Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

luận văn hay về tư tưởng hồ chí minh đại học sư phạm Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho SV Trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.48 KB, 72 trang )

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa thế
giới. Người là biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả dân tộc, đã cống hiến
trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Cuộc
đời, sự nghiệp và di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị đối
với dân tộc Việt Nam mà còn có ý nghĩa đối với nhân dân tiến bộ trên toàn
thế giới ở thời đại hiện nay. Hệ thống tư tưởng của Người được kết tinh bởi
truyền thống văn hóa tốt đẹp hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam và tinh
hoa văn hóa thế giới, là những quan điểm, những cách nhìn, những bài học vô
cùng ý nghĩa, trong đó tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là một tư tưởng lớn
và có ý nghĩa trong mọi thời đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương đạo đức lớn mà cả một dân
tộc phải noi theo, đạo đức của Người là kim chỉ nam cho mọi hành động của
mỗi cán bộ đảng viên và nhân dân lao động trong công tác và đời sống hàng
ngày. Những tư tưởng đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đảng ta
vận dụng và phát triển trong sự nghiệp xây dựng con người mới. Đảng ta
thấm nhuần đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh, từ đó luôn quan tâm chăm lo
giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành
những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Tạo nên nguồn nhân lực có phẩm chất tốt góp phần xây dựng đất nước phát
triển bền vững trong thời kì mới.
Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề giáo dục
và rèn luyện đạo đức cho thế hệ trẻ, Bác nói: “Có đức mà không có tài làm
việc gì cũng khó, có tài mà không đức là người vô dụng”. Bác còn dạy: “Dạy
cũng như học, phải chú trọng cả đức lẫn tài. Đức là đạo đức cách mạng. Đó
là cái gốc quan trọng”. Thực hiện theo lời Bác tại Đại hội IX Đảng ta đã chỉ
rõ phải: “phát triển đội ngũ giáo viên, coi trọng chất lược và đạo đức sư
1
phạm”. Trong nghề dạy học đạo đức của người thầy luôn được coi là nhân tố
quyết định đến sự thành công. Bởi lẽ không chỉ mang đến tri thức người giáo


viên còn phải đảm đương cả trách nhiệm giáo dục, uốn nắn về đạo đức tình
cảm cho học sinh theo những chuẩn mực xã hội quy định. “Sản phẩm” mà
người thầy tạo ra chính là nhân cách học sinh. Làm hư một viên ngọc có thể
bỏ đi, làm hư một đồ vàng có thể nấu lại, nhưng làm hỏng một con người đó
là một tội lớn. Với ý nghĩa đó việc giáo dục ĐĐNN cho SVSP là vô cùng
quan trọng và cần thiết.
Trong những năm gần đây, đất nước ta thực hiện nền kinh tế thị trường
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Sự
phát triển về nhiều mặt của đời sống xã hội có những ảnh hưởng tích cực tới
SVSP và giáo viên, phần lớn giáo viên và SVSP đã có nhận thức đúng đắn về
đạo đức nghề nghiệp, có ý thức vươn lên trong học tập, tu dưỡng, năng động,
sáng tạo, chấp hành đúng chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước,
luôn mong muốn đóng góp sức mình vào sự nghiệp “trồng người” của đất
nước.
Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng tạo ra ảnh hưởng
tiêu cực tới các vấn đề: đạo đức, luân lí, định hướng giá trị của tầng lớp xã
hội. Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI)
tại Đại hội đại biểu toàn quốc nhận định về vấn đề giáo dục đạo đức cho SV:
"Chất lượng giáo dục, nhất là chất lượng giáo dục tư tưởng, đạo đức còn kém,
một bộ phận học sinh, SV mờ nhạt về lý tưởng xã hội chủ nghĩa".
Mặt khác, một bộ phận SV chọn nghề sư phạm xuất phát từ chỗ cho
rằng đây là nghề ổn định không nhiều bon chen chứ chưa đặt lòng yêu nghề,
thích làm công việc dạy học lên hàng đầu, chưa có nhận thức đúng đắn, sâu
sắc về đạo đức nghề sư phạm. Giáo dục ĐĐNN cho SVSP trở thành nhiệm vụ
có ý nghĩa quan trọng hàng đầu để đào tạo ra những giáo viên có phẩm chất
2
tốt, có nhân cách hoàn thiện. Vì vậy, tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh ngày
càng khẳng định giá trị về cả lý luận và thực tiễn hơn bao giờ hết.
Là một SVSP, trong tương lai không xa em sẽ đứng trên bục giảng với
tư cánh là người giáo viên truyền thụ tri thức cũng như giúp các em học sinh

hoàn thiện mình về phẩm chất đạo đức. Vì vậy, tác giả rất mong muốn được
tìm hiểu và làm rõ vấn đề này, nên tác giả đã chọn đề tài “Vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức trong việc nâng cao ĐĐNN cho SV Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là một trong những tư tưởng lớn
của Người, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong thời đại ngày nay. Bởi vậy,
trên thực tế đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, những cuốn sách, những
bài viết trên các tạp chí đã đề cập ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Như:
Mạnh Hà “Học tập tấm gương đạo đức Bác Hồ”, Nhà xuất bản Từ điển bách
khoa, Hà Nội, 2007; “Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh - tập 1” Viện Hồ
Chí Minh xuất bản, Hà Nội, 1993; Lê Sỹ Thắng “Góp phần tìm hiểu tư tưởng
Hồ Chí Minh”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991; “Lời văn ý thơ
Hồ Chí Minh: Nghiên cứu học tập tư tưởng đạo đức thơ văn Hồ Chí Minh”,
Nhà xuất bản lao động, 2009; “Hồ Chí Minh - tư tưởng nhân văn, đạo đức
trong sự nghiệp cách mạng của người”, Nhà xuất bản lao động, 2009;
Nguyễn Đăng Vinh “Làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Nhà xuất
bản Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2008; …
Ngoài ra, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được bàn luận về rất nhiều vấn
đề được đăng trên các Tạp chí như: “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bước
phát triển mới về đạo đức trong văn hóa Việt Nam” (Đỗ Huy - Tạp chí Triết
học số 5(180),2006); “Kế thừa tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong công cuộc
đổi mới ở Việt Nam hiện nay”, (Tạp chí Triết học số 5, 2002); “Tư tưởng đạo
3
đức Hồ Chí Minh với việc nâng cao đạo đức cán bộ đảng viên hiện nay” (Lê
Hữu Nghĩa - Tạp chí Cộng sản, số 2 + 3, 2006); …
Rất nhiều khía cạnh giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đã được đào sâu
nghiên cứu và đề cập đến, đã đem lại giá trị về lý luận cũng như thực tiễn vào
cuộc sống rất ý nghĩa. Tuy nhiên, về vấn đề vận dụng tư tưởng đạo đức của
Hồ Chí Minh trong nâng cao ĐĐNN cho SV Trường Đại học Sư phạm Hà

Nội thì chưa có đề tài nào đề cập đến.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích
Khóa luận phân tích và làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và sự
vận dụng vào hoạt động giáo dục ĐĐNN cho SVSP hiện nay. Từ đó, đề xuất
một số kiến nghị nhằm nâng cao nhận thức về ĐĐNN cho SV trong trường,
hoàn thiện phẩm chất nhân cách người giáo viên.
- Nhiệm vụ
Trình bày khái quát cơ sở hình thành nên tư tưởng đạo đức của Hồ Chí
Minh.
Phân tích, làm rõ tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào nâng cao ĐĐNN cho SV Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng và pham vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
- Phạm vi nghiên cứu: ĐĐNN của SV Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội hiện nay.
5.Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp phân tích - tổng
hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu liên quan đến đề tài kết hợp
phương pháp quan sát, hỏi ý kiến chuyên gia…
4
6. Đóng góp của đề tài
Quá trình nghiên cứu khóa luận là cơ sở để đi sâu nghiên cứu chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
Khóa luận giúp nhận thức rõ giá trị ĐĐNN của SVSP, đặc biệt trong xu
thế hội nhập quốc tế, xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
Quá trình thức hiện khóa luận giúp cho bản thân tác giả có ý thức trân
trọng chuẩn mực giá trị đạo đức chung của xã hội, giá trị ĐĐNN nói riêng và
ngày càng ý thức sâu sắc tư tưởng đạo đức mà Hồ Chí Minh để lại. Đồng thời,

đây là một bước tập duyệt làm quen với công trình nghiên cứu khoa học. Nó
giúp cho tác giả củng cố kiến thức cơ bản, tích lũy kiến thức cũng như
phương pháp tiếp cận một vấn đề cụ thể đặt ra.
7. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo, khóa luận cấu tạo gồm 2
chương:
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong việc nâng
cao ĐĐNN cho SV Trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay.
5
NỘI DUNG
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1.1. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Đạo đức
Mỗi khía cạnh, mỗi nhà khoa học lại đề cập tới đạo đức ở những khía
cạnh, những phạm vi, nội dung khác nhau.
Theo từ điển Tiếng Việt: “Đạo đức là những tiêu chuẩn, những nguyên
tắc, quy định hành vi của con người đối với nhau, đối với xã hội. Đạo đức là
những phẩm chất tốt đẹp của con người theo những chuẩn mực đạo đức của
một giai cấp nhất định” [18].
“Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc,
những nguyên tắc, những chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự diều chỉnh
hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và
tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với
xã hội” [25, 6].
“Đạo đức là toàn bộ các quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh
giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ với
tự nhiên” [25].
“Đạo đức là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực, biểu hiện sự sự tự
giác trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng

đồng xã hội, với tự nhiên và cả bản thân mình”[25, 6].
Xét đến cùng, đạo đức thuộc về ý thức của con người, nó được biểu
hiện ở nhận thức động và sự tự đánh giá. Nhờ đó, mối cá nhân tự kiểm soát,
tự quyết định động cơ hành động, cách ứng xử trong cuộc sống phù hợp với
chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức của xã hội.
1.1.2. Nghề nghiệp
Theo từ điển Tiếng Việt: “Nghề: 1. Công việc chuyên làm theo sự phân
công lao động xã hội. Nghề dạy học, nghề nông, lâu năm trong nghề, tay
6
nghề; 2. Giỏi thành thạo trong một việc làm nào đó. Ví dụ: chụp ảnh rất nghề.
Nghề nghiệp (d): Nghề (nói khái quát): Trau dồi nghề nghiệp, lương tâm nghề
nghiệp” [25]. Nghề nghiệp là công việc mà người ta thực hiện suốt cả cuộc
đời. Nghề nghiệp không chỉ đảm bảo cuộc sống mà còn tôn vinh người làm
việc trong lĩnh vực đó.
1.1.3. Đạo đức nghề nghiệp
Mỗi loại hình nghề nghiệp luôn đặt ra những yêu cầu cho những hoạt
hộng trong lĩnh vực đó. Những yêu cầu, quy tắc, chuẩn mực mà họ phải tự
giác thực hiện.
Vậy ĐĐNN là hệ thống các chuẩn mực đạo đức phản ánh những yêu
cầu, đòi hỏi của xã hội và của bản thân nghề nghiệp đối với người làm việc
trong lĩnh vực nghề nghiệp đó, giúp họ hoàn thành nhiệm vụ của mình với kết
quả cao nhất. Như vậy có bao nhiêu loại nghề nghiệp thì cũng có bấy nhiêu
loại đạo đức nghề nghiệp.
1.1.4. Sinh viên
SV là người học tập tại các trường đại học, cao đẳng hay trung cấp
chuyên nghiệp. Ở đó, họ được truyền đạt kiến thức bài bản về một ngành
nghề, chuẩn bị cho công việc sau này của họ. Họ được xã hội công nhận qua
những bằng cấp đạt được trong quá trình học. Quá trình học của họ theo
phương pháp chính quy, tức là họ đã phải trải qua bậc tiểu học và trung học.
Nguồn gốc của từ SV được hiểu theo nghĩa tiếng Pháp étudiant: người nghiên

cứu. Tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Nga, cũng đồng nghĩa như vậy. [29].
1.1.5. Con người mới
“Con người mới vừa là sản phẩm xã hội mới, vừa là chủ thể xây dựng
nên xã hội mới”.[1, 43]. Vì vậy, có thể hiểu con người mới là con người xã
hội chủ nghĩa, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công thì phải xây dựng
con người xã hội chủ nghĩa.
7
Con người xã hội chủ nghĩa là con người phát triển toàn diện, hài hòa
được từng bước hình thành trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Con
người XHCN vừa là chủ thể trong quá trình xây dựng xã hội CNXH, vừa là
sản phẩm của quá trình đó. Con người XHCN không chỉ là mục tiêu
của CNXH mà còn là động lực của sự nghiệp xây dựng CNXH. CNXH sẽ
không thành công nếu không xây dựng và phát triển con người CNXH.
1.2. Cơ sở hình thành
Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa
kiệt xuất của dân tộc ta và của nhân loại, đã để cho chúng ta một di sản tinh
thần vô giá, một hệ thống tư tưởng về nhiều mặt. Hồ Chí Minh là người tiêu
biểu nhất về đạo đức cách mạng, là nhà giáo dục đạo đức lỗi lạc. Người đã
dày công xây dựng nền đạo đức cách mạng ở Việt Nam. Những tư tưởng và
tấm gương đạo đức của Người là một bộ phận trong toàn bộ di sản vô giá mà
người để lại cho chúng ta và muôn đời sau.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng con
người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết
dân tộc…
Trong hệ thống tư tưởng đó không thể không nhắc đến tư tưởng đạo

đức của Người. Đạo đức là một nội dung xuyên suốt trong tư tưởng cũng như
hoạt động thực tiễn của Người. Người đã luôn tự tu dưỡng, rèn luyện mình trở
thành con người mẫu mực nhất; là tấm gương trong sáng nhất về đạo đức làm
người, đạo đức cách mạng. Những tư tưởng đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã thật sự mở đầu một cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức ở nước
8
ta, đồng thời cũng làm phong phú thêm kho tàng đạo đức học Mác - Lênin
trên nhiều mặt quan trọng. Trong tư tưởng và tấm gương đạo đức của Người
chúng ta thấy rõ tính cách mạng và tính khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin,
bản chất tiên tiến của giai cấp vô sản và những tinh hoa của văn minh nhân
loại và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đó là nền đạo đức của hôm
nay và của ngày mai.
Hệ thống tư tưởng đạo đức hoàn chỉnh của Người thường được trình
bày rõ ràng, giản dị, nhiều khi cô đọng xúc tích như những châm ngôn, nhưng
chứa đựng những chuẩn mực chính xác để đánh giá mọi tư tưởng và hành
động của con người và hướng dẫn con người vươn tới cái cao đẹp. Sức thuyết
phục của đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ ở những tư tưởng Người nêu lên
mà còn ở sự cao đẹp của chính cuộc sống mà Người đã sống. Đó là một mẫu
mực đạo đức nhất quan của cuộc đời trọn vẹn, luôn thống nhất lời nói và việc
làm, tư tưởng với hành vi, động cơ với hiệu quả trong đạo đức. Người mãi
mãi là tấm gương trong sáng tuyệt vời của một người thầy, vị lãnh tụ, người
cha, người bác kính yêu và gần gũi của con người Việt Nam, người chiến sĩ
quốc tế lỗi lạc, người bạn thân của các dân tộc bị áp bức, của giai cấp vô sản
và những người tiến bộ trên toàn thế giới.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của
dân tộc Việt Nam, đã được hình thành trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc ta,
đồng thời, kế thừa tư tưởng đạo đức phương Đông, những tinh hoa đạo đức
của nhân loại, đặc biệt quan trọng là tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác -
Lênin cũng như những tấm gương đạo đức trong sáng của Mác, Ăngghen,
Lênin đã để lại.

1.2.1. Sự tiếp thu những giá trị truyền thống đạo đức của dân tộc
Truyền thống dân tộc Việt Nam là sản phẩm của một quá trình phát
triển lâu dài qua hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh sinh tồn, chống thiên tai
khắc nghiệt và chống họa xâm lăng bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Trong
9
suốt chiều dài lịch sử đó đã bồi đắp nên những truyền thống đạo đức tốt đẹp
như cần cù, anh dũng, hòa hợp dân tộc, khoan dung độ lượng, quý trọng con
người, thương người như thể thương thân, uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ
kẻ trồng cây. Là đạo lí sống vì làng, sang vì nước; lá lành đùm lá rách…
Những giá trị chủ nghĩa nhân ái, nhân văn, nhân đạo: nước lấy dân làm gốc…
đặc biệt, chủ nghĩa yêu nước hết sức sâu sắc.
Hồ Chí Minh là người Việt Nam điển hình và mẫu mực kế thừa truyền
thống đạo đức, đạo lí của dân tộc Việt Nam:
Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất của dân tộc
được hình thành trong suốt quá trình lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước, đây chính là truyền thống đạo đức quý báu nhất, nguồn gốc sức mạnh
xuyên suốt lịch sử.
Hai là, về phẩm chất cá nhân của con người Việt Nam truyền thống:
kính hiếu cha mẹ, tôn trọng người trên, nhịn nhường người dưới; đoàn kết hòa
thuận trong gia đình, cần cù, siêng năng, hiếu học, ham hiểu biết, cần kiệm
liêm chính, công bằng vô tư; nghiêm khắc với mình, khoan dung với người;
thành thật chữ tín; dũng cảm hiến thân, mưu trí sáng tạo trong chiến đấu…
Ba là, về luân lý đạo đức truyền thống của con người Việt Nam: nhấn
mạnh nội dung xả thân vì xã hội, vì dân tộc, vì quốc gia…
Bốn là, lấy lòng nhân ái làm nguyên tắc, sự hòa đồng làm phương châm
trong quan hệ giữa người với người, đề xướng đạo người, khuyên con người
sống có tình có nghĩa, nhân đức, thủy chung vẹn tròn. Nhấn mạnh việc thực
hiện trách nhiệm đạo đức cá nhân trong đạo người.
Trong đạo người dân tộc Việt Nam đề cao chủ nghĩa nhân đạo, tính
người, tình người trong cuộc sống. Dân Việt Nam trọng tình, trọng nghĩa, đặc

biệt là chú ý đến tình thương, những câu ca dao mặc dù không đủ chứng cớ
vẫn được xem là có từ đời bà Trưng, là câu ca dao nói về tình thương, mà là
tình thương dân tộc “Người trong một nước phải thương nhau cùng”…
10
Những giá trị truyền thống đạo đức của dân tộc đã được Hồ Chí Minh
nâng cao lên tầng cao mới được kết hợp truyền thống với hiện đại. Truyền
thống đạo đức dân tộc là cơ sở là tiền đề rất quan trọng để Hồ Chí Minh tiếp
thu tư tưởng đạo đức phương Đông và phương Tây, tiếp thu nội dung sáng tạo
những nguyên lý đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin.
1.2.2. Sự tiếp thu những giá trị văn hóa phương Đông và phương Tây
Những tinh hoa văn hóa nhân loại đã được Hồ Chí Minh chọn lọc, kế
thừa xuất sắc làm phong phú nền đạo đức, phù hợp với yêu cầu cách mạng và
bản sắc dân tộc Việt Nam.
Quá trình tiến hóa của loài người cũng là quá trình phát triển nền đạo
đức theo hướng tiến bộ về tự do, bình đẳng, bác ái, dân chủ, nhân quyền, nhân
đạo… Thành tựu về di sản đạo đức đó đã được Người quan tâm, nghiên cứu
và tìm ra hạt nhân hợp lí trong xây dựng hình thành nên tư tưởng đạo đức của
Người.
Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều khái niệm, phạm trù của các tư tưởng
đạo đức đã có từ trước:
Trước hết, là Nho giáo
Người đánh giá cao tư tưởng của Khổng Tử. Người nói: “Đạo đức của
ông, học vấn của ông và những kiến thức của ông làm cho những người cùng
thời cả hậu thế phải cảm phục”.
Đạo đức Khổng Tử thấm vào tư tưởng, tình cảm của Hồ Chí Minh
không phải là giáo điều “tam cương, ngũ thường” mà là tinh thần nhân nghĩa,
có lý, đặc biệt là việc Khổng Tử ca ngợi sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Theo
Hồ Chí Minh: “Về căn bản, chủ nghĩa Khổng Tử là sự bình yên trong xã hội
không bao giờ thay đổi”[15, 476 - 477].
Hai là, Đạo Phật

Phật giáo đã vào nước ta từ rất sớm. Ngay khi Nho giáo đã trở thành
quốc giáo, Phật giáo vẫn còn ảnh hưởng rất mạnh mẽ trong nhân dân, để lại
11
nhiều dấu ấn trong văn hóa Việt Nam, từ tư tưởng, tình cảm, tín ngưỡng đến
phong tục tập quán, lối sống… đã thấm vào tư duy, hành động, cách ứng xử
của con người Việt Nam. Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng vị tha, từ bi, bác
ái, cứu khổ cứu nạn, thường người như thể thương thân, đức tính giản dị và
tiết kiệm, không ham danh, ham lợi và ham quyền.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã học từ đạo Phật nếp sống có đạo đức, trong
sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện; tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ
chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp. Đức Phật nói: “Ta là Phật đã
thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”; Hồ Chí Minh còn học ở luật “chấp tác”:
“nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” của Phật giáo Thiền tông, đề cao lao
động, chống lười biếng.
Hồ Chí Minh cũng đã suy tư rất nhiều về đạo đức Phật giáo. Người
hiểu rất rõ nền văn hóa gắn liền vói sự tu tâm, giản dị và các đóng góp của
tăng ni, phật tử ở nước ta cho cách không sát sinh của đạo đức Phật giáo tạo
ra một lối sống thiếu tích cực trong việc cải tạo xã hội. Do đó, theo Hồ Chí
Minh: “Ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng chẳng làm lợi cho loài
người”[11, 172].
Ba là, Chúa Giêsu
Hồ Chí Minh đã “gặp” Giêsu khi đặt chân lên mảnh đất phương Tây,
có thể nói đây là miếng đất chịu ảnh hưởng lâu ngày tư tưởng nhân ái của
Chúa Giêsu. Ăngghen đã nói đến những nhân tố tích cực của đạo Cơ đốc khi
nó mới ra đời “Nó là sự phản ứng lại chế độ tàn bạo đương thời đối với quần
chúng bị áp bức”.
Văn minh Hi Lạp và La Mã đã đánh dấu một giai đoạn phát triển rực rỡ
của trí tuệ tài năng và phẩm giá con người. Nhưng văn minh đó chỉ bó hẹp
trong giai cấp chủ nô và những người tự do. Nó không được đặt ra với những
người nô lệ, những người này chỉ được coi như những súc vật mà thôi. Giêsu

12
không đồng tình với sự phân biệt đó, đòi hỏi lòng nhân ái phải bao trùm lên
mọi con người và bình đẳng phải được thực hiện giữa mọi tầng lớp xã hội.
Chủ nghĩa tư bản phương Tây đã hấp dẫn Hồ Chí Minh từ trong nhà
trường phổ thông với khẩu hiệu: Tự do, Bình đẳng, Bác ái, những điều đã
không có nữa hoặc không còn nữa ở quê hương Người. Không có tự do ở
người dân mất nước. Không có bình đẳng giữa bóc lột và bị bóc lột. Không có
bác ái ở những kẻ cướp nước và bán nước. Những quan điểm tiến bộ trong
đạo đức tư sản ấy dù chống lại sự nô dịch của giáo hội và thần học, vẫn không
ra ngoài tư tưởng nhân ái của Chúa Giêsu. Tư tưởng ấy vẫn chỉ được tiếp tục
bổ sung hoặc đặt lại trên cơ sở mới.
Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc hai bản tuyên ngôn của cách mạng tư sản Mỹ
và cách mạng tư sản Pháp nhấn mạnh: Tự do, Dân quyền và Dân chủ, trên
tinh thần nhân ái giữa người với người.
Bốn là, đạo đức của Tôn Trung Sơn
Năm Hồ Chí Minh lên đường cứu nước (1911) cũng là năm Tôn Trung
Sơn thành công trong cách mạng Tân Hợi. Tôn Trung Sơn với chủ nghĩa Tam
dân đã xuất phát từ đạo đức cụ thể của xã hội Trung Quốc từ xưa đến nay.
Ông đã trên cơ sở đó chế định những đường lối và biện pháp xây dựng một
nước Trung Hoa mới, với chế độ mới, xã hội mới, đạo đức mới. Tiến hành
cách mạng ở một nước phương Đông, Hồ Chí Minh không thể bỏ qua quan
điểm lý luận và kinh nghiệm thực tế của Tôn Trung Sơn ở Trung Quốc [26]
1.2.3. Dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin về đạo đức Hồ
Chí Minh
Nếu đạo đức truyền thống là cội nguồn mở đầu cho việc hình thành đạo
đức Hồ Chí Minh thì nội dung cơ bản tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác -
Lênin là một nguồn có ý nghĩa quyết định đến định hướng sự phát triển nên
đạo đức cách mạng theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Người đã tìm thấy ở chủ
nghĩa Mác - Lênin một nền đạo đức cộng sản một luân lý cộng sản, mà cốt lõi
13

là chủ nghĩa nhân đạo, ở đó đạo đức macxit vì hạnh phúc, tự do, bình đẳng,
bác ái.
Sự hấp dẫn của Mác - Lênin đối với Hồ Chí Minh chính là lý tưởng giải
phóng để cho con người, trước hết là giai cấp vô sản và nhân dân lao động.
Hồ Chí Minh rất xúc động khi thấy Lênin đã gắn liền sự nghiệp giải phóng
giai cấp vô sản với sự giải phóng của các dân tộc bị áp bức trong đó có Tổ
quốc của Người.
Hồ Chí Minh là người học trò chân chính của chủ nghĩa Mác - Lênin,
bởi ở đây lòng nhân ái không chỉ thể hiện bởi lòng thương xót đối với những
con người đau khổ, không chỉ trông chờ ở sự cứu vớt của thần thánh và vĩ
nhân. Ở Mác - Lênin, Hồ Chí Minh, lòng nhân ái phải biểu hiện ở những hoạt
động thiết thức, chiến đấu quên mình để xóa bỏ áp bức bóc lột, để giải phóng
về mọi mặt cho giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Điều quan trọng là chủ
nghĩa Mác đã tạo ra một bước ngoặt căn bản trong tư tưởng nhân ái. Đó là
quan điểm, sự giải phóng con người phải do chính con người đảm nhiệm.
Cái chìa khóa mà Hồ Chí Minh tìm thấy trong sự nghiệp giải phóng đất
nước và giáo dục đạo đức cho con người, chính là phép biện chứng của
C.Mác. Phép biện chứng ấy đã đem lại cho nhân loại một sự sáng suốt kì diệu
để nhận thức được quy luật của tự nhiên, của xã hội, của con người. Phép biện
chứng ấy đã khiến chủ nghĩa Mác mang tính phổ biến ở mọi hoàn cảnh xã hội
và mang tính trường tồn ở mọi thời kì lịch sử. Nó đòi hỏi những người macxit
không bao giờ dừng lại ở những công thức có sẵn đối với sự vận động của xã
hội và sự phát triển của con người. Chính vì lẽ đó mà tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh luôn luôn là một quá trình vận động và sáng tạo, để luôn luôn phát
huy hiệu quả của nó ở mọi hoàn cảnh lịch sử.
Theo quan điểm của Mác - Lênin, đạo đức cách mạng có những đặc
điểm sau:
Đạo đức cách mạng là sự phù hợp giữa lợi ích cá nhân và lợi ích chung.
14
Đạo đức là sự trung thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng của giai

cấp vô sản và không ngừng vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của cuộc
cách mạng đó.
Đó là thực hành chủ nghĩa tập thể, đoàn kết, gắn bó mật thiết với nhân
dân.
Là hoạt động trung thực và tận tâm vì chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa công
sản.
Đạo đức cách mạng là đấu tranh không mệt mỏi cho tinh thần nhân đạo
và chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.
V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh rằng: “Tất cả những thứ đạo đức xuất
phát từ những quan niệm ở ngoài nhân loại, ở ngoài các giai cấp, chúng ta đều
bác bỏ. Chúng ta nói rằng đây chỉ là lừa bịp, dối trá, nhồi sọ công nhân và
nông dân để mưu lợi ích riêng cho bọn địa chủ và tư bản. Chúng ta nói rằng,
đạo đức của chúng ta hoàn toàn phục vụ lợi ích đấu tranh giai cấp của giai cấp
vô sản mà ra”[21, 366 - 367].
Cùng với tiếp thu tư tưởng đạo đức cách mạng macxit, Hồ Chí Minh
còn nhận thấy những người thầy của mình tiêu biểu cho những tấm gương
đạo đức vĩ đại. Vì thế khi Lênin qua đời Hồ Chí Minh viết: “Lênin là người
đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng về sự giản dị vĩ đại và sự khiêm tốn
cao độ”[6, 295], “không chỉ thiên tài của Người mà chính là tính coi khinh xa
hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là
đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân
tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người không gì ngăn
cản nổi”[5, 14]. Điều đó cho thấy, không những học thuyết Mác - Lênin, mà
ngay cả phẩm chất đạo đức của các ông ảnh hưởng lớn lao đến Hồ Chí Minh
biết nhường nào. Vì thế, những nội dung cơ bản tư tưởng đạo đức của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tuy không phải là cội nguồn mở đầu, nhưng là nguồn cơ
bản định hướng phát triển của nền đạo đức Hồ Chí Minh. Thực tiễn chứng
15
minh rằng, trong quá trình chỉ đạo thực hiện cuộc cách mạng đạo đức ở Việt
Nam, Hồ Chí Minh không bao giờ rời xa định hướng này.

Hồ Chí Minh đã sử dụng những khái niệm, những phạm trù đạo đức đã
từng quen thuộc với dân tộc Việt Nam từ lâu đời, đưa vào đây những nội
dung đồng thời bổ sung những khái niệm, những phạm trù đạo đức của thời
đại mới. Chính vì vậy mà giá trị đạo đức mới đã hòa nhập với giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc, làm cho mỗi người Việt Nam đều cảm thấy gần gũi.
Hơn nữa những giá trị đạo đức truyền thống lại được nâng lên tầm cao mới,
làm cho Người thực hiện được kết hợp truyền thống với hiện đại. Việc tiếp
thu những tinh hoa đạo đức nhân loại đã làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh trở
nên phong phú, được đông đảo những người nước ngoài chấp nhận, tìm thấy
một Việt Nam trong nhân loại, cũng như nhân loại trong Việt Nam. Sự kết
hợp giữa truyền thống với hiện đại, giữa dân tộc và nhân loại cũng là một đặc
trưng nổi bật của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
1.2.4. Thực tiễn hoạt động của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trên quê hương, đất nước giàu truyền
thống yêu nước. Người đã tiếp thu những giá trị truyền thống đạo đức từ gia
đình, làng xóm, từ lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của chính quê
hương, Tổ quốc mình.
Sinh trưởng trong một gia đình nhà nho, cả cha và mẹ đều là người có
học vấn cao. Hồ Chí Minh đã tiếp thu ở họ nhân cách sống, quan điểm sống,
chí hướng sống từ người cha, nề nếp đạo đức, cách đối nhân xử thế với mọi
người từ mẹ. Từ đó đã hình thành nên nền tảng phẩm chất đạo đức tốt đẹp của
Người. Với tư chất thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo cùng với những
phẩm chất đạo đức đã được hun đúc từ trước Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh
hoa tư tưởng của dân tộc và nhân loại. Hồ Chí Minh đã tiến hành một công
việc vô cùng khó khăn đó là xây dựng nên những phương hướng cụ thể và
những biện pháp cụ thể để áp dụng vào cách mạng Việt Nam. Chính vì thế mà
16
tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa trí tuệ cao nhất với thực tiễn lớn
nhất của cả dân tộc và nhân loại.
Trong quá trình thực tiễn hoạt động cách mạng, Người đi nhiều nơi,

tiếp xúc nhiều nền văn minh nhân loại. Hồ Chí Minh không ngừng học hỏi,
tiếp thu, phát triển những cái mới, cái tốt loại bỏ những cái tiêu cực hủ hóa.
Bằng khả năng tư duy logic và thiên chất vốn có Hồ Chí Minh đã kế
thừa tinh hoa văn hóa nhân loại cùng với những giá trị truyền thống quý báu
của dân tộc. Mong muốn kết hợp giữa các gia trị đạo đức Đông – Tây, tiếp
biến vào văn hóa Việt Nam cho phù hợp với thời cuộc mới, Người viết: “Học
thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn
giáo của Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có
ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng; chủ nghĩa Tôn Dật Tiên
có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử,
Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung nào? Họ đều mưu
cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay
họ còn sống trên đời này tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau rất
hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm một người học trò
nhỏ của các vị ấy”[27].
1.3. Vai trò của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với đời
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một tài sản tinh thần vô giá để chúng
ta xây dựng một xã hội mới trong thế kỉ XXI. Những phẩm chất đạo đức mà
Hồ Chí Minh đề cập đến hầu như đã được các nhà tư tưởng vĩ đại vào bậc
nhất của nhân loại thời cổ đại Khổng Tử luận bàn một cách có hệ thống và đã
trở thành trường phái gọi là Nho giáo, ảnh hưởng trong suốt 2000 năm trong
lịch sử phương Đông…
Tuy nhiên, tư tưởng đạo đức của Người không phải vì thế mà bị mờ
nhạt, bởi tư tưởng đạo đức mà Hồ Chí Minh để lại là sự kết hợp hài hòa chính
những tinh hoa đạo đức nhân loại và những tấm gương đạo đức lớn để lại.
17
Chính vì vậy, đạo đức của Người không chỉ có ý nghĩa lớn lao trong thời kì
đấu tranh giải phóng dân tộc mà đến ngày nay hòa bình độc lâp trở lại nó vẫn
có ý nghĩa hết sức sâu sắc đối với đất nước.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng

con người mới, con người xã hội chủ nghĩa tiến tới xây dựng thành công chế
độ xã hội chủ nghĩa ở đất nước Việt Nam.
Việt Nam hiện nay đang thực hiện nền kinh tế thị trường, đang công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đang trên xu thế toàn cầu hóa hội nhập thế giới, nói
cách khác là đang trong quá trình “chuyển hình xã hội”. Mô hình cũ theo kết
cấu “chính trị - đạo đức”, mô hình mới theo kết cấu “chính trị - kinh tế”.
“Chuyển hình xã hội” nghĩa là cái cũ chưa qua và cái mới cũng chưa tới, hay
cái cũ đang qua và cái mới đang tới. Mỗi mô hình đều có hai mặt, mặt tích
cực và tiêu cực tác động vào sự phát triển của xã hội, của đất nước. Tạo ra
nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng đem lại nhiều thách thức, khó khăn cho sự
phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống, đặc biệt trong đạo đức, lối sống của
thế hệ thanh thiếu niên hiện nay. Sự tăng trưởng GDP có nhanh chóng như thế
nào cũng không thể trả giá cho sự hụt hẫng về đạo đức xã hội.
Trong thời đại của mình, Hồ Chí Minh phải giải quyết một khối lượng
lớn các vấn đề có liên quan bản chất đến việc xây dựng các quan hệ đạo đức:
truyền thống và hiện đại; dân tộc và quốc tế; cá nhân và xã hội; dân tộc và tộc
người; con người và tự nhiên; con người và khoa học khoa học - kỹ thuật.
Người xác lập tổng thể các mối quan hệ của đạo đức vầ xác lập ý thức đạo
đức mới trên các chiều cạnh của con người đối với tự nhiên, con người đối
với xã hội, với gia đình, vói bản thân, với truyền thống, với dân tộc, với quốc
tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm sâu sắc đến mối quan hệ giữa đạo đức
sinh thái với đạo đức xã hội. Theo đó, “vì lợi ích mười năm trồng cây; vì lợi
ích trăm năm thì phải trồng người”: Trồng cây là bản chất đầu tiên của đạo
đức sinh thái và trồng người là bản chất đầu tiên của đạo đức xã hội.
18
Đây là một tư tưởng lớn và toàn diện về đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Tư tưởng này có một tầm chiến lược sâu rộng trong ứng xử đạo đức
của con người với tự nhiên và xã hội. Xã hội cũ đã hình thành các chuẩn mực
đạo đức cũng như giáo dục đạo đức không toàn diện. Nền đạo đức cũ xác lập
được các phạm trù thiện, ác, lương tâm, danh dự, nghĩa vụ, trách nhiệm

nhưng không xác lập được hệ chuẩn mực bình đẳng xã hội. Sự bất bình đẳng
dân tộc, bất bình đẳng giai cấp, bất bình đẳng giới tính, bất bình đẳng thế hệ,
sự thiếu công bằng giữa người dân và người có chức có quyền làm cho các
phong tục, các tập quán xã hội bị kìm trói. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã tiến hành
cuộc cải tạo xã hội rộng lớn nhằm xác lập một ý thức đạo đức mới đủ khả
năng thúc đẩy những nhân tố tiến bộ xuất hiện, tạo nên các cách ứng xử, các
quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con người và tự nhiên rất mới.
Hồ Chí Minh đã rất quan tâm sâu sắc đến các giá trị đạo đức làm cơ sở
cho sự phát triển trên một chiều rộng và bám sâu vào mọi quan hệ xã hội.
Trên nền tảng quyền con người, quyền dân tộc cơ bản, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã thức tỉnh ý thức đạo đức dân tộc và tạo tiền đề để ý thức đó nối liền một
mạch với thời đại mà trước đó, đạo đức Nho giáo, Phật giáo không thể thực
hiện được.
Chính vì vậy mà giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có ý nghĩa
mang tầm chiến lược trong xây dựng con người mới, xã hội mới, xây dựng
đất nước phát triển bền vững dài lâu.
1.4. Một số nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.4.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức đối với
mỗi người và xã hội
Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của con người cách mạng, cũng
giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Người vẫn thường
nói, đối với con người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa;
nguời cách mạng phải có đạo đức cách mạng, mới hoàn thành được nhiệm vụ
19
cách mạng. Bởi lẽ, sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp
rất to lớn, khó khăn và nặng nề; con đường đi đến độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội là con đường dài, không phải là một đại lộ thẳng tắp. Nó đòi hỏi
sự phấn đấu không ngừng của mỗi người, mỗi thế hệ, hơn nữa còn của nhiều
thế hệ nối tiếp nhau. Chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền tảng ấy phải là công
việc thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, của mọi gia đình và mỗi người

trong xã hội ta.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng phải “là đạo đức, là văn
minh”, thì mới hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Người
cũng thường nhắc lại ý của Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ,
danh dự, lương tâm của dân tộc và của thời đại. Nếu xét đến cùng thì văn
minh tức là trí tuệ, trong đó chủ yếu là sự hiểu biết đúng đắn về chủ nghĩa
Mác - Lênin, những tri thức hiện đại của nhân loại, thực tiễn Việt Nam và thế
giới, những quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, những hiểu biết để
đưa sự nhiệp cách mạng đến thắng lợi. Còn đạo đức chính là những phẩm
chất đòi hỏi con người cần phải có để tham gia vào cuộc đấu tranh cho độc
lập dân tộc, và chủ nghĩa xã hội, để cống hiến được nhiều nhất cho cuộc đấu
tranh đó. Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng bởi vì muốn làm cách mạng
thì trước hết con người phải có cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp đối với
giai cấp công nhân, nhân dân lao động, với cả dân tộc mình phải có tâm, có
đức mới giữ vững được chủ nghĩa Mác - Lênin và đưa chủ nghĩa Mác - Lênin
vào cuộc sống. Con người Hồ Chí Minh đi đến chủ nghĩa Mác - Lênin là một
minh chứng rất rõ nét về điều đó.
Đặc biệt Hồ Chí Minh đề cao đạo đức cách mạng, Người nói:“Đạo đức
đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới. Đạo đức vĩ đại, nó
không vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc,
của loài người”[9, 253]. Và theo cách diễn đạt bình dị của Người: Đạo đức
như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối, sức mạnh của con người, sức có
20
mạnh mới gánh được nặng, và đi được xa. Ngay trong những năm kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, Người đã khái quát và cảnh báo: “Một dân tộc,
một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca
ngợi, nếu lòng dạ không còn trong sáng, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”[13,
557].
Từ đó, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam hướng các giá trị đạo

đức truyền thống đến chủ nghĩa xã hội. Trong các tác phẩm của mình, từ Bản
án chế độ thực dân Pháp, Đường Kách mệnh đến Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí
Minh luôn hướng tới việc xây dựng các quan hệ đạo đức mới, nhằm giải
phóng nhân cách, xác lập một hệ chuẩn mực đạo đức mới công bằng hơn,
bình đẳng hơn trong xã hội.
Chính vì vậy, cùng với việc giáo dục nâng cao trình độ hiểu biết của
cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, Hồ Chí Minh đã thường xuyên
quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho mọi người. Tùy theo từng thời kì
cách mạng, Người đề ra những yêu cầu đạo đức sát hợp để mọi người phấn
đấu rèn luyện nhằm hoàn thành nhiệm vụ ngày càng nặng nề, khó khăn, phức
tạp hơn, từ đó mà giành thắng lợi càng to lớn hơn cho sự nghiệp cách mạng.
1.4.2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam
trong thời đại mới
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức được
nêu ra là phù hợp với từng đối tượng, hơn nữa Người nhấn mạnh phẩm chất
này hay phẩm chất khác là nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng
trong từng thời kỳ nhất định. Từ đó, Người đã khái quát thành những phẩm
chất chung cơ bản nhất của người Việt Nam trong thời đại mới. Nói cách khác
đó là những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức mới đạo đức cách mạng
Việt Nam.
21
Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Hồ Chí Minh đã nêu lên các điểm
thuộc “tư cách một người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về
đạo đức, thể hiện chủ yếu trong 3 mối quan hệ cơ bản nhất của con người:
quan hệ với mình, quan hệ với mọi người và quan hệ với công việc nhưng cụ
thể gồm 5 điểm: 1. Mình đối với mình; 2. Đối với đồng chí mình phải thế
nào?; 3. Đối với công việc phải thế nào?; 4. Đối với nhân dân; 5. Đối với
đoàn thể. Với những lời căn dặn này cho thấy, Người đã đặt vấn đề đạo đức
cách mạng một cách logic và có cơ sở khoa học về các quan hệ lợi ích. Hầu
như các nguyên tắc đạo đức Người đề ra trước hết cho mình thực hiện, sau đó

mới để giáo dục người khác. Có thể nêu ra những phẩm chất đạo đức cách
mạng theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, như sau:
1.4.2.1. Trung với nước, hiếu với dân
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức hàng đầu của mỗi
người đối với nước với nhân dân. Từ nội dung hẹp của các phạm trù đạo đức
cũ, Người mở rộng, đưa vào hệ tư tưởng của mình một nội dung rất mới, tiến
bộ, cách mạng, vượt qua những hạn chế của tư tưởng đạo đức truyền thống và
nâng lên thành tư tưởng đạo đức mới, mà tiểu biểu nhất là các khái niệm:
trung, hiếu…
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền
thống Việt Nam và phương Đông đã được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào
nội dung mới. Trước kia là trung quân, là trung thành với vua; trung thành với
vua có nghĩa là trung thành với nước, vì vua với nước là một, vua là nước,
nước là nước của vua. Còn hiếu thì chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình là con
cái phải hiếu thảo với cha mẹ. Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Hồ
Chí Minh không những kế thừa những giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền
thống của dân tộc, mà còn vượt qua những hạn chế của truyền thống đó.
Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước ở
đây là nước của dân, còn dân lại là chủ nhân của đất nước. Theo Hồ Chí
22
Minh: “Nước ta là nước dân chủ.Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “bao
nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”,
Đảng và Chính phủ là “đày tớ nhân dân” chứ không phải “quan nhân dân để
đè đầu cưỡi cổ nhân dân”, thì quan niệm về nước về dân đã hoàn toàn đảo lộn
so với trước. [9, 698].
Xuất phát từ quan niệm như vậy, nên “hiếu” trong tư tưởng của Người
chính là “Hiếu với dân”. Hiếu với dân không phải chỉ xem người dân như đối
tượng dạy dỗ, ban ơn mà là đối tượng phải phục vụ hết lòng. Ở người, lý luận
luôn gắn chặt với thực tiễn, lời nói luôn đi đôi với việc làm. Người nói:
“Trung với Nước, Hiếu với Dân” là bổn phận thiêng liêng, một trách nhiệm

nặng nề nhưng cũng là một vinh dự của người chiến sĩ trong đạo quân quốc
gia của nước ta. “Trung với Nước, Hiếu với Dân” là đặt lợi ích của nhân dân
lên trên hết. Lợi ích cơ bản và cấp thiết của nhân dân ta lúc này là độc lập dân
tộc, thống nhất Tổ quốc. Phải hết lòng, hết sức đấu tranh để thật sự đạt được
lợi ích đó…”
Trung với nước, hiếu với dân, suốt cuộc đời phấn đấu hy sinh vì độc
lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành
khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Câu nói đó của
Người vừa là lời kêu gọi hành động vừa là định hướng chính trị - đạo đức cho
mỗi con người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng
trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Đối với cán bộ, đảng viên, như Hồ Chí Minh đã nói, “điều chủ chốt
nhất” của đạo đức cách mạng là “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho
cách mạng”, là “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, là “trung với
nước, hiếu với dân”, hơn nữa là phải “tận trung, tận hiếu” thì mới xứng đáng
vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Trung với
nước, là trung thành với sự nghiệp dựng nước, giữ nước và phát triển đất
nước. Trung với nước cũng có nghĩa là hiếu với dân trong thực hiện mục tiêu
23
của Đảng: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hiếu với dân
là phải gắn bó với nhân dân, gần gũi nhân dân, dựa vào dân, nắm vững dân
tình, dân tâm, nâng cao dân trí, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, để dân tin,
dân yêu, điều đó tất yếu sẽ dẫn tới: Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó
trăm lần dân liệu cũng xong.
Bác Hồ kính yêu dạy chúng ta Trung với nước, Hiếu với dân. Người
dạy chúng ta bằng chính tấm gương từ cuộc đời Người: “Cả đời tôi chỉ có
một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc
dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông
pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó”[8, 240].
Vì vậy, phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập dân, dựa

hẳn vào dân, lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ lãnh đạo, phải nắm vững dân
tình. Hiểu rõ dân tâm, phải thường xuyên quan tâm đến việc cải thiện dân
sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ
đất nước. Có như vậy người lãnh đạo sẽ được dân tin yêu, quý mến, kính
trọng.
1.4.2.2. Yêu thương con người
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa
nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ,
cùng với việc thể nghiệm của chính bản thân mình qua họat động cách mạng
thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định yêu thương con người là một trong những
phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Tình yêu thương đó là tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những
người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Tình yêu thương đó
đã được thể hiện ở Hồ Chí Minh bằng ham muốn tột bậc là làm cho nước
được độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành. Nếu không có tình yêu thương con người như vậy thì không
24
thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản.
Tư tưởng yêu thương con người, Hồ Chí Minh nêu lên và vận động mọi
người cùng thực hiện suốt cả cuộc đời. Cho tới trước lúc đi xa, trong lời Di
chúc, khi để lại: "muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn
thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng", và "gửi lời chào thân ái
đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế".
Người vẫn ân cần nhắc nhở toàn Đảng phải tiếp tục chăm lo cho con người.
Trước hết là những người đã hy sinh một phần xương máu cho công cuộc
kháng chiến, là cha mẹ vợ con thương binh, liệt sĩ, là bà con nông dân, là
thanh niên, phụ nữ lo cho hiện tại, lo đào tạo cho tương lai; Ngay cả "với
những nạn nhân của chế độ cũ như: trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu thì
nhà nước phải vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở

nên những người lao động lương thiện"[13, 504].
Tình yêu thương con người của Bác Hồ là rất cụ thể, từ việc to như lo
giải phóng cho con người, khuyến khích: "phần tốt ở mỗi con người nẩy nở
như hoa mùa xuân, và phần xấu bị mất dần đi", đến việc chăm lo từng con
người cụ thể, không chỉ: Lụa tặng cụ già, sữa tặng bà mẹ sinh ba, mà là từng
bát cơm, manh áo, từ chỗ ở, việc làm để an cư, lạc nghiệp đến tương cà mắm
muối hàng ngày cho nhân dân. Bác lo cho cả dân tộc và chăm lo cho từng
chiến sĩ bảo vệ, phục vụ quanh Người. Theo Bác: Yêu thương con người là
phải tôn trọng, quý trọng con người. Bác đánh giá cao vai trò của nhân dân:
"Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân". Bác tôn trọng từ các nhà khoa
học, các bậc hiền tài cho tới những người lao công quét rác, bởi theo Bác, từ
Chủ tịch nước tới người lao động bình thường, nếu hoàn thành tốt nhiệm vụ,
đều được coi trọng, đều vẻ vang như nhau. Theo Bác, Yêu thương con người
là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Năm 1968, khi làm việc với cán bộ
Ban tuyên huấn Trung ương về việc xuất bản sách "Người tốt, việc tốt”, nhằm
25

×