: “Trí tưởng tượng còn quan trọng hơn tri
thức.” Mới nghe tưởng như một nghịch lý nhưng
thật ra là chân lý rất sâu sắc. Ý nghĩa thời sự của
chân lý đó là: học để hiểu, để nhớ, để mở mang
kiến thức là rất cần thiết, nhưng chỉ đủ để làm
theo, đi theo, chứ hoàn toàn chưa đủ để khám
phá, sáng tạo; mà người ta không thể khám phá,
sáng tạo với một trí tưởng tượng nghèo nàn.
Nhược điểm thứ hai cần nói đến ở người Việt là
thiếu tinh thần kỷ luật và ý thức gắn kết cộng

đồng. Trên thế giới người Đức nổi tiếng về hai đức
tính đó, đặc biệt về tính kỷ luật chính xác. Người
Trung Quốc, người Do Thái cũng nổi tiếng về tinh
thần gắn kết cộng đồng. Còn người Việt chúng ta
thì quá yếu về hai đức tính đó. Nhiều chuyện tiếu
lâm trong dân gian xung quanh việc này không
phải không có cơ sở. Ngay những việc rất nhỏ
trong giao thông đường phố cũng thấy rõ ứng xử
khác nhau của người Việt và người Đức: khi đèn
đỏ, mặc dù nhìn quanh không thấy có xe cộ qua,
người Đức vẫn kiên nhẫn đứng đợi, còn người Việt
thì thường sẽ tranh thủ vượt. Tính cách này ảnh
hưởng sâu sắc tới sự phát triển khoa học, công
nghệ, và xây dựng công nghiệp. Nền văn minh
hiện đại đòi hỏi mọi người phải tuân thủ nghiêm
ngặt các quy trình, nề nếp đã được chuẩn hóa
chính xác để bảo đảm sự vận hành nhịp nhàng
tối ưu của xã hội. Thế mà đã có biết bao công
trình xây dựng, nhà máy trên đất nước ta vừa mới
khánh thành đã phải liên tục sửa chữa, thậm chí
làm lại, chỉ vì sự cẩu thả trong việc tuân thủ các
quy trình, các chuẩn mực từ thiết kế đến thi
công. Đáng nói nhất là ý thức tôn trọng luật pháp
chưa thành thói quen hằng ngày ngay từ các
quan chức, khiến trong xã hội có nhiều tình
huống tưởng như không có luật pháp, rất nguy
hiểm.
Nhược điểm thứ ba là thiếu tinh thần học hỏi,
thực sự cầu thị. Nhược điểm này của người Việt
được thể hiện rõ nhất nếu chúng ta đối chiếu với

người Nhật để thấy hết sự tương phản. Người
Nhật có tinh thần khiêm tốn học tập cái hay của
người khác và ít có thói chủ quan tự mãn, tự ru
ngủ, tự cho mình là nhất thiên hạ. Khác với nhiều
người chúng ta, làm được chút gì thì ba hoa thiên
địa, đến khi thất bại thì chậm rút kinh nghiệm,
viện đủ mọi lý do để biện bạch ngoan cố. Đồng
thời, cách học hỏi của người Nhật không mang
tính nô lệ, không bị lệ thuộc; tuy học người khác
nhưng cũng biết đặt câu hỏi, lật tới lật lui, tìm
cho ra đạo lý, căn nguyên, chứ không tiếp thu
máy móc hời hợt. Điều này thấy rõ ngay cả trong
các hội thảo khoa học: thường người Nhật rất
chịu khó lắng nghe, đặt nhiều câu hỏi, biểu lộ sự
quan tâm, khuyến khích diễn giả phát biểu hết ý
kiến. Nhiều hội thảo khoa học ở Nhật không khí
sôi nổi hơn cả ở một số nước phương Tây. Có lẽ
nhờ cái tinh thần đó mà từ rất sớm họ đã biết mở
cửa, tiếp thu nền văn minh phương Tây, mau
chóng trở thành cường quốc và khi thất bại họ
cũng biết nhẫn nhục học hỏi, rút ra những bài
học cần thiết để mau chóng vươn lên trở lại từ
đống đổ nát. Thật khác với chúng ta, trong quá
khứ và hiện nay đã bỏ lỡ biết bao cơ hội chỉ vì cái
tính bảo thủ, không biết kịp thời học hỏi, rút kinh
nghiệm nghiêm chỉnh từ thất bại.
Cuối cùng, ngoài những nhược điểm đề cập trên
đây, có một đặc tính tiêu cực rất nghiêm trọng,
đó là thói giả dối. Từ chỗ vốn không thuộc truyền
thống của người Việt, trong mấy chục năm nay,

cái thói xấu này đã dần dần trở thành phổ biến
đến mức có thể nói đang trở thành một tính chất
tiêu biểu. Và nếu cứ để bệnh giả dối ngày càng
xâm nhập sâu vào mọi ngóc ngách cuộc sống, kể
cả các hoạt động khoa học và giáo dục, thì thật
đáng lo cho tiền đồ đất nước. Trong giáo dục, căn
bệnh này với các biến tướng của nó (tiêu cực
trong thi cử, chạy theo thành tích, v.v.) sẽ ngày
càng lấn át các xu hướng lành mạnh tích cực, làm
hỏng cả thanh thiếu niên, đẩy họ vào lối sống sa
đọa, không lý tưởng, không mục đích. Trong khoa
học, nếu không kịp thời chấn chỉnh thì nạn đạo
văn và nạn gian dối trong các báo cáo nghiên cứu
sẽ phát triển ngày càng tinh vi, trắng trợn, xóa
nhòa ranh giới giữa thật và dỏm, đầu độc môi
trường học thuật, làm nản lòng mọi người trung
thực, đẩy khoa học vào thế bế tắc rất khó thoát.
Vấn đề thứ hai cần xem xét về thực trạng vốn xã
hội ở Việt Nam là sự phát triển của xã hội dân sự.
Gần đây có điều đáng mừng là xã hội dân sự của
chúng ta đang dần dần hình thành và mạnh lên.
Ví dụ như ngày càng nhiều những người dân tập
hợp trong những tổ chức tự nguyện hoạt động
ngoài khuôn khổ chính quyền và không nhằm lợi
nhuận, chỉ với những mục đích cao quý, như từ
thiện, giúp đỡ, bênh vực người nghèo và những
số phận không may mắn, cả về vật chất lẫn tinh
thần; hoặc đơn giản là hợp tác hỗ trợ nhau trong
nghề nghiệp. Qua những tổ chức đó, ý thức trách
nhiệm công dân được nâng cao, sự gắn kết cộng

đồng được tăng cường, có lợi cho cộng đồng, có
lợi cho đất nước. Nhiều việc, thị trường và Nhà
nước không thể làm, hoặc không thể làm tốt
bằng xã hội dân sự. Đồng thời, xã hội dân sự
cũng là cầu nối giữa chính quyền và người dân, là
cái phanh để ngăn chặn chính quyền lạm dụng
quyền lực và nạn suy thoái đạo đức, giữ cho xã
hội phát triển hài hòa, lành mạnh.
Nói tóm lại, để phát triển vốn xã hội và qua đó
thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa sự phát triển của đất
nước rất cần hai điều. Thứ nhất, cần nhận thức rõ
những điểm yếu trong con người Việt Nam, tìm ra
nguyên nhân để từ đó có cách hạn chế và loại
trừ. Trong số các nguyên nhân, cần đặc biệt chú ý
tới những vấn đề về thể chế Nhà nước và cơ chế
thị trường, vì mặc dù vốn xã hội nằm ngoài phạm
trù thể chế và cơ chế thị trường nhưng những cải
cách về thể chế Nhà nước và cơ chế thị trường lại
có tác dụng thúc đẩy phát triển vốn xã hội. Ví dụ
đơn giản như nếu cơ chế thị trường không phát
triển, thì người dân không có động cơ cạnh tranh,
khiến cho trí tưởng tượng sáng tạo không được
phát huy và ngày càng teo tóp.
Thứ hai là phải tạo điều kiện phát triển xã hội dân
sự thay vì ràng buộc và hạn chế nó, bởi ngày
càng thấy rõ vai trò không thể thiếu được của xã
hội dân sự trong sự phát triển của đất nước. Một
xã hội dân sự phát triển lành mạnh, có tiếng nói
và vai trò độc lập với thể chế và thị trường, mới
có thể góp phần nâng cao vốn xã hội và qua đó

phục vụ lợi ích của cộng đồng ở những việc mà
thị trường và nhà nước không hoặc khó làm được
tốt.
Chúng ta luôn nói chiến lược phát triển đất nước
là chiến lược con người nhưng nếu không chú ý
tới hai điểm trên thì thật sự chỉ là lời nói suông,
chẳng có mấy tác dụng.
Theo TiaSang

×