Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Tiểu luận hợp đồng dịch vụ thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.76 MB, 47 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KẾ TOÁN KIỂM TOÁN

BÀI TIỂU LUẬN
LUẬT KINH TẾ
ĐỀ TÀI: HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ THƯƠNG MẠI
GVHD: THS VƯƠNG TUYẾT LINH
LỚP: ĐH28KT04
THÀNH VIÊN NHÓM 10:
1. HỒ TRONG MÂY
2. NGUYỄN XUÂN MINH
3. PHẠM THỊ MINH TÂM
4. LÊ VIỆT SAN
5. TẠ HỒNG DIỄM
TPHCM, ngày 19 tháng 3 năm 2014
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
1. HỒ TRONG MÂY:




2. NGUYỄN XUÂN MINH:




3. PHẠM THỊ MINH TÂM:





4. LÊ VIỆT SAN:




5. TẠ HỒNG DIỄM





3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
4
TỪ VIẾT TẮT TỪ VIẾT ĐẦY ĐỦ
LTM Luật Thương mại
HĐDVTM Hợp đồng dịch vụ thương mại
LDS Luật Dân sự
Mục Lục
5
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với tiến trình tự do hóa thương mại và sự phát triển ngày càng đa dạng của các
loại hình thị trường trong nền kinh tế thị trường, dịch vụ đóng vai trò ngày càng quan
trọng trong nền kinh tế của hầu hết các nước phát triển. Việt Nam có ngành dịch vụ tăng
trưởng khá, tỷ trọng trong GDP chỉ chiếm 38%-39% năm 2011, thấp hơn mức trung bình
của thế giới và thấp hơn nhiều so với nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á và mức độ
lan tỏa chưa cao
1
, nhưng đây là bước tiến dài của chúng ta trong 10 năm qua. Đạt được

bước tiến vượt bậc này một phần lớn là nhờ kết quả việc Việt Nam gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), một sân chơi lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, khi hiệp
định về dịch vụ thương mại (GATS) cung cấp một cách tiếp cận mới về dịch vụ dựa trên
khái niệm dịch vụ thương mại, đã mở rộng nội dung và phạm vi hoạt động và cơ hội
trong lĩnh vực này cho các doanh nghiệp Việt Nam. Dịch vụ đã trở thành hàng hóa và
việc trao đổi, mua bán dịch vụ ngày càng trở nên sôi động, phổ biến khi thị trường dịch
vụ thương mại được mở cửa, tạo sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp Việt nam
với nhau cũng như giữa các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Việt Nam với các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ nước ngoài. Để có thể nâng cao sức cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ thương mại các doanh nghiệp đã sử dụng hợp đồng dịch vụ thương mại như một
công cụ pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia thị trường
dịch vụ thương mại.
Khi thị trường thương mại dịch vụ Việt Nam đang tiến trình mở cửa theo cam kết
WTO sẽ xuất hiện nhiều cơ hội nhưng cũng lắm thách thức đối với doanh nghiệp thương
mại dịch vụ Việt Nam thì hợp đồng dịch vụ thương mại sẽ là cơ sở pháp lý, là công cụ
hữu hiệu cho các doanh nghiệp nước ta nâng cao khả năng cạnh tranh trong nước và thâm
nhập thị trường dịch vụ nước ngoài.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa thực tiễn của hợp đồng dịch vụ thương
mại trong thời kì hội nhập, nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài "Hợp đồng dịch vụ
thương mại" làm đề tài tiểu luận của nhóm. Với mục đích giúp các bạn có cái nhìn sâu
sắc và hoàn thiện hơn về hợp đồng dịch vụ thương mại cũng như đưa ra những ví dụ thực
tế trong đời sống hằng ngày.
Nhóm xin chân thành cảm ơn cô Vương Tuyết Linh đã giúp nhóm hoàn thành bài tiểu
luận này.
1 />6
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ THƯƠNG MẠI
1.1 Hợp đồng dịch vụ thương mại là gì?
1.1.1 Khái niệm:
Khái niệm về hợp đồng dịch vụ thương mại (HĐDVTM) là một khái niệm mới, cho
đến nay vẫn chưa có một học giả, nhà nghiên cứu nào đưa ra khái niệm này. Thông

thường chúng ta đề cập đến hợp đồng thương mại nói chung hoặc đi sâu hơn nữa là hợp
đồng cung cấp dịch vụ hoặc hợp đồng cung ứng dịch vụ như trong Luật thương mại Việt
Nam 2005 sử dụng. Vậy HĐDVTM và hợp đồng cung cấp dịch vụ hay hợp đồng cung
ứng dịch vụ có giống nhau không? Và nên sử dụng tên gọi nào cho đúng nhất sẽ được
làm sáng tỏ trong phần này.
Trong luật thương mại năm 2005 không đưa ra khái niệm hợp đồng dịch vụ thương
mại hay hợp đồng cung ứng dịch vụ mà chỉ đưa ra các hoạt động cung ứng dịch vụ
thương mại là cở sở của các hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại cụ thể. Để đưa ra
được khái niệm về HĐDVTM là gì? Nhóm sẽ đi từ những đặc tính cơ bản nhất của
HĐDVTM để làm sáng tỏ khái niệm này.
 Hợp đồng dịch vụ thương mại trước hết là hợp đồng: Hợp đồng là một khái
niệm xuất hiện từ lâu và hiện tại có khá nhiều khái niệm về hợp đồng. Chẳng hạn,
điều 1.201, Bộ luật Thương mại thống nhất của Hoa Kỳ (Uniform Commerce
Code – UCC) quy định “hợp đồng là sự tổng hợp các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ
sự thỏa thuận của các bên”, Luật Hợp đồng năm 1999 của Trung Quốc quy
định “Hợp đồng là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự giữa các chủ thể bình đẳng tự nhiên, của các tổ chức khác”
2
. Như vậy,
hiểu một cách đơn giản hợp đồng là một thỏa thuận ràng buộc về mặt pháp lý giữa
hai hay nhiều bên, những người đồng ý thực hiện hoặc không thực hiện một số
hoạt động trong hiện tại hoặc trong tương lai. Điều 388 Bộ luật Dân sự năm 2005
quy định “hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Theo đánh giá của giới nghiên cứu trong
nước và nước ngoài, khái niệm hợp đồng dân sự trong Bộ luật Dân sự 2005 có tầm
khái quát và tương xứng với một khái niệm chung, áp dụng cho mọi loại hợp đồng
chứ không chỉ dừng lại áp dụng cho hợp đồng dân sự.
3
Từ việc phân tích khái
niệm về hợp đồng theo quy định của pháp luật một số nước, có thể đưa ra định

nghĩa về hợp đồng như sau: “hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, căn cứ vào
quy định của pháp luật, nhằm quy định quyền và nghĩa vụ đối với nhau khi thực
hiện một công việc, một hoạt động hoặc một hành vi nhất định nào đó”.
4
Hợp đồng dịch vụ thương mại do đó, cũng là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm thực
hiện các hoạt động thương mại trong lĩnh vực dịch vụ. Vấn đề là ở chỗ, hoạt động thương
mại – đối tượng của hợp đồng dịch vụ thương mại - có những điểm khác với hoạt động
dân sự. Vì vậy, cần phải làm rõ khái niệm về hoạt động thương mại và hoạt động thương
mại trong lĩnh vực dịch vụ.
2 />ve-khai-niem-hop-dong-28194.html
3 Đinh Thị Mai Phương (2005), Thống nhất Luật hợp đồng ở Việt Nam, NXB Tư Pháp, tr. 67.
4 />7
 Hợp đồng dịch vụ thương mại là hợp đồng thương mại: trên thế giới, các nước
thường không đưa ra khái niệm về hợp đồng thương mại nói chung mà chỉ đưa ra
khái niệm về thương mại, từ đó dẫn đến cách hiểu về hợp đồng thương mại. Luật
mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại đưa ra khái niệm thương
mại: “Thuật ngữ “thương mại” cần được giải thích theo nghĩa rộng liên quan đến
tất cả các vấn đề phát sinh từ các quan hệ có bản chất thương mại, dù là quan hệ
hợp đồng hoặc không phải là quan hệ hợp đồng. Những quan hệ có bản chất
thương mại bao gồm, nhưng không giới hạn bởi các giao dịch sau: giao dịch
thương mại để cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ; thoả thuận phân
phối, đại diện hoặc đại lý thương mại; hoa hồng; thuê mua; xây dựng công trình;
tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính; ngân hàng; bảo hiểm; thoả thuận thăm
dò hoặc khai thác; liên doanh và các hình thức hợp tác công nghiệp hoặckinh
doanh khác; vận tải hàng hoá hoặc hành khách bằng đường hàng không; đường
biển, đường sắt hoặc đường bộ”. Trong khi đó thương mại theo cách hiểu thông
qua các hiệp định của WTO bao gồm thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ,
thương mại liên quan đến đầu tư, thương mại quyền sở hữu trí tuệ.
5
Pháp luật hiện hành Việt Nam hiện nay không đưa ra khái niệm hợp đồng thương mại

cũng như khái niệm“thương mại” nói chung mà thông qua khái niệm hoạt động thương
mại trong Luật Thương mại năm 2005 để làm rõ đặc điểm của khái niệm thương mại.
Điều 3.1 của Luật Thương mại năm 2005 quy định: “hoạt động thương mại là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi ”. Từ đây, có thể hiểu hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận
giữa các bên để thực hiện các hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lợi. Cũng theo
tinh thần của Luật Thương mại năm 2005, hoạt động thương mại bao gồm mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh
lợi khác
6
, nghĩa là, bất cứ hoạt động nào nhằm mục đích sinh lợi thì đó là hoạt động
thương mại. Pháp luật Việt Nam thì nhấn mạnh khía cạnh sinh lợi để nói lên tính chất của
hoạt động thương mại, sinh lợi không chỉ hiểu đơn thuần là lợi nhuận thông qua các con
số có thể nhìn thấy ngay lập tức, mà sinh lợi còn bao gồm cả lợi ích kinh tế và tăng
trưởng, phát triển của các doanh nghiệp, cá nhân tham gia hoạt động thương mại. Mặc dù
cách qui định ở mỗi văn bản pháp lý khác về thương mại, nhưng bản chất của thương mại
được thể hiện ở mục đích cuối cùng là sinh lợi.
 Hợp đồng dịch vụ thương mại là hợp đồng mua bán dịch vụ: Nếu như đối
tượng mua bán trong thương mại hàng hóa là hàng hóa – các sản phẩm hữu hình
thì trong thương mại dịch vụ, đối tượng mua bán lại là dịch vụ - các sản phẩm vô
hình, “là những thứ mà khi đem bán không thể rơi vào chân bạn”
7
. Một điều lưu ý
rằng các dịch vụ cũng như hàng hóa ở đây phải được pháp luật cho phép tiến hành
mua bán, cung cấp, trao đổi.
Hợp đồng dịch vụ thương mại còn được gọi là hợp đồng mua bán dịch vụ, hợp đồng
cung cấp dịch vụ. Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 không gọi hợp đồng này là hợp
5 />6 Điều 3.1, Luật Thương mại Việt Nam 2005
7 />nam.htm
8
đồng mua bán dịch vụ mà gọi là hợp đồng cung ứng dịch vụ, để giải thích sử dụng từ

cung ứng ở đây thay vì từ cung cấp hoặc mua bán dịch vụ thì xuất phát từ lịch sử của
Việt Nam, khi các ngành dịch vụ trong thời kỳ bao cấp đều do Nhà nước quản lý và cung
ứng cho người dân, do đó Luật vẫn sử dụng từ cung ứng dịch vụ ở đây. Tuy nhiên, với
cách hiểu về cung ứng dịch vụ như điều 3 khoản 9 của Luật Thương mại năm 2005 thì có
thể thấy hợp đồng cung ứng dịch vụ là sự thỏa thuận, theo đó một bên (gọi là bên cung
ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho bên khác và nhận thanh toán. Bên sử
dụng dịch vụ (gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử
dụng dịch vụ theo thỏa thuận. Khái niệm này nhìn nhận cung ứng dịch vụ dưới góc độ là
một hoạt động thương mại. Theo đó, hoạt động cung ứng dịch vụ mang đầy đủ các đặc
điểm của một hoạt động thương mại: có ít nhất hai bên tham gia và nhằm mục đích sinh
lợi. Tuy nhiên, từ khái niệm nêu trên, có thể thấy luật quy định rất rõ ràng bên sử dụng
dịch vụ (khách hàng) phải trả tiền dịch vụ. Mà trả tiền dịch vụ theo thỏa thuận với bên
cung cấp dịch vụ cũng có nghĩa là mua và bán dịch vụ hay rộng hơn và bao quát hơn đó
là thương mại dịch vụ. Vì vậy, có thể nói, hợp đồng cung ứng dịch vụ là hợp đồng mua
bán dịch vụ. Hợp đồng này cũng mang tính thương mại.
Từ cách hiểu trên có thể đưa ra khái niệm về HĐDVTM như sau: Hợp đồng dịch vụ
thương mại là sự thỏa thuận hợp pháp giữa bên cung cấp dịch vụ và bên thuê dịch vụ
nhằm xác lập, thay đổi và chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với nhau trong việc mua bán,
cung cấp, trao đổi dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi.
1.1.2 Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ thương mại:
Là hợp đồng thương mại, hợp đồng dịch vụ thương mại mang tất cả đặc điểm của hợp
đồng thương mại nói chung. Đó là đặc điểm về mục đích sinh lợi; đặc điểm về chủ thể là
các thương nhân, các chủ thể kinh doanh – thương mại. Bên cạnh đó, hợp đồng dịch vụ
thương mại còn có một số đặc điểm riêng của nó. Đó là:
Thứ nhất, đặc điểm cơ bản nhất của hợp đồng dịch vụ thương mại là về đối tượng
của hợp đồng. Như ở trên đã phân tích, đối tượng của hợp đồng cung ứng dịch vụ là dịch
vụ - sản phẩm vô hình không tồn tại dưới dạng vật chất, do đó rất khó xác định chất
lượng dịch vụ bằng những tiêu chí được lượng hóa. Bên cạnh đó, khác với hàng hóa hữu
hình, dịch vụ là sản phẩm vô hình nên không thể lưu trữ được, vì vậy, trong việc mua bán
hay cung ứng dịch vụ người ta không cần quan tâm đến nơi chứa dịch vụ, không quan

tâm tới việc cất giữ, tồn kho hay dự trữ dịch vụ. Điều quan trọng nhất là các bên mua bán
dịch vụ phải mô tả rất kỹ về dịch vụ, đặt ra những yêu cầu cụ thể mà mục tiêu các bên
muốn hướng tới khi mua bán dịch vụ và điều này đòi hỏi các bên phải có sự am hiểu về
tính chất của dịch vụ đó.
Thứ hai, chủ thể của hợp đồng dịch vụ thương mại thường được gọi là bên cung cấp
dịch vụ và bên thuê dịch vụ hay còn gọi là khách hàng. Đây là một điểm khác biệt so với
hợp đồng mua bán hàng hóa. Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa thường được gọi
là bên bán và bên mua. Cách gọi này thể hiện được sự chuyển giao quyền sở hữu hàng
hóa trong quan hệ mua bán hàng hóa giữa hai bên, khi nghĩa vụ của người bán không chỉ
đơn thuần là giao hàng mà còn gắn liền với nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa
đó cho người mua. Còn cách gọi các chủ thể của hợp đồng cung ứng dịch vụ phần nào
cho thấy bản chất của hoạt động cung ứng dịch vụ, đó là việc một bên cung cấp dịch vụ
nhưng không chuyển giao quyền sở hữu dịch vụ đó, bên kia sử dụng dịch vụ và có nghĩa
vụ thanh toán. Trong hầu hết các trường hợp bên cung ứng dịch vụ thương mại bắt buộc
phải là thương nhân, có đăng kí kinh doanh để cung cấp các dịch vụ thương mại theo quy
9
định của pháp luật. Bên sử dụng dịch vụ có thể là thương nhân, có thể không phải là
thương nhân, có như cầu sử dụng dịch vụ thương mại của bên cung ứng dịch vụ. Do vậy,
hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại được kí kết giữa một bên là thương nhân cung
ứng dịch vụ thương mại (trường hợp phổ biến) và bên kia có thể là thương nhân, có thể
không phải là thương nhân.
Thứ ba, mục đích các bên tham gia hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại hướng tới
là lợi ích phát sinh từ việc thực hiện dịch vụ. Mục đích của các bên tham gia không giống
nhau: bên sử dụng dịch vụ hướng tới việc thỏa mãn nhu cầu, thụ hưởng lợi ích từ dịch vụ
mang lại; bên cung ứng dịch vụ thương mại hướng tới việc tìm kiếm khoản tiền, lợi
nhuận phát sinh từ việc thực hiện công việc cụ thể theo yêu cầu của bên sử dụng dịch vụ.
Do vậy, mục đích của các bên trong hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại không giống
như quan hệ mua bán hàng hóa – là lợi nhuận phát sinh từ việc mua bán, trao đổi hàng
hóa hữu hình mang lại cho cả hai bên.
Thứ tư, hình thức hợp đồng dịch vụ thương mại theo quy định pháp luật, có thể

“bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể” (khoản 1, Điều 74
Luật Thương mại). Đối với các hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại mà pháp luật quy
định phải được thành lập thành văn bản thì phải tuân theo quy định đó (khoản 2, Điều 74
Luật Thương mại). Xuất phát từ tính đặc thù của nhiều quan hệ dịch vụ, có trường hợp
cung ứng dịch vụ thương mại sử dụng hình thức “ hợp đồng theo mẫu” để ký kết hợp
đồng của người sử dụng dich vụ. Nếu đồng ý, người sử dụng dịch vụ sẽ kí vào bản hợp
đồng, không thỏa thuận bất cứ điều khản nào trong hợp đồng. Nếu không đồng ý, người
sử dụng dịch vụ có thể lựa chọn nhà cung cấp khác.
Ví dụ: hợp đồng cung cấp điện sinh hoạt, điện sản xuất; hợp đồng cung cấp nước sinh
hoạt, nước sản xuất; hợp đồng dịch vụ điện thoại, internet, truyền hình cáp…
Thứ năm, nội dung của hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại do các bên thỏa
thuận phù hợp với quy định của pháp luật về hợp đồng. Luật Thương mại 2005 không
quy định cụ thể nội dung hợp đồng dịch vụ thương mai. Tuy nhiên căn cứ vào các quy
định về hợp đồng dịch vụ của Bộ luật Dân sự 2005 và căn cứ vào từng dịch vụ cụ thể (ví
dụ: dịch vụ vận chuyển đường không, dịch vụ ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại
lý thương mại…), các bên có thể thỏa thuận các nội dung cụ thể và ghi vào hợp đồng.
Các thỏa thuận này cần đầy đủ, chi tiết, thể hiện rõ ràng quyền và nghĩa vụ của các bên
để dễ thực hiện và ích xảy ra tranh chấp. Một số nội dung cơ bản các bên cần thỏa thuận
trong hợp đồng:
• Tên, địa chỉ của bên cung ứng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ;
• Nội dung công việc cụ thể cần thực hiện;
• Thời hạn hiệu lực của hợp đồng dịch vụ;
• Giá cả dịch vụ;
• Thanh toán;
• Thay đổi, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng;
• Các chế tài áp dụng khi có vi phạm hợp đồng;
• Giải quyết tranh chấp, phát sinh từ hợp đồng;
• Các điều khoản khác mà các bên thỏa thuận và ghi vào hợp đồng.
10
Ngoài ra, tùy thuộc từng dịch vụ thương mại mà các bên có thể thỏa thuận những nội

dung cụ thể và ghi vào hợp đồng.
8
1.1.3 Phân loại hợp đồng dịch vụ thương mại:
Có nhiều cách phân loại hợp đồng dịch vụ thương mại (HĐDVTM) dựa trên tiêu chí
khác nhau để phân loại:
- Căn cứ vào tính chất quốc tế của hợp đồng có thể chia HĐDVTM quốc tế và
HĐDVTM nội địa. Theo WTO và Luật Thương mại Việt Nam 2005 thì tính chất quốc tế
của HĐDVTM sẽ dựa vào sự di chuyển của bên cung cấp dịch vụ và bên nhận dịch vụ
hoặc sự di chuyển của dịch vụ được cung cấp.
- Căn cứ vào phân ngành của WTO thì có thể chia thành 12 nhóm hợp đồng dịch vụ
thương mại như sau: HĐDVTM kinh doanh; HĐDVTM truyền thông; HĐDVTM dịch
vụ xây dựng và kỹ sư công trình; HĐDVTM phân phối; HĐDVTM giáo dục; Hợp đồng
thương mại các dịch vụ môi trường; Hợp đồng thương mại các dịch vụ tài chính;
HĐDVTM mại xã hội và liên quan đến sức khỏe; HĐDVTM du lịch và lữ hành; Hợp
đồng thương mại các dịch vụ văn hoá và giải trí; Hợp đồng thương mại các dịch vụ vận
tải; HĐDVTM khác.
9
- Căn cứ vào mục tiêu của dịch vụ, thì có thể chia HĐDVTM làm 4 nhóm như sau:
nhóm 1: HĐDVTM phân phối: vận chuyển, lưu kho, bán buôn, bán lẻ, quảng cáo, môi
giới ; nhóm 2: HĐDVTM sản xuất: ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các dịch vụ về kỹ sư
và kiến trúc công trình, dịch vụ kế toán kiểm toán, dịch vụ pháp lý nhóm 3: HĐDVTM
xã hội: dịch vụ sức khỏe, y tế, giáo dục, dịch vụ vệ sinh, dịch vụ bưu điện, viễn thông,
các dịch vụ nghe nhìn và các dịch vụ xã hội khác… nhóm 4: HĐDVTM cá nhân: dịch vụ
sửa chữa, dịch vụ khách sạn, nhà hàng, các dịch vụ giải trí, dịch vụ văn hoá, du lịch
- Căn cứ vào dịch vụ quy định trong Luật Thương mại 2005 thì có những loại
HĐDVTM sau: Hợp đồng dịch vụ khuyến mại; Hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại;
Hợp đồng dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ; Hợp đồng đại diện cho thương
nhân; Hợp đồng ủy thác; Hợp đồng đại lý; Hợp đồng gia công; Hợp đồng dịch vụ tổ chức
đấu giá hàng hóa; Hợp đồng dịch vụ quá cảnh; Hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Trong thực tế, hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại rất phong phú và đa dạng

nhằm phục vụ cho hoạt dộng thương mại. Trong luật thương mại năm 2005 đề cập đến
các hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại sau đây:
• Hợp đồng dịch vụ khuyến mại: là sự thoả thuận giữa các bên làm phát sinh quyền
và nghĩa vụ của họ nhằm xúc tiến đến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định.
• Hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại: là sự thỏa thuận giữa các bên làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của họ để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ của mình.
8 TS. Nguyễn Thị Dung, Kiến thức pháp lý và kỹ năng cơ bản trong đàm phán, soạn thảo và ký kết hợp đồng trong
lĩnh vực thương mại, 2012, Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, tr. 102
9 />11
• Hợp đồng dịch vụ trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ: là sự thỏa thuận giữa
các bên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của họ đề dùng hàng hóa, dịch vụ và tài
liệu về hàng hóa, dịch vụ để giới thiệu với khách hàng về hàng hóa, dịch vụ đó.
• Hợp đồng dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ của họ nhằm thực hiện tập trung trong một thời gian
và tại một địa điểm nhất định để thương nhân trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch
vụ nhằm mục đích thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa,
hợp đồng dịch vụ.
• Hợp đồng dịch vụ đại diện cho thương nhân là sự thỏa thuận giữa các bên làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ của họ, theo đó một thương nhân nhận uỷ nhiệm (gọi
là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các
hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và
được hưởng thù lao về việc đại diện.
• Hợp đồng dịch vụ môi giới thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của họ, theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là
bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được
môi giới) trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng, dịch vụ được
hưởng thù lao theo hợp đồng mua giới.
• Hợp đồng ủy thác là sự thỏa thuận giữa các bên là sự thỏa thuận giữa các bên làm

phát sinh quyền và nghĩa vụ của họ, theo đó bên nhận ủy thác thực hiện việc mua
bán hàng hóa với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thỏa thuận với bên
ủy thác và được nhận thù lao ủy thác.
• Hợp đồng đại lý là sự thỏa thuận giữa các bên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
của họ, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thỏa thuận việc bên đại lý nhân danh
chính mình mua, bán hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên
giao đai lý cho khách hàng để hưởng thù lao.
• Hợp đồng gia công là sự thỏa thuận giữa các bên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
của họ, theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật
liệu của bên đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình
sản xuất theo yêu cầu của bên đặc gia công để hưởng thù lao.
• Hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các bên làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của họ, theo đó người bán hàng thuê người tổ chức đấu giá
thực hiện việc bán hàng công khai để chọn người mua trả giá cao nhất.
• Hợp đồng đấu thầu hàng hóa, dich vụ là sự thỏa thuận giữa các bên làm quyền và
nghĩa vụ của họ, theo đó một bên mua hàng hóa, dịch vụ thông qua mời thầu (gọi
là bên mời thầu) nhằm lựa chọn trong số các thương nhân tham gia đấu thầu (gọi
là bên dự thầu) thương nhân đáp ứng tốt nhất các bên yêu cầu do bên mời thầu đặt
ra và được lựa chọn để ký kết và thực hiện hợp đồng (gọi là bên trúng thầu).
• Hợp đồng dịch vụ logistics là sự thỏa thuận giữa các bên làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của họ, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc
bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ
tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng
hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng
12
để hưởng thù lao. Dịch vụ logistics được phiên âm theo tiếng Việt là dịch vụ lô-gi-
stíc.
• Hợp đồng dịch vụ quá cảnh là sự thỏa thuận giữa các bên làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của họ nhằm mục đích việc vận chuyển hàng hóa thuộc sở hữu của tổ
chức, cá nhân nước ngoài qua lãnh thổ Việt Nam, kể cả việc trung chuyển, vận

tải, lưu kho, chia tách lô hàng, thay đổi phương thức vận tải hoặc các công việc
được thực hiện trong thời gian quá cảnh.
• Hợp đồng dịch vụ giám định hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các bên làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ của họ, theo đó một thương nhân thực hiện những công việc
cần thiết để xác định tình trạng thực tế của hàng hóa, kết quả cung ứng dịch vụ và
những nội dung khác theo yều cầu khách hàng.
• Hợp đồng dịch vụ cho thuê hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các bên làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ của họ, theo đó một bên chuyển quyền chiếm hữu và sử dụng
hàng hóa (gọi là bên cho thuê) cho bên khác (gọi là bên cho thuê) trong một thời
hạn nhất định để nhận tiền thuê.
• Hợp đồng nhượng quyền thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ của họ, theo đó nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận
quyền tự mình tiến hành mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện
sau đây:
+ Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ
chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được nhãn hiệu hàng hóa, tên
thương mại, bí quyết kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
+ Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận nhượng
quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.
Về nội dung, quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên đều được đề cập từ điều 88 đên
điều 291 Luật Thương mại 2005. Trong thực tế hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại
còn xảy ra trong lĩnh vực khác như : giải trí, giáo dục, bưu chính viễn thông, vận tải, du
lịch, tư vấn, tài chính,…
- Căn cứ vào Bộ luật dân sự Việt Nam 2005, mặc dù đây là các hợp đồng dân sự, tuy
nhiên nếu mục đích của hợp đồng gắn với mục đích là sinh lợi thì các hợp đồng này sẽ là
HĐDVTM như đã phân tích ở phần trên, do đó chúng ta có thể có những loại hợp đồng
dịch vụ thương mại sau: Hợp đồng bảo hiểm; Hợp đồng vận chuyển gồm vận chuyển
hành khách và vận chuyển tài sản; Hợp đồng gia công; Hợp đồng gửi giữ tài sản; Hợp
đồng ủy quyền; Hợp đồng dịch vụ.
- Căn cứ vào nghĩa vụ của dịch vụ thì chia thành HĐDVTM theo kết quả công việc và

HĐDVTM theo nỗ lực khả năng cao nhất như đã phân tích ở phần đặc điểm hợp đồng
dịch vụ thương mại.
- Căn cứ về mặt nội dung có thể chia thành HĐDVTM đơn giản như hợp đồng sửa chữa
hàng hóa (từ hàng hóa là máy vi tính đến dịch vụ sửa chữa tàu biển ), hợp đồng chăm
sóc sắc đẹp, hợp đồng vận chuyển hàng hóa và các hợp đồng dịch vụ phức tạp như hợp
đồng xây dựng, hợp đồng đào tạo, hợp đồng cung cấp dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm
10
10 />13
1.2 Nội dung của hợp đồng dịch vụ thương mại:
Nội dung của hợp đồng dịch vụ thương mại (HĐDVTM) chính là quyền và nghĩa vụ
của các bên tham gia vào việc ký kết HĐDVTM. Những quyền và nghĩa vụ này được quy
định chung đối với tất cả các HĐDVTM. Hợp đồng dịch vụ cũng được quy định trong
các Luật chuyên ngành như Bộ luật hàng hải, Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh
bảo hiểm, Luật du lịch, Luật đầu tư, Pháp luật về chứng khoán…Tuy nhiên, việc quy
định về hợp đồng dịch vụ trong các ngành luật trên chưa đưa ra được những điểm chung
về HĐDVTM. Luật thương mại (LTM) đã khắc phục nhược điểm này quy định về quyền
và nghĩa vụ chung đối với tất cả các hợp đồng dịch vụ thương mại. Theo quy định tại
điều 4 LTM về việc áp dụng LTM và pháp luật có liên quan thì hoạt động thương mại
phải tuân theo LTM và pháp luật có liên quan. Trường hợp hoạt động thương mại đặc thù
được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó. Trường hợp hoạt động
thương mại không được quy định trong Luật thương mại và trong các luật khác thì áp
dụng quy định của Bộ luật dân sự.
11
1.2.1 Quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ:
- Trừ trường hợp có thoả thuận khác, bên cung ứng dịch vụ có các nghĩa vụ sau đây:
+ Cung ứng các dịch vụ và thực hiện những công việc có liên quan một cách đầy đủ,
phù hợp với thoả thuận và theo quy định của Luật này;
+ Bảo quản và giao lại cho khách hàng tài liệu và phương tiện được giao để thực hiện
dịch vụ sau khi hoàn thành công việc;
+ Thông báo ngay cho khách hàng trong trường hợp thông tin, tài liệu không đầy đủ,

phương tiện không bảo đảm để hoàn thành việc cung ứng dịch vụ;
+ Giữ bí mật về thông tin mà mình biết được trong quá trình cung ứng dịch vụ nếu có
thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.
12
- Nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ theo kết quả công việc:
Trừ trường hợp có thoả thuận khác, nếu tính chất của loại dịch vụ được cung ứng yêu
cầu bên cung ứng dịch vụ phải đạt được một kết quả nhất định thì bên cung ứng dịch vụ
phải thực hiện việc cung ứng dịch vụ với kết quả phù hợp với các điều khoản và mục
đích của hợp đồng. Trong trường hợp hợp đồng không có quy định cụ thể về tiêu chuẩn
kết quả cần đạt được, bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện việc cung ứng dịch vụ với kết
quả phù hợp với tiêu chuẩn thông thường của loại dịch vụ đó.
13
- Nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ theo nỗ lực và khả năng cao nhất
Trừ trường hợp có thoả thuận khác, nếu tính chất của loại dịch vụ được cung ứng yêu
cầu bên cung ứng dịch vụ phải nỗ lực cao nhất để đạt được kết quả mong muốn thì bên
11 ThS. Ngô Văn Tăng Phước, Giáo trình pháp luật kinh tế, Nhà xuất bản thống kê năm 2006, tr324.
12 Điều 78, Luật thương mại Việt Nam 2005.
13 Điều 79, Luật thương mại Việt Nam 2005.
14
cung ứng dịch vụ phải thực hiện nghĩa vụ cung ứng dịch vụ đó với nỗ lực và khả năng
cao nhất.
14
- Hợp tác giữa các bên cung ứng dịch vụ
Trường hợp theo thỏa thuận hoặc dựa vào tình hình cụ thể, một dịch vụ do nhiều bên
cung ứng dịch vụ cùng tiến hành hoặc phối hợp với bên cung ứng dịch vụ khác thì mỗi
bên cung ứng dịch vụ có các nghĩa vụ sau đây:
+ Trao đổi, thông tin cho nhau về tiến độ công việc và yêu cầu của mình có liên quan
đến việc cung ứng dịch vụ, đồng thời phải cung ứng dịch vụ vào thời gian và theo
phương thức phù hợp để không gây cản trở đến hoạt động của bên cung ứng dịch vụ đó;
+ Tiến hành bất kỳ hoạt động hợp tác cần thiết nào với các bên cung ứng dịch vụ

khác.
15
- Thời hạn hoàn thành dịch vụ
+ Bên cung ứng dịch vụ phải hoàn thành dịch vụ đúng thời hạn đã thoả thuận trong
hợp đồng.
+ Trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn hoàn thành dịch vụ thì bên cung ứng
dịch vụ phải hoàn thành dịch vụ trong một thời hạn hợp lý trên cơ sở tính đến tất cả các
điều kiện và hoàn cảnh mà bên cung ứng dịch vụ biết được vào thời điểm giao kết hợp
đồng, bao gồm bất kỳ nhu cầu cụ thể nào của khách hàng có liên quan đến thời gian hoàn
thành dịch vụ.
+ Trường hợp một dịch vụ chỉ có thể được hoàn thành khi khách hàng hoặc bên cung
ứng dịch vụ khác đáp ứng các điều kiện nhất định thì bên cung ứng dịch vụ đó không có
nghĩa vụ hoàn thành dịch vụ của mình cho đến khi các điều kiện đó được đáp ứng.
16
1.2.2 Quyền và nghĩa vụ của khách hàng (bên tiếp nhận dịch vụ):
-Trừ trường hợp có thoả thuận khác, khách hàng có các nghĩa vụ sau đây:
+ Thanh toán tiền cung ứng dịch vụ như đã thoả thuận trong hợp đồng;
+ Cung cấp kịp thời các kế hoạch, chỉ dẫn và những chi tiết khác để việc cung ứng
dịch vụ được thực hiện không bị trì hoãn hay gián đoạn;
+ Hợp tác trong tất cả những vấn đề cần thiết khác để bên cung ứng có thể cung ứng
dịch vụ một cách thích hợp;
+ Trường hợp một dịch vụ do nhiều bên cung ứng dịch vụ cùng tiến hành hoặc phối
hợp với bên cung ứng dịch vụ khác, khách hàng có nghĩa vụ điều phối hoạt động của các
bên cung ứng dịch vụ để không gây cản trở đến công việc của bất kỳ bên cung ứng dịch
vụ nào.
17
14 Điều 80, Luật thương mại Việt Nam 2005.
15 Điều 81, Luật thương mại Việt Nam 2005
16 Điều 82, Luật thương mại Việt Nam 2005.
17 Điều 85, Luật thương mại Việt Nam 2005.

15
- Yêu cầu của khách hàng liên quan đến những thay đổi trong quá trình cung ứng dịch vụ
+ Trong quá trình cung ứng dịch vụ, bên cung ứng dịch vụ phải tuân thủ những yêu
cầu hợp lý của khách hàng liên quan đến những thay đổi trong quá trình cung ứng dịch
vụ.
+ Trừ trường hợp có thoả thuận khác, khách hàng phải chịu những chi phí hợp lý cho
việc thực hiện những yêu cầu thay đổi của mình.
18
- Tiếp tục cung ứng dịch vụ sau khi hết thời hạn hoàn thành việc cung ứng dịch vụ
Sau khi hết thời hạn hoàn thành việc cung ứng dịch vụ mà dịch vụ vẫn chưa hoàn
thành, nếu khách hàng không phản đối thì bên cung ứng dịch vụ phải tiếp tục cung ứng
theo nội dung đã thoả thuận và phải bồi thường thiệt hại, nếu có.
19
- Thời hạn thanh toán
Trường hợp không có thỏa thuận và giữa các bên không có bất kỳ thói quen nào về
việc thanh toán thì thời hạn thanh toán là thời điểm việc cung ứng dịch vụ được hoàn
thành.
20
1.3 Đặc trưng của hợp đồng dịch vụ thương mại:
Dưới góc độ bản chất của hoạt động cung ứng dịch vụ, dịch vụ có những đặc trưng cơ
bản sau:
Thứ nhất: dịch vụ là các sản phẩm vô hình
- Đây là đặc trưng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác lập các giao dịch dân sự,
thương mại, bởi vì dịch vụ là vô hình nên không thể xác lập quyền sở hữu trên nó
được.
- Trong quan hệ mua bán, trao đổi, không có quyền chuyển giao quyền sở hữu
dịch vụ từ người bán sang người mua. Người mua dịch vụ không có quyền sở hữu
dịch vụ, nhưng có quyền sử dụng dịch vụ, có quyền tiêu dùng dịch vụ phục vụ cho lợi
ích bản thân (trừ một số trường hợp mà kết quả của việc cung ứng dịch vụ có thể kết
tinh thành các sản phẩm hữu hình)

Thứ hai: dịch vụ có tính không đồng nhất không tiêu chuẩn hóa được, hay có
thể nói, dịch vụ là sản phẩm có tính quá trình
- Theo điều 518 Bộ luật Dân sự thì dịch vụ là công việc mà bên cung ứng dịch vụ
thực hiện cho bên thuê dịch vụ.
- Khi hai bên giao kết hợp đồng cung ứng và sử dụng dịch vụ, bên cung ứng dịch
vụ sẽ thực hiện một công việc cụ thể theo yêu cầu của bên thuê dịch vụ và được
hưởng khoản tiền thù lao dịch vụ.
- Khác với quan hệ mua bán hàng hóa, trong quan hệ cung ứng dịch vụ, thước đo
để đánh giá công việc cung ứng dịch vụ có hoàn thành hay không còn phụ thuộc vào
18 Điều 83, Luật thương mại Việt Nam 2005.
19 Điều 84, Luật thương mại Việt Nam 2005.
20 Điều 87, Luật thương mại Việt Nam 2005.
16
độ hài lòng của người sử dụng dịch vụ với quá trình thực hiện công việc của bên cung
ứng dịch vụ. Ví dụ như: dịch vụ vận chuyển đường sắt, dịch vụ ngân hàng, bảo
hiểm
- Trên thực tế, dịch vụ cũng có thể được chuẩn hóa như:
 Tiêu chuẩn về nhân sự thực hiện dịch vụ: kinh nghiệm, bằng cấp, trình
độ…;
 Tiêu chuẩn về quy trình tác nghiệp cung cấp dịch vụ;
 Tiêu chuẩn về điều kiện tài chính: bắt buộc phải đặt cọc, bảo lãnh ngân
hàng…;
 Tiêu chuẩn về hợp đồng hoặc hình thức hợp đồng: vận đơn, hợp đồng dịch
vụ do các hiệp hội ban hành mà các hội viên phải áp dụng…;
 Một số trường hợp cụ thể, theo yêu cầu của người sử dụng dịch vụ, chất
lượng dịch vụ phải đảm bảo theo những cam kết chất lượng, tiêu chuẩn nhất
định: thực hiện bảo quản hảng hóa theo tiêu chuẩn của từng loại sản phẩm
trong quá trình thực hiện dịch vụ vận chuyển; bảo đảm các quy chuẩn xây
dựng trong việc cung cấp dịch vụ tư vấn thiết kế; bảo đảm tính chuyên
nghiệp trong dịch vụ quảng cáo thương mại…

Nhìn chung, dịch vụ là sản phẩm khó chuẩn hóa, do đó, việc đánh giá dịch vụ có
thành công hay không hầu hết phụ thuộc vào ý chí các bên tham gia.
Thứ ba: dịch vụ có tính không tách rời, tức là, quá trình tạo ra và tiêu dùng dịch
vụ diễn ra đồng thời
- Cung ứng, lưu thông, tiêu dùng là một quá trình liên hoàn, khi dịch vụ được
tạo ra thì nó phải được tiêu dùng ngay. Sau quá trình tiêu dùng dịch vụ, các giá
trị và giá trị sử dụng của dịch vụ chuyển vào giá trị vật chất khác, còn bản thân
dịch vụ không tồn tại. Do đó, khi một bên có yêu cầu dịch vụ, bên cung ứng
dịch vụ phải có trách nhiệm thiết lập, cung cấp dịch vụ để đáp ứng yêu cầu và
bắt đầu quá trình cung ứng; ngược lại, bên sử dụng dịch vụ cũng phải có trách
nhiệm tiếp nhận, tiêu dùng dịch vụ tương xứng phù hợp với quá trình cung ứng
dịch vụ của bên cung ứng.
- Thực tế, quá trình tạo ra dịch vụ cũng có thể không hoàn toàn đồng nhất với
quá trình tiêu dùng dịch vụ. Lấy trường hợp bên A và bên B kí hợp đồng vận
chuyển container với nhau. Điều kiện hợp đồng là bên A phải giao container
tại nhà máy của bên B. Để lấy được container tại cảng, bên A phải làm những
thủ tục cần thiết,sau đó thu xếp, vận chuyển container vè nhà máy của bên B.
Khi nhận đầy đủ hàng hóa tại nhà máy cùng giấy tờ có liên quan thì mới coi là
bên B tiêu dùng dịch vụ của bên A. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp,
quá trình tạo ra và tiêu dùng dịch vụ đều diễn ra đồng thời, đó là điểm đặc thù
của dịch vụ so với hàng hóa.
Thứ tư: dịch vụ không lưu kho, lưu bãi được; do vậy, hầu như dịch vụ không thể
mua đi bán lại được
- Vì dịch vụ là hàng hóa vô hình nên khi xác lập hợp đồng cung ứng dịch vụ
giữa bên cung ứng và bên sử dụng không làm phát sinh quan hệ lưu kho, bảo
quản, bồi thường thiệt hại nếu có mất mác, hư hỏng; cũng không phát sinh các
17
quan hệ về giao nhận, vận chuyển… đối với dịch vụ. Tuy nhiên, hiện nay vẫn
có các giao dịch ủy quyền, chuyển giao, chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ của
bên cung cấp dịch vụ hoặc bên thuê dịch vụ.

- Trong thực tế, dịch vụ cũng có thể mua đi bán lại được trong một số trường
hợp. Điển hình là mô hình hoạt động của bên thứ ba trong lĩnh vực logistics
(third party logistics). Trong mô hình này, bên trực tiếp kí hợp đồng dịch vụ
với bên thuê dịch vụ sẽ đi thuê lại hay bán lại dịch vụ này cho đơn vị khác, họ
là đơn vị đứng ra làm trung gian thu xếp thực hiện dịch vụ logistics.
Tóm lại, dịch vụ là hàng hóa đặc biệt – hàng hóa phi vật chất nên cung ứng, kinh
doanh dịch vụ thương mại đòi hỏi có những quy định đặc thù. Chỉ khi nào việc cung ứng
dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi thì dịch vụ mới được coi là dịch vụ thương mại.
Theo Luật Thương mại 2005, có nhiều hoạt động dịch vụ thương mại được luật điều
chỉnh như:
 Dịch vụ trong lĩnh vực trung gian thương mại: dịch vụ đại diện cho thương nhân,
dịch vụ môi giới thương mại, dịch vụ đại lý thương mại, dịch vụ ủy thá mua bàn
hàng hóa;
 Dịch vụ trong lĩnh vực xúc tiến thương mại: dịch vụ khuyến mãi, dịch vụ quảng
cáo, dịch vụ trương bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ, dịch vụ hội chợ triển lãm
thương mại;
 Dịch vụ giám định hàng hóa, dịch vụ logistics, dịch vụ cho thuê hàng hóa
21
21 TS. Nguyễn Thị Dung, Kiến thức pháp lý và kỹ năng cơ bản trong đàm phán, soạn thảo và ký kết hợp đồng trong
lĩnh vực thương mại, 2012, Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, tr. 97
18
CHƯƠNG 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ
THƯƠNG MẠI
2.1 Tạo lập hợp đồng:
2.1.1 Nguyên tắc giao kết hợp đồng dịch vụ :
Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự
ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể.
22
Hình
thức của đề nghị giao kết hợp đồng: văn bản, lời nói, hành vi cụ thể, hoặc kết hợp giữa

các hình thức khác. Hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng do bên đề nghị ấn định. Nếu
bên đề nghị không ấn định thời điểm có hiệu lực thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu
lực tại thời điểm bên được đề nghị nhận được đề nghị giao kết hợp đồng.
Bên đề nghị phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị giao kết hợp đồng của mình.
Bên đề nghị có thể thay đổi lời đề nghị hay rút lui giao kết của mình trong những
trường hợp sau:
+ Bên đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hay rút lui lại đề nghị trước
hoặc cùng thời điểm nhận được đề nghị;
+ Điều kiện thay đổi hay rút lui lại đề nghị giao kết phát sinh trong trường hợp
bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lui lại đề nghị khi điều kiện
đó phát sinh.
23
Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
+ Bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận;
+ Hết thời hạn trả lời chấp nhận;
+ Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực;
+ Khi thông báo về việc huỷ bỏ đề nghị có hiệu lực;
+ Theo thoả thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn chờ
bên được đề nghị trả lời.
24
2.1.2 Chấp nhận lời đề nghị giao kết hợp đồng dịch vụ :
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị với bên đề
nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của bản hợp đồng.
Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng được xác định khác nhau trong các
trường hợp sau:
+ Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu
lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận
được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới
của bên chậm trả lời.
22 Điều 390, Bộ luật Dân sự 2005.

23 Điều 392, Bộ luật Dân sự 2005.
24 Điều 394, Bộ luật Dân sự 2005.
19
+ Trong trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do
khách quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông
báo chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả
lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị.
+ Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện
thoại hoặc qua các phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có
chấp nhận hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp có thoả thuận về thời hạn trả
lời.
25
Bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp
đồng, nếu thông báo này đến trước hoặc cùng với thời điểm bên đề nghị nhận được trả
lời chấp nhận giao kết hợp đồng
26
.
2.1.3 Thời điểm giao kết hợp đồng dịch vụ thương mại:
Hợp đồng dịch vụ thương mại được giao kết vào thời điểm các bên đạt được sự thỏa
thuận. Thời điểm giao kết hợp đồng được pháp luật qui định tại điều 404 của Bộ luật Dân
sự. Vì vậy, thời gian xác định thời điểm giao kết hợp đồng dịch vụ thương mại trong các
trường hợp sau đây:
+ Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng kí vào văn
bản.
+ Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là các bên đã thỏa thuận về nội dung
của hợp đồng. Các bên có thể sử dụng những biện pháp, chứng cứ hợp pháp để
chứng minh việc “các bên đã thỏa thuận” về nội dung của hợp đồng dịch vụ
thương mại bằng lời nói.
Hợp đồng cũng được xem như được giao kết khi hết hạn trả lời mà bên nhận được lời
đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết.

2.1.4 Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dịch vụ:
Luật Thương mại không qui định cụ thể về điệu kiện hiệu lực của hợp đồng dịch vụ
thương mại. Vì vậy, khi xem xét về hiệu lực của hợp đồng dịch vụ thương mại thì căn cứ
vào qui định của Bộ luật Dân sự (BLDS) và các điều khoản khác có liên quan.
Tại điều 122 của BLDS năm 2005 có qui định về điều kiện hiệu lực của hợp đồng dịch
vụ:
- Thứ nhất, các chủ thể tham gia hợp đồng dịch vụ thương mại phải có năng lực hành
vi dân sự để thực hiện những nghĩa vụ theo hợp đồng.
+ Năng lực chủ thể đối với các bên trong hợp đồng dịch vụ thương mại có thể không
giống nhau.
• Nếu để thực hiện hợp đồng cung ứng dịch vụ mà pháp luật quy định cả hai bên
phải là thương nhân.
Ví dụ: hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng đại lý thương mại, hợp
đồng dịch vụ khuyến mãi, hợp đồng dịch vụ quảng cáo…thì cả hai bên trong
25 Điều 397, Bộ luật Dân sự 2005.
26 Điều 400, Bộ luật Dân sự 2005.
20
trường hợp phải có đăng ký kinh doanh phù hợp với nội dung công việc mà các
bên thỏa thuận.
• Nếu để thực hiện hợp đồng cung ứng dịch vụ mà pháp luật chỉ quy định ít nhất
một bên (bên cung ứng dịch vụ thương mại) là thương nhân.
Ví dụ: hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, hợp đồng môi giới thương mại, hợp
đồng giám định thương mại… thì một bên phải có đăng ký kinh doanh phù hợp
với thỏa thuận trong hợp đồng.
+ Trường hợp một trong hai bên không thỏa mãn điều kiện này, hợp đồng sẽ vô hiệu.
Do vậy, khi đàm phán, soạn thảo hợp đồng, để chấp nhận sau khi hình thành sẽ có
hiệu lực, người đại diện giao kết hợp đồng phải kiểm tra giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh (hay giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh) của đối tác.
• Nếu công việc cần thực hiện không nằm trong nội dung đăng ký kinh doanh, cần
yêu cầu đối tác đang ký kinh doanh bổ sung trước khi ký hợp đồng, hoặc sau khi

ký kết hợp đồng nhưng phải càng sớm càng tốt.
• Nếu bên đối tác không hợp tác để thực hiện việc này, nên cân nhắc hủy bỏ ký
kết hợp đồng để tránh trường hợp hợp đồng sẽ bị vô hiệu do chủ thể giao kết
hợp đồng không có năng lực chủ thể.
Ví dụ: Văn phòng A đại diện của thương nhân không được là chủ thể giao kết hợp
đồng dịch vụ nếu không được ủy quyền; trừ trường hợp ký kết một số hợp đồng dịch
vụ đặc thù như: thuê văn phòng, điện, nước, điện thoại…
- Thứ hai, đại diện của các bên giao kết hợp đồng dịch vụ phải đúng thẩm quyền. Đại
diện hợp đồng của chủ thể hợp đồng có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo
ủy quyền. Phạm vi đại diện của người đại diện được qui định tại điều 144 của BLDS năm
2005. Điều cần lưu ý trong qui định của pháp luật trong trường hợp người thực hiện giao
dịch dân sự không được coi là người đại diện của chủ thể. Được qui định tại điều 145 của
bộ luật dân sự năm 2005. Nội dung của điều luật như sau:
• Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm
phát sinh quyền, nghĩa vụ cho người được đại diện, trừ trường hợp người đại diện
hoặc người được đại diện đồng ý. Người đã giao dịch với người không có quyền
đại diện phải thông báo cho người được đại diện hoặc người đại diện của người đó
để trả lời trong thời gian ấn định, nếu hết hạn này mà không trả lời thì giao dịch
đó không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với người được đại diện, nhưng
người không có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao
dịch với mình, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc
không có người đại diện.
• Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện, có quyền chấp dứt hoạt
động thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch để xác lập và yêu cầu bồi thường thiệt hại,
trừ trường hợp người đó biết trước hoặc biết nhưng vẫn đi đến kí kết.
- Thứ ba, nội dung của hợp đồng, cụ thể là dịch vụ hay công việc cụ thể mà các bên
thỏa thuận trong hợp đồng phải hợp lý đây là điều làm cung ứng có hiệu lực pháp luật.
Nếu các bên thỏa thuận công việc hay dịch vụ mà vi phạm điều cấm hay trái pháp luật,
hợp đồng sẽ vô hiệu. Danh mục hàng hóa cấm kinh doanh, dịch vụ cấm thực hiện
được pháp luật ghi nhận và cập nhập khá đầy đủ (Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày

21
12-6-2006 quy định chi tiết Luật thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh,
hạn chế kinh doanh có điều kiện: Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 7-5-2009 sửa
đổi, bổ sung danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh có điều kiện; Nghị định số
59/2006/NĐ-CP và các văn bản khác liên quan). Khi giao kết hợp đồng các bên phải
kiểm tra Danh mục này để biết dịch vụ được yêu cầu có nằm trong đó không. Nếu có,
các bên không được phép ký, vì hợp đồng sau khi ký sẽ bị vô hiệu do không thỏa mãn
điều kiện về nội dung.
- Thứ tư, hợp đồng dịch vụ được giao kết đảm bảo các nguyên tắc của hợp đồng theo
qui định của pháp luật. Việc qui định những nguyên tắc trong việc giao kết hợp đồng
nhằm đảm bảo sự thỏa thuận của các bên phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng, ý chí thực
của họ, nhằm hướng tới lợi ích chính đáng của các bên đồng thời không xâm hại tới lợi
ích mà pháp luật bảo vệ. Theo qui định của pháp luật tại điều 389 Bộ luật Dân sự năm
2005, thì việc giao kết hợp đồng phải tuân theo các nguyên tắc sau: tự do giao kết nhưng
không trái pháp luật, đạo đức xã hội, tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực,
ngay thẳng. Những hành vi cưỡng ép, đe dọa, lừa dối để giao kết hợp đồng… sẽ dẫn đến
hợp đồng dịch vụ thương mại không có hiệu lực.
- Thứ năm, hình thức hợp đồng dịch vụ thương mại phải phù hợp với qui định của pháp
luật. Để HĐDVTM có hiệu lực, buộc nội dung của hợp đồng phải được trình bày theo
những hình thức được pháp luật qui định. Tại điều 74 Luật Thương mại năm 2005,
HĐDVTM được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản, hoặc được xác lập bằng những
hành vi cụ thể. Đối với những HĐDVTM mà pháp luật qui định phải được thành lập
bằng văn bản thì phải tuân theo các qui định đó. Các bên cung ứng và sử dụng dịch vụ
thương mại phải kiểm tra hình thức của hợp đồng; nếu chưa thấy thỏa mãn thì phải điều
chỉnh ngay.Trong trường hợp không điều chỉnh, theo yêu cầu của một trong hai bên, tòa
án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định
về hình thức, hợp đồng sẽ vô hiệu (Điều 134 Bộ luật dân sự).
Một HĐDVTM phải thỏa mãn cả năm điều kiện trên mới có hiệu lực pháp luật. Nếu
chỉ vi phạm một trong năm điều kiện nêu trên, hợp đồng sẽ bị tuyên vô hiệu. Tuy vậy
hợp đồng dịch vụ bị tuyên vô hiệu và các bên khôi phục lại tình trạng đầu, hoàn trả cho

nhau những gì đã nhận ( Điều 137 Bộ Luật Dân Sự) đối với các hợp đồng dịch vụ thương
mại hết sức khó khăn, phức tạp tính chất vô hình của dịch vụ. Do vậy các bên cần đặc
biệt lưu ý dịch vụ thương mại để hợp đồng không rơi vào trường hợp vô hiệu.
27
2.2 Thực hiện hợp đồng dịch vụ thương mại:
2.2.1 Nguyên tắc thực hiện hợp đồng dịch vụ thương mại:
Những thỏa thuận trong hợp đồng có hiệu lực sẽ có giá trị ràng buộc các bên, hợp
đồng có tính luật giữa các bên. Các bên phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận theo đúng
hợp đồng. Để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng mang lại lợi ích cho các bên đồng thời
không xâm hại đến lợi ích mà pháp luật bảo vệ. Pháp luật qui định những nguyên tắc có
tính chất bắt buộc phải tuân theo đối với các chủ thể trong quá trình thực hiện hợp đồng
tại điều 412 của Bộ luật Dân sự năm 2005. Những nguyên tắc đó như sau:
+ Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng,chủng loại, thời
hạn, phương thức cũng như các thỏa thuận khác;
27 TS. Nguyễn Thị Dung, Kiến thức pháp lý và kỹ năng cơ bản trong đàm phán, soạn thảo và ký kết hợp đồng trong
lĩnh vực thương mại, 2012, Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, tr. 106
22
+ Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên,
bảo đảm tin cậy lẫn nhau;
+ Không được xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, lợi ích cộng đồng, quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác.
2.2.2 Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng dịch vụ :
Quyền và nghĩa vụ của các bên được xác lập bởi hợp đồng giữa các bên và qui định
của pháp luật. Chính vì vậy, chúng ta chỉ phân tích những nghĩa vụ cơ bản của các bên
trong hợp đồng dịch vụ phát sinh khi các bên không có thỏa thuận (hoặc thỏa thuận trái
pháp luật) trong hợp đồng.
 Đối với bên cung ứng dịch vụ thương mại:
Theo điều 78 Luật Thương Mại (LTM) 2005, trừ trường hợp có thảo thuận
khác, bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ sau:
+ Cung ứng các dịch vụ và thực hiện những công việc có liên quan một cách

đầy đủ, phù hợp với các thỏa thuận và theo quy định tại luật này.
+ Bảo quản và giao lại cho khách hàng tài liệu và phương tiện được giao để
thực
hiện dịch vụ sau khi hoàn thành công việc.
+ Thông báo ngay cho khách hàng trong trường hợp thông tin, tài liệu không
đầy đủ, phương tiện không bảo đảm để hoàn thành việc cung ứng dịch vụ.
+ Giữ bí mật về thông tin mà mình biết được trong quá trình cung ứng dịch vụ
nêu có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định.
Ngoài ra, bên cung ứng dịch vụ phải cung ứng dịch vụ theo kết quả công việc
nếu tính chất của loại dịch vụ cung ứng yêu cầu bên cung ứng dịch vụ phải đạt
được một kết quả nhất định (điều 79 LTM); phải cung ứng dịch vụ theo nỗ lực và
khả năng cao nhất của mình (điều 80 LTM); phải hợp tác với các bên cung ứng
dịch vụ cùng tiến hành (điều 82 LTM); phải tuân thủ những yêu cầu hợp lý của
khách hàng liên quan đến những thay đổi trong quá trình cung ứng dịch vụ (điều
83 LTM);và phải tiếp tục cung ứng dịch vụ vẫn chưa hoàn thành (điều 84 LTM).
Bên cạnh đó, bên cung ứng dịch vụ còn có những quyền và nghĩa vụ theo quy
định của Bộ luật dân sự 2005.
- Quyền của bên cung ứng dịch vụ
Bên cung ứng dịch vụ có các quyền sau đây:
• Yêu cầu bên thuê dịch vụ cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện;
• Được thay đổi điều kiện dịch vụ vì lợi ích của bên thuê dịch vụ, mà không
nhất thiết phải chờ ý kiến của bên thuê dịch vụ, nếu việc chờ ý kiến sẽ gây
thiệt hại cho bên thuê dịch vụ, nhưng phải báo ngay cho bên thuê dịch vụ;
• Yêu cầu bên thuê dịch vụ trả tiền dịch vụ.
28
- Trả tiền dịch vụ
• Bên thuê dịch vụ phải trả tiền dịch vụ theo thoả thuận ;
• Khi giao kết hợp đồng nếu không có thoả thuận về giá dịch vụ, phương
pháp xác định giá dịch vụ và không có bất kỳ chỉ dẫn nào khác về giá dịch
28 Điều 523, Bô luật dân sự 2005

23
vụ thì giá dịch vụ được xác định căn cứ vào giá thị trường của dịch vụ cùng
loại tại thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng ;
• Bên thuê dịch vụ phải trả tiền dịch vụ tại địa điểm thực hiện công việc khi
hoàn thành dịch vụ, nếu không có thoả thuận khác.
• Trong trường hợp dịch vụ được cung ứng không đạt được như thoả thuận
hoặc công việc không được hoàn thành đúng thời hạn thì bên thuê dịch vụ
có quyền giảm tiền dịch vụ và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
29
 Đối với bên sử dụng dịch vụ thương mại (khách hàng):
Theo điều 85 LTM 2005, trừ trưòng hợp có thỏa thuận khác, khách hàng có các
nghĩa vụ sau đây:
+ Thanh toán tiền cung ứng dịch vụ như đã thỏa thuận hơp đồng;
+ Cung cấp kịp thời các kế hoạch, chỉ dẫn và những chi tiết khác để việc cung
ứng dịch vụ cung ứng dịch vụ được thực hiện không bị trì hoãn hay gián đoạn;
+ Hợp tác trong tất cả những vấn đề cần thiết khác để bên cung ứng có thể
cung
ứng dịch vụ một cách hơp lý;
+ Trường hợp một dịch vụ do nhiều bên cung ứng dịch vụ cùng tiến hành hoặc
phối hợp với bên cung ứng dịch vụ khác, khách hàng có nghĩa cụ điều phối hoạt
động của các bên cung ứng dịch vụ để không gây cản trở đến công việc của bất
kỳ bên cung ứng dịch vụ nào.
Ngoài ra bên sử dụng dịch vụ thương mại (khách hàng) còn có các quyền và
nghĩa vụ được quy định tại điều 520,521 bộ luật dân sự.
- Nghĩa vụ của bên thuê dịch vụ
Bên thuê dịch vụ có các nghĩa vụ sau đây:
• Cung cấp cho bên cung ứng dịch vụ thông tin, tài liệu và các phương
tiện cần thiết để thực hiện công việc, nếu có thoả thuận hoặc việc thực
hiện công việc đòi hỏi;
• Trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ theo thoả thuận.

30
- Quyền của bên thuê dịch vụ
Bên thuê dịch vụ có các quyền sau đây:
• Yêu cầu bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc theo đúng chất
lượng, số lượng, thời hạn, địa điểm và các thoả thuận khác;
• Trong trường hợp bên cung ứng dịch vụ vi phạm nghiêm trọng nghĩa
vụ thì bên thuê dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
31
29 Điều 524, Bô luật dân sự 2005
30 Điêu 520, Bộ luật dân sự 2005
31 Điều 521, Bộ luật dân sự 2005
24
2.3 Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng dịch vụ thương mại:
2.3.1 Khái niệm và vai trò của trách nhiệm do vi phạm hợp đồng dịch vụ thương
mại:
Khi một hợp đồng dịch vụ thương mại (HĐDVTM) được xác lập có hiệu lực pháp
luật, các bên phải có nghĩa vụ thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Việc
vi phạm các nghĩa vụ theo hợp đồng dịch vụ (không thực hiện, thực hiện không đúng,
không đầy đủ nghĩa vụ) sẽ dẫn đến bên vi phạm phải chịu những chế tài do pháp luật qui
định. Về bản chất, trách nhiệm do vi phạm HĐDVTM là dạng cụ thể của trách nhiệm
pháp lí phát sinh trong lĩnh vực dịch vụ thương mại.
Trách nhiệm do vi phạm HĐDVTM có những đặc điểm cơ bản: được áp dụng trên
cơ sở hành vi vi phạm hợp đồng dịch vụ thương mại có hiệu lực; nội dung gắn liền với
việc thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng dịch vụ thương mại; do cơ quan tổ chức có
thẩm quyền áp dụng hoặc do bên vi phạm áp dụng cơ sở pháp luật.
Chế độ trách nhiệm do vi phạm HĐDVTM có nội dung chủ yếu là các qui định về
căn cứ áp dụng trách nhiệm, các hình thức trách nhiệm và các trường hợp miễn trách
nhiệm. Các qui định này mục đích bảo vệ quyền lợi của các bên đồng thời đảm bảo tính
nghiêm minh trong pháp luật về việc cung ứng dịch vụ.

Vai trò của chế định trách nhiệm HĐDVTM thể hiện ở những khía cạnh cơ bản sau:
+ Chế định trách nhiệm hợp đồng bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các bên
trong quan hệ HĐDVTM. Hành vi vi phạm HĐDVTM luôn tiêm ẩn nguy cơ xâm hại lợi
ích của bên kia. Để bảo vệ lợi ích của các bên vi phạm, chế định trách nhiệm hợp đồng
dịch vụ cho phép bên bị vi phạm tự mình hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng
các hình thức trách nhiệm đối với bên vi phạm (như buộc thực hiện hợp đồng, phạt vi
phạm, bồi thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ hợp đồng, hủy bỏ
hợp đồng). Bên cạnh đó, chế định trách nhiệm hợp đồng cũng bảo vệ quyền lợi của bên
vi phạm (như bảo đảm cho bên vi phạm chỉ phải chịu trách nhiệm về thiệt hai do pháp
luật qui định, bảo vệ bên vi phạm trước những hiện tượng tiêu cực trong xử lí vi phạm
hợp đồng).
+ Chế định trách nhiệm hợp đồng ngăn ngừa và hạn chế vi phạm HĐDVTM, nâng
cao ý thức trách nhiệm của các chủ thể hợp đồng chủ trương áp dụng các biện pháp chế
tài đối với mọi hành vi vi phạm hợp đồng (trừ trường hợp miễn trách nhiệm theo qui định
của pháp luật hoặc bên vi phạm không yêu cầu áp dụng chế tài). Qui định về trách nhiệm
HĐDVTM có tác động rất mạnh mẽ vào ý thức của các bên, nâng cao tinh thần trách
nhiệm của các bên trong việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, ngăn ngừa và hạn chế vi
phạm hợp đồng xảy ra.
2.3.2 Căn cứ áp dụng trách nhiệm do vi phạm hợp đồng dịch vụ thương mại:
Với tính chất là một trách nhiệm pháp lí, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng dịch vụ
thương mại khi có những căn cứ do pháp luật qui định. Với mỗi hình thức chế tài, căn cứ
áp dụng có sự khác nhau nhất định, phụ thuộc vào tính chất và mục đích của các hình
thức chế tài đó. Theo qui định hiện hành, các hình thức chế tài được áp dụng đối với vi
phạm hợp đồng dịch vụ được áp dụng khi có căn cứ sau:
+ Có hành vi vi phạm hợp đồng: là căn cứ pháp lí để áp dụng đối với tất cả các
hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng. Hành vi vi phạm hợp đồng dịch vụ thương mại là
xử sự của các chủ thể không phù hợp với nghĩa vụ của các bên được qui định trong hợp
đồng và qui định của pháp luật.
25

×